MỪNG LỄ
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Có một lúc nào
đó, những quan hệ của ta với mọi sự bỗng đổi tính cách, từ mâu thuẫn thù nghịch
biến thành cảm thông và tự do. Đúng là người ta ở đời thường bị giới hạn và
công phá bằng bao nhiêu cách. Thiên nhiên có khi đồng nghĩa với gai góc, đói
khát, và nọc độc. Con người và xã hội nhiều khi đồng nghĩa với bóc lột, tàn ác,
ăn miếng trả miếng. Sự sống bị bóc lột đủ mặt. Thế rồi tự nhiên mọi sự đổi
thay, ta thấy mình hoà bình với đời. Gánh nặng được cất đi. Cả những thiếu thốn
đau buồn cũng trở nên có ý nghĩa. Nguyên nhân là vì ta đã từ thân phận một kẻ
bị đọa đày biến thành người con trong nhà. Trời đất này là nhà. Thế giới nay là
gia đình. Ta là đứa con ở trong nhà của Cha, ung dung an toàn : "Cha ơi,
Cha ở trên trời" (Mt 5,9).
Có ai đó đã đến
và mạc khải cho ta điều đó rằng Trời bản chất là Cha. "Những ai đón nhận
Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin
vào Danh Người…
Và Lời đã thành
xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng ta, và chúng ta đã được chiêm ngắm vinh quang
của Người, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật…
Thiên Chúa, không
ai đã thấy bao giờ : Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông
tri" (Ga 1,14-18).
Nhìn ra chân lý
ấy, hạnh phúc ấy, ta đã được Thánh Thần ở trong lòng: "Lòng mến của Thiên
Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Ngài đã ban cho ta" (Rm
5,5)… "Anh em đã chịu lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên:
Abba, Cha ơi! Chính Thần Khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái
Thiên Chúa; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự, thừa tự của Thiên Chúa, và
đồng thừa tự với Đức Kitô" (Rm 8,15-17)… "Cũng vậy Thần Khí đỡ đầu
cảnh yếu hèn của ta. Vì cầu xin thế nào cho phải ta nào có biết. Song chính
Thần Khí chuyển cầu cho ta, bằng những tiếng rên khôn tả. Nhưng Đấng đó thấu
lòng dạ biết hứng của Thần Khí, (biết rằng) Thần khí chuyển cầu cho các thánh
rập theo ý Thiên chúa" (Rm 8,26-27).
Vẫn biết đường đi
còn dài lắm, còn gian nan, nhưng xin dâng lời Tạ ơn, vì chân trời trước mắt
đang sáng lên "Ân sủng của Chúa Giêsu, lòng mến của Chúa Cha, và sự hiệp
thông của Thánh Thần", Ba Ngôi trong một Thiên Chúa duy nhất.
VŨ
THÁNH
THẦN TRONG ĐỜI SỐNG
Trong thư Êphêsô,
Thánh Phaolô đã nhắc đến Thánh Thần hay Thần Khí đến chín lần. Trong đó, câu
1,17 chỉ nhắc đến "Thần khí khôn ngoan" – một trong bảy ơn của Chúa
Thánh Thần, còn tám lần kia chỉ nhắc đến ngôi vị Thánh Thần.
Ở chương 1, tác
giả thư Êphêsô nhắc đến Thánh Thần như là kết quả của lòng xót thương của Thiên
Chúa và của bí tích Thánh tẩy "từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho
ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần" (1,3). Những ân huệ này không
phải do con người đã làm gì nên đáng nhận, mà chỉ đơn giản là vì Thiên Chúa
muốn thi ân, muốn ban cho những con người mà Người đã tuyển chọn, tức là những
người tin: "Một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần" ( 1,13).
Như vậy, một khi
con người đã tin nhận Chúa Giêsu là Chúa bằng cách lãnh nhận phép rửa thì chính
Thánh Thần đã hiện diện. Sự có mặt của Thánh Thần tiếp tục là nguyên do kéo ân
phúc xuống trên người đó. Do đó: "Thánh Thần là bảo chứng phần gia
nghiệp" của những người tin. Nghĩa là khi thấy Thánh Thần hiện diện, người
Kitô hữu biết chắc Thiên Chúa tín trung sẽ thực hiện lời hứa của mình với tổ
phụ loài người và đó cũng chính là dấu hiệu ơn cứu độ xuất phát từ Đức Giêsu,
Chúa chúng ta.
Ở các chương 3 và
4, tác giả thư Êphêsô nói đến giá trị cụ thể của Thánh Thần trong đời
sống cụ thể của cộng đoàn Êphêsô, là Đấng giúp mạnh mẽ và hiệp nhất. Sau khi
nhận diện những khó khăn của cộng đoàn (X, chương 2) Thánh Phaolô lớn
tiếng cầu nguyện: "Nguyện xin Chúa Cha, ban cho anh em được củng cố
mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Ngài" (3,16). Như vậy, khó khăn đang tấn công vào
cộng đoàn không thuần túy là khó khăn vật chất, mà thật ra đây là một khó khăn
về đức tin và tâm linh. Thánh Phaolô nhắc đến "ác thần". Do đó chỉ có
trông cậy vào Thần Khí của Thiên Chúa nơi Đức Kitô, đời sống đức tin của người
tín hữu mới được cứu vãn, chứ không thể củng cố đức tin bằng những nỗ lực tự
thân hay thói quen đạo đức. Ngay việc hiệp nhất trong cộng đoàn cũng phải nhờ
đến Thánh Thần. "Anh em thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí mang
lại" (4,3). Đây là một mạc khải chứ không dừng lại ở một đúc kết kinh nghiệm
khôn ngoan của con người. Do đó cộng đoàn Kitô hữu mỗi khi có xung đột, chia
rẽ, đừng ai cố mang lý đúng lý sai ra để giải quyết, đừng ai tự cho mình là một
khuôn mẫu lý tưởng để sửa dạy người khác, nhưng hãy cậy vào quyền năng của
Thánh Thần, "Đấng đủ sức làm cho cộng đoàn trở nên ăn ở thuận hòa, gắn bó
với nhau" (4,3).
Và một điều rất
quan trọng, cũng ở chương bốn, Thánh Phaolô nhấn mạnh: tất cả mọi Kitô hữu
"chỉ có một thân thể, một Thần Khí xuất phát từ một Thiên Chúa, một đức
tin, một phép rửa" (4, 4-5). Nên không thể có chuyện trong một cộng đoàn,
mà ai đó đứng lên chê bai, hạ thấp một phần tử nào đó trong cộng đoàn, cũng
không có chuyện Thần Khí nơi tôi mạnh mẽ và đúng đắn, còn Thần Khí nơi anh yếu
đuối và sai lầm. Chỉ có một Thần Khí duy nhất xuất phát từ Cha nhờ Chúa Giêsu
Kitô mà nhân loại được hưởng nhờ.
Riêng trong cuộc
chiến tâm linh, Thánh Phaolô dặn dò kỹ lưỡng cộng đoàn Êphêsô là phải sử dụng
binh khí của Thiên Chúa mà chiến đấu, đừng cậy sức người. Hãy "cầm gươm
của Thần Khí ban cho" để chiến thắng ác thần, và hãy "theo Thần
Khí hướng dẫn" ( 6,18) mà hành động. Mà hành động trước tiên phải làm là
cầu nguyện (van nài) luôn mãi.
Có thể nói tuy
chỉ vài lần nhắc đến Thánh Thần trong thư Êphêsô, nhưng Thánh Phaolô đã đưa ra
một chìa khóa rất quan trọng giúp cho đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn Kitô
hữu giải quyết những khó khăn về đức tin, về hiệp nhất cộng đoàn và về sự tấn
công của Satan.
Antôn LÊ
NGỌC THANH - Cssr
12-12-2001
NGÀY
NÀY NĂM XƯA
22/05/1857 – Thánh
tử đạo Micae Hồ Đình Hy
Lúc sinh thời,
Micae Hồ Đình Hy từng làm quan đến chức Thái bộc, hàm Tam phẩm, phụ trách ngành
dệt toàn quốc, được vua Tự Đức rất tín nhiệm. Quan Hồ Đình Hy là một vị quan
thanh liêm chính trực và một tín hữu đạo đức. Ông luôn công khai niềm tin của
mình và làm nhiều việc lành phúc đức. Có lần ông xin vua ân xá cho một người ăn
trộm, người này đến tạ ơn và biếu ông một túi tiền. Ông nói: "Cầm tiền và
đi ngay, bằng không tôi sẽ giao anh cho công lý bây giờ." Lại có một lần,
hai bé gái con một nhà Công giáo bị bán đi vì quá nghèo. Ông Hy biết được không
những chuộc lại mà còn đem về nuôi nấng đàng hoàng. Sau này, một trong hai cô
gái đó đã đi tu.
Quan Thái bộc
cũng có một người con trưởng đi tu, học tại Pénang. Chính vì lý do này, dù được
vua trọng vọng, nhưng khi quân Pháp tấn công cảng Đà Nẵng, ông vẫn bị bắt và
sau đó được lãnh ơn tử đạo.
22/05/1862 – Thánh
tử đạo Laurensô Ngôn
Laurensô Ngôn chỉ
là một nông dân bình thường nhưng lòng can đảm và đức tin của anh thì phi
thường. Anh sống vào thời kỳ bách hại tàn khốc nhất trong lịch sử Giáo hội Việt
Nam. Bản thân anh cũng bị bắt đến hai lần.
Có một điều đáng
chú ý về gia đình anh Ngôn là: trong lần bị giam thứ hai, anh đã trốn được về
nhà vì quá nhớ thương mẹ và vợ con (anh tử đạo khi mới 22 tuổi, có nghĩa là vợ
chồng anh lúc ấy còn rất trẻ) nhưng mẹ và vợ anh vẫn khích lệ anh quay lại trại
giam để bền vững theo Chúa Kitô đến cùng.
Trong tù, anh
Ngôn luôn là người khích lệ các bạn. Mỗi tuần anh ăn chay đến ba lần. Khi bị
tra tấn hay dụ dỗ, anh khẳng khái trả lời: "Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa Tể
Trời đất. Thập Giá là phương thế Thiên Chúa đã dùng để cứu chuộc nhân loại, tôi
chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Nếu quan cho tôi sống, tôi cảm
ơn quan, còn không, tôi sẵn sàng vui lòng chịu chếr vì đức tin vào Chúa
tôi."
TERESAH
25/05/1857 – Thánh
tử đạo Phêrô Đoàn Văn Vân
Phêrô Đoàn Văn
Vân là một thầy giảng nhiệt thành, tận tụy chăm sóc giáo xứ Nỗ Lực, tỉnh Hà
Nam. Đời sống nhân đức của thầy Vân luôn là tấm gương sáng trong địa phận. Bằng
chứng là khi muốn khen ngợi ai, các tín hữu thường nói "Ông này nhân đức
như thầy Cai Vân."
Một lần kia, có
hai chức sắc trong làng vì thua cờ bạc mất hết cả tiền đóng thuế của dân nên
đến nhà xứ xin vay thóc. Thầy Vân đã từ chối hai con nghiện cờ bạc này, nhưng
không ngờ hai kẻ này sinh lòng thù hận liền tố cáo với quan. Khi quan đến bắt,
thầy Vân đã kịp thời lánh đi chỗ khác. Nhưng với trách nhiệm và nhiệt huyết của
mình, thầy thấy không thể bỏ mặc giáo xứ nên dù đã 77 tuổi thầy cũng quyết định
trở về. Trên đường về, thầy bị chính hai kẻ trên rình bắt và nộp cho quan. Hai
tên này vu khống thầy là đạo trưởng (linh mục), thầy cố cải chính danh xưng
nhưng không bao giờ cải chính niềm tin của mình. Và cuối cùng thầy bị kết án tử
với một bản án dành cho đạo trưởng.
TRẦN ANH
XUÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét