I. VỀ PHÍA
THIÊN CHÚA ƠN THIÊN TRIỆU LÀ GÌ?
1/ Thiên
Chúa đã lựa chọn
Không vì tài
năng, công trạng riêng: trăm ngàn vạn kẻ tốt, có tài năng, có tinh thần, có ý
muốn hơn…
Chọn một cách
mạnh mẽ: dù những cách nhẹ nhàng tài tình mà thôi thúc không cưỡng lại được,
dẫu chưa hiểu, chưa muốn: lôi ra khỏi tình cảm gia đình, khỏi bạn trẻ, thú vui…
ở cái tuổi thơ, nguy hiểm, dành giật khỏi thế gian để khỏi nhiễm độc.
Bằng những
phương thế khôn khéo: bảo vệ đặc biệt, vượt qua bao trở lực… và bằng những
đường lối diệu kỳ. Và Ngài chọn như thế từ trước vô cùng đến mãi muôn năm.
2/ Thiên
Chúa đã cung tiến
Thuộc về Thiên
Chúa, trọn vẹn cung hiến cho Thiên Chúa để chỉ lo một việc vì Thiên Chúa mà
thôi: đó là một bậc sống đẹp nhất, vinh dự nhất hạnh phúc nhất ở đời.
Sống ở đời chìm
ngập giữa bao bận rộn, bao việc đời, cuộc sống của con người giữa thế gian phải
phân ra trăm ngã, trần tục bao vây họ, tha thứ họ, thấm nhập vào họ, đè nặng
trên họ, xâu xé họ… Bao linh hồn bị trầm luân giữa đời, bị đầu độc bởi khí độc
thế gian mà phải hư mất. Ai có ngoi lên được thì cũng phải nhiêu khê lắm.
Từ đám quần chúng
đó, Chúa đã biết và đã chọn một số, đưa ra khỏi cảnh sống bùn lầy, kiềm tỏa, đó
là đưa lên "núi" cao để chỉ thuộc về một mình Chúa thôi.
Có ba bậc sống:
giáo dân, tu trì và giáo sĩ. Những người theo con đường tu sĩ hay giáo sĩ, một
khi đã cung tiến cho Thiên Chúa, Ngài có một lời yêu ghen tỵ, không cho họ kén
chọn gì nữa, không muốn họ thuộc về thế gian nữa mà chỉ dành cho Thiên Chúa mọi
hơi thở, mọi tiếng đập của con tim, họ đã thuộc trọn về Chúa. Đức Giêsu đã nói:
"Họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế
gian" (Ga 17,16). Ví dụ: Chén thánh, mỗi khi đã được cung tiến thì chỉ
để dùng trong Thánh Lễ, như các tu sĩ cũng vậy, mỗi khi được cung tiến mình cho
Thiên Chúa bằng lời khấn dòng, hay các thầy chủng viện, mỗi khi được ban bí
tích Truyền Chức Thánh, cuộc sống của họ lúc đó đã bước lên một cung bậc mới và
tiến bước theo sát Đức Kitô hơn.
Với những người
giáo dân Chúa cũng đã chọn họ giữa thế gian để họ làm chứng cho Thiên Chúa
trong bậc sống của họ. Họ chu toàn bổn phận của mình trong tất cả môi trường mà
họ đang sống. Những người đã có gia đình, họ phải làm tròn trọng trách của một
người cha (người mẹ). Những người làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp, trong
các xưởng thợ… cũng phải chu toàn tốt công việc mà họ đang thực hiện đồng thời
làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa môi trường sống của họ.
3/ Thiên
Chúa muốn họ nên thánh
Đã thuộc riêng về
Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, thì người được cung tiến cho Thiên Chúa
phải "nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt
5,48). Đó là điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi mỗi người con của Ngài, cách riêng
với những tu sĩ, giáo sĩ phải triệt để thực thi. (Nên trọn lành… = Incorruptio
facit esse proximum Deo). Còn những người giáo dân, Thiên Chúa đã hoạch định
cho họ một chương trình theo cách thức mà Người đã biết rõ họ có thể thực hiện
được. Trong mỗi bậc sống Chúa luôn an bài và quan phòng cho họ giúp họ sống và
sống một cách viên mãn trong Ngài.
Luôn luôn phải
nhìn lên những đỉnh cao, đỉnh của sự trọn lành để không ngừng bước lên. Phải
biết sống thân mật với Chúa Giêsu, trở nên người bạn trăm năm của Ngài. Ngài
muốn chúng ta phải trở nên một thụ tạo hoàn hảo nhất. Ngài chờ đợi để đón nhận
mọi hơi thở, mọi hương hoa của lời cầu nguyện, của việc hy sinh từ sáng tinh mơ
tới lúc đêm về luôn thuộc về Ngài và quy hướng về Ngài. Tâm hồn họ đã phải luôn
biết khép lại một chút về phía thế gian để mở rộng về phía Thiên Chúa mà đón
lấy muôn ngàn ơn thánh đang đổ xuống trên họ. Nơi họ, thế gian không nhận biết
họ, không nhận biết giá trị của họ "Thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc
về thế gian" (Ga 17,14). Họ là những bông hoa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết
nhất để từ đó trái đất dễ dàng trổ sinh những ơn lành, bình an, sức mạnh dâng
lên Thiên Chúa.
Ơn Chúa kêu gọi
là một sự thể hiện lòng yêu: Chúa gọi ta vì yêu ta, Chúa cung tiến ta vì yêu
ta. Chúa chọn và cung tiến ta để ta yêu Chúa, để ta thuộc trọn về Chúa…
TÌNH TRAO
BAN ( Còn tiếp )
DÒNG GIỐNG CHÚA
CỨ NGHĨ
GIEO MÀ CHẲNG CÓ NGÀY GẶT.
Ama Phu nói :
"Khi cội nguồn Jrai của chúng tôi đang mất dần đi, chúng tôi hoang mang lo
sợ. Cộng đồng có thể thay thế cái mất đó là Chúa. Chúa không chỉ cứu rỗI chúng
tôi, mà cứu dòng giống Jrai, làm nên dòng giống Kitô". Cảm nghiệm này
không của riêng ông, mà của rất nhiều ngườI Jrai khác như Ama Hiếu – đã có một
đã có một nhạc phẩm diễn tả ý tưởng này – và 30.000 ngườI Jrai tin Chúa, theo
Chúa, sống điều Chúa truyền dạy. Dòng giống Kitô Jrai tuy cón nhỏ bé nhưng được
hợp đoàn vớI hơn 1 tỷ ngườI trên thế giớI thì không còn nhỏ nữa. Chỉ riêng vớI
ngườI Jrai hiện nay, dòng giống Kitô – Công giáo đã chiếm 10% (con số giòng
giống Kitô của ngườI Kinh ước ao hoài bão chưa đặt được).
Dòng giống ấy đã
được Thiên Chúa chuẩn bị và khởI đầu từ năm 1852, vớI Cha Fontaine Phẩm ở
Pleichữ và kế tiếp rất nhiều thừa sai ngoạI quốc và nộI quốc đã đến và đã đi.
Năm 1853, Đức cha Paul Seitz đã gởI một văn thư đến DCCT VN xin các thừa sai
của Dòng này lên tiếp tục công việc dang dở – Nhưng "giờ Chúa chưa
đến", xin mãi hơn 15 năm sau, một nhóm Thừa Sai gồm các Cha Tài, Mầu, phó
tế Tín, và thầy Quân, thuộc DCCT mớI có mặt ở xứ sở này.
Ngay sự có mặt
của 4 vị tạI đất Jrai này cũng là ý Chúa chứ không phảI ý họ từ trước. Cha Tài,
thầy Quân đang ở với người khác, họ được các thừa sai Carade khuyến khích đi
tìm một vùng dân tộc khác yên ổn hơn để phục vụ, vì vùng Fyan đang phảI đốI phó
vớI cuộc chiến rất dữ dội. Cha Mầu và thầy Tiến mới ra trường, định hướng mục
vụ chưa rõ, nên dễ dàng "bị dụ" nhập đoàn. trước tiên 4 vị đến vớI
Đức Cha Mai, Giám Mục Buôn Ma Thuật, xin phục vụ người Êđê, nhưng Đức Cha từ
chối. thế là họ suôi theo quốc lộ 14 đến xứ Jrai.
Sau một thời gian
ngắn học tiếng Jrai ở Phú Bổn, ngày 10/10/1969, Đức Cha Paul Seitz, Giám Mục
Kontum dùng xe riêng chở 4 vị thừa sai DCCT đến địa điểm trung tâm của ngườI
Jrai là Pleikly, mở Thánh Kinh đọc Lc 10,1-12 (đoạn Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi
giảng), chúc lành trên đất và trên 4 vị, rồI lên xe trở về Kontum. Các cha Tài,
Mầu, các Thầy Tín, Quân đứng giữa đất ngườI hoang vu, không nhà, không lương
thực, không ngườI thân quen. Họ được ông xã trưởng thương tình cho ở nhờ trong
chuồng dê.
CỨ NGHĨ
CHĂM BÓN MÀ CHẲNG THẤY HOA.
Ama Dei nói với Cha
Tín: "Tôi không biết ông giả bộ sống vớI dân, làm với dân để dân theo ông.
Khi đã theo rồi, họ sẽ phục dịch cho ông, nộp tiền cho ông!" Phát ngôn này
không phảI là cảm giác ngộ nhận của những năm 1969, 1970 nhưng chỉ nói cách đây
dăm ba năm, khi hoa trái Ơn Cứu Độ đã "đầy vườn". Điều này cho chúng
ta thêm một kinh nghiệm góp vào lịch sử Giáo Hội, hay nói đúng hơn, lịch sử của
những ngườI bị tình nghi, bị hiểu lầm.
Tháng 3/1971,
quân cách mạng đã bắt các vị (thầy Quân trốn thoát) vào vùng sâu, sang tận đất
Cambodia. Thầy Mác-cô Đàn, ngườI bổ sung cho nhóm sau này, đã vĩnh viễn ở lại
vùng đất ấy từ ngày 12/5/1971 sau khi đã chữa bệnh cho nhiều người. Chiếc áo
dòng đen cũng chính là áo quan theo thầy đi vào lòng đất. Cách mạng nghi các
thừa sai là tay chân của Mỹ - Ngụy cài vào, nên các ngài đã được đốI xử như
những tên tù binh chiến tranh đúng nghĩa. Khi được trở về tháng 7/1971, nơi ở
mới làm ít lâu đã bị phá tan. Anh em kéo về Cheoreo tạm trú.
Hơn một năm rưỡI
ở Cheoreo, bản văn Thánh Kinh Tân Ước bằng tiếng Jrai được ra đời. Cha Tín nói:
"Khi anh em trở lạI theo Chúa, thì đó là cuốn sách duy nhất mà chúng tôi
sử dụng. Nếu không có cuốn sách đó thì chúng tôi không biết ăn nói làm sao.
Điều duy nhất Chúa cho chúng tôi làm là chuẩn bị để dân Chúa nghe Lời Chúa và
học cùng NgườI".
Năm 1972, Cha Tài
đóng trụ ở Pleichet, cách trung tâm Pleiku 5 km, Cha Tín trở lạI Pleiku năm
1973 và Cha Phán – Người lên với anh em ngay khi hay tin anh em bị bắt vào Bưng
– ở lại Cheoreo.
Chưa làm được gì,
giảI phóng tới. Các thừa sai bắt đầu chuyển hẳn sang giai đoạn cùng ăn, cùng
làm việc và cùng sống vớI Jrai. Các Ngài làm Jrai, nói Jrai và theo kiểu Jrai.
Họ cuốc đất, phá rừng, câu cá, đánh chiêng, nhum thế nào các thừa sai làm như
vậy. Ngay việc vào hợp tác xã nông nghiệp, cha Phán cũng tham gia. Nhưng những
việc chính yếu là mục vụ thì gần như chằng làm được gì, chẳng giúp được các cha
khác, vì luật chỉ cho phép làm lễ trong nhà thờ của xã mình cư trú mà thôi.
Thời điểm đó, Cha Tài chỉ mớI thanh tẩy được cho 4 gia đình. Hai gia đình ở lại
trên đó, còn Ami Hmi và Ami Dar về Pleiku. Có thêm gia đình Ami Hxuân được Cha
Branchetti thanh tẩy ở Buôn Ma Thuật lên Pleiku sống.
Suốt 20 năm
(1969-1988) cố gắng rất nhiều và làm đủ thứ theo sức ngườI có thể, các thừa sai
chẳng thấy một chút hoa trái nào. Đức giám mục đã nhiều lần muốn chuyển hẳn các
Ngài về lo cho người kinh.
Như đã nói, việc
phục vụ Lời cho người Jrai không phảI là lựa chọn của DCCT, mặc dù chính Đức
Cha đã xin, nhưng là do Chúa chọn vào đúng lúc Chúa muốn. Do đó sau nhiều năm
tháng lao nhọc, những hăng say truyền giáo cho ngườI Jrai không cón hừng hực
nữa, mà có lúc rã rờI thực sự, chỉ biết trông vào Chúa. Và một lần nữa
"Giờ Chúa" xuất hiện.
GẶT TRÁI
KHÔNG GIEO.
Từ năm Thánh Mẫu
1985, bầu không khí truyền giáo của các đân tộc thiểu số tại Việt Nam bắt đầu
chuyển động, bắt đầu có ngườI Jrai xin học đạo, nhưng phải đến biến cố tôn
phong 117 vị thánh tử đạo Việt Nam (1988), luồng gió Thánh Thần mớI thổi thật
mạnh. Gia đình chỉ có một ngườI theo Chúa, họ có thể làm cho cả gia đình tin
thật có Chúa. Một gia đình có Chúa có thể làm cho cả làng tin rằng có lẽ sống
thật. Thật là việc kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. NgườI Jrai trở lạI đạo từng
làng từng làng. Lúc đầu, các thừa sai còn có giờ trực tiếp dạy Giáo lý, nhưng
sau chỉ còn thờI gian cử hành Bí Tích mà thôi. Phải phó thác việc dạy Giáo lý
cho Chúa Thánh Thần qua Thánh Kinh Jrai và qua sự cộng tác vụng về của các giáo
phụ (Kokhul) dân tộc.
Một nhóm đông
những ngườI Jrai trí thức được các Cha tuyên úy rửa tộI trong các trạI cải tạo
đã thực sự là những viên gạch tốt, mà Chúa dùng để xây ngôi nhà thờ Jrai cho
Chúa.
Hiện nay ở trung
tâm Pleichet có 105 làng Công giáo, Âyunp có 120 làng và
Pleikly có 20 làng. Một vài số liệu sau đây có thể làm rõ hơn kết quả của mùa
gặt. Làng Pleikly có 2.524 tín hữu / 1000 nhà; Iàng Hrú có 3.154 tín hữu / 621
nhà; PleiTot có 2809 tín hữu / 604 nhà. Có những làng anh hùng từng được tuyên
truyền rằng phải phấn đấu để không một ai trong làng anh hùng theo đạo thì nay
đã có 60 - 70% gia đình theo đạo. Không chỉ có Jrai, mà ngay làng của anh hùng
Núp, NgườI Bana hiện nay đã có hơn 70% theo đạo.
Dòng giống Kitô
đang tiếp tục tăng trưởng và đang hòa nhập vớI Hội Thánh cách trọn vẹn. Ngay
Ama Dei, người đã công khai chống Cha Tín cũng đã chịu thanh tẩy cách đây gần 2
năm.
Tháng
10-2002, AN THANH – CSSR.
SHARIA
Chúng ta đang
sống ở thế kỷ XXI, thế kỷ thăng hoa về nhiều mặt của đời sống xã hội. Và có thể
nói rằng, cũng ở thời điểm này, tất cả các dân tộc trên thế giới đều khao khát
kỷ nguyên mà ta chỉ mới đứng ở bậc thềm đầu tiên sẽ là kỷ nguyên của công lý,
yêu thương và hoà bình. Vấn đề nhân quyền cũng đã trở nên đề tài đáng lưu tâm
hàng đầu. Thế nhưng, thực tế thì không phải hoàn toàn là như vậy.
Tháng ba vừa qua…
rất nhiều phương tiện truyền thông đã đưa tin về chị Saffa Husseini – Một phụ
nữ Nigeria đã bị kết án tử hình với hình thức ném đá cho đến chết vì chị đã
phạm tội Sharia – chị có con ngoài giá thú. Sự kiện này đã tạo nên một làn sóng
"nhận thức và hành động" lan trả khắp hoàn cầu. Rất nhiều tổ chức và
cá nhân đã trực tiếp gởi đến tổng Thống Nigeria một lới cầu xin tha thiết để
cứu chị Saffu Hussein. Rất nhiều trái tim vẫn lên tiếng ủng hộ để bé Adoma
không phải mồ côi khi vừa tròn một tuổi…
Luật Sharia là
một thứ luật khắc nghiệt và tàn bạo, thường xử chết bằng cách chôn sống hoặc
ném đá những người phụ nữ "không chồng mà có con" hiện đang còn tồn
tại ở 6 quốc gia là: Nigeria, Ả rập Sauđi, Pakistan, Sudan, Yemen và Iran. Một
số người nghĩ rằng luật Sharia nằm trong "Kinh Quaran" thiêng liêng
của những người theo đạo Hồi Giáo. Nhưng thực tế, kinh Quaran không có một dòng
chữ nào về luật Sharia. Để cai trị, một số giáo chủ đã đặt ra luật Sharia mà nó
vẫn còn tồn tại cho tới nay. Người ta sử dụng nó như một phương tiện quyền lực.
Tại Afganistan, từ năm 1996 khi phe Taliban của Mullah Omar và trùm khủng bố
Osama Bin Laden lên cầm quyền, họ thực hiện luật Sharia rất tàn khốc. Họ cấm
trẻ em gái đến trường, phụ nữ không được tới công sở làm việc, ra đường phải
trùm khăn đen và xử tử bất kỳ người phụ nữ nào ngoại tình. Tại Iran, luật này
được thi hành nhiều nhất từ thời giáo chủ Khomeini, về sau tuy tổng thống
Mohamed Khatami đã nỗ lực giảm bớt kiểu hành hình dã man này, nhưng nó vẫn tồn
tại. Năm ngoái bà Maryam Ayoubi đã bị giảo hình vì ngoại tình. Tại Arập không chỉ
thi hành luật cách triệt để, chính phủ còn xuất bản saachs nói về luật Sharia.
Từ năm 2000, Yemen tái thi hành luật Sharia và áp dụng cho cả đàn ông. Pakistan
thi hành luật này từ năm 1979. Và Sudan cũng thế.
Hôm 14/9/2002 tại
kỳ họp hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 57 ở NewYork. Tổng thư ký Kòi Annan đã
đề nghị tổng thống Nigeria, Olusegun Obasanjo làm ap lực để toà tha cho Amina
Lawal – một phụ nữ 30 tuổi mới sinh được 1 bé gái Wasila với anh Mohammed –
khỏi tội chết. Dù anh Mohammed đã đến cùng với bé Wasila từ năm ngoái. Đến
tháng 7 vừa qua khi toà án Kastina đem Amina ra xử thì sự việc mới được biết
nhờ 1 phóng viên của tờ báo Times. Vì trước đó, khi bi kịch xảy ra tại làng
Kurami, dân làng chỉ coi như đó là chuyện buồn riêng của gia đình Amina và Mohammed
mà thôi. Theo luật Sharia, Amina sẽ bị tử hình bằng cách chôn cát ngập đến cổ,
sau đó dân làng sẽ cùng ném đá cho đến khi Amina tắt thở. Việc này sẽ được thực
hiện vào năm 2004 – Nếu bản án còn hiệu lực – Khi Amina sẽ thôi cho con bú.
Trung tuần thàn 8/2002 toà phúc thẩm đã bác bỏ đơn kháng án của Amina, tuyên bố
giữ nguyên án sơ thẩm.
Sau khi toà tuyên
giữ nguyên án sơ thẩm, nhiếu vị nguyên thủ quốc gia, tổ chức của nhiều nước
trên thế giới đã lên tiếng phản đối bản án dành cho Amina đáng thương. Ngày
22/8/2002 sa khi Mỹ và liên minh Châu Âu lên tiếng chỉ trích, đồng thời yêu cầu
Tổng Thống Obasanjo can thiệp đã giảm án cho Amina, Úc cũng đã làm thế. Và hôm
15/9/2002. Cựu Tổng Thống Nam Phi – Nelson Mandela đã lên tiếng kêu gọi thế
giới hãy cứu lấy con người đáng thương Amina …
Liệu chúng ta có
thể hy vọng rằng Amina sẽ có thể thoát khỏi bản án man rợ của một đạo luật man
rợ hay không?
THÁNG
9.2002, VÂN THẢO PHƯƠNG.
GIỚI TRẺ TIN YÊU
( ABBA –
KONTUM ) _ Trong ba ngày
13, 14 và 15/10, giảng viên giáo lý giáo xứ Phú Nhơn đã tĩnh tâm để mừng Bổn
Mạng Giêrađô (16/10).
Có hơn 100 bạn
trẻ tham dự mỗi buổi. Trong những ngày đó, các bạn cùng nhau nhìn lại lời mời
gọi của Chúa và cách đáp lạI lờI mờI gọI phục vụ Lời trong một năm qua và đốI
chiếu vớI kinh nghiệm tâm linh của Thánh Bổn Mạng. Hầu hết các bạn nhận thấy
mình chưa sống đơn sơ được vớI Chúa Giêsu Thánh Thể, nên những lờI cầu nguyện
của mình đôi khi máy móc. Từ đó khiến việc phục vụ lờI không được hăng say. Tuy
nhiên cũng có nhiều giảng viên giáo lý nhìn nhận từ khi mình tham gia phục vụ
Lời thì đờI sống mình không còn bê trễ và gây một gương xấu cho ai nữa.
Được biết thánh
Giêrađô, tu sĩ DCCT sinh ngày 6/4/1726, chỉ sống 6 năm trong đờI sống thánh
hiến, nhưng rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa đã ban xuống cho nhà dòng và ngườI
nghèo khổ qua Thánh nhân. Ngài được Chúa rước về nhà ngày 16/10/1755. Ngài là
bạn của những ngườI nghèo khổ, nhất là những gia đình gặp phảI hoàn cảnh hiếm
muộn.
THU UYÊN
ĐI
VỀ ĐÂU ?
( của
tác giả
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH – Úc Châu )
Đời là một chuyến
đi. "Đi về đâu?" là những câu hỏi của cuộc đời. Câu hỏi này mời gọi chúng
ta trả lời, nhất là các bạn trẻ. Thánh Augustinô mời gọi chúng ta trả lời câu
hỏi đó… (Theo Tin Vui An Bình)
Bài số 1: Thánh Philipphê Nêri sống vào những năm 1515 đến 1595. Vào
một ngày nọ ngài gặp một chàng sinh viên hào hoa tuấn tú lại hoc giỏi. Chàng
chuẩn bị những ngày thi ra trường. Chàng hớn hở tìm thánh Philipphê Nêri và
hỏi: Thưa cha, con đang chuẩn bị những ngày thi và chắc chắn con sẽ đậu.
Rồi sao nữa? –
Thưa cha, con sẽ đậu cao trong kỳ thi này.
Rồi sao nữa? – Con sẽ được trọng dụng vào một công việc thành công và tốt đẹp nhất.
Rồi sao nữa? – Con sẽ lấy vợ đẹp sau khi có nghề nghiệp thành công.
Rồi sao nữa? – Con sẽ có con khôn ngoan, vợ đẹp, con khôn, nghề nghiệp thành công. Con sẽ hạnh phúc.
Rồi sao nữa? – Con sẽ hưởng những hạnh phúc và thành công của cuộc đời.
Rồi sao nữa? – Chàng sinh viên không trả lời được những câu hỏi tiếp rồi sao nữa. Chàng suy nghĩ đến cuộc đời đi về đâu… Cuộc đời mai hậu sau cái chết sẽ ra sao… Chàng đã quyết tâm và sống một cuộc đời rất đạo đức và tốt đẹp trong niềm tin tưởng vào Chúa.
Rồi sao nữa? – Con sẽ được trọng dụng vào một công việc thành công và tốt đẹp nhất.
Rồi sao nữa? – Con sẽ lấy vợ đẹp sau khi có nghề nghiệp thành công.
Rồi sao nữa? – Con sẽ có con khôn ngoan, vợ đẹp, con khôn, nghề nghiệp thành công. Con sẽ hạnh phúc.
Rồi sao nữa? – Con sẽ hưởng những hạnh phúc và thành công của cuộc đời.
Rồi sao nữa? – Chàng sinh viên không trả lời được những câu hỏi tiếp rồi sao nữa. Chàng suy nghĩ đến cuộc đời đi về đâu… Cuộc đời mai hậu sau cái chết sẽ ra sao… Chàng đã quyết tâm và sống một cuộc đời rất đạo đức và tốt đẹp trong niềm tin tưởng vào Chúa.
Chàng sinh viên
đã hiểu rõ được mục đích của cuộc đời: Đi về đâu. Từ vấn đề hiểu rõ
được mục đích của cuộc đời, chàng đã quyết tâm sống theo mục đích đó trong cuộc
đời của chàng.
TÂM TÌNH NGƯỜI TRẺ (Trích bài từ HOSANNA giới trẻ Sài gòn)
E "Cũng như Con Người đến không phải để được người ta
phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người." (Mt 20,28)
Tôi thường tham
gia các chuyến công tác xã hội. Khi ấy, chúng tôi về các vùng sâu, vùng xa.
Chúng tôi giúp các em sinh hoạt, chơi trò chơi, tổ chức hội chợ… Lúc ấy, tôi
nghĩ: chúng tôi là người "cho" còn các em là người "nhận".
Nhưng không, sau mỗi chuyến công tác, tôi phát hiện ra chính tôi cũng nhận thật
nhiều từ các em: tình cảm của các em dành cho tôi. Điều đó làm tôi thực sự hạnh
phúc. Và tôi nhận ra: khi tôi phục vụ anh em tức là tôi đang yêu và được yêu.
Lạy Chúa, xin gửi
đến cho con thêm nhiều anh em để con biết yêu và được yêu nhiều hơn nữa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét