Một
hôm, Đức Giêsu đưa ba đồ đệ lên núi cao. Trong bầu khí thanh mát của
bình minh, trong cái hoang sơ của núi rừng trùng điệp, Đức Giêsu mở ra
một góc nào đó của thiên đường khiến mấy ổng ngây ngất. Không biết thiên
đường đó thế nào, và mấy ổng cũng đâu có đủ ngôn từ đễ diễn tả. Chỉ
nghe nói rằng lúc đó Thầy trở nên sáng, áo trắng như tuyết, rồi ông lớn
tuổi nhất lại thích và muốn dựng lều đóng quân tại đó luôn.
Lúc vui sướng, người ta thấy hình ảnh thiên đàng.
Trên
khổ giá nơi đỉnh đồi đẫm máu Can-vê, lúc đang hành hình với máu đổ lênh
láng, da thịt bầm dập, tên cướp kia cũng đang lơ lửng trên giá gỗ hành
hình vì một quãng đời truỵ lạc tội lỗi, y chỉ nói nhỏ với người bị xử án
mà y kính trọng rằng: khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. Thế là Tên
Tội Phạm Thánh Thiện liền trả lời: ngay hôm nay, tôi cho anh ở thiên
đàng với tôi.
Khi đau khổ tột cùng, người ta cũng thấy thiên đàng
.
Tôi
lại nhớ một câu chuyện có thực ở Trung Quốc, tại làng Tam Cúc. Cái đất
khỉ ho cò gáy vì nghèo nàn và thất học. Con gái trong làng hầu như đã
quê lên thành phố để làm giàu bằng vốn tự có. Giàu có gì chưa thấy,
nhưng cái làng quê ấy vẫn lụn bại, không trường học, không có mấy ánh
sáng của nền văn minh.
An
Thái Hà là cô gái có học vấn khá nhất là cấp 3. Cô tình nguyện làm cô
giáo để đem về chút văn hoá trong đám trẻ trong làng. Dù chẳng được đào
tạo chuyên môn, cô vẫn cứ là cô giáo có tâm. Lớp học của cô là mái lá ọp
ẹp che nắng chưa xong nói gì che mưa. Bảng đen là bức tường vôi của nhà
hàng xóm cho xài tạm. Phấn là cục than lò cháy dở dang.
Cô
được sự giúp đỡ của ông thầy hiệu trưởng trường gần đó. Ông giới thiệu
cô với Cục trưởng giáo dục. Cô khăn gói lên đường bằng đôi chân qua hàng
chục cây số. Ông Cục trưởng niềm nở tiếp đón cô, nhưng mãi chẳng thấy
đoái hoài gì tới lời đề nghị cấp kinh phí cho cô xây dựng lớp học. Cuối
cùng ổng cũng hứa sẽ giải quyết, nhưng trước hết, cô giáo phải lên
giường với ông. Nghĩ tới tương lai đám trẻ lam lũ, cô không ngần ngại.
Ngày
tháng trôi qua như lời hứa của ông Cục trưởng. Cô quyết định đi thành
phố làm công việc giống như các chị em trong làng đang làm.
Cô
đã có tiền, dù không trong sạch. Cô bị xỉ nhục và hành hạ vì sắc đẹp
của cô làm mất khách của người khác. Cô chịu đựng và mỗi lần phải làm
cái việc không hợp với nhân phẩm, cô lại nhìn thấy khuôn mặt những đứa
trẻ thất học, tới cái ngôi trường khang trang có những học sinh vui tươi
học tập.
Mỗi
tháng, ngôi trường trong mơ của cô lại đổi khác. Tháng này có mái che
kiên cố, tháng sau có bàn ghế, có bảng đen. Tháng sau nữa, học sinh có
đồng phục, có sân chơi. Thầy hiệu trưởng nhận được những ngân phiếu và
cứ thực hiện những điều mà cô ước nguyện. Chỉ ông là người biết tiền đó
từ đâu và cả chuyện ông cục trưởng. Chính cô đã xác nhận ông cục trưởng
không bằng những người “khách”.
Trong
một chuyến về quê, các học trò vui mừng đón tiếp cô giáo xinh đẹp của
mình và cô giáo đã hạnh phúc trong nước mắt. Cô định sẽ ở lại để tiếp
tục dạy học, nhưng những nhu cầu của trường còn nhiều quá, sách vở, học
cụ còn sơ sài…Cô lại lên đường.
Một
ông khách cũ giới thiệu cô với một đại gia và ông ta trả cô 3000đôla
cho việc làm vợ bé. Nhưng chỉ hôm đó cô đã bị ông hãm hiếp đến chết nhân
ngày sinh nhật thứ 22 của cô.
Lễ
tang của cô cử hành ngay tại ngôi trường cô mơ ước. Sân trường ngập
nước mắt với lá cờ tổ quốc treo rũ. Người ta kính cẩn trước sự ra đi của
con điếm nhân hậu.
Cô đã tìm thấy thiên đàng của mình.
Xã
hội hôm nay cũng có lắm kiểu thiên đàng được thêu vẽ thật lộng lẫy.
Người ta thương người nghèo nên gây quỹ từ thiện bằng những buổi giá bức
tranh giá hàng chục tỷ đồng, một chậu cảnh giá vài tỷ đồng. Rồi những
cuộc lạc quyên rộn ràng, cuộc phát chẩn trống kèn tưng bừng. Kẻ cho
người nhận được nêu danh tính trên phương tiện truyền thông đại chúng
nhiều ngày liền.
Người
nhận được mấy gói mì cho qua cơn đói. Họ thấy thiên đàng. Người cho
được ca tụng hảo tâm và được đưa lên truyền hình cho “vua biết mặt, nước
biết tên”. Họ có thiên đàng. Rồi người nghèo vẫn còn đó, vẫn lầm lũi
tàn tạ. Kẻ giàu cũng còn đó và vẫn làm giàu theo cách của họ. Chỉ có
trời mới biết thiên đàng của họ có hạnh phúc không.
Thiên
đàng chỉ có trong quan điểm Kitô giáo, là nơi hạnh phúc, được chiêm
ngưỡng Thiên Chúa nhãn tiền, được sống trong hoà bình thư thái, không có
chinh chiến… như kinh thư của Isaia. Tuy nhiên, chưa có ai biết thiên
đàng ở đâu. Moise lên núi gặp Giavê ít ngày mà khi xuống khuôn mặt toả
ra hào quang. Phêrô được thấy tí vinh quang Thabor đã xin làm lều ở
lại…Còn Đấng nơi ấy lại từ bỏ cái nơi cao “chín tầng” mà “đi xuống” với
con người và “vui sướng được ở với con cái loài người”.
Đấng
ở thiên đàng đã mang cả thiên đàng đến trần gian và tặng không cả thiên
đàng ấy cho con người. Ngài đã mở cửa thiên đàng bằng chìa khoá thập
tự, chìa khoá chế tạo bằng tình yêu. Ngài ra hiến chương của thiên đàng
bằng Bát Phúc, những cái phước chỉ dành ưu tiên cho giới khốn khổ. Luật
pháp của Ngài ngắn nhất trong kỷ lục thế giới: 4 chữ “Mến-Chúa- Yêu-
Người”. Những văn bản dưới luật cũng ngắn thôi: các bạn hãy đi và làm
như vậy. Ai nghe và giữ như giáo huấn của Ngài thì người đó là anh chị
em, là mẹ Ngài. Ngài ở thiên đàng thì anh chị em Ngài không thể ở ngoài.
Anh
và tôi đang sống ở thiên đàng đấy thôi. Có điều anh cũng như tôi có
muốn đón nhận thiên đàng ngay trong cuộc sống này hay cứ chờ đợi một
thiên giới nào khác trong những môi trường, bối cảnh khác. Nó tuỳ thuộc
vào chính hành động, những suy tư, lối sống của chúng ta. Trong ngày
chính thức được nhập cư trọn vẹn vào Nước Trời, cuộc phỏng vấn sẽ liên
quan tới điều này: khi tôi đói bạn có cho ăn, tôi khát bạn có cho
uống…lãnh vực của tình yêu thương liên đới đấy. Ngài không hỏi anh làm
nghề gì, làm Giám mục hay linh mục tu sĩ, làm nhà khoa học hay lãnh đạo
quốc gia…
Đường
vào thiên đàng nhiều chông gai lắm đấy nhưng không phải là không vào
được. Cứ vững bước mà đi vào. Chỗ nào khó vượt qua thì cứ nhìn lại coi,
dấu chân người đồng hành không biến mất mà là dấu chân mình không có!
Mình đang ở trên tay người đồng hành. Ngài ẵm ta trên tay, nâng niu trên
đầu gối, và đưa vào đồng cỏ xanh tươi.
Thiên đường ở ngay trong lòng ta và tuỳ thuộc vào mọi hành vi của ta.
Bs. Trần Minh Trinh
(Nguồn: thanhlinh.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét