Trong những năm 1950, thường không
mấy ai nói đến nền tu đức linh mục [1] và chính các linh mục xem ra cũng ít
nghĩ rằng mình có một nền tu đức riêng. Có những linh mục ngỡ ngàng vì thấy
mình đã được huấn luyện như các tu sĩ và tỏ ra băn khoăn, khi phải thi hành
thừa tác vụ linh mục ở giữa đời.
ĐHY Marty, báo cáo viên của Ủy Ban đặc trách soạn thảo sắc
lệnh Thừa tác vụ và đời sống của các linh mục (Presbyterorum Ordinis), là một
trong những nhân chứng về sự thay đổi liên quan đến các linh mục trong thời
Công Đồng. Năm 1982, ngài viết trong Bulletin de Saint Sulpice rằng: “Tôi tin
là có một nền tu đức cho linh mục. Nhưng tôi đã không luôn luôn nghĩ tới. Chính
trong khi họp Công Đồng Va-ti-ca-nô II tôi mới ý thức điều đó. Người ta kể ra
các việc đạo đức trong đời sống thiêng liêng và bảo linh mục lấy đó làm nguồn
năng lựợng để đưa vào thừa tác vụ của mình. Nhưng tôi chẳng thấy có gì riêng
cho linh mục trong các thứ đó. Bí tích Thánh Thể, các việc đạo đức như viếng
Mình Thánh Chúa, các phương pháp nguyện ngắm, lần chuỗi Mai Khôi hay xét mình
mỗi ngày là những công việc của mọi Ki-tô hữu. Kinh Phụng Vụ cũng không phải
chỉ linh mục và phó tế mới đọc mà cả các tu sĩ và đan sĩ cũng đọc nữa. Chính
trong viễn tượng này mà chúng ta đã được được huấn luyện, đang khi mỗi lúc tôi
một nghiệm thấy rằng thừa tác vụ của tôi trở thành nguồn mạch và nơi tái tạo sự
gắn bó mật thiết của tôi với Đức Giê-su Ki-tô.” [2]
1. Phần
đóng góp của Công Đồng
Cũng trong những năm 1950, người ta thường nhìn linh mục
theo bản chất nội tại mà ít lưu tâm đến các mối liên hệ với giám mục, linh mục
đoàn và giáo dân, thậm chí chỉ nghĩ đến linh mục như một Ki-tô khác, được ghi
dấu hiến thánh không phai mờ và biến thành một hình ảnh của Đấng Cứu Thế. Chúng
ta nên biết rằng chính trong hiến chế về Hội Thánh mà sự suy nghĩ về thừa tác
vụ được phát triển. Sau khi nhìn nhận Mầu Nhiệm Hội Thánh (ý định cứu độ của
Thiên Chúa), Dân Thiên Chúa và việc thực thi chức linh mục chung của các tín
hữu, chương III trong hiến chế bàn về việc thành lập phẩm trật trong Hội Thánh,
đặc biệt là chức giám mục. Cũng trong chương này, thừa tác vụ được định nghĩa
trong tương quan với giám mục. “Các linh mục là những cộng sự viên đắc lực của
giám mục, là sự trợ giúp và dụng cụ được kêu mời để phục vụ Dân Thiên Chúa.
Linh mục cùng với giám mục của mình làm nên một linh mục đoàn có nhiều nhiệm vụ
khác nhau”[3]. Như vậy, linh mục không còn được nghĩ tưởng một cách riêng rẽ
nữa, mà phải theo, chiều kích tương quan và chiều kích này là điểm trung tâm
trong thừa tác vụ của linh mục.
Căn tính linh mục cũng như căn tính của mọi Ki-tô hữu đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đã mặc khải và thông truyền chính mình
cho loài người trong Đức Ki-tô.[4] Nhờ sự hiến thánh do bí tich Truyền Chức ban
cho, linh mục là người được Đức Giê-su sai đi, được nên đồng hình đồng dạng với
Người một cách đặc biệt như Người là Đầu và Mục Tử của Dân mình, để sống và
hành động trong Chúa Thánh Thần, hầu phục vụ Hội Thánh và cứu độ trần gian.
Tông huấn Pastores do vobis nói về điểm tương quan cốt yếu của căn tính linh
mục trong mối hiệp thông với giám mục để phục vụ Dân Thiên Chúa và đưa mọi
người đến với Chúa. Chiều kích tương quan này cũng là một cách thế ở đời với
người khác, và có những ảnh hưởng quan trọng trong cách thế sống thừa tác vụ,
với những đòi hỏi đặc biệt về sự thánh thiện.
Công Đồng quả quyết rằng linh mục nhận được hai lời mời nên
thánh. Một đàng do sự hiến thánh của phép rửa, đương sự được mời gọi nên thánh
như mọi tín hữu. Ơn gọi chung này bám rễ trong bí tích thánh tẩy, làm cho linh
mục thành người anh em giữa các anh em trong Dân Thiên Chúa, nhận được ân sủng
và ơn gọi nên thánh như mọi Ki-tô hữu, dù bản tính loài người yếu đuối: “Anh em
hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,58).[5]
Đàng khác, được hiến thánh do bí tích truyền chức, linh mục đươc kêu gọi cách
riêng phải nên thánh. Tông huấn Pastores do vobis nói về ơn gọi đặc thù do sự
hiến thánh mới của bí tích Truyền Chức, làm cho linh mục thành dụng cụ của Đức
Ki-tô, Linh Mục đời đời. Khi thay thế con người của Đức Ki-tô, linh mục được
ban cho một ơn đặc biệt làm cho mình có thể hành động như dụng cụ của Đức Ki-tô
trong chức linh mục.
2. Đức ái
mục vụ
Năm 1950, khi soạn thảo thông điệp Menti nostrae cho các
linh mục trên thế giới, ĐGH Pi-ô XII, dành chương I để nói về sự thánh thiện
của linh mục. Ngài nhấn mạnh rằng việc tìm kiếm sự thánh thiện là một bổn phận
thường xuyên của linh mục, và trình bày cách chi tiết các điều kiện, nhất là
việc thực hành các lời khuyên của Tin Mừng để thực hiện sự thánh thiện này.
Trong chương II, ngài cho thấy các linh mục có nhiệm vụ phân phát các mầu nhiệm
thánh, phải tổ chức công việc tông đồ và sống kết hợp với Đức Ki-tô như thế
nào. Các phương thế được đề nghị trong Menti nostrae để phát triển đời sống
thiêng liêng của các linh mục trưng dẫn rõ ràng địa vị trung tâm của bí tích
Thánh Thể, việc đọc sách nguyện, suy gẫm Lời Chúa, xét mình và xưng tội, sùng
kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Công đồng Va-ti-ca-nô II cũng nhắc lại rải rác đó đây những
phương thế này. Nhưng đã có sự thay đổi viễn tượng rất lớn. Thoạt tiên, Công Đồng
đề cập đến việc theo đuổi sứ mệnh của Đức Ki-tô trước khi nói đến ơn gọi chung
phải nên thánh của tín hữu, và ơn gọi riêng phải nên thánh do bí tích Truyền
Chức của các linh muc. Công Đồng nối tiếp bàn luận bằng cách nhìn vào mấy yếu
tố liên quan đến đời sống riêng của các linh mục. Tông huấn Pastores do vobis
chia những yếu tố này thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những người liên hệ đến
sự thánh hiến làm cho mình nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô là Thủ lãnh và
Mục tử, tức các linh mục. Nhóm thứ hai gồm những người liên hệ đến sứ mệnh, tức
giáo dân và nhóm thứ ba gồm những người sống để làm chứng cho tính triệt để của
Tin Mừng, tức các tu sĩ trong các dòng tu.
Ở đây chỉ đưa ra một vài yếu tố trong đời sống thiêng liêng
của các linh mục để nhấn mạnh đến chiều kích tương quan của thừa tác vụ. Chiều
kích này cho thấy sự thay đổi trong cách suy tưởng và lối sống của các linh mục
liên quan đến việc suy gẫm Lới Chúa, cách hành quyền và đức vâng lời.
2,1 Thực
thi quyền bính và bác ái mục vụ
Đời sống thiêng liêng của linh mục phải được nhào nặn, uốn
nắn cho nên giống hình ảnh Đức Ki-tô là Thủ Lãnh. Hình ảnh này được ghi dấu bởi
tác phong của chính Người. Nơi Người, quyền bính được thực thi như một dịch vụ
và một sự dấn thân. Câu trả lời của Người cho mẹ con bà Dê-bê-đê rất tiêu biểu
(Mc 10,43-45). Quyền hành nơi Đức Ki-tô trùng hợp với dịch vụ và dấn thân. Thái
độ chạnh lòng thương của Người đối với đám đông dân chúng bị bỏ rơi không có
người chăm nom dạy dỗ là nguồn mạch và mẫu gương cho đức bác ái mục tử. Về vấn
đề này, ĐGH Gio-an Phao-lô II viết: “Đời sống thiêng liêng của các thừa tác
viên Tân Ước phải được thấm nhuần và ghi dấu ấn của thái độ phục vụ Dân Chúa và
gạt bỏ ra ngoài mọi kiểu cách hống hách thống trị đối với đoàn chiên đã được
giao phó cho mình. Hình ảnh Đức Ki-tô Mục Tử và Phu Quân gương mẫu sẽ giúp tăng
cường thái độ này nơi linh mục, người được kêu mời sống tình yêu của Đức Ki-tô
Phu Quân đối với Hiền Thê là Giáo Hội. Linh mục có thể yêu mến dân được giao
phó cho mình bằng một tình yêu rộng rãi, quãng đại và vô vị lợi, chịu đựng các
cơn thử thách mà không sờn lòng. Nguyên lý nội tại linh hoạt nhân đức và hướng
dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục là đức ái mục vụ.[6]
Đức ái đó đòi các linh mục phải hiến thân hoàn toàn cho Giáo
Hội theo hình ảnh hiến thân của Đức Ki-tô bằng cách kết hiệp với Người. Đức ái
mục vụ là động cơ hoạt động thúc đẩy toàn thân con người linh mục thành người
phục vụ. Không phải chỉ có việc chúng ta làm mà còn cả sự hiến thân của chính
chúng ta mới bày tỏ tình yêu của Đức Ki-tô cho đoàn chiên của Người. Đức ái mục
vụ định hình cho cách suy nghĩ và hành động của chúng ta, cách chúng ta liên
lạc tiếp xúc với người khác. Theo gương Đức Ki-tô, đức ái mục vụ của mục tử
nhân lành lo lắng cho mọi “con chiên”, kể cả những con không thuộc về ràn,
không đặt giới hạn. Có như thế chiều kích truyền giáo mới hiện tỏ.
Muốn cho Đức ái mục tử này thành đích đáng thì phải hiệp
thông với giám mục và các linh mục trong giáo phận. Phân biệt tiếng gọi của
Chúa, xác định xem những sáng kiến loan báo Tin Mừng có đi đúng tinh thần của
Chúa không, tất cả những điều ấy đòi phải được cứu xét lại trong sự cầu nguyện
với Chúa, hiệp thông với giám mục và các anh em linh mục.
Nhưng trên hết, Thánh Thể là nguồn mạch của đức ái mục vụ.
Chính trong bí tích này chúng ta thấy được sự hiến thân của Đức Ki-tô cho Giáo
Hội, sự hiến dâng Mình và Máu của Người để cứu độ trần gian. Cũng chính trong
Thánh Thể linh mục nhận được ơn tự hiến cùng với Đức Ki-tô.
2,2 Đời
sống thiêng liêng gắn liền với sứ vụ
Hiến thân là vì sứ vụ. Hiến thân tự nó không phải là mục
đích mà là vì sứ vụ; nó làm cho linh mục trở thành sứ giả theo hình ảnh Đức
Ki-tô. Lập luận mới này đưa ra một cái nhìn khác về thừa tác vụ. Bao lâu chỉ
nhìn sự thánh thiện ở góc độ nội tại thì thừa tác vụ có thể bị coi như một mối
nguy hiểm. Năm 1950, ĐGH Pi-ô XII viết trong thông điệp Menti nostrae: “Tuy vẫn
khen ngợi một cách chính đáng những ai đã cống hiến tất cả sức lực của mình để
nâng đỡ, làm vơi nhẹ biết bao nỗi khốn khó về vật chất cũng như tinh thần,
chúng tôi không thể bỏ qua mà không nhắc đến hay bày tỏ mối bận tâm và lo lắng
của chúng tôi đối với những người vì hoàn cảnh đặc biệt và thời gian, thường
quá lao mình vào cơn lốc hoạt động đến xao lãng và coi thường nhiệm vụ hàng đầu
của linh mục là thánh hóa bản thân.” [7]
Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis cũng ghi dấu quan niệm thần
học qui hướng về Đức Ki-tô và sự thánh thiện mang tính cá nhân mà không mấy chú
trọng đến chiều kích thừa tác vụ. Như vậy, linh mục phải chu toàn bổn phận nên
thánh để phục vụ Dân Thiên Chúa và không bao giờ được làm tổn thương đến sự
thánh thiện của mình bởi quá hăng say nhiệt thành với những công việc bên
ngoài. Công Đồng lưu ý linh mục phải gắn liền thừa tác vụ với đời sống. Sự
thánh thiện của linh mục hệ tại việc rập khuôn đời mình theo Đức Ki-tô, Đấng đã
được Chúa Cha sai xuống trần gian. Đó cũng là nỗ lực để hết tâm trí lắng nghe
Thần Khí khi thi hành chức vụ. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis số 12 viết: “Điểm
qui hướng linh mục về sự hoàn thiện là những công việc phục vụ mỗi ngày, là tất
cả thừa tác vụ được thi hành trong mối hiệp thông với giám mục và các linh mục
trong giáo phận.” Số 13 cũng nói: “Chính việc trung thành thực thi không mệt
mỏi chức vụ của mình trong Thần Khí của Đức Ki-tô là phương thế đích thực giúp linh
mục đạt tới sự thánh thiện.”
Xin đưa ra đây một thí dụ để khai triển ý tưởng này, đó là
vị trí của việc suy gẫm Lời Chúa. Năm 1950, ĐGH Pi-ô XII viết: “Để thúc đẩy
chúng ta mỗi ngày một hăng hái hơn trong việc đạt tới sự thánh thiện, Giáo Hội
tha thiết khuyên mời chúng ta, ngoài việc cử hành thánh lễ và đọc sách nguyện,
siêng năng làm các việc đạo đức. Xin nói tới ở đây và đề nghị vài ý tưởng để
suy nghĩ: Giáo Hội đặc biệt khuyên nguyện ngắm. Nguyện ngắm đưa tâm trí chúng
ta về những thực tại siêu nhiên, những sự trên trời, những gương mẫu và lời dạy
tuyệt vời của Tin Mừng. [8]
Các Nghị Phụ khuyên mời các linh mục đọc Kinh Thánh hàng
ngày để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình hầu có thể giảng giải cho
người khác. Kinh nghiệm dạy cho chúng ta rằng khi tìm cách đón nhận Lời Chúa
vào lòng mình, rồi lại tìm cách tốt nhất để truyền thông cho người khác thì
chính chúng ta cũng được biến đổi như số 13 trong tông huấn Presbyterorum
Ordinis viết: “Khi tìm cách tốt nhất để truyền thông cho người khác điều mình
đã chiêm niệm, các linh mục sẽ nếm cảm sâu xa hơn sự phong phú vô biên của Đức
Ki-tô. Khi nói đến chiêm niệm, điều ấy có nghĩa là đọc, suy niệm Lời Chúa cho
thâm nhập lòng mình để cho lời ấy ở trong chúng ta và biến đổi chúng ta. Như
vậy không nên coi nguyện ngắm chỉ là một việc đạo đức giúp cho việc nên thánh
mà đó chính là thành phần của thừa tác vụ. Không thể thi hành thừa tác vụ theo
Thần Khí của Đức Ki-tô, nếu hàng ngày chúng ta không nghe Lời Chúa và lo truyền
thông lời ấy cho kẻ khác.”
2,3 Những
đòi hỏi của công việc mục vụ làm nổi bật tính triệt để của Tin Mừng
Mỗi tín hữu dù ở hoàn cảnh hay bậc đời nào cũng được kêu mời
nên thánh. Việc đáp ứng lời mời gọi này của Đức Ki-tô mang tính triệt để của
Tin Mừng. Tính triệt để này được đặt ra cho mỗi người. Nó là một đòi hỏi biến
mọi người đã chịu phép Rửa thành chi thể của Đức Ki-tô Linh Mục, Ngôn Sứ và
Quân Vương. Sự đòi hỏi này áp dụng cho linh mục dưới hai danh nghĩa: người chịu
phép Rửa và người được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô Thủ Lãnh và Mục
Tử.
Tính triệt để của Tin Mừng này cần nhiều đức tính nhân loại
mới nên hoàn chỉnh. Các lời khuyên trong Tin Mừng là một biểu hiện rõ nét nhất.
Các lời khuyên ấy là vâng lời, khiết tịnh, nghèo khó gắn kết chặt chẽ với nhau
và không chỉ dành riêng cho linh mục. Công Đồng khuyên các linh mục sống những
lời khuyên đó theo những cách thế và hơn nữa theo các mục tiêu và ý nghĩa
nguyên thủy căn bản của căn tính linh mục, hay nói cách khác, theo những đòi
hỏi thiêng liêng trong đời sống linh mục.
Ở đây, chỉ xin nói về vâng lời. Vâng lời là noi gương Đức
Ki-tộ hiền lành và khiêm nhường. Thông điệp Menti Nostrae có ý nói về các bề
trên trong đạo và dạy rằng vâng lời các vị là vâng lời chính Đức Ki-tô: “Ở một
thời đại như thời đại chúng ta, nguyên tắc quyền bính bị lung lay. Các linh mục
cần phải gắn chặt đời mình với các huấn lệnh của đức tin mà nhìn nhận vâng lời
chẳng những như hàng rào bảo vệ tôn giáo và xã hội mà còn như nền tảng của sự
thánh thiện nơi cá nhân mình.” [9]
Công Đồng kêu mời sống đức vâng lời trước hết như tuân hành
Lời Chúa, vâng phục Thần Khí đã được trao ban theo gương Đức Ki-tô: “Lương thực
của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn thành công trình của Người.”
(Ga 4,34) Đó là sẵn sàng tìm kiếm, không phải ý riêng mình, nhưng là ý vị đã
sai mình. Thông điệp Menti Nostrae đưa ra bốn đặc tính của đức vâng lời là tông
đồ, cộng đoàn, liên đới và mục vụ.
2,3,1 Tông
đồ
Đức vâng lời mang tính tông đồ là vì có liên quan đến Giáo
Hội, nghĩa là không có thừa tác vụ linh mục ngoài sự hiệp thông với ĐGH, Giám
Mục Đoàn, đặc biệt Giám Mục giáo phận. Trong ngày chịu chức, linh mục cam kết
sống hiệp thông và vâng lời trong sự trọng kính giám mục của mình. Đó là sự cam
kết trong tự do của người chấp nhận những đòi hỏi sống đời sống có cơ cấu trong
Giáo Hội và nhìn nhận quyền cai quản và thẩm định của giám mục.
2,3,2 Cộng
đoàn
Đức vâng lời mang tính cộng đoàn vì không phải là sự vâng
lời của một cá nhân đơn độc trước vị bề trên của mình, mà là của một thành viên
trong linh mục đoàn hoạt động ăn khớp với giám mục trong tư cách cộng sự viên
hiệp thông với ngài và cùng với ngài, hiệp thông với giám mục đoàn.
2,3,3 Liên
đới
Đức vâng lời mang tính liên đới vì cùng với linh mục đoàn,
biểu lộ các định hướng và lựa chọn chung trong phạm vi mục vụ. Chân phước
Gio-an Phao-lô II nhìn nhận rằng khía cạnh vâng lời của linh mục đòi phải có
một sự hy sinh rất lớn, một hình thức khổ chế, vì một đàng linh mục phải tập
cho quen đừng quá bám víu vào các sở thích hay quan điểm riêng, một dàng phải
dành cho các bạn đồng liêu một khoảng không gian vừa đủ để họ phát triển tài ba
và khả năng của mình. Và như vậy cần phải loại bỏ những kiểu cách “ganh ghen”
hay tranh giành ảnh hưởng.[10]
2,3,4 Mục
vụ
Đức vâng lời mang tính mục vụ vì hướng về việc phục vụ Dân
Thiên Chúa theo gương Đức Ki-tô, Đấng chạnh lòng thương đám dân vất vưởng như
chiên không có người chăn, mà sẵn sàng đáp ứng khát vọng của những ai đói khát
Lời Chúa và tình thương của Người, với thái độ hiền từ và không phân biệt đối
xử.
Các Nghị Phụ nhắc nhở các linh mục rằng cùng với sự cung ứng
các phương tiện thích hợp của Giáo Hội, các vị phải sống thánh thiện mỗi ngày
một hơn hầu trở thành những dụng cụ đích đáng để phục vụ toàn thể Dân Thiên
Chúa.[11]
Các phương tiện được đề nghị là những phương tiện theo
Truyền thống, cộng thêm một vài phương tiện khác như chiều kích tương quan và
thừa tác vụ được trình bày theo quan niệm mới.
Kết luận
Trên đây là bài thuyết trình của linh mục Jacques Akonom,
Giám đốc Liên Chủng Viện Lille (Bắc Pháp) trong cuộc hội thảo ngày 1-2.6.2010
cũng tại Lille đề là Entre tensions et passions, quel prêtre pour aujourd’hui
et demain? (Giữa các căng thẳng và ham mê, linh mục nào cho hôm nay và ngày
mai?)
Bài này được đăng tài trong Documentation catholique số 2492
ngày 17.6.2012 trang 576-580 dưới tiêu đề La spiritualité du prêtre diocésain.
Nội dung bài viết trên dựa theo nội dung của bài này nằm đưa ra một đường hướng
tu đức dành riêng cho linh mục giáo phận mà bấy lâu như bị chìm khuất, nay được
phơi bày ra ánh sáng để giới thiệu một mẫu linh mục cho hôm nay và ngày mai.
_________________________
Chú thích:
[1] Jacques Akonom: La spiritualité du prêtre diocésain
trong Documentation catholique số 2492 ngày 17.6.2012 trang 575-580
[2]HY F. Marty: Pour une vie spirituelle spécifiquement
sacerdotale trong Bulletin de Saint Sulpice số 8 năm 1983 trang 77
[3] Lumen Gentium số 28
[4] Gio-an Phao-lô II: Pastores do vobis số 12, 1992; DC
1992, số 2050 trang 457-458
[5] Pastores do vobis số 19. Ibid. trang 462
[6] Pastores do vobis số 8
[7] Menti nostrae trong Do
[8] cuments pontificaux de S.S.Pie XII, năm 1952 trang 415
[9] Ibid. trang 409
[10] Pastores do vobis số 28
[11] Presbyterorum Ordinis số 12
L.m.
An-rê Đỗ Xuân Quế O.P
(Nguồn:
vietcatholic.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét