Phỏng vấn Linh Mục thần học gia Armando Matteo về thái độ trốn chạy Giáo Hội của các phụ nữ lứa tuổi 40
Trong
công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc Âu châu ngày nay
Giáo Hội đang phải đương đầu với một thách đố lớn: đó là thái độ trốn
chạy Giáo Hội của lớp phụ nữ ở lứa tuổi 40. Sau đây chúng tôi xin gửi
tới quý vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Armando Matteo, thần học
gia, giáo sư tại đại học Urbaniana của Bộ Truyền Giáo về vấn đề này.
Cha
Matteo cũng là giáo sư học viện thần học Calabria nam Italia. Cha còn
là tuyên úy Liên hiệp sinh viên công giáo toàn quốc Italia. Cha là tác
giả nhiều sách khá nổi tiếng như: “Đức tin của giáo dân. Kitô giáo trước
tâm thức thời hậu tân tiến”; “Sự hiện diện bị đập tan. Đối thoại thời
hậu tân tiến của Kitô giáo”. Sau cuốn “Thế hệ thứ nhất không tin”, cha
mới cho xuất bản cuốn “Sự trốn chạy của các phụ nữ lứa tuổi 40. Tương
quan khó khăn giữa nữ giới và Giáo Hội”. Sách đã bắt đầu được bán trong
các nhà sách Italia từ ngày 18-4-2012.
Liên
quan tới vấn đề rao giảng Tin Mừng cho giới trẻ ngày nay, cha Matteo
ghi nhận sự kiện tại Italia cũng như các nước Âu châu khác, người trẻ
chỉ tham gia các đại hội lớn trong một số trường hợp như Ngày quốc tế
giới trẻ hay đại hội quốc gia. Các nhà thờ ngày càng trống vắng, hầu như
không có người trẻ tham dự các buổi cử hành Thánh Thể hay các lễ nghi
phụng vụ. Các bí tích như rửa tội và hôn nhân đạo ngày càng ít được lãnh
nhận. Nhất là nền văn hóa kitô từ từ biến mất, tín hữu không thuộc và
hiểu biết giáo lý nữa, và rất thường khi không biết Thánh Kinh. Chính
tình trạng hiểu biết và sống đạo què quặt này khiến cho người trẻ xa rời
việc sống đức tin và tránh né Giáo Hội. Sau khi chịu phép Thêm Sức số
người trẻ tham dự các lớp giáo lý rất ít. Các hội đoàn và phong trào
truyền thống không còn sức hấp dẫn người trẻ như xưa nữa.
Hỏi:
Thưa cha Matteo, cha đã nhận ra rằng thế hệ các phụ nữ sinh năm 1970 là
thế hệ tách rời khỏi Giáo Hội. Nghĩa là thời điểm gần với cuộc nổi loạn
của giới trẻ năm 1968, có đúng thế không?
Đáp:
Vâng,
cuốn sách của tôi nảy sinh từ hai nhận xét. Trong các cuộc gặp gỡ của
tôi đó đây trong nước Italia giữa các giáo xứ, hiệp hội, giáo phận, tôi
đã nhận ra sự vắng bóng của các phụ nữ lứa tuổi 40 trong cuộc sống Giáo
Hội. Nhận thức này của tôi đã được minh xác bởi một cuộc thăm dò của
nguyệt san Nước Trời, do hai ông Paolo Segatti và Gianfranco Brunelli
thực hiện. Trong đó xuất hiện một dữ kiện có ý nghĩa: sau năm 1970 người
ta không nhận ra sự khác biệt giữa số nam giới và nữ giới xa rời cuộc
sống Giáo Hội. Nghĩa là nếu trước năm 1970 việc xa rời Giáo Hội đa số là
từ phía nam giới, thì sau đó sự kiện không còn như thế nữa. Lý do có
phải là vì họ thuộc lớp người gần cuộc nổi loạn của giới trẻ toàn thế
giới hồi năm 1968 hay không? Không ai biết được. Chỉ biết rằng ngoài
thời điểm trùng hợp, nơi lớp người 40 tuổi hiện nay có thể nhận ra các
dấu chỉ của cuộc nổi loạn thời bấy giờ. Giới trẻ nổi loạn vì họ muốn có
các thay đổi, thay đổi cả các từ thông thường như cha, mẹ, con cái và
muốn tạo dựng mọi sự trở lại từ hư vô.
Hỏi: Như vậy thì sự kiện phụ nữ lứa tuổi 40 xa rời Giáo Hội có phải là lỗi tự Giáo Hội không thưa cha?
Đáp:
Sự
kiện hiện diện trong suy tư của tôi đó là các phụ nữ trẻ thuộc lứa tuổi
40 ngày nay đánh giá Giáo Hội thấp hơn đối với trước đó. Từ sự kiện này
tôi đánh bạo đưa ra vài giải thich, mà không cho chúng là các giải
thích rốt ráo. Trái lại tôi chỉ muốn là một góp phần vào suy tư chung.
Vì thế tôi đón nhận tất cả các phản bác liên quan tới vấn đề này. Theo
thiển ý tôi so sánh với thế giới “hồng”, trong cộng đoàn tín hữu thiếu
thái độ lắng nghe hòa giải. Nhất là trong giới tu sĩ còn tồn tại một
loại bất động nào đó về sự tưởng tượng nữ tính. Rất thường khi người ta
còn nghĩ tới người phụ nữ trong các phạm trù kiểu Đức: “Kinder, con cái,
Kueche bếp núc, Kirche nhà thờ”, là ba lãnh vực mà người ta cho là của
nữ giới, hay cố ý giam cầm nữ giới trong đó. Trong Giáo Hội đã không
luôn luôn có một thái độ tiếp đón cởi mở đối với tính cách chủ thể chiếm
hữu được của phụ nữ trong kỷ nguyên hiện nay. Nền thần học và huấn
quyền, nhất là từ thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trở đi, đã thắng
vượt mọi hình thức kỳ thị có thể có đối với nữ giới và đã minh giải các
nghi ngờ và các hàm hồ không rõ ràng đối với phụ nữ. Trái lại trên bình
diện Giáo Hội hạ tầng, tôi nghĩ tới việc đào tạo trong các chủng viện,
xem ra vẫn còn vất vả ì ạch trong việc ý thức đối với thế đứng mới của
nữ giới trong xã hội.
Hỏi: Vậy từ phía chị em nữ giới thì có sự tự phê bình nào không thưa cha?
Đáp:
Đây
là một câu hỏi tế nhị. Có lẽ cần phải có ý thức lớn hơn liên quan tới
vấn đề này, xét vì tại Tây Phương việc thông truyền đức tin là do các bà
mẹ nhiều hơn là từ phía các người cha. Nhưng nếu chúng ta đánh mất đi
sự trợ giúp nhau này thì sẽ còn lại cái gì trước mắt? Vấn đề đức tin gắn
liền với gương mặt của phụ nữ trong hai chiều kích: chính các chị em
phụ nữ đã là những người đầu tiên rao giảng Tin Mừng. Trong khi ngày nay
họ chịu áp lực của một xã hội liên tục đặt để sứ điệp của Giáo Hội và
của huấn quyền chống lại họ.
Hỏi:
Thưa cha Matteo, trong sách cha ghi nhận một dấu chỉ hy vọng trong số
các ơn gọi ổn định của các đan viện, có đúng thế không?
Đáp:
Vâng,
đúng thế. Tôi tích cực đối với các dữ kiện ấy. Cuộc sống tôn giáo của
nữ giới tại Italia không phải là điều dễ dàng. Nhưng trong các đan viện,
nữ giới vẫn còn cầm cự được, vì có tới 7.000 chị. Một phần cuộc khủng
hoảng của các dòng nữ truyền thống gắn liền với sự biến mất của vài tình
trạng sống, chẳng hạn như cảnh nghèo túng hay không được học hành giáo
dục, là các thực tại không còn đè nặng trên xã hội của chúng ta như ngày
xưa nữa. Đàng khác, càc dòng đan tu chú ý rất nhiều tới nền văn hóa và
việc chuẩn bị tri thức cho nữ giới. Các dòng tu cổ điển gặp khó khăn
trong xã hội hiện nay.
Hỏi:
Thưa cha, Giáo Hội đã nhiều lần chỉ cho thấy một vài chinh phục của xã
hội như việc cho thụ thai trong ống nghiệm, phá thai, lựa chọn trẻ em
trước khi sinh đều là những điều chống lại nữ giới. Làm thế nào để tiếng
nói của huấn quyền có thể vang lên như từ phía nữ giới?
Đáp:
Theo
thiển ý tôi, liên quan tới các vấn đề luân lý sinh học, một đàng cần
phải trung thành với các đề tài và các giá trị mà quý vị đã nêu lên,
đàng khác cần phải có một thứ từ vựng ít trừu tượng hơn và gắn bó với
cuộc sống cụ thể của nữ giới hơn. Rất thường khi kiểu nói của chúng ta
như là Giáo Hội bị coi như là tới từ một thế giới nam tính, không nhìn
vào cuộc sống cụ thể. Dầu sao đi nữa, có rất nhiều đề tài trong đó có
thể có một liên minh mới giữa nữ giới và Giáo Hội. Chẳng hạn tôi nghĩ
tới sự chống đối chủ thuyết duy nam giới thống trị xã hội của chúng ta
ngày nay, là xã hội vẫn kỳ thị nữ giới, dùng hình ảnh thân thể nữ giới
để quảng cáo trên truyền hình báo chí hạ nhục coi nữ giới như một đồ
chơi. Trong khi đáng lý ra, xã hội chúng ta phải biết trân trọng phụ nữ
vì thế đứng và phần đóng góp của họ cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo
Hội. Một vài dữ kiện và con số có thể giúp chúng ta thay đổi kiểu suy
tư và hành xử của chúng ta đối với chị em phụ nữ: chẳng hạn như số phụ
nữ có bằng tiến sĩ đông hơn số nam giới rất nhiều. Thế nhưng các chỗ dạy
trong các đại học đa số đều dành cho nam giới, chứ nữ giới không được
thu dụng. Ngoài ra còn có các vấn đề như số sinh giảm sút vì sự kiện
sinh con có thể khiến cho nữ giới mất công ăn việc làm; phải hòa giải
giữa công ăn việc làm và chức làm mẹ của nữ giới làm sao để mữ giới đi
làm việc mà vẫn có thời giờ lo lắng cho con cái và săn sóc gia đình và
nhất là có được đồng lương xứng đáng bình đẳng; địa vị của nữ giới trong
lãnh vực chính trị. Đa số các giới chức trong các guồng máy chính quyền
đều là nam giới, hay có nữ giới nắm vài trọng trách nhưng rất ít so với
nam giới. Nói chung chị em phụ nữ vẫn bị kỳ thị, chịu rất nhiều thiệt
thòi và bất công trong cuộc sống thường ngày. Tất cả đều là các vấn đề
có thể tìm ra sự đồng thuận dễ tái lập và thực thi quyền của nữ giới
trong xã hội và trong Giáo Hội.
(Avvenire 17-4-2012)
Linh Tiến Khải
(Nguồn: RV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét