+ Hồng-y L. J. Suenens
Người dịch Nguyễn Đăng Trúc
Người dịch Nguyễn Đăng Trúc
“Kitô hữu là người được Chúa Giêsu Kitô phó thác kẻ khác cho mình” (Lacordaire)
Các bài liên quan:
1. Lễ hiện xuống khởi nguyên xây dựng nên Giáo Hội
2. Đón nhận Maria là mở cửa đón Chúa Thánh Thần
2. Đón nhận Maria là mở cửa đón Chúa Thánh Thần
***
1. Là người đã gặp Chúa Giêsu Kitô
Phúc-âm kể lại cho chúng ta biết là theo lệnh của Chúa các tông đồ đã lên núi để gặp Ngài. Tôi tin rằng mọi sứ mệnh đều bắt đầu bằng việc gặp gỡ Chúa Kitô.
Điều
làm nên một Kitô hữu, trước hết là việc nầy: Kitô hữu là người đã từng
gặp được Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Chắc bạn còn nhớ câu nói của
Claudel trong ngày ông trở lại tại nhà thờ Đức Bà Paris: Lạy Chúa, bỗng nhiên Chúa là Một Ai ở trước mặt con.
Kitô giáo không phải là một triết thuyết, một ý thức hệ, một nền thần
học, cũng không phải một mớ các lời hay ý đẹp hoặc chân lý, dù quan
trọng đến mấy đi nữa! Kitô giáo trước hết là Một Ai. Ở đây sứ điệp và người mang sứ điệp là một.
Chúng
ta tin vào Lời Thiên Chúa làm người, chúng ta tin vào Chúa chúng ta là
Đức Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, người anh của mọi người. Cuộc gặp gỡ
nầy là phần cốt lõi của cuộc sống Kitô hữu: vì chúng ta đã gặp Ngài, vì
chúng ta đã dâng hiến cuộc đời chúng ta cho Chúa Giêsu, nên chúng ta
hợp nhau lại đây và sống cuộc đời mình dưới dấu chỉ của Ngài. Và Phúc âm
nhắc chúng ta biết rằng khi thấy Thầy, gặp Thầy ở trên núi ấy, môt vài
người đã xung đụng, một số khác lại nghi ngờ; nhưng có một số lại tuân
phục. Cuộc gặp gỡ ấy như một giao điểm của các nẻo đường đời.
Trong
thời đại ngày nay, bao nhiêu Kitô hữu bị cám dỗ nghi ngờ về Chúa Giêsu,
chỉ vì thế giới bung bể ra khắp mọi nẻo đường, đi quá xa sứ điệp của
Chúa; đây là lúc chúng ta sẽ bắt đằu phục hoạt lại đức tin của chúng ta
vào Ngài. Và nếu tôi mở lòng tôi tìm gặp Chúa, tôi đi đến với Ngài,
không phải với đức tin cá nhân của tôi, một đức tin của con người yếu
hèn, nhưng tôi bước đến bên Ngài với đức tin của toàn Giáo-hội Ngài; như
thế bước đi của tôi thật oai dũng và xinh tươi.
Khi linh mục chuẩn bị hiệp lễ, vị ấy đọc lên những lời kinh nầy, lời kinh làm tôi rúng động: “Lạy Chúa, xin đừng nhìn đến tội lỗi con, nhưng hãy nhìn đền đức tin của Giáo-hội Chúa…” .
Lạy
Chúa, con đến với Chúa với đức tin của các tông đồ, của Phêrô, Phaolô
và của mỗi người trong mười hai vị; con đến với Chúa với đức tin vô đối
của Maria: “Phúc thay cho bà vì bà đã tin!”. Con đến với Chúa
với cả đức tin của các vị tử đạo, với đức tin của thánh Rémi và tất cả
những ai đã mang lại đức tin cho xứ sở chúng con. Con tin với đức tin
của những vị tuyên xưng đức tin, các giáo phụ, các nhà thần bí và các
thánh; với tất cả đức tin ấy, lạy Chúa, con xin qui phục Ngài.
Kitô
hữu là người đã gặp Chúa Giêsu Kitô, thấm nhập cuộc sống của Ngài, đón
nhận Ngài, không phải chỉ nhận biết, chỉ thương mến Ngài mà thôi mà hiến
trọn đời mình sẵn sàng phục vụ Ngài. Kitô hữu trước tiên là người muốn
thực hiện Chúa Giêsu một cách ưu tiên trong đời mình, vì biết rằng Lời
của Chúa không phải là những lời như bao lời nói khác.
Không phải chính Chúa đã từng nói lời nầy sao:
“Lời ta là chân lý và là sự sống, lời ta mang lại sức sống?”. Bổn
phận tiên quyết của chúng ta trước mặt Chúa là sống bằng sự sống của
Ngài, để Ngài sống trong chúng ta; mà đó là điều mà thế giới chờ đợi nơi
chúng ta, đó là thách đố mà thế giới nêu lên cho chúng ta.
Biết
bao người chung quanh chúng ta không hề mở đọc Phúc-âm! Họ không đọc
các trang sách thánh của Mathêu, Gioan, Luca; họ hẳn không đọc các trang
sách thánh của các tông đồ… nhưng họ lại nhìn chúng ta sống. Xuyên qua
bao thế kỷ, cũng một diễn tiến đó xảy ra như Phúc-âm đã từng kể cho
chúng ta nghe khi một vài người trong đám đông đi riêng ra tìm đến một
trong các tông đồ là Philipphê và nói với ngài: “Chúng tôi mong được gặp ông Giêsu!”.
Câu hỏi đó là câu hỏi trường kỳ xuyên qua bao thế hệ nhắn gửi đến mỗi một người trong chúng ta, giám mục, linh mục, tín hữu: Chúng tôi muốn gặp được Chúa Giêsu trong Giáo-hội hôm nay qua cuộc sống các ngài. Sau đó chúng tôi sẽ nghe các ngài nói… Chúng tôi muốn được gặp Chúa Giêsu!
Và đó là điều làm cho mỗi người chúng ta đau khổ: vì tất cả chúng ta
đây, chúng ta quá mờ đục, nhưng lòng chúng ta vẫn ao ước được trở thành
những tấm kiếng màu rực sáng dưới ánh mặt trời để diễn tả toàn Phúc-âm
trong lời nói, việc làm của chúng ta. Chính vì thế, trước khi cử hành
Thánh-thể, chúng ta có bổn phận đấm ngực mình vì chúng ta không trong
sáng để người ta thấy được Chúa nơi chúng ta.
Bấy giờ, chúng ta mới có thể lên đường vào đời thực hiện sứ điệp của Chúa.
3- Là người tuyên xưng Chúa trước mọi người
Kitô hữu là người đã gặp Chúa Kitô,
là người hiến đời mình để Chúa có thể sống trong mình. Và tiếp đó là
người tuyên xưng Chúa trước mọi người. Lúc nầy, có một sự khủng hoảng
trong ý niệm về việc làm chứng công khai, rao truyền Phúc-âm trực tiếp;
Kitô hữu như muốn thu mình rút lui và sợ hãi.
Nguời
ta đã nhấn mạnh quá mức một vài sự thật – những điều vẫn luôn đúng –
nhưng vì quá nhấn mạnh một chiều, nên có nguy cơ làm che mờ chân lý bổ
sung; không khác chỉ chiếu sáng một phần của nhà hội, phần kia lại để
chìm trong bóng tối.
Người
ta nói rất nhiều, ngay cả tại Côngđồng (và đúng là cần nói) về việc
phải tôn trọng tự do tin tưởng, và đó là một sự thật; người ta nói nhiều
đến sự hiện hữu của một phần chân lý trong các tôn giáo, có những mảnh
Lời Chúa có giá trị vàng ngọc, và điều đó cũng rất đúng. Nhưng sự kiện
ấy không chuẩn cho chúng ta bổn phận phải tiếp cận với người đương thời
để loan báo Phúc âm cho họ, nói với họ về Chúa Giêsu Kitô, đến với họ
không phải như một người có đủ thứ đến với một kẻ không có gì, nhưng là
chia sẻ cho người anh em kho tàng quí giá của hạnh phúc mình đang sống,
thông báo cho họ nguồn vui, mặt trời của cuộc đời mình là Đức Giêsu
Kitô.
Biết
bao người chung quanh ta đang sống, nhưng không biết mình từ đâu tới,
đang đi về đâu và đâu là ý nghĩa thâm sâu và tối hậu của cuộc đời mình!
Chúng ta không có quyền giữ riêng cho mình hạnh phúc và niềm vui của đức
tin chúng ta. Phải nói lên cho họ nghe, đồng thời cần ý thức là Lời
Chúa ta nói với họ trước hết sẽ phán xét chúng ta, cần ý thức chúng ta
là kẻ bất toàn, dòn mỏng, nhưng bởi quyền năng của Chúa, chính Chúa muốn
tiếp tục công việc của Ngài xuyên qua chúng ta: “Thầy sẽ ở với anh em cho đến tận thế”.
Chúa
không dùng môi miệng nào khác ngoài môi miệng chúng ta, tay chân nào
khác ngoài tay chân chúng ta, để lên đường đi vào trần thế nầy truyền bá
sứ điệp của Ngài. Chúng ta không có quyền giam Chúa lại trong tâm hồn
chúng ta và buộc Chúa im lặng trong chúng ta.
Tôi
nghĩ là chúng ta phải trừ con quỉ câm nầy, con quỉ bịt miệng biết bao
Kitô hữu, nghĩ rằng im lặng là tôn trọng niềm tin của kẻ khác, và quên
rằng sự tôn trọng thâm sâu nhất mà chúng ta có thể tỏ bày cho người
trước mặt, đó là khiêm tốn trình bày cho họ biết điều chúng ta cảm thấy
tốt nhất xảy đến nơi chúng ta: điều ấy là Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô,
đang nói với con người hôm nay qua chúng ta.
Và
ở một khía cạnh khác, tôi dám nói là người ta sẵn sàng để nghe chúng
ta, mặc dù chính họ cũng không hay: ta sẽ ngạc nhiên khi khám phá nơi họ
đã có một lời mời gọi, có những thắc mắc khắc khoải sẳn đấy, từ đáy
lòng mỗi người; Kitô hữu chúng ta có phận vụ đáp ứng lời mời gọi và chất
vấn ấy.
Phận
sự đó quá to tát, vượt lên trên sức lực và khả năng của chúng ta? Đối
diện với thế giới ngày nay, đôi khi chúng ta bị cám dỗ để nói như các bà
vào buổi sáng Phục sinh: Ai sẽ đủ sức đẩy giùm hòn đá che mồ cho chúng ta.
Chúng
ta có câu trả lời nào, sức mạnh nào khác hơn là tin vào sự hiện diện
của Chúa thực sự ở nơi Giáo-hội Ngài; chúng ta tin vào đâu ngoài Chúa
trong Giáo hội khi mọi người đang đi vào cơn lốc của một thời đại mà
tiến hóa gặp trăm ngàn khó khăn vì vận tốc quá nhanh, trăm ngàn thay đổi
từng thế kỷ tưởng chừng như chỉ xảy ra trong năm hoặc mười năm.
Chúng ta cần trung kiên trong niềm tin vào Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, đã gửi Thánh Thần Ngài cho chúng ta. “Tôi
tin Chúa Thánh Thần trong Giáo-hội hôm qua. Tôi tin Chúa Thánh Thần
đang nói trong Giáo-hội hôm nay. Tôi tin Chúa Thánh Thần sẽ nói ngày
mai…”.
Chúng
ta được mời gọi để mở lòng đón nhận đức tin ấy, để Chúa có thể tiếp tục
sứ mạng cao cả của Ngài nơi mỗi người chúng ta, xuyên qua mỗi người
chúng ta.
4. Là người làm chứng cho tình yêu
Tình
yêu múc lấy nguồn suối nơi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chính là Tình-yêu
như thánh Gioan đã nói: Đối với Chúa sống là yêu. Thế giới đã phát sinh
từ nguồn suối nầy do bởi tình yêu mà Thiên Chúa đã tạo dựng; và tình yêu
ấy đã không ngừng tác động qua lịch sử ơn cứu độ. Vì thế chúng ta phải
khám phá ý nghĩa tối hậu của tình yêu nhân loại nơi Thiên Chúa.
Khi
tạo dựng chúng ta, Chúa đã tác thành chúng ta theo hình ảnh của Ngài và
giống với Ngài: Ngài đã uốn nắn tâm hồn chúng ta theo bản mẫu là tâm
hồn của Ngài. Mọi tương quan thân thiết giữa con người với nhau giúp ta
khám phá dần hồi, một cách cụ thể, ý nghĩa câu nói nầy: Yêu như Chúa.
Văn hào Dante có lần đã tâm sự với nàng Béatrice:
“Anh làm sao có thể ao ước gặp Chúa được, nếu anh đã không từng nhận ra Ngài nơi cái nhìn của em?”.
Thực
vậy, qua kinh nghiệm yêu thương, con người xác quyết được rằng tìm về
yêu thương là cốt lõi của bản tính con người. Chỉ cần chất vấn con người
về khát vọng thâm sâu nhất của họ. Thực sự, họ muốn gì? Và tìm gì?
Bên
ngoài, xem ra họ ước ao đi tìm đủ thứ: chính trị, nghề nghiệp, kinh
doanh, văn chương, dục vọng, thể thao v.v… nhưng, truy cứu thấu đáo, ta
sẽ thấy bên dưới những mục tiêu đa tạp nầy, là một kinh nghiệm hết sức
đơn sơ và sâu kín: yêu và được yêu.
Nơi
bất cứ ai, giàu hoặc nghèo, ý thức hay không lưu ý, luôn luôn có nỗi
khao khát một tình yêu chân thực, vượt thời gian và những chuẩn mực nhất
thời của con người yếu đuối nghĩ ra. Biết bao thảm trạng và thất bại
trong cuộc sống của nhiều người đã xảy đến vì lúc thiếu thời họ không
hưởng được tình yêu thương, săn sóc và hơi ấm của người cha hay người mẹ
có thể giúp cho cuộc sống tình cảm và tinh thần họ phát triển bình
thường. Biết bao cuộc đời hư hỏng, vì thiếu tình yêu lúc ấu thơ hoặc
trên bước đường trưởng thành.
Điều
mà con người cố tìm cho ra xuyên qua những ánh sáng chiếu rọi mà họ
khám phá hoặc họ hy vọng khám phá được, đó là một Tình-yêu dũng mạnh
vượt thời gian và sự chết. Một tình yêu không làm suy nhược bao giờ,
nhưng mang lại sự sống và thăng tiến tất cả những gì nó tiếp cận.
Thánh Augustinô đã diễn tả tâm thức ray rứt nầy ở tận đáy lòng con người:”Chúa dựng nên chúng con để hướng về Chúa, Lạy Chúa; và tâm tư chúng con luôn khắc khoải cho đến khi tìm được an nghỉ trong Ngài”.
Nếu
tình yêu, tự bản tính thâm sâu, kết buộc vào Thiên Chúa, thì tội lỗi
trước hết là sự khước từ yêu thương; và chỉ hiểu được tội lỗi khi đưa nó
vào mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Đã hẳn là các tội lỗi
cố tình và rõ rệt nhằm chống lại với Thiên Chúa không phải là tội
thường thấy. Người ta không trách oán Chúa, người ta thường chỉ muốn làm
ngơ không biết đến Ngài. Giám mục A.M. Charue đã viết: “Người ta truy tìm một sự khoái lạc riêng cho mình mà
không
lưu ý hoặc bất chấp thiệt hại có thể ảnh hưởng ngay cho mình hoặc người
bên cạnh. Tuy nhiên, “tự hủy hoại phẩm giá mình, khinh miệt quyền lợi
kẻ khác” là phản lại bác ái của Chúa”.
Một
thái độ sống như thế quên rằng Đấng Tạo Hóa và là Cha của chúng ta
không bao giờ hờ hững, không bao giờ ngừng yêu thương con cái Ngài.
Vì vậy, một thế giới tuyên dương cái chết của Chúa, thì hẳn nhiên phải chối từ sự hiện hữu của tội lỗi.
Vì
không nhận có một Thiên Chúa mời gọi mình, thì không có một đấng tuyệt
đối nào buộc mình phải trả lời về hành động của mình: bấy giờ tội lỗi
chỉ còn được xem là huyền hoặc. Kỳ thực, chúng ta chỉ có thể hiểu được ý
nghĩa của tội lỗi khi cảm nhận được mối tương quan sống động – tức là
Giao ước – với Cha chung.
Mạc
khải đưa chúng ta vào tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Qua ánh
sáng Mạc khải, qua ánh sáng Tin-mừng, chúng ta mới hiểu và đánh giá được
những sự khước từ do phía chúng ta.
Nhà tư tưởng Chesterton, ngày kia phát biểu một câu bề ngoài có vẻ nghịch lý: “Một vị thánh, là người biết mình là kẻ có tội”.
Chúng ta khó lòng nhận ra mình có tội; có thể chúng ta đã nói nhiều lần
một cách máy móc, qua miệng lưỡi chúng ta; nhưng thực sự ý thức từ nơi
tâm trí và cảm nhận sự thật mình là kẻ có tội, thì không dễ. Thú nhận
mình có tội là một ơn sủng về lòng khiêm hạ, và khiêm hạ là một nhân đức
hiếm có. Sự thú nhận nầy không phát xuất từ nỗi ray rứt bệnh hoạn,
nhưng là ý thức về tình yêu thương và sự thánh thiện của Chúa, khác xa
với thân phận và tâm tư yếu hèn của chúng ta.
Ý thức về tội lỗi gắn liền với trực giác về ơn tha thứ. “Khởi
đầu của một cuộc trở lại chân thật, là cái nhìn của Chúa trên người tội
lỗi; Chúa yêu thương, tìm kiếm, khổ đau đến chấp nhận Thánh giá; Chúa
đã tha thứ trước nữa, cho người có tội biết Chúa trìu mến, yêu thương
người ấy, nên tạo ra nơi tâm hồn họ nỗi dày vò để họ quay trở lại”.
Với chiêu bài “tẩy trừ mặc cảm tội lỗi”, một số người ngày nay đòi hỏi quyền tự do cho mình “vô tội”,
một quyền tự do không bị trói buộc bởi một trách nhiệm nào về hành vi
của mình với bất kỳ cái gì khác, ngoài sự tự do vô hạn của riêng mình.
Nhưng từ chối không muốn phải trả lời với ai khác về những thất bại hay
thành công của mình, phải chăng là tự mình từ khước khả năng có thể được
thứ tha?
Phải
chăng là tự mình tách rời khỏi Đấng duy nhất có thể làm cho chúng ta
làm hòa lại với nhau, khi chính Ngài cho chúng ta tấm gương tha thứ vô
điều kiện? Một thứ tự do không muốn trách nhiệm về lập trường của mình
trước một ai khác, phải chăng tự vất bỏ những chiều kích thiết yếu nhất
của chính mình?
Vì
tự do cũng có nghĩa là đồng ý để cho người mà chúng ta đã làm cho họ
thất vọng, tha thứ, tiếp nhận mình. Đó là điều chúng ta khám phá được
khi nhìn vào Chúa Kitô, là Chúa và Đấng Cứu-độ, là Đấng duy nhất ban cho
chúng ta khả năng kinh nghiệm được sự tự do toàn bích, là tự do của
tình yêu.
Biết mình được Chúa yêu thương
Kitô hữu định nghĩa mình là người tin vào tình yêu của Chúa. Thánh Gioan nói rằng: Phần chúng tôi, chúng tôi đã tin vào Tình yêu.
Kitô hữu tin rằng Chúa yêu mình, cá nhân mình như một người duy nhất,
yêu mình mãi mãi, trung kiên. Một tín hữu, là một “người trung kiên”
đáp trả tình yêu trung kiên của Chúa đối với mình:
Toàn
bộ Kinh-thánh minh chứng sự kiên trì của Chúa trong tình yêu. Sự trung
kiên ấy, Đấng Tạo hóa không những cam kết thực hiện trong giây phút hiện
tại của con người, nhưng Ngài cam kết yêu tiếp tục, yêu mãi mãi, yêu để
giải phóng con người.
Nhiều
Kitô hữu không dám tin rằng tình yêu vô biên ấy đến cho mình; họ không
dám tin vào tình yêu ban đầu, trung kiên không ngơi, bao trùm hết cuộc
sống nhân loại. Lý do họ không tin phải chăng thường là vì họ đã không
chứng kiến những Kitô hữu phản ảnh được tình yêu trung kiên của Chúa
trên bước đường đời của họ.
Gần
đây, một vị tuyên úy các bạn trẻ tâm sự với tôi là có quá nhiều người
trẻ hôm nay khó tin được là Chúa yêu họ, yêu từng người trong họ. Họ cảm
thấy khắc khoải, lo âu trước tương lai bất trắc.
Biết mình được Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, tình yêu duy nhất của Chúa Ba ngôi: Sự kiện nầy làm cuộc sống và tâm tư con người bàng hoàng. Nhưng nền đạo đức Kitô giáo lại múc lấy nguồn suối của mình nơi xác tín đó của đức tin.
***
Nhiều
chân trời mới mở ra cho chúng ta. Vì đức tin dạy chúng ta rằng không
những chúng ta được Chúa yêu thương, trong hoàn cảnh hiện tại của chúng
ta, nhưng Chúa còn muốn trở nên “sức mạnh yêu thương” nơi chúng ta, qua chúng ta.
Không
những chúng ta yêu người bên cạnh đúng như sự mong chờ của họ, nhưng
chúng ta còn được Chúa mời để yêu với chính tình yêu của Chúa, với trái
tim của Chúa; Chúa mượn trái tim ta để diễn tả tình yêu đó một cách cụ
thể và hấp dẫn.
Có thi sĩ viết: Khi bạn yêu, đừng nói: Chúa ở trong lòng tôi, nhưng nên nói: tôi ở trong lòng của Chúa.
Kitô hữu càng để Chúa tác động trên mình, thì tình yêu của người ấy sẽ
trải tràn ra các chiều kích của thế giới và ôm trọn nỗi khổ đau của nhân
loại. Một Mẹ Têrêxa, qua nhiều năm tháng đi tìm những kẻ khốn cùng trên
lề các nẻo đường Calcutta – hơn hai muơi bảy ngàn trong hai mươi năm –
đó là tình yêu nhân loại được ân sủng gia tăng cường độ, một tình yêu
được đổ đầy bằng một tình yêu mãi mãi nâng cao. Không có gì nhân loại
hơn trái tim của một vị thánh: đó là một trắc nghiệm về sự trung thực
không bao giờ sai.
Trong
tình yêu hôn nhân, tình yêu Kitô giáo không hề làm sút giảm chút nào:
bên trong hôn phối, qua bí tích, đôi vợ chồng có thể đáp ứng trọn vẹn
nghĩa vợ chồng.
Trên
bình diện dấn thân cho công lý cũng thế, Kitô hữu chiến đấu cho công
bằng xã hội để thể hiện tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
Ý
thức về yêu sách của dấn thân nầy thúc đẩy người tín hữu thường xuyên
xét lại lối sống của mình và lời giáo huấn của Phúc-âm. Ở trong bất cứ
hoàn cảnh nào, Kitô hữu cũng múc lấy hứng khởi của tình yêu thương để
làm bung bể những tính toán nhỏ nhen hoặc những lo sợ ức ép mà họ thường
gặp phải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét