I - PHÚC ÂM THÁNH MARCO ( 1 )
NGUYỄN HỌC TẬP
- 1 - Những tư tưởng khởi đầu:
Kitô
giáo không phải là tôn giáo được đặt nền tảng trên
một hệ thống tư tưởng, một ý thức hệ hay
huyền thoại.
Bối cảnh tôn
giáo Do Thái, trong đó Chúa Giêsu sống,
đang mong chờ một Vị được Thiên
Chúa sai đến, Đấng Cứu Độ
(Messia). Đấng ấy sẽ thực hiện tất cả những lời hứa cứu độ được Thiên
Chúa hứa cho
dân Người.
Qua dân
Do Thái Thiên Chúa đã lập nên những mối dây
liên hệ thân hữu và
nhiều lần đã tỏ ra ý
muốn của Người.
Điều mới mẻ của Kitô
giáo đó là cùng với biến cố sinh
ra của Chúa
Giêsu Nazareth, Thiên Chúa tạo một khúc
quanh trong lịch sử con người.
Đối với ai sống ở Palestine
thời Chúa
Giêsu, đã thấy, đã nghe, đã đi theo Chúa Giêsu, kinh
nghiệm đầu tiên
là mình đang sống với một con
người giống như mình, một con
người thực sự và
chính danh con người.
Thật vậy các
Phúc Âm cùng đồng thanh nhấn mạnh tính
cách phi thường của con
người Chúa
Giêsu, đến bản tính
nhân loại của Người, bằng cách
làm nổi bậc lên rằng Người có những ước muốn, tình
cảm và
ham muốn cá biệt của chính
con người: Người
cũng
- có
nhu cầu đói
khát (Ga 4, 7-8),
- động lòng
trước đoàn
lũ dân chúng (Mc 6, 34; Mt 16, 32 ),
- xúc động trước bệnh tật và
tang chế (Mc 1,
41),
- sợ hải như mọi người (Mc
14, 33),
- ngạc nhiên
trước những gì bất thường (Ga
3, 10),
- quở trách
tội lỗi, sai
lầm, những điều không
chính đáng (Mt 23, 13-33)
- khóc
lên trước tình
trạng thảm đạm (Ga
11, 35).
Nói tóm
lại:
Chúa
Giêsu là một con người nhạy cảm trước những đức tính
tích cực, bởi đó Người tỏ
ra
- tâm
tình yêu thương và tình thân hữu đối với các
môn đệ (Ga
16, 15),
- tin tưởng đối với các vị (Mc 3,
14),
Nhưng đồng thời Người cũng
tỏ ra là
con người xác
quyết và
quyết định,
- xác
tín về những gì
mình nói và làm (Mc 8, 31-33).
Nhưng bên cạnh những nét
đặc thù của một con
người như chúng ta, Người cũng
tỏ ra
trong các Phúc Âm bản tính Thiên Chúa của Người.
Con người của Chúa
Giêsu, với tất cả phương diện con
người của Người, là
nguồn gốc đức tin
Kitô giáo.
Tất cả cuộc đời Người, các
lời giảng dạy và
các lần thinh
lặng của Người, tình
cảm và
các quyết định của Người, các
động tác
thường nhật và
các phép lạ Người làm,
biến cố Người được sinh
ra, cái chết của Người và nhứt là cuộc phục sinh
của Người, tất cả những điều đó là
căn cội của Kitô
giáo.
Chính từ cuộc phục sinh
của Chúa
Kitô, mà các môn đệ sẽ hiểu được Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa.
Đó là
khối nhân
cội trung
tâm của việc loan
truyền Kitô
giáo.
Nhưng Chúa Giêsu làm cho thay đổi nơi con
người các
cách thức mong
đợi đối với phương thức mà
Thiên Chúa sẽ mạc khải chính
Người.
Ai mong
đợi Chúa
chỉ sẽ mạc khải Người cho
và thông hiệp với con
người bằng sức mạnh hay
bằng phép
lạ, thì
trái lại chỉ thấy nơi Chúa Giêsu, một con
người, mặc dầu thực hiện những công
trình phi thường, chỉ muốn đảm nhận lấy tất cả các đặc tính
đời sống con
người trong
cuộc sống thường nhật của Người.
Ai nghĩ
rằng mình
sẽ thấy được Thiên
Chúa trong Đấng Cứu Độ, họ chỉ thấy được một con
người,
Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa và vẫn giữ bản tính
Thiên Chúa của mình, nhưng đồng thời Người cũng
chọn phương thức thu hẹp mình
vào tầm mức nhân
loại.
-
"Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhứt quyết duy
trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm
nhân, giống như người trần thế" (Phil
2, 6-7).
2 - Các
nguồn mạch tạo nên
Tân Ước.
Chúa
Giêsu, ai trong chúng ta cũng biết,
không đễ lại cho
chúng ta một bản văn
viết nào.
Người cũng
không có sáng kiến bảo đảm viết thành
văn các diễn từ của Người.
Trái lại,
chính một vài
môn đệ Người đã viết ra,
nhưng không phải viết ra
ngay sau những sự kiện đã xảy ra,
mà là sau một khoản thời gian
vài chục
năm.
Liền sau
khi những sự kiện đã xảy ra (
tức là
sau cái chết và cuộc sống lại của Chúa
Giêsu) chúng ta có được bản Phúc
Âm truyền miệng (từ năm 30
đến khoản năm
70 ) và chỉ có sau đó các lời truyền niệng đó được viết lại thành
các Phúc Âm, được viết thành
văn bản ( khoảng từ năm 70
đến khoản năm
100).
Trên thực tế, sau
khi Chúa Giêsu chết đi, đến khi
viết thành
bản văn
Phúc Âm có khoản bốn mươi năm được trải qua,
nhưng đó không phải là
khoản bốn mươi năm rổng
không.
Đó là
những năm
mà cộng đồng Kitô
hữu có những động tác
năng động đấy cường độ trong
việc rao
giảng, cử hành
phụng vụ, những lần đầu tiên
thu nhận những bản văn
viết lại những gì
chính yếu Chúa
Giêsu đã "nói lên", các dụ ngôn
Người giảng dạy, các
phép lạ Người
làm.
Từ các vật liệu vừa kể, các
tác giả Phúc
Âm đã thu nhận, múc lấy để viết thành
Phúc Âm.
Những gì được tường thuật lại bằng lời nói
và băng văn bản, được gọi là
Truyền Thống.
Khoảng thời gian
thu góp và viết lên thành văn bản là giữa các
năm 40-50 và 70 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, đối với Phúc
Âm Thánh Matthêu, Marco và Luca; khoảng giữa năm
90 -100 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, đối với Phúc
Âm Thánh Gioan.
Ba Phúc
Âm đầu tiên
được gọi là
"Phúc Âm Nhất Lãm"
(sGaópsis, Hy Lạp: sGa = chung nhau; ópsis =
nhìn thấy: như vậy tức là
các Phúc Âm có thể "đọc chung
nhau", bởi vì có
những dữ kiện tương tợ nhau
và song song nhau.
Phúc Âm
Thánh Gioan được viết lên ở bên
ngoài Palestine, hơi khác với ba
Phúc Âm kia, mặc dầu cùng
thuật lại những biến cố như nhau,
nhưng ngài nhìn dưới một nhãn
quang khác nhau.
Sách
Tông Đồ Công Vụ được Thánh
Luca viết lên
giữa năm
73 và 80 theo một số học giả cho biết, giữa năm
90 và 100 theo một số học giả
khác.
Nguồn gốc của các
Phúc Âm phát xuất từ các lời giảng dạy của các
Tông Đồ, như những gì
Công Đồng
Vatican II xác nhận trong Hiến Chế Tín Lý
"Dei Verbum", n. 19:
-
"Các Thánh Tông Đồ, sau
khi Chúa Thăng Thiên, đã truyền dạy cho
những ai nghe các ngài điều mà Người đã
nói và đã làm, với trí óc mà các ngài có
được, được huấn dạy bởi các
biến cố vinh
quang của Chúa Kitô và soi sáng bởi Thánh
Thần Chân Lý. Và các tác giả đã viết lên bốn quyển Phúc
Âm, bằng cách chọn lựa một vài
giữa các sự kiện đã được lưu truyền lại cho bằng lời nói
hoạc bằng bản viết, bằng cách
tổng kết một vài
biến cố, chú
giải những biến cố khác
có liên hệ với tình
trạng của Giáo
Hội, tuy
nhiên sau cùng vẫn tồn giữ tính
cách loan báo, nhưng luôn luôn theo phương thức nhằm nói về Chúa
Giêsu với lòng thành thật và
chân lý".
Như vậy,
trong Phúc Âm chúng ta gặp được hoặc những gì
Chúa Giêsu đã nói và đã làm, hoặc những gì
các Thánh Tông Đồ dưới ánh
sáng Phục Sinh
và Hiện Xuống đã lưu truyền lại; hoặc sau
cùng, công trình làm việc sắp xếp lại
(redaction ) được các tác giả Phúc
Âm thực hiện, tùy
theo các hoàn cảnh khác nhau của các cộng đồng Kitô
hữu, bằng cách
lựa chọn giữa nội dung
lời loan
báo, các yếu tố mà các
ngài cho rằng hữu ích để loan
truyền đức tin,
tuy nhiên không làm chuyển đổi sứ điệp của Chúa
Kitô.
Như vậy các
Phúc Âm
- không
phải là một tiểu sử hay sắp xếp lại lịch sử của Chúa
Giêsu, mặc dầu vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiểu sử có
tính cách lịch sử không
thể chối cải được;
- không
phải là một tổng hợp hữu lý và
có hệ thống các
chân lý và các giới răn được Chúa
Giêsu giảng dạy (như sách Coran của
Mahomet trong Hồi Giáo );
- không
phải là bốn phương thức nhìn
hoàn toàn khác nhau về một biến cố, cũng
không phải là những bản văn
giống hệt nhau
và lập đi lập lại, bản nầy có thể thay
thế cho bản kia
hay cả bốn bản văn
có thể tổng hợp lại thành
một văn bản duy
nhứt;
- không
phải là những bản văn
trực tiếp ghi lại tức khắc những sự kiện đang
lúc xảy ra, mặc dầu các
tác giả Phúc
Âm gần như là những nhân
chứng trực tiếp các
biến cố (trường hợp Thánh
Matthêu và Thánh Gioan) hay là những môn
đệ sát gần với các
Thánh Tông Đồ (trường hợp Thánh
Luca và Thánh Marco ).
Điều chú
tâm tiên khởi của Phúc
Âm là cung hiến cho các Kitô hữu một nhãn
quang đầy đủ về Chúa
Giêsu: thông báo toàn diện diện mạo Chúa
Giêsu chớ không
phải những phương diện cá biệt (Chúa
Giêsu là con người, là Vị Ngôn Sứ, là
Thiên Chúa...). Ai đến gần Phúc
Âm cần phải đặc tâm lưu ý đến đối tượng tôn
giáo vừa kể để có thể đồng
thanh tương ứng trên
cùng một tầng số hiểu được các bản văn
Phúc Âm.
Thái độ đúng đắn để đọc và hiểu Phúc
Âm như là những bản văn
có nền tảng lịch sử không
đòi buộc phải dùng
lý trí hạn hẹp,
nghĩa là xem các bản văn Phúc Âm chỉ là những minh
chứng biến cố lịch sử, nhưng còn
cả đến đặc tính
trình bày của Phúc Âm, tức là
Phúc Âm nhằm đưa ra giới thiệu cho
biết và mời gọi người đọc hãy
đi đến đức
tin.
Nhưng điều vừa kể không
làm mất đi khỏi Phúc
Âm giá trị lịch sử. Mặc dầu Phúc
Âm là những bản văn được viết lên dưới ánh
sáng đức tin,
nhưng vẫn là những bản văn
trung thành với các yếu tố lịch sử và tôn
trọng đối với lời giảng dạy
nguyên thủy của Chúa
Kitô. Tuy nhiên, điều thiếu sót của Phúc
Âm là không ghi lại tất cả và lập tức bằng chữ viết những gì
Chúa Giêsu đã làm và nói, bởi đó khó mà trở lại được
nguyên ngữ Chúa Giêsu thốt ra "ipsissima
verba Jesu".
Sau Phục Sinh,
các Thánh Tông Đồ giải thích
các biến cố lịch sử nhờ ơn của Chúa
Thánh Thần và dưới ánh
sáng đức tin,
nhưng các ngài không tự tạo và biến chế các biến cố đó
ra.
Thật vậy,
trong một vài
đoạn văn,
các tác giả Phúc Âm nhấn mạnh rằng những điều các
ngài thuật lại, được đặt nền tảng trên
những nhân
chứng cá
nhân của các
ngài
- "Người xem
thấy việc nầy đã
làm chứng và lời chứng của người ấy xác
thực; và người ấy biết mình
nói sự thật, để cho cả anh em
nữa cũng
tin (Ga 19, 35)
-
"Chính môn đệ nầy làm
chứng về những điều đó và
đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là
xác thực "(21,
24),
trong một vài
đoạn khác,
các ngài cho biết dựa trên
các nhân chứng có nền tảng (Lc
1, 1-4):
- "Thưa ngài Theophilo đáng kính, có nhiều người đã ra
công soạn bàn tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng
ta. Họ viết theo
những điều mà
các người đó đã được chứng kiến ngay
từ đầu và đã
phục vụ lời Chúa
truyền lại cho
chúng ta. Tôi cũng vậy, sau
khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi
mọi sự, thì
thiết tưởng cũng
nên tuần tự viết ra để kính tặng
ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo
huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc"
(Lc 1, 1-4).
Matthêu
và Gioan là những Tông Đồ của Chúa
Giêsu và là những nhân chứng trực tiếp đối với những gì
các ngài ghi lại trong Phúc Âm.
Marco
không phải là
Tông Đồ, mà là
môn đệ của Thánh
Phaolồ trước kia
và sau đó là môn đệ của Thánh
Phêrô và nhứt là từ lời giảng huấn của Thánh
Phêrô, Marco thu góp những dữ kiện lịch sử để viết lên
Phúc Âm.
Thánh
Luca đã xác nhận ngay từ khi khởi đầu viết Phúc
Âm là người chú
tâm tìm kiếm những tin
tức có nền tảng và
thu thập những gì
đã được viết ra và
đúc kết của những người đi trước
mình.
3 - Các
tiêu chuẩn
Khởi đầu từ các dữ kiện lịch sử đã đề cập, các
học giả đưa ra một vài
tiêu chuẩn để xác nhận tính
cách lịch sử đáng
tin cậy được kể lại trong
Phúc Âm:
1) Tiêu
chuẩn được nhiều minh
chứng.
Khi một sự kiện hoặc một lời giảng dạy được nhiều nguồn gốc khác
nhau đưa ra, yếu tố Phúc
Âm đó được xem
là có lý chứng vững mạnh và
như vậy đáng
tin cậy về phương diện lịch sử, bởi vì
nhiều nhân
chứng đã
xác định dữ kiện
đó.
Ăp dụng tiêu
chuẩn đó
vào chủ đề lòng
nhân từ của Chúa
Giêsu đối với người tội lỗi chẳng hạn,
chúng ta có được lý chứng lịch sử xác nhận và đã
được tất cả các
Phúc Âm đều ghi lại, mặc dầu dưới nhiều thể văn
khác nhau ( dụ ngôn, diễn văn,
thuật lại biến cố gặp gỡ giữa Chúa
Giêsu và các nhân vật khác nhau, tranh luận với các
người
Pharisêu và các vị lãnh đạo dân
chúng ). Cả động tác
làm phép lạ của Chúa
Giêsu, lời giảng dạy của Người bằng dụ ngôn,
thái độ xác nhận vị trí
xác tín tôn giáo của Người đối với hình
thức tôn
giáo của một vài
người đương thời, cái
chết của Người trên
thập giá,
sự sống lại của Người là những gì
có thể dược coi
như là những sự kiện lịch sử đáng
tin cậy.
2) Tiêu
chuẩn bất liên
tục.
Khi một sự kiện xảy ra đối ngược lại hoàn
cảnh xã hội và
tâm thức Do
Thái thời Chúa
Giêsu đang sống, điều đó có
thể được coi
là lịch sử xác
đáng: ví dụ thái độ của Chúa
Giêsu đối với các
người
Pharisêu và đối với cách
thực hành
ngày sabat của họ. Đó là
thái độ cho thấy sự rạn nứt đối với thế giới các
thầy thông
thái luật; hay
ngay cả từ ngữ Chúa
Giêsu dùng, "Abbà, Cha ơi" để gọi Chúa
Cha, cũng là những gì vượt quá
quan niệm của người Do
Thái đối với Thiên
Chúa.
3 )
Tiêu chuẩn thích hợp.
Chúng
ta có thể xem một sự kiện được Phúc
Âm kể lại là
chí lý, nếu yếu tố đó
thích hợp và
chính đáng đối với sứ điệp của Chúa
Giêsu và lời rao giảng Nước Thiên
Chúa.
4) Tiêu
chuẩn giải thích
cần thiết.
Đó là
cách áp dụng nguyên tắc lý
trí đủ dùng.
Mỗi sự kiện xảy ra, đều có thể phải được lý
trí giải thích
thoả đáng.
Đôi khi đó là cách giải thích trở thành
yếu tố cần thiết, bởi vì
các cách giải thích khác có thể đưa đến những vấn đề lớn hơn và khó khăn hơn. Đó là tiêu chuẩn cho rằng cách
giải thích
đơn sơ đôi khi là lối giải thích
cần thiết, mặc dầu đôi
khi đi ra ngoài khung thước thông thường. Ví
dụ như các Tông Đồ không đến lục soát
và đem thân xác Chúa Giêsu ra khỏi mộ, điều đó có
thể tin được. Nếu
không, làm sao các Vị có thể lẫn tránh
được sự canh
phòng nghiêm nhặt của các
lính canh?
Các vị đã tìm
được can đảm ở đâu để dám
làm chuyện đó,
trong khi Phúc Âm cho biết rằng các
vị khiếp đảm, nấp trong
nhà, các cửa đều đóng
kín ?
Nhưng các Phúc Âm mà chúng ta có trong
tay là những quyển Phúc
Âm, mà các tác giả Phúc Âm đã viết ra
hay không?
Chúng
ta có thể trả lời xác
đinh rằng
Thánh Matthêu, Marco, Luca và Gioan đã viết ra
Phúc Âm.
Bản văn
tiên khởi do
tay các vị viết lên được gọi là những
"bản văn tự
ký" (autographe).
Kế đến những người khác
dựa trên "các
bản văn tự
ký" của các vị để viết thành
những bản sao
khác, thành nhiều phó bản để phổ biến cho
nhiều cộng đồng. Các
"bản sao " hay "phó
bản"
đó được gọi là
các bản văn "ký
hiệu" (codes).
Chung
ta không có "bản văn tự
ký" (autographe ) cổ xưa nào, trực tiếp liên
hệ đến các tác
giả Phúc
Âm. chúng ta chỉ có được các bản sao,
hay "ký hiệu"
thôi.
Ngôn ngữ:
Ba ngôn
ngữ được các
tác giả dùng để viết Thánh
Kinh, đó là tiếng Do Thái, tiếng
Aramaico và tiếng hy Lạp.
1 - Tiếng Do
Thái cũng được gọi là tiếng "sémitique",
do tên của Sem,
con của Noe.
Đó là ngôn ngữ được người Do
Thái dùng để nói với nhau
cho đến vài
thế kỷ sau thời kỳ bi
đày ở
Babylon. Sau đó là ngôn từ chỉ được dùng
trong kinh nguyện và trong văn thư. Rồi được dùng
lại và cập nhật hoá,
được dùng
trong thế giới Do
Thái hiện
nay.
2 - Tiếng
Aramaico (từ gốc Aram,
là một vùng
sau đó được goi
là Syria hiện nay), ngôn ngữ được dân
chúng Do Thái ở Palestine dùng vào thời Chúa
Giêsu. Một vài từ ngữ "do
thái" được ghi lại trong
Phúc Âm, trên thực tế đó là
tiếng
Aramaico: "Messia, Pascha, Golgotha, Talità cum..."
3 - Tiếng Hy Lạp, được thịnh hành
ở khắp phiá
Đông Phương, từ lúc
Alexandre Đại Đế
(333-323 trước Chúa Giáng Sinh) và đã trở thành
ngôn ngữ của hàng
trí thức. Tiếng Hy Lạp được thịnh hành
đến độ khi đế quốc Roma
xâm chiếm cả Trung
Đông, tiếng La
Tinh cũng không thể thay thế được tiếng Hy Lạp. Hay
nói đúng hơn, tiếng Hy Lạp nhân
dịp đó đã
tràn ngập sang
cả Roma
và trở thành
thông dụng tại thủ đô của đế quốc.
Cựu Ước, phần lớn được viết bằng tiếng Hy Lạp trong
các thế kỷ III và
II trước Thiên
Chúa Giáng Sinh theo thể thức được gọi là
"Bản Văn 70"
(Versione Settanta), bởi vì đó là con số các dịch giả của Bản Văn.
Bản Văn
70 đó đã được Giáo Hội dùng
từ thời các
Thánh Tông Đồ và hiện nay vẫn còn được các
Giáo Hội Đông
Phương dùng.
Tân Ước, hoàn
toàn được viết bằng Hy Lạp. Và
chúng ta biết rằng bản sao
chính thức Phúc
Âm Thánh Matthêu được viết bằng tiếng Do
Thái (hay Aramaico), nhưng chúng ta chỉ có được bản viết bằng tiếng Hy Lạp.
Vào cuối thế kỷ IV,
Thánh Girolamo dịch lại một lần nữa, bàng
tiếng La
Tinh, bản văn Cựu Ước trực tiếp từ tiếng Do
Thái. ngài dịch cả bản văn
Tobia va Giuditta từ tiếng
Aramaico và duyệt xét lại các bản văn
Hy Lạp.
Bản Thánh
Kinh La Tinh mới nầy là bản văn
duy nhứt được dùng
trong cả Giáo Hội Tây
Phương và được gọi là Bản Thánh
Kinh "Vulgata", tức là "được phổ biến"
cho
khắp dân
chúng và được dùng như là bản văn
chung.
Nguyễn Học Tập -
Thannienconggiao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét