CHUYẾN ĐI ĐỊNH MỆNH VÀO NGÀY LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
(Được phép trích
một đoạn của bài: Cuộc di tản hãi hùng và Vượt biển kinh hoàng của một Gia đình
với mười người con của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh.)
CUỘC VƯỢT
BIỂN KINH HOÀNG CỦA MỘT GIA ĐÌNH VỚI MƯỜI NGƯỜI CON.
Để sửa soạn cho
cuộc vượt biên ra nước ngoài, gia đình tôi thay phiên vào rừng sâu đốn cây, xẻ
gỗ để tự đóng tầu. Ròng rã suốt 4 năm, cả gia đình chúng tôi phải chịu đựng
biết bao gian khổ, làm việc cực lực không kể ngày đêm trong hoàn cảnh thiếu
thốn đủ bề, ăn không đủ no mặc không đủ ấm... bằng mọi giá chúng tôi phải đóng
cho được một tầu nhỏ (chiếc ghe thì đúng hơn). Cuối cùng, con tầu bé nhỏ đã
hoàn thành với chiều dài 9m, ngang 2.50 m, gắn máy một " Một Lốc", được trang bị chài lưới, giả dạng đi đánh cá, buôn than, chở
củi .v.v... để bảo mật, dò đưng và rút tỉa kinh nghiệm hầu mong con tầu thoát
ra khỏi cửa biển Vũng Tàu.
Mọi việc chúng
tôi đã chuẩn bị xong, chỉ chỉ còn lo bãi bến, bốc dầu, lương thực và người.
Nhưng thời tiết xấu. Nhiều trận bão cứ liên tiếp cả tháng trời. Nguy cơ bị bại
lộ thì rất nguy ngập cho bản thân tôi và đứa con lớn trốn lính bộ đội sắp phải
đi Campuchia và 2 đứa con trai kế sắp phải đi nghĩa vụ (quân dịch).
Không thể chần
chừ, chúng tôi nhất định cảm tử và ấn định ngày ra đi vào tối ngày 14 rạng ngày
15.08.1979, là ngày lễ kính Đức Mẹ Linh hồn và xác lên Trời. Chúng tôi luôn cầu
khẩn và cậy trông vào Mẹ và dâng trọn chuyến đi định mệnh này cho Mẹ. Cơn bão
số 9 vừa dứt, ngày giờ ấn định cũng vừa đến thì tàu chúng tôi nhổ neo. Khi ra
đến cửa biển Vũng Tàu thì Trời vừa sáng vì việc bốc dầu và đưa người ra bị trục
trặc. Đã trễ quá, nước lên mạnh cứ đẩy con tàu trở lại; tàu không có tài công,
không ai có kinh nghiệm về biển cả, cha con chúng tôi đã hành động liều lĩnh,
và sự kinh hoàng nơi cửa biển ập đến, nước chảy xiết đã đưa con tầu nhỏ yếu
đuối suýt vào giàn đáy cá. May mắn kịp lúc phát hiện được hai cây cột khổng lồ
của giàn đáy thì tàu vừa lách ra khỏi! Thật hú hồn.
Mọi người vừa
hoàn hồn thì một biến cố khác lại tiếp tới: Khi vừa ra khỏi cửa Vũng Tàu thì
nghe nhiều loạt súng từ chiếc ghe khác bắn gọị. Tình thế nguy to. Tàu Công An?
Tôi liền cho tàu chạy hết ga, hy vọng thoát được. Nhưng súng nổ càng lúc càng
gần. Trong vài phút là tàu chúng tôi bị bắt lại. Công an làm dữ, đòi kéo tàu
vào bờ. Tôi bình tĩnh và khéo léo thương lượng, đưa 10 cây vàng và năn nỉ...
công an giả bộ từ chối. Ai cũng sợ xanh mặt. Tôi liếc thấy chúng nháy nhau, tôi
biết ý nên đưa thêm cho quỷ dữ 5 cây nữa thì chúng vui vẻ nhận và cho tầu đi.
Mọi người an tâm. Tàu trực chỉ hướng Tây-Nam, ra khơi mỗi lúc một êm sóng, tàu
ngon trớn chạy nhanh.
Màn đêm xuống,
trời về khuya, tôi đột nhiên phát hiện những đốm sáng lớn, rồi một vùng sáng có
thêm ánh đèn pha. Nguy to rồi. Tôi ra lệnh tắt đèn, giảm ga và đổi hướng đi.
Phút chốc đã qua vùng nguy hiểm. Có lẽ đó là đảo Côn Sơn, có công an biên
phòng. Sáng hôm sau, tàu đã bình yên tiến vào vùng biển nước đen.
Trong suốt cuộc
hành trình dài hai tuần lễ, hầu như ngày nào lúc mặt trời vừa mọc thì chúng tôi
cho tàu bỏ leo để đọc kinh cầu nguyện và tạ ơn Chúa, Mẹ Maria. Sau đó nghỉ
ngơi, ăn uống, coi lại dầu mỡ và máy móc chừng một giờ đồng hồ rồi tiếp tục
cuộc hành trình. Có lần bỏ leo trúng vùng nước cạn, nơi đó là đảo san hô chỉ
sâu vài thước. Chúng tôi sợ tàu mắc cạn và gấp rút di chuyển đi nơi khác.
Có một lần tàu
chúng tôi đang ngon trớn thì bị cuốn vào vùng nước xoáy, cứ chạy vòng vòng mấy
ngày mà không tài nào ra được, máy càng lúc càng yếu, ai lấy đều lo sợ: lương
thực và nước đã hết, dầu đã cạn mà nhiều người lại bắt đầu ốm đau đói khát,
ngất xỉu... Rồi vào một chiều, giông bão nổi lên, mưa to gió lớn, có nhiều lần
sóng phủ ngập tàu, mọi người luôn cầu khẩn Mẹ Hồn xác lên Trời cứu giúp cùng
phó thác linh hồn trong tay Chúa và chờ chết!!! Tầu tắt máy, để bỏ mặc cho dòng
nước cuốn con tàu đi theo chiều gió lốc !!!
Đúng là
phép lạ rồi !!! Khi mặt Trời mọc
đã cao, mọi người tĩnh lại thì thấy con tầu nằm yên trong vùng biển phẳng lặng.
Ai lấy đều mừng rỡ, cùng cất tiếng hát "Tung hô" để cảm tạ ơn Chúa và
Mẹ Maria. Mọi người hoàn hồn, biết mình còn sống… Sau khi xem lại máy móc, xếp
đặt mọi thứ tàu lại tiếp tục đi về hướng Singapore... vì thời điểm này Thái
Lan, Mã Lai đều xua đuổi tàu tỵ nạn đến nước họ. Chỉ vài giờ sau thì xa xa hiện
ra một vài tàu lớn, một chiếc chạy thẳng đến tàu chúng tôi; chúng tôi tưởng là
tàu hàng đến cứu vớt, ai lấy mừng rỡ lấy áo quần ra vẩy vẩy và bắn hỏa pháo làm
hiệu. Khi vừa đến gần tàu chúng tôi thì nhiều người nhảy qua dùng dao uy hiếp.
Thì ra đó là bọn cướp Thái Lan. Chúng cướp của, vàng, nữ trang; đánh đập tra
khảo. Cứ như vậy, đến lần bị cướp thư 4 thì trên tầu không còn gì cả. Chúng bắt
mọi người lên tàu, tiếp tục đánh đập khảo của và đòi phá máy, bắt giữ nữ giới
nhốt riêng. Cũng may, tôi còn cất giấu được 5 cây vàng giả, tôi đưa ra để
thương lượng với bọn cướp, chúng chịu tha cho mọi người và còn cho cá ăn và
nước uống, rồi chỉ đường cho tàu chúng tôi vào Mã Lai vì nơi đây gần biên giới
Thái – Mã.
Tàu tiếp tục đi
trong đêm tối nhờ ánh sao trời. Vì mọi dụng cụ đều bị phá, đánh cướp, cả bản đồ
hải trình và hải bàn.
Trong lúc mọi
người đều mong và thành tâm tiếp tục cầu khấn cùng phó dâng nốt cuộc hành trình
hãi hùng nơi Mẹ… Thì một vùng sáng xuất hiện, rồi những cột đèn đỏ cao nhấp
nhô; nhờ vậy, chúng tôi biết được đường vào bờ biển Mã Lai, khoảng 2 giờ sáng
ngày 30.09.1979. Tôi ra lệnh tắt đèn và bất động chờ trời sáng. Khi mặt trời đã
lên cao chúng tôi bồng bế đổ bộ lên bờ ngay khu vực bãi tắm của du khách số
đông là người ngoại quốc nên được họ giúp đỡ, hỏi han và cho lương thực... Sau
cùng tôi nhờ họ gọi cảnh sát đến để tiếp nhận chúng tôi. Trước khi rời tàu, tôi
ra lệnh phá máy và đánh chìm tàu vì sợ người Mã Lai đuổi chúng tôi trở ra biển
như đã đối phó với nhiều ghe tàu đến trước.
Sau cùng, cảnh
sát đến tiếp nhận và cho làm lều tạm trú ở một khu rừng gần bờ biển, phỏng vấn,
lập danh sách và chờ cấp trên, chờ đến mấy ngày chúng tôi mới được nhập trại tỵ
nạn vùng giáp Thái Lan, trại Kotaharu.
Chúng tôi sống ở
trại tỵ nạn này gần một năm thì phái đoàn Úc nhận cho định cư tại Úc Châu qua
một Hội Từ Thiện bảo trợ. Ngày 30.04.1980, gia đình chúng tôi đặt chân lên đất
Úc-Đại-Lợi và được định cư tại vùng bờ biển phía Bắc thành phố Sydney. Là một
gia đình gồm cha mẹ và mười anh chị em từ 5 đến 25 tuổi, gồm 6 trai, 4 gái và
một cô con dâu tương lai 22 tuổi.
QUỲNH
HƯƠNG ( Lễ kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Úc Châu – Winter 2002 )
THƠ – VÈ ĐỐ VUI: của tác giả NGUYỄN ĐỨC QUỲNH ( Úc Châu )
Quý độc
giả ABBA quý mến!
Vừa qua ABBA nhận
được 60 câu đố vui bằng Thơ - Vè từ độc giả Quỳnh Hoa, Úc Châu. ABBA xin trích
đăng tuần tự nhằm chủ đích giới thiệu để quý bạn đọc có dịp nhìn lại và hiểu
biết thêm về một thể thức Thơ – Vè dân gian lâu đời của người Việt Nam. ABBA
mong ước rằng những câu đố và trả lời mẫu bằng Thơ – Vè này sẽ giúp cho quý bạn
đọc có được sự thư giản phần nào sau một tuần sống, học tập và làm việc vất vả.
Để tạo cơ hội cho quý bạn đọc có thời gian suy nghĩ và tìm ra câu trả lời cũng
bằng Thơ – Vè ưng ý cho riêng mình, ABBA sẽ trích đăng phần câu đố trước và
phần trả lời mẫu sẽ ở số tiếp theo.
Xin mời quý bạn
đọc vui đón đọc…
BÀI SỐ 1: CÂU ĐỐ
1 – Lá gì tên mẹ?
Lá me không phải
Lá cải cũng không
Cứu đói nhà nông.
Lá me không phải
Lá cải cũng không
Cứu đói nhà nông.
2 – Quả gì vỏ
gai?
Có thai mầu trắng
Vị đắng lúc xanh
Nấu canh ngon lành.
Có thai mầu trắng
Vị đắng lúc xanh
Nấu canh ngon lành.
3 – Rău gì tiền
cổ?
Củ trên mặt đất
Tên thật là tiền
Tổ tiên đặt tên.
Củ trên mặt đất
Tên thật là tiền
Tổ tiên đặt tên.
4 – Thuốc gì khỏi
tật?
Thật gì mất lòng?
Vòng gì có lợi?
Hợi gì an nhàn?
Thật gì mất lòng?
Vòng gì có lợi?
Hợi gì an nhàn?
5 – Quả gì giống
lai?
Tầng hai, ba vú
Hình thù bí đỏ
Xanh, vàng... ngoài vỏ.
Tầng hai, ba vú
Hình thù bí đỏ
Xanh, vàng... ngoài vỏ.
TÂM TÌNH NGƯỜI TRẺ (Trích bài từ HOSANNA giới trẻ Sài gòn)
E Thánh Batôlômêô
Tông đồ (ngày 24 tháng 8)
"Ông
Nathanael liền bảo: Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được? – Ông Philipphê
trả lời: Cứ đến mà xem!" (Ga 1,46)
Một người bạn bảo
tôi: "Ông bà ta đây sao không thờ, lại thờ ông Giêsu nào tận Do
Thái". Người ấy cảm thấy hài lòng với những gì mình nghĩ, mình có.
Một người bạn
khác quyết định tìm hiểu đạo Thiên Chúa. Anh ta tìm hiểu những lời kinh nguyện,
tìm lời giải đáp cho những thắc mắc… Và cuối cùng anh ta muốn trở lại đạo.
Hai người bạn ấy
đều có những lý tưởng riêng để theo đuổi. Có điều ở người bạn thứ hai, tù những
suy tư, ngờ vực, anh ta đã tìm được lý tưởng cho mình khi đã quyết định
"đến xem".
Lạy Chúa, xin
đừng để con dừng lại, nhưng là tiến bước mãi, để được thấy nơi Ngài những điều
lớn lao, kỳ diệu. Xin cho con thấy được nhiều hơn, rõ hơn để yêu mến Chúa nhiều
hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét