Có
thể nói niềm tin, cách suy tư, lối sống và cách hành động của ĐHY
Nguyễn Văn Thuận qua những giai đoạn lịch sử và hoàn cảnh khác nhau đã
biểu hiện cách sống đạo đích thực theo tinh thần Kitô giáo, vì thế hiện
nay Giáo Hội Công Giáo đang lập đề án phong thánh cho ngài. Sau đây là
những nét biểu tượng chính của tinh thần đó nơi ĐHY Nguyễn Văn Thuận.
OMNIA VINCIT AMOR
Những
lời ĐHY Nguyễn Văn Thuận đã viết khi bị quản chế ở Cây Vông đã được
ngài cố gắng thực hiện trong cả cuộc đời mình. Ngài đã kể lại: “Trong
chuyến hành trình ra Bắc, ba lần tôi đã bị xích chung với một tù nhân
không công giáo, từng là dân biểu và nổi tiếng là Phật Tử cực đoan. Sự
gần gũi trong cùng số phận ấy đã ghi khắc dấu vết sâu đậm nơi trái tim
ông. Sau này tôi được biết rằng sau khi được trả tự do, ông ta hãnh diện
và thích kể lại sự kiện trên đây. Ông đã luôn luôn tìm cách để được
xích chung với tôi và từ đó chúng tôi trở thành bạn với nhau.”
Khi
mới đến trại Vĩnh Quang, ngài cũng đã chinh phục được những cán bộ có
nhiệm vụ canh giữ và theo dõi ngài. Ngài kể lại rằng một hôm trời mưa,
đang ngồi bổ củi, ngài đã hỏi một người canh tù có thể đẽo một cây thánh
giá bằng gỗ được không. Anh ta trả lời rằng luật trại cấm đưa vào bất
cứ vật gì mang dấu chỉ tôn giáo, Ngài trả lời: “Tôi biết, nhưng chúng ta là bạn với nhau.” Anh ta nói: “Sẽ có nguy hiểm cho cả hai chúng ta”.
Ngài bảo anh ta cứ lơ đi để cho ngài làm. Anh ta bỏ đi nơi khác. Thế là
ngài đã dẽo xong cây thánh giá và giấu trong cục xà phòng cho đến ngày
ra trại.
Trong trường hợp khác, ngài đã xin người canh tù một sợi đây điện. Anh ta hoảng hốt nói: “Tôi đã học ở Đại Học An Ninh rằng nếu một người xin dây điện có nghĩa là muốn tự tử.”
Ngài giải thích cho anh ta rằng ngài là một linh mục công giáo, không
được tự tử. Ngài nói ngài chỉ muốn làm một dây xích nhỏ để đeo cây thánh
giá. Anh ta nói: “Thật khó mà từ chối anh điều gì!” Sau đó anh
ta đem đến cho ngài một sợi điện và hai cái kìm nhỏ. Thế là ngài đã
hoàn thành sợi dây đeo thánh giá một cách dễ dàng.
Một câu chuyện khác đã xẩy ra tại giáo xứ Giang Xá, nơi ngài bị quản chế. Ngài kể lại: “Khi
tôi bị quản thúc tại làng Giang Xá, cách Hà Hội 20 cây số. Người canh
giữ tôi là một người tín hữu công giáo. Thoạt đầu ông ta đặt bao nhiêu
câu hỏi về tôi: ông giám mục này đã làm gì để bị giam giữ như thế? Khi
sống và ăn chung với tôi, ngủ trong cùng một phòng cạnh tôi, dần dần ông
ta hiểu, và ông để cho tôi viết các sách đạo đức. Ông cho phép các linh
mục đến gặp tôi ban đêm, họ ở cách xa đó 300 cây số, để được nghe tôi
nói về Công Đồng Chung Vatican II, vì không một giám mục nào ở Bắc Việt
đã có thể tham dự Công Đồng…”.
Mỗi
tháng, người cán bộ này đều phải làm báo cáo cho công an về các sinh
hoạt của ngài. Nhưng một hôm ông ta nói ông ta không làm báo cáo nữa, vì
ông không biết phải viết gì. Ngài liền nói với ông ta: “Ông cần phải viết. Nếu ông không viết thì ông sẽ bị thay thế. Một người lính canh khác mà tới đây, họ sẽ làm khó tôi.” Ông ta lại nói: “Tôi không biết viết gì cả!”. Ngài nói để ngài viết giúp cho, ông ta chỉ cần chép lại, Ông ta nói: “Tốt lắm!”.
Tháng
đó, công an khen ông ta viết báo cáo tốt và tặng ông ta một chai rượu
cam. Ông đem về và tối đó đưa đến mời ngài cùng uống.
Ngài kết luận: “Omnia vincit amor”. Tình yêu thắng được tất cả!
Vào
năm 2000, khi đi khám bệnh, người ta khám phá ra có một màng đang mọc
phủ lên trong thành bụng của ngài. Ngài nói với tôi rằng cuộc khảo sát
cho biết kết quả là “benigne”, tức bướu lành. Tuy nhiên, vào đầu năm
2001, sự phát triển của cái bướu này đã gây khó chịu cho ngài nhiều hơn
và sức khỏe yếu đi. Ngày 17.4.2001, theo đề nghị của Đức Hồng Y Bernard
F. Law, ngài đến một bệnh viện tại Boston, Massachuchetts, Hoa Kỳ, để
cắt cái màng đó đi. Ngàì cho biết ở Ý cũng có một bác sĩ chuyên mổ về
loại biếu này, nhưng ĐHY Law nói ở Mỹ có nhiều phương tiện tối tân hơn,
nên qua Mỹ mổ sẽ tốt hơn. Ngài đã nhờ ĐHY Law giúp đỡ.
Sau
khi mổ xong khoảng một tuần lễ, ngài đã điện thoại cho tôi biết bác sĩ
chỉ cắt khoảng 2/3 cái màng vì không thể cắt hơn được nữa.
Tôi
có hỏi ý kiến một vài bác sĩ chuyên về ung thư về trường hợp của ngài.
Họ cho rằng đó là trường hợp tuyến tiền liệt của ngài được mỗ vào năm
1988 tại Hà Nội, nay phát triển trở lại và trở thành ung thư. Vì ngài
không chịu đi khám nghiệm thường xuyên để chửa trị, nên bướu đã lan dần
lên thành bụng. Trường hợp này không còn cứu chữa được, ngoại trừ có
phép lạ. Bệnh viện ở Boston có cắt hết rồi bướu cũng mọc lại. Nhưng tôi
không dám nói với ngài.
Đầu
năm 2002, màng bướu tái phát và ăn lan vào ruột. Các bác sĩ Ý cho biết
ngài phải chịu một cuộc giải phẫu kéo dài trong khoảng 30 tiếng đồng hồ
mới có thể cắt bỏ hết và nối lại ruột được.
Ngày
24.4.2002, ngài trở về Úc thăm thân mẫu và mừng tuổi thọ 100 của mẹ
ngài, rồi tiếp tục đi giảng thuyết, sau đó trở lại Roma nghỉ ngơi và
chịu các cuộc thử nghiệm trước khi mổ. Ngày 4.5.2002 ngài đến bệnh viện ở
Milano, phía bắc nước Ý, để chịu giải phẩu.
Lần
chót tôi được nói chuyện với ngài bằng điện thoại hai tiếng đồng hồ là
ngày 4.5.2002, trước khi đi mổ. Lần trước đó vào ngày 26.4.2002, khi
ngài đang ở Úc thăm thân mẫu ngài, ngài cũng đã nói chuyện với tôi suốt
hai tiếng đồng hồ như thế. Hình như ngài đã linh cảm trước rằng ngài có
thể sẽ ra đi trong cuộc giải phẫu này nên đã sẵn sàng tất cả. Sau khi
nói hết những chuyện cần phải nói, ngài dặn tôi: Cố gắng hoàn thành cuốn
sách nói về các biến cố lịch sử Việt Nam trước 30.4.1975 mà tôi đang
biên soạn và nếu cần ngài giúp đỡ gì cứ nói. Tôi hứa với ngài tôi sẽ
hoàn thành càng sớm các tốt.
Cuộc
giải phẫu được thực hiện trong ngày 8.5.2002, nhưng mới kéo dài được 7
tiếng thì sức khỏe của ngài không còn chịu nổi nên cuộc giải phẩu phải
ngưng lại. Các bác sĩ đợi sức khỏe của ngài phục hồi để giải phẫu tiếp,
nhưng chuyện đó đã không xẩy ra.
Trong bài giảng cho Giáo Triều ngày 14.3.2000 về “Bí quyết của sự Thánh Thiện: Sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng”, ngài nói: “Khi ra khỏi nước, tôi đã nhận được một lá thư của Mẹ Têrêxa ở Calcutta với những lời lẽ sau đây: “Điều đáng kể không phải là số lượng công tác được hoàn thành, nhưng là mức độ tình yêu mà ta để vào trong mỗi công tác”.
Kinh nghiệm đó đã củng cố trong tôi ý niệm là phải sống mỗi ngày, mỗi
phút giây của cuộc đời ta như là phút giây cuối cùng; hãy dẹp bỏ những
gì là phụ thuộc; chỉ tập trung vào những gì là chính yếu. Mỗi chữ, mỗi
cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là những phút giây đẹp
nhất đời ta. Chúng ta phải thương yêu mọi người, chúng ta phải tươi cười
với mọi người mà đừng đánh mất một giây phút nào”.
Ngày
16-9.2002 ngài đã từ trần lúc 6:30 chiều ngày 16.9.2003 tại Roma, tức
lúc 3:30 sáng ngày 16.9.2003 giờ Los Angeles, California.
Trong thánh lễ an táng Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chắc
chắn sự khuất bóng của ngài gây đau buồn cho những ai đã quen biết và
yêu mến ngài: gia đình ngài, cách riêng mẹ ngài, tôi lại bày tỏ cho bà
sự gần gũi yêu thương của tôi. Tôi cũng nghĩ tới Giáo hội Việt nam yêu
quí, Giáo Hội đã sinh ngài trong đức tin, và tôi cũng nghĩ tới toàn thể
dân Việt Nam mà Đức Hồng Y đáng kính đã công khai nhắc tới trong chúc
thư thiêng liêng của ngài bằng cách khẳng định luôn luôn yêu mến. Tòa
Thánh mà ngài đã phục vụ qua những năm cuối đời ngài, than khóc Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận”.
Trong
174 phái đoàn của các quốc gia tới dự đám tang Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận, người ta thấy có hai đại diện của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt
Nam ngồi chung trong phái đoàn của nước Pháp vì giữa Vatican và Hà Nội
chưa có bang giao.
TỰ NHÌN LẠI CUỘC ĐỜI MÌMH
Khi nhìn lại cuộc đời mình, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã mô tả như sau: “Ngày
hôm nay, vào lúc bế mạc tuần tĩnh tâm, tôi rất xúc động. Cách đây 24
năm, ngày 18 tháng 3 năm 1976, áp lễ thánh Giuse, tôi bị đưa từ nơi quản
thúc ở Cây Vong, đến chỗ biệt giam nghiêm nhặt trong nhà tù Nha Trang,
Phú Khánh.
“Cách
đây 24 năm, tôi không bao giờ ngờ rằng một ngày kia, chính vào ngày
này, tôi kết thúc việc giảng thuyết tuần Tĩnh Tâm tại Vatican.
“Cách
đây 24 năm, khi tôi cử hành thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước
trong lòng bàn tay, tôi không bao giờ tưởng tượng, ngày hôm nay Đức
Thánh Cha tặng cho tôi một chén lễ mạ vàng.
“Cách
đây 24 năm, tôi không hề nghĩ rằng chính hôm nay, lễ thánh cả Giuse năm
2000, Đức Giám Mục kế vị tôi lại thánh hiến chính nơi tôi bị quản thúc
một nhà thờ đẹp nhất dâng kính thánh Giuse tại Việt Nam.
“Cách
đây 24 năm, tôi không bao giờ ngờ rằng ngày hôm nay, khi vừa kết thúc
tuần Tĩnh Tâm, một vị Hồng Y giao cho tôi một món quà lớn để giúp cho
những người nghèo tại giáo xứ ấy.
“Thiên Chúa thật cao cả, và tình thương của ngài cũng cao cả.”
Lữ Giang
Ghi chú: Trích trong cuốn “Vài đòng về ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận” của Lữ Giang phát hành 10.000 cuốn năm 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét