Ta phải chăng là một tiên đồng
Vỡ chén ngọc sa đầy trên hoang đảo
Để chiều chiều ra nghe thông ngàn réo,
Sóng triều dâng, mây lặn cõi trời xưa,
Và hồn quê thương hận đến bao giờ!*
Mục tiêu cuộc sống
Người ta không sợ lầm lẫn khi quả quyết rằng: đời sống con người là một cuộc tìm kiếm!
Sự tìm kiếm đó của con người được bày tỏ trong tính cách dự phóng của mình.
Là
một hữu thể đặc biệt mà cuộc sống được phối hợp giữa ba
thành tố: quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự kết hợp diệu kỳ
ấy đã làm nên cuộc sống đầy kỳ thú và nghĩa lý của con
người. Thực vậy, con người không những chỉ sống cho giây phút
hiện tại mà thôi, con người còn thường lai vảng trở về quá khứ
để giải thích cho những gì đang hình thành trong hiện tại.
Nhờ đặt nền tảng vào quá khứ, tòa nhà nhân sinh của con người
như được nâng đỡ bởi một nền tảng của quá khứ, nhờ quá khứ,
con người biết mình từ đâu đến, vững tâm được gốc cội ngọn
nguồn của mình, đồng thời phóng mình vào tương lai để dự phóng
cho những gì đang thành tựu trong hiện tại. Nếu quá khứ hiến
dâng cho con người một bối cảnh, một nền tảng, một nơi nương
tựa, một cái gọi là nhà để lui về, thì tương lai cống hiến
cho con người ánh sáng soi chiếu quảng đường đang đi tới, đồng
thời đảm bảo cho giây phút hiện tại, thực chất công việc của
mình. Bởi vì sống đối với con người là một sáng tạo không
ngừng, mà sáng tạo cần dự phóng vào tương lai. Dự phóng và
sáng tạo là hai nhân tố làm cho cuộc sống con người trở nên tươi
sáng, an vui và có lý do để sống. Dự phóng (projection) và
sáng tạo (creation) bắt con người phải đi tìm kiếm, mà việc
tìm kiếm thứ nhất của con người chính là đi tìm kiếm chính
mình trong nhãn quan của những tư duy chất vấn: con người tự
hỏi mình là ai?
Đâu là giá trị của mình trên cõi đời này?
Đâu là những nấc thang giá trị?
Nhưng
câu hỏi tối hậu phải là câu hỏi: tại sao con người lại đi tìm
kiếm giá trị? Nói cách khác, con người có thể sống hạnh phúc
sung sướng và bình an mà không cần tìm kiếm giá trị không?
Con
người đi tìm giá trị, vì chính con người là một giá trị, đi
tìm giá trị tức là con người muốn tự lượng định thân mình coi
thử mình có giá trị gì không? Mình có đến nỗi bị hư hỏng (bị
mất giá trị, vô giá trị lắm không). Không có sự so sánh đối
chiếu này, cuộc sống con người bắt đầu trở nên vô vị!
Con người và những nấc thang giá trị
Trong
số các tạo vật dưới vòm trời, con người được coi là một hữu
thể đặc biệt, đặc biệt vì có hồn thiêng và trí tuệ. Với
hồn thiêng, con người có khả thể mơ ước thần linh! Nhờ có lý
trí, con người biết tư duy, lý giải những bí mật của vũ trụ
bao la đang vây phủ lấy con người! Chính nhờ tri thức tương đối,
con người vươn mình lên biên giới của tri thức tuyệt đối, để
chất vấn, để thách đố và đối diện với những vấn nạn liên
quan đến Thượng Đế! Con người vì thế được gọi là “Nhân linh ư
vạn vật”! Trong lúc các tạo vật khác chỉ biết sống theo cái
bản năng phú bẩm tiềm tàng trong bản chất tự nhiên của chúng,
chỉ có con người, và con người thôi mới có thể siêu việt trên
thiên nhiên và chế ngự được cả thiên nhiên. Cái cao cả của con
người, tuy đang bị vũ trụ bao la vây phủ, ý thức được sự kiện
mình đang bị đè bẹp bởi vũ trụ, trong khi đó, vũ trụ bao la
chẳng nhận biết ra chính mình. Con người không những chỉ nhận
ra được chỗ đứng của mình trong vũ trụ, mà còn vươn tới sự
hiểu biết về nguyên nhân tác thành nên vũ trụ. Tuy là một tạo
vật thật bé nhỏ, hay nói theo ngôn từ của nhà tư tưởng Pascal,
con người chỉ là một cây sậy khẳng khiu, nhưng là một cây sậy
biết suy tư (Pascal, Les Penseés). Nhờ ở nét suy tư độc đáo này,
con người đã làm chủ được vũ trụ bằng cách đặt vũ trụ vào
cái thế giới đối tượng của tiến trình tư tưởng.
Từ
cái ưu thế có hồn thiêng và tri thức, con người trở thành
triều thiên của vũ trụ được Thượng Đế tạo dựng. Tuy được ưu
thế đứng cao trên vòm trời chót vót của tri thức, con người
phải dấn thân trong vũ trụ với một số kiếp hẫm hiu hơn các tạo
vật khác: đối diện với một cái gì đó đang giang dở, chưa
hoàn thiện. Con người vì thế suốt cuộc đời không ngừng đi tìm
kiếm. Bởi vì con người hơn các tạo vật khác nhờ có linh hồn
và tri thức, cho nên con người cũng phải đương đầu với nhiều
nước mắt khổ đau hơn các tạo vật khác. Được cấu tạo hai yếu
tố linh thiêng và vật chất, cho nên con người mang trong mình hai
cuộc sống, hai vận mệnh: một cuộc sống thể chất, và một cuộc
sống thuộc về thần linh. Con người được mô tả có chân đạp
trái đất, nhưng lại có đầu đội trời cao: một đàng con người
phải lấp đầy những đòi hỏi của phần vật chất, đàng khác,
thần linh mời gọi con người phải siêu việt trên vật chất để
hướng vọng về trời cao, quê hương của thần linh. Nỗi khổ đau
của con người là sự giằng co, tranh chấp giữa hai biên giới
thần-nhân. Con người một đàng nghe theo tiếng gọi trái đất,
nhưng đàng khác, không được quên lời mời gọi của trời cao, nếu
con người muốn sống đầy đủ ý nghĩa cuộc nhân sinh có ý nghĩa
cao cả.
Qua
cuộc sống trần gian, con người không những lo chu toàn nghĩa vụ
với thân xác thuộc thế giới vật chất, nhưng cũng phải chu
toàn nghĩa vụ đối với linh hồn. Vật chất, linh thiêng, trần
gian và thần linh vốn mang bản chất trái ngược, nếu không muốn
nói là thù nghịch, mâu thuẫn. Huyền nhiệm của con người tìm
thấy trong cái hiện thể nghịch lý mâu thuẫn đó. Con người tự
mang trong bản chất của mình một mâu thuẫn to lớn. Định mệnh
con người là sống làm sao để dung hòa sự mâu thuẫn ấy. Theo
biện chứng pháp của Hegel, mọi hữu thể đều mang trong mình sự
mâu thuẫn nội tại. Muốn có sự thăng tiến, mọi hiện hữu phải tự
chối bỏ chính bản thân hiện tại để vươn tới một thực trạng
khác cao cả toàn vẹn hơn, và cứ như thế toàn thể vũ tụ thăng
tiến, xoay vần không ngừng. Áp dụng nguyên tắc biện chứng pháp
vào hiện thực của con người, thì quả thực mỗi sinh linh mang theo
trong mình một mâu thuẫn lớn lao là tự chối bỏ chính mình,
nếu muốn vươn lên, muốn siêu việt hóa, thăng hóa lên, bay cao hơn
lên trong sự toàn thiện. Đời người, vì thế là một cố gắng
không ngừng để siêu việt hóa, để thăng hóa. Muốn tiến nhanh trên
đường siêu việt hóa và thăng hóa, con người không bao giờ có
thể ngừng lại, toại nguyện trong cuộc tìm kiếm Chân-Thiện-Mỹ.
Một
hình ảnh đơn sơ hy vọng sẽ làm sáng tỏ những điều vừa phát
biểu trên về thực tại con người không bao giờ yên nghỉ, mà luôn
luôn phải lên đường hành trình tìm kiếm: Con sư tử hay con cọp,
sau khi lao lực vất vả đi kiếm mồi, một khi tìm được con mồi
rồi, chúng say sưa với miếng mồi và rồi quên hết mọi sự. Một
khi đã say mồi, con vật cảm thấy thỏa mãn, chúng yên nghỉ vui
thú, quên đi tất cả! Chúng sẽ ngủ ngon yên giấc dưới ánh sao mờ
bên bờ suối! Có thế thôi, tất cả chấm tận, an bình, thỏa
thích…
Loài
người không như thế, trái lại, sau một đời tìm kiếm, sau khi
chiếm hữu được những gì thèm khát mong muốn, sau khi thỏa mãn
những gì trái tim mong đợi, con người không an nghỉ trong yên
bình, nhưng con người bắt đầu tư duy, thổn thức, mưu toan sắp
đặt, bày biện kế hoặch cho những gì chưa có. Tại sao con người
không bao giờ an nghỉ, thỏa mãn, sung sướng hoàn toàn? Thưa vì
con người có bản chất suy tư, sống được định nghĩa là suy tư,
mà suy tư là đi tìm kiếm. Bao lâu con người hết suy tư, hết mơ
mộng, hết dự phóng về tương lai, hết tìm kiếm, con người cũng
hết thú vị làm người. Sống không mơ, không dự phóng là như đã
chết! Nhưng con người mơ ước những gì?
Hãy hỏi con người suốt trên giòng sử đông tây, kim cổ, xem con người đi tìm kiếm những gì?
Phải chăng đối tượng tìm kiếm của con người được thâu trọn trong hai chữ Hạnh-Phúc?
Con người và vấn đề hạnh phúc
Cụm
từ “hạnh-phúc” nghe thật xưa, xưa như biến cố xuất hiện của con
người trên trái đất, nhưng chúng ta không thể không bàn tới, bởi
vì đó lại là chính vấn đề then chốt của con người, nó đã,
đang và sẽ muôn đời là vấn đề của con người. Không thể hiểu
được con người mà không thấu đáo ý nghĩa của hai chữ hạnh
phúc!
Hạnh
phúc, vấn đề độc đáo của con người, vì thế nó đã làm hao
tổn biết bao bút mực, làm nhức nhối biết bao trái tim, đã gây
băn khoăn cho bao nhiêu đầu óc miệt mài suy nghĩ! Nhưng hai chữ
hạnh phúc vẫn mãi mãi môn đời ám ảnh con người sống trên dương
thế! Bao lâu còn có con người sống trên đời, bấy lâu người ta
còn băn khoăn khắc khoải vì hai chữ hạnh phúc! Hạnh-phúc và con
người bám sát, quấn quít lấy nhau, ôm ấp ràng buộc vào nhau
như một định mệnh bất khả chia lìa tựa như hình với bóng.
Con người mong ước những gì? Mơ mộng những gì? Tìm kiếm gì trên cõi đời này?
Câu
hỏi mới nghe ra như viễn vông phi lý nhưng nếu xét cho kỹ đó
cũng là câu hỏi căn bản mà con người thỉnh nên tự đặt ra cho
chính mình. Bởi vì một khi con người không còn biết mình tìm
kiếm hoặc mơ ước gì nữa, cuộc sống bổng dưng trở thành vô
nghĩa lý hoặc thừa thải!
Thực
ra ước mơ của con người trên đời vô cùng phức tạp, mỗi con
người có một thứ mơ ước riêng tư, không mơ ước của ai giống ai.
Có muôn vàn thứ ước mơ, nhưng nếu gom góp ước mơ của con người
trên thế gian này lại, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, từ nam
chí bắc, ước mơ của nhân loại có lẽ chỉ thu tóm vào một thứ
duy nhất thôi: tức là con người ước mơ được sống hạnh phúc,
tránh các thứ khổ đau sầu muộn! Thực vậy, sinh vào đời, mang
số kiếp người, sống thân phận làm người giữa cuộc đời, con
người không mong gì hơn là sống sung sướng hạnh phúc, thoát đau
khổ!
Nhưng
đáng buồn thay! Giấc mơ hạnh phúc không êm đềm như giòng sông
thu! Càng sống lâu trong cuộc đời, càng có nhiều kinh nghiệm về
cuộc sống, con người cảm nghiệm nhiều khổ đau hơn hạnh phúc.
Con người càng kiếm tìm hạnh phúc, hạnh phúc càng tung cánh
cao bay biền biệt! Thay vì chiếm đoạt được hạnh phúc như một
sở hữu đặc thù của mình, con người phải luôn luôn đối diện
với thực tế đau khổ. Không thể có hạnh phúc mà không cảm
nghiệm đau khổ! Cũng như người đi hái hoa hồng, phải đương đầu
với gai gốc của loài hồng, vì không có bông hồng nào mà không
có gai nhọn bao bọc chung quanh. Hạnh phúc và đau khổ vì thế
quấn quít lẫn nhau, ôm ấp lấy nhau và bao hàm lẫn trong nhau.
Nói cách khác, khổ đau và hạnh phúc, niềm vui và nước mắt là
hai mặt của thực tại cuộc nhân sinh! Còn hơn thế nữa, khổ đau
định nghĩa cuộc sống con người! Hai chữ khổ đau đã trở nên
đồng nghĩa với số kiếp người! Khổ đau đã trở thành đề tài vô
tận trong kho tàng văn chương nhân loại, đã khơi nguồn phong phú cho
triết lý và đạo học của loài người!
Nói về cuộc đời khổ sầu, Thi sĩ Chế lan Viên đặt bút viết những câu thơ bất hủ:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân đến, gợi thêm sầu!
Với tôi tất cả như vô nghĩa
tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước,
nhặt lấy cho tôi những lá vàng,
với của hoa tươi muôn cánh rã,
về đây đem chắn nẻo thu sang”!
Đem chi xuân đến, gợi thêm sầu!
Với tôi tất cả như vô nghĩa
tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước,
nhặt lấy cho tôi những lá vàng,
với của hoa tươi muôn cánh rã,
về đây đem chắn nẻo thu sang”!
Mùa
xuân tượng trưng cho niềm vui và là biểu tượng của hạnh phúc,
nhưng ai đã từng nếm mùi vị của hương xuân, đã từng thưởng
thức hương xuân chắc cũng đồng ý với thi nhân về cái chóng tàn
dối trá của mùa xuân trần thế. Cái mà hôm nay ta trông ngóng
đợi chờ, thì ngày mai nó đã phai mầu, đã tàn lụi, dã từ ta
ra đi lặng lẽ dưới sự chèn ép não nề của thời gian. Niềm hy
vọng, vì thế đã biến thành ảo vọng.
Nói về đời người như gắn liền với khổ đau, ngạn ngữ Pháp có câu:
“Con người là kẻ học nghề:
mà thầy là nỗi âu sầu đớn đau!
Không ai hiểu nổi mình đâu!
nếu chưa nếm những giọt sầu đắng cay!
mà thầy là nỗi âu sầu đớn đau!
Không ai hiểu nổi mình đâu!
nếu chưa nếm những giọt sầu đắng cay!
Nếu
muốn biết cuộc đời con người sung sướng và khổ đau chênh lệch
mực nào, ta thử đem lên cân đo xem nặng nhẹ thế nào: ta sẽ ngạc
nhiên thấy “cuộc đời niềm vui chỉ có hai chục mà nỗi khổ sầu
đến tám mươi”!
Bàn
về thực chất đau khổ cuộc đời, Đức Phật Thích Ca đã không
ngần ngại kết luận: “Đời là bể khổ”, “Nước mắt của chúng
sinh nơi trần thế góp lại thành tứ hải đại dương”. Triết lý
nhà Phật, từ đó đã xây dựng trên tiêu đề của khổ đau: đời là
đau khổ, và đau khổ cuộc khởi nguyên từ bốn nguồn gốc gọi tà
“tứ khổ”, tức là: “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”: con người khổ vì
phải sinh ra trên cõi đời, trở nên già nua tuổi tác là nguồn
sinh ra khổ, bệnh tật là khổ và, cuối cùng, chết là cái khổ
to lớn khó vãn hồi. Từ tiền đề khổ ấy, Đức Phật đã dày công
tìm kiếm phương pháp cho nhân trần trốn thoát khổ đau, phương
pháp thoát khổ ấy là diệt dục, vì dục là căn nguyên của “Tứ
Khổ”!
Phương
pháp diệt dục thoát khổ của đạo Phật đã xuất hiện trên thế
giới hơn bốn nghìn năm, nhưng con người vẫn tiếp tục sống khổ
đau, nước mắt nhân loại vẫn ngấn chảy dài trên số kiếp người.
Những học thuyết, những triết lý mới khác lại ra đời đối
diện với khổ đau của nhân loại!
Vấn
đề được đặt ra nơi đây không phải là tìm giải quyết vấn đề
đau khổ nhưng là tìm xem liệu con người có thể sống hạnh phúc
sung sướng trên trần gian này chăng?
Tại sao con người lại khát mong hạnh phúc?
Phải
chăng hạnh phúc chỉ là một ảo mộng? Hay nói khác đi, phải chăng
khi đặt khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhân loại, Thượng-Đế
đã đánh lừa con người, để suốt đời chạy đuổi theo một bóng ma
hư ảo?
Tại sao con người không thật sự hạnh phúc sung sướng trong cuộc đời?
Có con đường nào đưa nhân loại tìm về chân hạnh phúc không?
Nhưng
câu hỏi chính yếu vẫn là những câu hỏi liên quan đến hai chữ
hạnh phúc, chẳng hạn như làm sao chiếm hữu và bảo toàn được
hạnh phúc?
Con đường nào đưa ta vào hạnh phúc?
ĐỐI TƯỢNG HẠNH PHÚC
Hai
chữ “hạnh phúc” thoạt nghe thật giản dị, rất thân thương và
như một cái gì gần gủi với con người, nhưng khi ta cố gắng tìm
hiểu, xác định, phân tích, lý giải, nó bổng trở nên mông lung,
mờ ảo tựa như những giọt sương mai, tuy lóng lánh dưới ánh sáng
tuyệt vời bình minh, hay như làn sương mờ ban mai, “bước đi sẽ
đứt, động hờ sẽ tan”. Cũng vậy, thật khó mà định nghĩa được
“hạnh phúc”, bởi vì nó đổi thay dưới thiên hình vạn trạng, mỗi
người hiểu nó một cách khác tùy theo tuổi tác, trình độ,
hoàn cảnh xã hội, môi sinh, giáo dục, truyền thống văn hóa và
ảnh hưởng của đạo giáo, tín ngưỡng!
Tình
Mỗi
lứa tuổi quan niệm hạnh phúc khác nhau, tuổi trẻ quan niện
hạnh phúc là “tình yêu”, khi yêu và được yêu là khi con người
có hạnh phúc. Dĩ nhiên hai chữ hạnh phúc ở đây thường cảm
nghiệm trong lãnh vực “tình aí”, “tình dục”! Bởi thế, người
trẻ hăm hở bước vào đời, nhìn cuộc đời với lăng kính mầu
hồng của tình yêu: đời thật đẹp, thật rực rỡ huy hoàng, người
trẻ xông xáo vào đời, tìm sống giây phút huy hoàng ấy của
tình yêu, vì họ đồng ý với thi sĩ Xuân Diệu: “Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm”! Tình yêu
được tuổi trẻ cảm nghiệm như một mãnh lực quyền uy làm cho họ
yêu thương bám sát lấy cuộc đời. Thi nhân đã diễn tả hương vị
tuyệt vời say đắm của tình yêu bằng những ngôn từ diễm tuyệt:
“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu!
Ta muôm thâu trong một cái hôn nhiều:
Và non nước và cây và cỏ rạng!
Cho chếnh choáng mùi hương, cho rộn ràng ánh sáng,
Cho đê mê thanh sắc của thời tươi,
Hởi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”!
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu!
Ta muôm thâu trong một cái hôn nhiều:
Và non nước và cây và cỏ rạng!
Cho chếnh choáng mùi hương, cho rộn ràng ánh sáng,
Cho đê mê thanh sắc của thời tươi,
Hởi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”!
(Xuân Diệu, Vội vàng)
Nhưng
tình yêu là gì mà nó chiếm đoạt cả trái tim tuổi trẻ và án
ngự cả linh hồn con người. Khi phải định nghĩa lý giải tình
yêu, chúng ta thấy bàng hoàng bâng khuân, mịt mùng như đối diện
với một thứ huyền thoại:
“Làm sao định nghĩa được tình yêu:
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”!
(Xuân Diệu, Vì sao)
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”!
(Xuân Diệu, Vì sao)
Thi
sĩ Hàn Mặc Tử đã lắng nghe trong yên lặng tuyệt vời của
tiếng nước hồ reo, và nhìn thấy trong lời run của tơ liễu ý
nghĩa của yêu thương:
“Ai hãy làm thinh, chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đay nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe Trời giải nghĩa yêu”!
(Hàn Mặc Tử, Đà Lạt trăng mờ)
Để nghe dưới đay nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe Trời giải nghĩa yêu”!
(Hàn Mặc Tử, Đà Lạt trăng mờ)
Con
người đi tìm tình yêu như một đối tượng của hạnh phúc, nhưng
lại không hiểu tình yêu là gì, càng không thể nắm chắc nó bền
vững lâu dài! Bởi vì “tình yêu đến, tình yêu đi ai nào biết,
trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”! Vì thế, thi sĩ Hồ Zdếnh đã
phải than:
“Em tôi ơi! Tình có nghĩa gì đâu?
Nếu là không lưu luyến buổi ban đầu,
Thủa ân ái mong manh như nắng lụa;
Ong bướm ngập ngừng, cỏ hoa lần lựa!
Nếu trót đi em hãy gắng trở về
Đời mất vui khi đã trọn câu thề,
Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở!
Thư viết đừng xong, thuyền xuôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau hờ hững với nghìn xưa!
(Hồ-Zdếnh, Ngập ngừng)
Nếu là không lưu luyến buổi ban đầu,
Thủa ân ái mong manh như nắng lụa;
Ong bướm ngập ngừng, cỏ hoa lần lựa!
Nếu trót đi em hãy gắng trở về
Đời mất vui khi đã trọn câu thề,
Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở!
Thư viết đừng xong, thuyền xuôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau hờ hững với nghìn xưa!
(Hồ-Zdếnh, Ngập ngừng)
Thi
nhân cảm nghiệm sâu thắm thực chất nét đẹp của tình yêu ngay
trong cái mong manh, dòn mỏng, dang dở chóng qua. Vì thế người
ta thường ví tình yêu và cánh hoa hồng: cánh hoa hồng đẹp, một
nét đẹp kiêu sa huyền diệu khó diễn tả bằng ngôn từ nhân
loại! Nhưng cái nét đẹp huyền diệu ấy lại là sự chóng tàn
phai của nó! Hoa hồng đẹp vì nó chóng phai tàn, sự chóng phai
tàn làm nên tính cách đặc thù của sự hiện hữu của hoa hồng.
Vậy yêu hoa hồng, ta phải yêu luôn cả sự chóng phai tàn đó. Hoa
hồng không những chóng phai tàn mà còn đi liền với gai gốc! Vì
thế đời có câu: “Hồng nào lại không gai. Tình nào mà không
phai”!
Có
tình, cảm nghiệm tình yêu, con người vẫn chưa thể dừng lại,
vì cuộc sống không đơn thuần như trái tim yêu thương khờ dại của
tuổi trẻ! Tình yêu không cho phép con người trốn chạy thực tại
cuộc đời: con người không thể sống bằng tình yêu thôi, còn
nhiều thứ nhu cầu khác trong cuộc sống, đặc biệt là nhu cầu
tiền bạc. Tình yêu không thể nuôi sống bằng nước lã, cũng như
bông hồng không thể tươi nếu không có nước. Thực tế cuộc đời
mà con người bắt buộc phải đối diện đó là tiền bạc, không có
nó, tình yêu không thể tồn tại lâu dài.
Tiền
Ai
đã đi vào cuộc sống, đã bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, đã
tranh đua với số kiếp với người đời, mà đã không một lần cảm
nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với
khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái căn cơ của buồn
vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy
con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân
nhựợng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến
thành một thứ quyền lực vô song ảnh hưởng trên cuộc sống con
người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội
đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh
hưởng của đồng tiền. Vì thế, qua dòng lịch sử nhân loại,
nhiều bậc thánh hiền, các nhà mô phạm, đặc biệt là các tôn
giáo đã đưa ra nhiều lời, nhiều giáo thuyết nhằm răn dạy, cảnh
cáo và cải hóa lòng người. Theo truyền thống tu trì trong đạo
Công Giáo, có ba lời khấn dựa trên ba nhân đức chủ yếu của bậc
tu dòng: đó là “đức khó nghèo, đức vâng lời và khiết tịnh”.
Trong ba nhân đức ấy, lời khấn giữ đức khó nghè là quan trọng
hơn cả, bởi vì, cũng theo truyền thống tu đức theo tinh thần
Phúc Âm của Chúa Cứu Thế, cần khắc chế lòng tham lam mê say
vật chất, đặc biệt là tiền bạc. Kinh Thánh dạy: “lòng ham mê
tiền bạc là mẹ sinh ra muôn vàn tính hư nết xấu khác”!
Theo
lý thuyết nhà Phật: “tham-sân-si” là ba kẻ thù của con người.
Vậy muốn khởi công tu thân tích đức, con người, nhất là kẻ tầm
“Đạo”, cần khước từ và chế ngự lòng tham! Tham lam là đầu
mối sinh ra dục vọng. Vậy muốn thoát khổ con người cần diệt
dục, mà muốn diệt dục, cần phải chế ngự, tận diệt lòng tham,
vì lòng tham của con người vô đáy!
Tiền
bạc không những làm hư con người, không những làm cho con người
trở nên mù quáng mà thôi, nó còn làm cho nhân loại đi lạc vào
sa đoạ!
Người
đời thường bị tiền bạc lung lạc, thay trắng đổi đen, hoặc trở
nên kiêu căng ngạo nghễ, khinh dễ đồng loại cũng vì cậy vào
mãnh lực của đồng tiền.
Hãy lần mở trang văn học sử, để nghe Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Thói đời
đã nhận định về thế lực đồng tiền đối với con người: “Còn
bạc, còn tiền, còn đệ tử/Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi”.
Tiền
bạc không những ảnh hưởng sâu đậm trên cộc sống con người thôi
đâu, nó còn làm sai lạc cả nhân quần xã hội, thế thái nhân
tình cũng vì thế mà đảo điên cuồng loạn. Nguyễn Công Trứ để
lại bài thơ nổi danh như sau:
“Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy,
Hễ không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay!
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay,
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa,
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây”!
(Nguyễn Công Trứ, Thế thái nhân tình)
Lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy,
Hễ không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay!
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay,
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa,
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây”!
(Nguyễn Công Trứ, Thế thái nhân tình)
Biết
sử dụng, đồng tiền là tên đầy tớ tốt, nhưng ngược lại, nó
là ông chủ khắc nghiệt, khó tính, là căn nguyên của mọi thay
đổi xáo trộn cho xã hội loài người, nhà thơ Quốc Nghệ đã
viết lên sự thật chua cay đó bằng những lời thơ châm biếm như
sau:
“Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hóa ra điên!
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hóa xiên!
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp ai bên!
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền!???
Mi làm nhân loại hóa ra điên!
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hóa xiên!
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp ai bên!
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền!???
Khi
nói về hấp lực của tình yêu, vẫn còn một mức độ nào đó
của tuổi tác, của giai tầng xã hội, của ảnh hưởng trình độ
giáo dục văn hóa đạo đức, nhưng mãnh lực và sự hấp dẫn của
tiền bạc hình như có tính cách phổ quát, không biên giới, không
bến bờ, nghĩa là lòng ưa thích tiền bạc nơi con người, thời
nào cũng thế, bất phân đông tây kim cổ, không phân chia ranh giới
giữa trẻ già, nam nữ. Mang thân phận làm người, không ai thoát
khỏi vòng cương tỏa và sự lôi cuốn của tiền bạc, nhất là con
người trong xã hội tân tiến hiện đại.
Thực
vậy, con người trong thế giới ngày nay, đặc biệt con người
trong các nước tân tiến, nơi mà giá trị con người được lượng giá
theo mức độ chiếm hữu và hưởng thụ, nghĩa là người nào giàu
có, hưởng thụ nhiều, hưởng thụ sang, được coi như kẻ thành
tựu, hạnh phúc sung sướng trên đời. Trái lại, người nghèo, ít
tiền, có ít phương tiện, ít hoặc không được hưởng thụ, bị coi
như người bất hạnh khốn cùng! Với não trạng tôn thờ chiếm hữu
và hưởng thụ ấy, tiền bạc được nâng lên hàng chúa tể, lý
tưởng cho con người tôn thờ sùng bái! Không lạ gì khi nghe người
đời ca tụng tiền bạc bằng một thứ ngôn ngữ đáng lẽ phải dành
cho Thiên Chúa, tôn giáo, lý tưởng cao cả:
“Đồng tiền là tiên, là Phật
Là sức bật của tuổi trẻ,
là sức khỏe của tuổi già,
là cái đà danh vọng,
là chiếc lọng che thân,
là cán công công lý”!
Là sức bật của tuổi trẻ,
là sức khỏe của tuổi già,
là cái đà danh vọng,
là chiếc lọng che thân,
là cán công công lý”!
Trong
Tân Ước, Chúa Kitô đã nghiêm nghị cảnh cáo con người về lòng mê
say vật chất, nhất là khuynh hướng tôn thờ tiền bạc, Chúa
phán:
“Không
ai có thể làm tôi hai chủ, một là Thiên Chúa hay là tiền bạc:
một là mến chủ này mà ghét chủ kia. Vậy không thể vừa tôn
thờ Thiên Chúa vừa tôn thờ tiền bạc được“
“Nemo
potest duobus dominis servire: aut enim unum odio habebit et alterum
diliget, aut unum sustinebit et alterum contemnet; non potestis Deo
servire et mammonae. (Mt. 6, 24)
Chúa
không kết án kẻ có nhiều tiền bạc, nhưng Ngài dạy họ phải
vươn lên trên sự lôi cuốn của tiền bạc, vì con người sinh ra trên
đời để tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa và chu toàn nghĩa vụ
của công lý. Trách vụ tiên quyết của con người sinh ra làm
người là chu toàn thánh ý của Thiên Chúa, mà Thánh Ý muốn
chúng ta tìm kiếm “Nước Trời” như lời Ngài phán dạy: “Tiên vàn
hãy tìm kiếm Nước-Trời và thực thi công chính, mọi sự khác
sẽ ban cho các con”.
“Quaerite autem primum regnum Dei et iustitiam eius, et haec omnia adicientur vobis” (Mt. 6, 33)
Nơi
khác, Ngài khuyên các môn đệ phải biết lợi dụng của cải trần
gian như phương thế để chiếm hữu “Nước Trời: “Các con hãy dùng
của cải trần gian mà mua sắm phần thưởng trên trời, nơi không
bị mối mọt làm hư hỏng cũng chẳng sợ trộm cướp cưỡng
chiếm!”, của các con ở đâu, thì lòng các con ở đó!
Chiếm
được Nước Trời, mới là mục tiêu của con người tại thế, cũng
là cơ nghiệp vĩ đại nhất mà con người có thể vui hưởng muôn
đời, so với phần thưởng muôn vĩnh hằng trường cửu trên trời,
của cải trần gian chỉ là một thứ hào nhoáng chóng qua chóng
hết, bởi vì, Chúa phán: “Được lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn, nào có ích gì”?!
“Enim
prodest homini, si mundum universum lucretur, animae vero suae
detrimentum patiatur? Aut quam dabit homo commutationem pro anima sua?” (Mt 16-26…)
Danh Vọng
Để
được sống còn và hưởng thụ, con người cần tìm kiếm và tích
lũy tiền bạc của cải cho mình, nhưng con người vẫn không ngừng
tại đó! Con vật khi đã no mồi, nó thảnh thơi vui hưởng thoải
mái vui chơi và nghỉ ngơi, con người, trái lại, sau khi tận hưởng
no say thỏa thích rồi, bắt đầu suy tư thao thức! Con người tìm
kiếm gì nữa, mong ước gì nữa, khát vọng nữa những gì? Thưa
con người muốn được người đời biết đến, muốn được thời danh,
được người đời cúi đầu kính trọng, nói cách khác, con người
còn thèm khát thêm một đều nữa, đó là danh vọng!
Tự
bản chất, con người tự được phú bẩm xã hội tính, hay nói
theo triết Hiện Sinh, thì con người là tạo vật sinh để sống
trên đời và sống với những con người khác. Cuộc sống, đối với
con người, vì thế, là sống với những con người khác, được cảm
thông và được chấp nhận bởi những người chung quanh. Hạnh phúc
là khi con người được người khác chia sẻ với và đồng ý với
mình. Thành công trên đời với con người là gì, nếu không phải
là những tài năng của mình được xã hội loài người chấp nhận.
Vậy được biết đến, được chấp nhận, được chia sẻ bởi xã hội
đã nằm sẵn trong bản tính của con người.
Danh
vọng, hay được người đời nhìn nhận tài năng của mình, kính
trọng, nể vì là một khao khát thâm sâu của mỗi sinh linh. Khởi
nguyên của danh vọng theo ngôn từ của triết gia Nietzsche là
chính ý muốn thống trị người khác (the Will to Power). Ý muốn
thống trị này bàng bạc khắp nơi như linh hồn của thế giới, đặc
biệt sâu đậm trong con người. Mỗi con người sinh ra trong trần
thế bị chi phối, dun dủi bởi ý muốn này, như một động lực
hướng dẫn hành động, như nguyên ủy, như tiềm lực thôi thúc con
người trong mọi hoạt động. Vì thế mỗi con người là một trung
tâm điểm của ý muốn thống trị này, cuộc hiện hữu của con
người trên đời, cũng vì thế được bày tỏ, được biểu trưng và
phác họa như một ý muốn thống trị cả vũ hoàn. Dưới sức thúc
đẩy của ý muốn này, con người cố lướt thắng mọi trở ngại,
đạp trên mọi chông gai thẳng tiến coi cuộc hành trình không giới
hạn. Dẫu con người ý thức được hiện thực là mình bị kiềm
chế bởi xã hội và bởi những con người khác, nhiều khi là tù
nhân của đám đông, của dư luận, của luật lệ và sức mạnh của
kẻ khác, tuy nhiên, nhờ ý muốn thống trị này, con người không
sợ mà vươn thẳng tới mục tiêu mình mong muốn! Ai đã lớn lên
trong cuộc đời mà không hề có lần khát mong được danh thành
công toại như Nguyễn Công Trứ:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”,
Trong lúc trần ai, ai dễ biết,
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng”!
Phải có danh gì với núi sông”,
Trong lúc trần ai, ai dễ biết,
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng”!
Hoặc oai phong lẫm liệt hơn trong hai bài thơ “Phận làm trai, và Chí làm Trai”:
“Có trung hiếu, nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây,
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế.
Người thế, trả nợ đời là thế,
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng!
…
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ!?
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong,
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
làm nên tiếng phi thường đâu đấy tỏ,
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”!
Không công danh thà nát với cỏ cây,
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế.
Người thế, trả nợ đời là thế,
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng!
…
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ!?
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong,
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
làm nên tiếng phi thường đâu đấy tỏ,
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”!
Dẫu
có tài ba phi thường, dẫu có được vang danh lưu thế, con đường
công danh sự nghiệp không phải là không gặp cuồng ba sóng gió,
niềm sung sướng hạnh phúc pha lẫn nước mắt và đọa đày, bởi
vì:
“Ra trường danh lợi vinh liền nhục!
Vào cuộc trần ai khóc lộn cười!
Vào cuộc trần ai khóc lộn cười!
Tìm tuyệt đối giữa lòng tương đối
Tình-Tiền
và Danh-Vọng như trình bày trên là ba đối tượng của hạnh phúc
con người. Ba thứ hấp lực này đẩy đưa cuộc sống của con người
làm ảnh hưởng cả hướng đi của lịch sử nhân loại. Tóm lại, con
người ước mong, tìm kiếm và chiếm hữu cho được Tình-Tiền-Tài,
nhưng khi chiếm hữu được rồi, khi hưởng thụ được rồi, hỏi con
người có được hạnh phúc sung sướng hay không? được thỏa mãn và
an nghỉ bình yên không?
Nếu
ta đọc kỹ lịch sử để coi cuộc sống của những danh nhân, những
vị đã vang danh lưu thế, những người được tôn sùng là thần
tượng, được thiên hạ cho là sung sướng nhất trên đời, hỏi họ
có thực được hạnh phúc hay không?
Hay
ta trở vào cuộc nhân sinh hiện tại hỏi những con người đang
hưởng những gì mà ta mong muốn, hỏi họ có được mãn nguyện về
những gì họ chiếm hữu và hưởng thụ không?
Câu trả lời là không!
Biết
bao con người thời danh, sau khi chiếm hữu tất cả, hưởng thụ
tất cả, cảm nghiệm cuộc sống trống vắng, thiếu thốn, tẻ
nhạt, vô vị, chán ngán, thất vọng. Trong thế kỷ của chúng ta,
biết bao ngững người thời danh đã chọn tự tử để kết thúc
cuộc sống mà họ cảm nghiệm vô vị, và vô nghĩa! Tại sao thế?
Và
cả chúng ta nữa, sớm hay muộn, rồi cũng có một ngày nào đó,
vào một thời điểm nào đó trong cuộc sống, sau bao nhiêu tranh
đấu cam go, sau bao nhiêu tháng năm miệt mài trong gian khổ tìm
kiếm, chiếm hữu, thu tích để có những gì ta mong muốn ước mơ!
Một ngày nào đó, chúng ta cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng,
thiếu thốn nghèo nàn, băn khoăn, cảm nghiệm vị cay đắng sững sờ
tràn chảy trong trái tim tăm tối bơ vơ, khi thấy rằng mình đã
uổng công phí cả một đời đi tìm những ảo vọng trong một ốc
đảo đầy mộng ảo!
Hình
như có cái gì đó bất ổn đang thao thức trong tim? Hình như có
nỗi lo âu nào đó đang canh cánh bên lòng? Hình như ước mong hạnh
phúc chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ thừa thải, phi lý!
Nói
thế, không có nghĩa chúng ta bi quan hóa cuộc đời! Những cảm
nghiệm trên thật đúng đắn và cũng là khởi đầu cho một giai
đoạn mới của con người đi truy tầm vào chân hạnh phúc!
Trong thế giới vô thường
Mơ
ước hạnh phúc mà con người cảm nghiệm trong đời là thực thụ
và lành mạnh, chứ không phải là ảo tưởng. Chính Thiên Chúa đã
gieo ước mơ hạnh phúc nơi trái tim con người khi Ngài cho mang
thân phận làm người và đi vào hiện hữu. Những đối tượng của
hạnh phúc như tiền-tình và danh vọng là những đối tượng thực
chứ không phải giả tướng. Ảo vọng là ở thái độ lầm tưởng của
con người về cái nhìn vào thế giới. Con người đã quên là mình
đang sống trong một thế giới vô thường, những gì con người mơ
ước, tự bản chất có một giá trị, nhưng là giá trị tương đối.
Sai lầm ở chỗ con người ôm lấy những giá trị tương đối mà nhận
làm tuyệt đối. Sống trong lòng một thế giới vô thường, nghĩa
là hữu hạn, chóng qua, thay đổi, nhất thời mà con người lầm
tưởng rằng thế giới này và những đối tượng trong thế giới là
tuyệt đối, vĩnh hằng. Những đối tượng hạnh phúc mà con người
cảm nghiệm hôm nay có một giá trị tương đối, có tính cách nhất
thời, giai đoạn giúp con người sử dụng chúng như những phương
tiện, như người dùng chiếc đò để qua sông, một khi qua được bên
kia bờ sông rồi, hãy bỏ chiếc đò để lên bến bờ chân thực. Con
người không làm thế, trái lại, ôm lấy những thứ tương đối mà
ngỡ là tuyệt đối vĩnh viễn: con người đã có thái độ lầm, ôm
ấp những thứ tương đối trong lòng vô thường mà ngỡ là mình đã
qua được sông Chân Lý Vĩnh Hằng!
Tóm
lại, con người đã bám lấy phương tiện mà quên đi mục đích, đã
bám lấy chiếc đò mà quên bước sang bên kia bờ bến mong đợi,
cũng như Lý Thái Bạch thuở xưa nhảy xuống ôm bóng trăng dưới
nước mà ngỡ là mình đang thật sự ôm mặt trăng! Khi Thiên Chúa tạo
dựng nên con người và đặt vào lòng thế giới, Ngài đặt trong
trái tim con người khát vọng hạnh phúc là để con người đi tìm
chân hạnh phúc ở trên Trời, nơi quê hương vĩnh cữu. Con người thay
vì hướng lòng về trời cao, thay vì đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, là
chính Thiên Chúa, Đấng Tạo-Hóa, Người Cha yêu thương, cùng đích
của nhân nloại, con người lại ôm chặt lấy nhiên giới, thế giới
hiện tượng, của thay đổi, của biến động, của vật chất tương
đối mà quên đi quê hương đích thực của mình. Nói khác đi, con
người bám chặt vào chiếc đò, mà quên đi bờ bến bên kia, đó là
lý do tại sao, sau khi chiếm hữu và hưởng thụ những đối tượng
tình-tiền-danh vọng, con người cảm thấy thiếu thốn, chán
chường âu lo và cay đắng. Thánh Augustinô đã cho ta một bằng
chứng hùng hồn về những cảm nghiệm cuộc đời của Ngài: sau
một cuộc đời phiêu lưu tìm kiếm và hưởng thụ trong sa đọa,
Augustinô đã tìm được ánh sáng cứu rỗi và Ngài đã kêu lên
những tiếng chân thật của một linh hồn khát khao chân lý và
bình yên chân chính, Ngài viết lại trong cuốn sách Tự Thú những lời đáng quí này: “Linh hồn tôi thao thức xao xuyến cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa là Thiên Chúa chân thực của tôi”! (Confessions)
Hạnh phúc và nước mắt
Không
thể chối bỏ được khát vọng hạnh phúc đang nung nấu trong trái
tim con người, một trái tim luôn tìm kiếm, kêu van, luôn thét
gào, luôn đòi hỏi, ngóng trông được lấp đầy, được thỏa mãn,
được yên hàn, như thuyền tìm về bến đậu! Nhưng cũng không thể
chạy trốn được nước mắt của khổ sầu đang bám sát thân phận
làm người trong cuộc đời! Làm sao dung hòa được một đàng là
khuynh hướng cố hữu, một đàng là thực tế phũ phàng của cuộc
nhân sinh?
Một đàng khát mong kiếm tìm hạnh phúc, một đàng phải chuốc lấy chén đắng phiền muộn của cuộc sống?
Phải chăng Con Tạo có thói quen đánh ghen con người, như lời thơ Kiều của đại thi hào Nguyễn Du:
“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Khổ
đau sầu muộn không riêng gì cho phận má hồng, nhưng cho chung
tất cả con người, với tư cách là người sinh ra trên cõi trần
ai!
Lamartine,
một thi hài thời danh của Pháp, cho rằng con người phải khổ
đau nơi trần thế, bởi vì con người là thiên thần gãy cánh,
những trích tiên bị đày đọa dưới trần gian:
“Bordée dans sa nature,
infinie dans ses voeus
l’home c’est un dieu
qui se souvient des cieux”
“Hình hài tuy hữu hạn,
thị dục vẫn vô cùng,
người là tiên đọa lạc,
vẫn ước nhớ thiên cung”!
(Lời Việt Sảng Đình dịch)
infinie dans ses voeus
l’home c’est un dieu
qui se souvient des cieux”
“Hình hài tuy hữu hạn,
thị dục vẫn vô cùng,
người là tiên đọa lạc,
vẫn ước nhớ thiên cung”!
(Lời Việt Sảng Đình dịch)
Đức
Phật Thích Ca nhìn đau khổ như là thực thể oan khiên của nhân
loại, đời là khổ, thực chất cuộc đời không gì hơn là cái bể
khổ định mệnh. Chỉ có một con đường duy nhất muốn thoát khổ,
con người phải tiêu diẹt mầm mống của nó tức là dục vọng, mà
muốn diệt dục, có một cách hiệu nghiệm nhất, tức là thoát
khỏi cuộc đời, vì đó là cái vòng Luân-Hồi của khổ đau.
Thật
ra, khổ đau chẳng phải vì Trời đày đọa con người, hay tại vì
cuộc đời như số kiếp ác nghiệt, mà căn cơ của nước mắt sầu
muộn là tại nơi ta, nơi ý-hệ, nơi tri thức, nơi cảm quan và
hoài niệm của mỗi con người. Nói tóm lại, tại sự nhầm lẫn
của mỗi con người! Nói là nhầm lẫn, thực thế, con người được
sinh ra, làm kiếp người trong một thế giới vô thường, trong đó
có những bậc thang giá trị: nghĩa là con người được bao vây,
được mời gọi, được dun dủi, được cảm kích, rung cảm bởi những
đối tượng, tự chúng có giá trị, nhưng là giá trị tương đối.
Con người đang đối diện với những giá trị tương đối mà cứ ngỡ
đó là những gì tuyệt đối, cố bám sát vào, cố ôm chặt lấy
những tương đối cho như là tuyệt đối. Đàng khác, con người đang
sống trong một thế giới vô-thường, đổi thay, biến chuyển, có
đó rồi không đó: “sắc tức thị không, không tức thị sắc” mà
tưởng chừng mình đang sống trong cõi vĩnh hằng, bất biến, đời
đời viên mãn! Đau khổ khởi nguyên từ cái lầm to lớn đó! Đáng
lẽ con người sử dụng những gì tương đối như phương tiện giúp
cho đi tìm giá trị tuyệt đối, sống trong vô thường là để chuẩn
bị, sửa soạn, để vươn tâm hồn lên cõi vĩnh hằng! Con người đã
không làm như thế, mà tráo biến tương đối thành tuyệt đối, vô
thường làm vĩnh hằng! Con người quên rằng cuộc đời là một
hành trình mà mỗi người chỉ là một lữ khách cô đơn! Nói cách
khác, con người đau khổ vì đã quên đi tính cách tại thế của
mình! Quên rằng trần gian là chốn lưu đày, mà cõi Trời mới là
quê hương Vĩnh Cửu!
Tuy
thế gian vô thường và cuộc hiện sinh và những đối tượng hạnh
phúc trên trần gian có tính cách tương đối, nhưng tự bản chất
không ảo tưởng, không phi lý, bởi vì cuộc đời tại thế là cơ
hội duy nhất, là phương tiện duy nhất cho con người phải vượt
qua để đạt tới những gì tuyệt đối trên cõi vĩnh hằng. Thế
nên, cuộc hiện sinh trần thế, với những gì tương đối của nó vẫn
cần thiết và hữu ích cho con người. Con người không thể tìm
được Tuyệt-Đối mà không phải vươn qua cuộc đời vô thường và
tương đối này! Đó cũng là ý của Thiên Chúa khi sáng tạo ra vũ
trụ nhiên giới, và con người hiện sinh hữu hạn này! Con người
cần qua trần gian mà về quê hương Vĩnh-Phúc là Nước-Trời. Con
người thất vọng và cảm nghiệm khổ đau, bởi vì đã quên đi thân
phận làm người hữu hạn, sống trong lòng những tương đối giữa
một thế giới vô thường! Con người phải bước qua Vĩnh Hằng bằng
con đường vô thường, và chỉ đạt tới Tuyệt Đối qua ngã đường
tương đối. Tương đối và vô thường có phận vụ như chiếc đò dùng
để qua sông Tuyệt-Đối và cõi Vĩnh-Hằng là “Đáo-Bỉ-Ngạn”, là
Bên-Kia-Bến-Bờ, nói theo ngôn từ nhà Phật. Tuy vô thường và
tương đối của những giá trị trần gian, nhưng vô cùng cần thiết
cho con người, thiếu nó, con người không thể đạt tới cùng đích
của đời mình.
Những
giọt nước mắt, những sầu muộn của cuộc sống hiện tại là cần
thiết, và như điều kiện tất yếu để con người có thể đạt đến
chân hạnh phúc. Vậy chấp nhận nước mắt cũng là thái độ đương
nhiên để cảm nghiệm được niềm hạnh phúc vô biên của ngày mai
nơi quê hương vĩnh hằng!
Thực tại và ảo tưởng
Bàn
về vấn đề hạnh phúc và đau khổ của con người mà không đề
cập đến ảo tưởng và thực tại, thật là một thiếu sót đáng
tiếc. Con người sống trên đời, hành trình giữa cuộc đời cũng
giống như người lữ hành trong sa mạc! Sau những ngày dài lê
bước chân miệt mài trên cát nóng bỏng, người lữ khách cảm
thấy mệt mỏi kiệt sức và khát nước! Tâm trí người lữ khách
bị ám ảnh bởi một nhu cầu: có thức ăn, nước ống và được nghỉ
ngơi. Từ não trạng ước muốn thèm khát đó, con mắt của người
lữ hành tìm kiếm về phía trước và họ đã thấy hình ảnh của
những ốc-đảo “Oasis”, thiên đàng mà họ mong muốn! Nhưng than ôi!
Những “ốc-đảo” kia chỉ là những giả tướng, những huyền hoặc do
trí tưởng mù loà tạo nên để đánh lừa lữ khách mà thôi. Nếu
không quá đặt nặng niềm hy vọng vào những thiên đàng “ốc-đảo”,
chắc người lữ hành đã không đến nỗi tuyệt vọng, khổ đau, để
còn bảo toàn sinh lực cho cuộc hành trình!
Cũng
thế, mang thân phận làm người, bị bao vây bởi những giá trị
tương đối, giữa cuộc đời trôi nổi vô thường, nay có mai không,
đổi thay không ngừng, chúng ta lại mộng tưởng nắm chắc được
tuyệt đối vĩnh hằng, ngỡ là mình đã chiếm được thiên đàng hạ
giới! Đó là căn cơ gây nên khổ đau, tạo nên thất vọng và khơi
ngưồn những đắng cay phiền muộn. Những đam mê, những cuồng vọng
làm phát sinh những khái niệm, những vọng tưởng, những thâm
tín sai quấy làm lệch lạc cái nhìn đúng đắn và đường hướng
chân thực đưa ta đối diện với thực tại của cuộc sống và định
mệnh trần gian của ta: con người là lữ khách cô đơn và cuộc
đời chỉ là một cuộc hành trình gian khổ, là chốn lưu đày đang
tiến về miền “đất-hứa”.
Hạnh
phúc chân thực là khi ta nhận chân được giá trị lữ hành của
mình, nghĩa là nhận chân được giá trị tương đối của cuộc sống
trần gian và những hạnh phúc tương đối ta tìm được suốt dọc
cuộc hành trình. Cuộc đời ta không chỉ là hôm nay và bây giờ
thôi, còn có một cái gì nữa đang đến, sẽ đến, đang và sẽ chờ
đợi chúng ta. Có một lời nào đó đang vang vọng trong sâu thẳm
lòng của mỗi người rằng: đừng bỏ cuộc, đừng ngừng bước tìm
kiếm, đừng thôi bước hành trình, những hạnh phúc, những vui
thú trần gian sẽ chóng qua, sẽ tàn lụi, đừng đặt hết trái tim
và ý chí vào đó, hãy tiếp tục hành trình, những cảm nghiệm
hạnh phúc trần gian chỉ là những bông hoa dại, những quán trọ
phù sinh bên đường! Biết phân biệt, chân nhận được sự khác biệt
giữa quê hương và chốn lưu đày, mái ấm gia đình và quán trọ,
mới là thái độ sáng suốt của người lữ khách!
Thiên đàng chớm nở nơi dương thế
Nói
rằng bản chất trần thế là vô-thường, giá trị cuộc đời là
tương đối không có nghĩa là phủ nhận những niềm vui, những
hạnh phúc mà con người cảm nghiệm trong cuộc sống! Vâng có
những niềm vui sướng hạnh phúc thật sự trong đời, bởi vì Thiên
Chúa vẫn hiện hữu trong lòng trần thế, bởi vì thiên đàng đang
chớm nở ngay giữa cõi nhân gian,và tuyệt đối đang ngự trị
trong lòng tương đối, vĩnh hằng đang nẩy mầm giữa chốn vô
thường! Thái độ của con người là phải nhập cuộc, là mở rộng
vòng tay ôm trọn cuộc đời như một thử thách, như một chiến
đấu, một chạy đua có nghĩa lý, có mục đích! Bởi vì số kiếp
của con người ngày mai ra sao là tuỳ thuộc vào thái độ tích
cực phấn đấu của con người trong hiện tại. Như Chúa Kitô
Cứu-Thế đã đi vào đời bằng cách sinh ra trong gia đình nhân
loại nghèo khó khốn khổ, Ngài đã hành trình thực thi sứ mệnh
cứu thế bằng cuộc tử nạn, sau cùng Ngài đã sống lại khải
hoàn về trời vinh quang, thì con người chúng ta cũng bắt chước
Chúa, sinh vào cuộc đời, chấp nhận thân phận làm người, với
những nỗi vui buồn sướng khổ, những thành công thất bại, cuối
cùng ta cũng chịu đóng đinh con người cũ, con người thế tục
của mình vào thập giá, chịu mai táng trong phận mộ, chết đi cho
thế gian, cho xác thịt, cho tội lụy đọa đày, để rồi sống lại
với Chúa Kitô về Quê Trời trong vinh quang của Thiên Chúa!
Rev. Nguyễn Quốc Hải, Ph.D
* Lam Hồng thêm vào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét