1. Cơ hội hội để chấn chỉnh chính mình theo lời mời gọi của Phúc Âm.
Một
thời gian dài sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là dịp khiến tôi suy nghĩ
rất nhiều về Hội Thánh tại Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi. Kính
trọng mà nói, Hội Thánh của tôi đã nhạy bén với dấu chỉ của thời đại.
Nhờ ơn Chúa, Hội Thánh của tôi đã khiêm tốn để Chúa thanh luyện. Biến cố
không phải là thánh. Nhưng nhờ Chúa, Hội Thánh đã rút ra được từ đó
những cơ hội để chấn chỉnh chính mình theo lời mời gọi của Phúc Âm.
Từ
thời sự, Hội Thánh đã đi tìm về Nguồn. Nguồn là Lời Chúa. Nhờ Lời Chúa
để phân biệt đúng sai. Cái sai thì bỏ, cái đúng thì giữ lại và phát
triển.
Ở
đây, tôi xin được nói lên vắn tắt nhận xét của tôi về mấy nét đẹp đã
làm sáng lên Tin Mừng trên con đường Hội Thánh trở về Nguồn. Tất nhiên
không phải đều khắp, nhưng nơi nhiều nơi ít, nhất là tại địa phương tôi.
2. Nét đẹp thứ nhất là đề cao yêu thương.
Tôi rất nhớ cảnh yêu thương trong Hội Thánh địa phương của tôi sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975.
Mọi
người đều gần gũi nhau. Người nọ nương tựa vào người kia để sống. Gánh
nặng của người này được người kia chia sẻ. Nhìn bầu khí yêu thương đó,
tôi nhớ lại lời thánh Phaolô quả quyết: “Mang gánh nặng cho nhau, như
vậy là anh em chu toàn lề luật” (Gl 6,2).
Lúc
đó, quan hệ giữa các thành phần trong Hội Thánh là quan hệ yêu thương
phục vụ. Hầu như không có phân biệt trên dưới, giàu nghèo. Cảnh đó cho
tôi nhận ra sức mạnh liên kết của bác ái như Lời Chúa dạy: “Trên hết mọi
đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”
(Cl 3,14).
Ở
một số nơi, đã có những chia sẻ cho nhau đất đai, nhà cửa, lúa gạo,
tiền bạc, đồ đạc, quần áo. Chia sẻ cụ thể đó thực hành lời thánh Gioan
khuyên: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu
thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,18).
Tại
nhiều nhà thờ và nhiều cộng đoàn, kể cả các tư gia, người ta khuyến
khích nhau sống bác ái. Họ tin tưởng sống bác ái là đúng Phúc Âm nhất và
cũng đáp ứng nhu cầu thời cuộc một cách thiết thực nhất. Tin tưởng đó
không sai, vì thánh Phaolô quả quyết: “Hiện nay, đức tin, đức cậy và đức
mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 3,13).
Một bổn phận của đức mến được chúng tôi đề cao là bổn phận yêu thương
kẻ khác, dựa theo lời thánh Gioan: “Ai không yêu thương người anh em, mà
họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không trông
thấy” (1 Ga 4,20).
Theo
tôi, bầu khí yêu thương nhau tuy còn nhiều hạn chế, vẫn làm cho Hội
Thánh tại địa phương tôi phần nào được nên giống Hội Thánh các tông đồ
xưa. Bầu khí đó toả hương thơm thần thánh, ảnh hưởng nhiều đến việc giới
thiệu Tin Mừng cứu độ.
3. Nét đẹp thứ hai là tập trung vào Chúa Giêsu trên thánh giá.
Phải
nói thật điều này: Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã là một thử thách lớn
đối với đức tin nhiều người công giáo Việt Nam. Thử thách đó đã khiến
chúng tôi kiểm tra lại lòng đạo của chúng tôi. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng
tôi thấy một điều phải chấn chỉnh ngay, đó là phải xây dựng lòng đạo
trên nền tảng đích thực. Nền tảng đó là Đức Giêsu Kitô, như thánh Phaolô
quả quyết: “Ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất, vì không ai có
thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt là Đức Giêsu Kitô” (1 Cr
3,11). Thánh Phaolô xác định thêm: Đức Giêsu Kitô mà Ngài muốn nói
chính là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. “Hồi tôi còn ở
giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu
Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô trên thánh giá” (1 Cr 2,2).
Chính
trên thánh giá, Chúa đã mạc khải cách rõ ràng tình yêu thương xót của
Chúa. Chính trên thánh giá, Chúa đã tẩy xoá tội lỗi. Chính trên thánh
giá, Chúa đã thắng sự chết. Chính trên thánh giá, Chúa đã cứu chuộc nhân
loại. Chính trên thánh giá, Chúa đã dạy một cách hùng hồn và thiết thực
nhất về giá trị của tình yêu dâng hiến, chấp nhận hy sinh.
Sự
tập trung vào Chúa Giêsu trên thánh giá và cầu nguyện với Người đã giúp
chúng tôi rất nhiều trong thời gian ngập tràn những thử thách đớn đau.
Hội Thánh đi từ thử thách này đến thử thách khác một cách bình tĩnh, bởi
vì Hội Thánh ý thức mình không cô đơn, nhưng chình nhờ Đức Kitô, với
Đức Kitô và trong Đức Kitô mà Hội Thánh vượt qua mọi khó khăn, để tới
mọi chiến thắng thiêng liêng liên quan đến Nước Trời.
4. Nét đẹp thứ ba là tu thân, đi vào đường hẹp.
Biến
cố 30 tháng 4 năm 1975 được nhiều người của Hội Thánh chúng tôi coi là
một cơ hội, để trở về con đường hẹp. Chúa phán: “Ai muốn theo Thầy, phải
từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Từ bỏ mình, vác thập
giá mình là đi vào cửa hẹp, đi trên đường hẹp. Chúa Giêsu cảnh báo:
“Hãy qua cửa hẹp mà vào (Nước Trời) vì cửa rộng và đường thênh thang thì
đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường
hẹp thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
Trên
lý thuyết, hầu như mọi người chúng tôi đều thuộc lòng những Lời Chúa
dạy trên đây. Nhưng từ lý thuyết đến thực tế nhiều người, đã có một
khoảng cách xa, nhất là khi thực tế cuộc sống là một môi trường mà Chúa
nói là cửa rộng và đường thênh thang. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975
thực tế cuộc sống thay đổi. Sự thay đổi của thực tế cuộc sống được chúng
tôi coi là dịp, để sống Lời Chúa một cách trung thực hơn về việc từ bỏ
mình, và vác thập giá mình. Có thể nói, chúng tôi sống đời tu thân một
cách hữu hiệu hơn và nhạy bén hơn với thánh ý Chúa.
5. Ba nét đẹp trên đây đã hình thành ở nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam.
Đó là công trình của Chúa. Với ba nét đẹp đó, Hội Thánh địa phương mang một tầm vóc khả kính khi dấn thân truyền giáo.
Tuy
nhiên, theo dòng thời gian với những chuyển biến của lịch sử trên lãnh
vực văn hoá, kinh tế, chính trị, ba nét đẹp đó đang có vẻ biến chất ở
một số nơi do ảnh hưởng của những trào lưu thế tục. Thí dụ:
•
Hội Thánh yêu thương
bác ái xem như bị đẩy xuống, nhường chỗ cho một Hội Thánh cơ chế với
những luật lệ mới, những ban bệ mới, những hình thức mới nặng về phô
trương và phân hoá.
•
Hội Thánh Đức Kitô trên thánh giá xem như bị che phủ bởi một Hội Thánh tôn vinh các thành công của các phương tiện trần thế.
•
Hội Thánh tu thân và nhạy bén xem ra đang bị lấn lướt bởi một Hội Thánh quyền lực, xơ cứng, coi nhẹ đời sống nội tâm.
Cái
nhìn trên đây của tôi khuyên bảo tôi không bao giờ được bằng lòng tự
mãn với những gì tốt đang có, nhưng phải chịu khó đợi chờ và tìm tòi
những sáng kiến mới. Nhất là tôi phải luôn cầu nguyện và tỉnh thức.
Tình
hình hiện nay rất phức tạp. Trước tình hình này, tôi nghe thấy tiếng
Hội Thánh kêu mời: “Hãy nâng tâm hồn lên”. Và đám đông trả lời: “Chúng
con đang hướng về Chúa”. Tôi nhớ lại lời thánh vương Đavít nói: “Phúc
cho tất những ai tin tưởng nơi Chúa” (Tv 2,13b).
+ Gm. GB Bùi Tuần
Nguồn: VietCatholic
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét