HAI CỘT TRỤ
(Bạn J.B xin phép tác giả THANH PHƯƠNG được
trich bài thơ này từ www.simonhoadalat.com gửi tặng mừng lễ Bổn Mạng đến tất cả
các đọc giả ABBA mang thánh hiệu Phêrô và Phalô…)
Hai cột trụ chống trời
Trời Rôma hiển thánh Hai cột trụ đỡ đời Chở che đoàn dân Thánh. Miệng chối, tim hãi sợ Lòng đau, mắt lệ nhoà Đá mềm tuôn thống hối Niềm tin vang câu ca. |
Dong duổi đường Damas
Tìm Chúa bao hung hăng Nhiệm mầu đời ngã ngựa Tình yêu giăng bẫy vương. Đời thật thà tính toán Bỏ Ngài con theo ai ? Xin ngàn lần khẳng định Nên Đá tảng cho Ngài. |
‘’Không còn là tôi sống
Mà Chúa sống trong tôi… Dù thế nhân vu khống Ai tách tôi khỏi Ngài…’’ Phêrô, người đánh cá Lại là kẻ chăn chiên Tay quyền uy tháo mở Tim yêu thương hiền hoà. |
Người chiến sĩ tù đầy
Khách lữ hành phong ba Phaolô, vì dân ngoại Tin yêu đời nở hoa. Hiệp lòng cùng Hội Thánh Mừng Cột Trụ hiển vinh Xin đưa đoàn dân Thánh Về Cõi sáng uy linh.
THANH PHƯƠNG
|
PHAOLÔ : NGƯỜI LÀM CHỨNG
Nếu trước khi gặp
Chúa Yêsu Phục Sinh, Phêrô là một người có niềm tin theo kiểu "sáng nắng
chiều mưa" thì cũng trong hoàn cảnh đó, Phaolô lại là một người kiên quyết
đến cùng.
Phaolô sinh tại
Tarsô, miền Kilikia (x. Cv 22,3), thuộc gia đình biệt phái (Pharisêu). Khi được
cắt bì, người ta gọi ông là Saul - trùng tên với vị vua tiên khởi của Israel,
cũng là người thuộc chi tộc Benjamin như ông. Ông được giáo dục theo truyền
thống Do Thái giáo một cách nghiêm túc. Từ năm 15 tuổi, Saul được gởi lên
Giêrusalem để được thụ giáo với một rabbi nổi tiếng là Gamaliel (x. Cv 22,3),
để trở thành một rabbi trong tương lai. Ngoài ra, Saul cũng học nghể dệt và đan
lưới cá, nhờ vậy mà sau này trong bước đường truyền giáo, ông đã tự lo cho mình
và không trở nên gánh nặng cho người khác (x. Cv 18,3; 20,34). Saul vừa là công
dân Do Thái (x. Cv 21,39), vừa là công dân Roma (x. Cv 22,27-28). Saul sử dụng
tiếng Aram trong gia đình và tiếng Hy lạp trong giao tiếp và viết lách với mọi
người. Có lẽ Phaolô là tên Saul đọc theo cách Hy hóa. Với nguồn gốc và quá
trình bản thân như vậy, Phaolô thực sự là một người có uy tín trong các cộng
đồng Do Thái thuần túy lẫn Do Thái Hy hóa.
Theo sách Công vụ
Tông đồ của Thánh Luca và thơ Galat của Thánh Phaolô, chúng ta có thể chia sự
nghiệp của Thánh Phaolô thành hai phần rõ rệt. Phần nào cũng đáng dựng thành một
cột trụ vững chắc, chỉ có điều phần đầu thì ngắn hơn.
Phần đầu đời dấn
thân, Phaolô sống như một Pharisêu nhiệm nhặt và đang nỗ lực cùng với những
người thờ phượng Thiên Chúa đích thực theo truyền thống Do Thái bắt bớ và triệt
tiêu các nhóm "phản đạo", "tà giáo". Kitô giáo là một trong
những nhóm đó. Các nỗ lực "nhiệt tâm với việc nhà Chúa" của Phaolô
thật có lý với một người Do Thái chân chính.
Vì đối với người
Do Thái, chỉ có một Yavê Thiên Chúa của Abraham, Ysaac, Yacóp và Môsê là Đấng
đáng tôn thờ, nên những ai thờ phượng một thần linh khác sẽ là thờ tà thần, còn
ai tôn dương con người làm thần linh để mà thờ là báng bổ Thiên Chúa. Do đó,
nếu khi chưa gặp Đức Kitô Phục Sinh , mà Phaolô không hành động một cách mãnh
liệt và dứt khoát như vậy, thì Phaolô chỉ là một người Do Thái trung bình, một
người giữ đạo theo kiểu "đu đủ". Nhưng nếu hăng hái như kiểu Phaolô
sẽ xứng danh là bổn mạng của các nhóm tôn giáo cực đoan, cuồng tín, không đối
thoại, chỉ duy mình tôi là đúng.
Các thành tích
trong các hoạt động này của Phaolô có thể kể ra là người đồng tình giết phó tế
Stêphanô (x. Cv 7,58; 8,1); người trực tiếp tấn công, tàn phá Hội Thánh,
"xông vào các nhà tư, và lôi đi đàn ông, đàn bà mà tống ngục" (Cv
8,3); người xin chứng thư ủy nhiệm bắt đạo của thượng tế (x. Cv 9,2); người đã
đến Đamát (x. Cv 9,3); người nổi tiếng về bắt đạo ở Giêrusalem và Đamat (x Cv
9,21.26).
Nhưng kể từ khi
Chúa Yêsu, người Nazareth, Phục Sinh đã hiện ra với ông trên đường đi Đamat thì
cuộc đời ông thay đổi.
Thánh Kinh kể:
đang khi Saul trên đường gần tới Đamat thì thình lình ánh sáng từ trời loé sáng
bao lấy ông, hất ông ngã xuống đất và có tiếng nói với ông: "Saul, Saul,
tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông thưa lại: "Thưa Ngài, Ngài là
ai?", đáp lại lời ông: "Ta là Yêsu ngươi đang bắt bớ. Song hãy chỗi
dậy vào thành; sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì" (Cv 9,3-6; x
22,5-16; 28,9-18). Sau đó, những người cùng đi đưa ông vào thành. Ba ngày ba
đêm, ông không nhìn thấy gì và cũng không ăn uống gì. Sau đó, môn đệ Hananya
được Chúa Yêsu Phục Sinh sai đến đặt tay trên Phaolô để mắt ông được thấy lại,
dạy cho ông những điều cốt yếu về đạo và giúp ông chịu phép Thánh tẩy nhân danh
Chúa Yêsu. Môn đệ Hananya nói với Phaolô: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta
đã tiền định cho anh được biết thánh ý Người và được thấy Đấng công chính và
nghe tiếng xuất tự miệng Ngài; vì anh sẽ là chứng tá cho Ngài trước mặt mọi
người về các điều anh đã thấy, đã nghe. Và bây giờ sao còn lần lữa? Hãy chỗi
dậy chịu thanh tẩy và rửa mình cho sạch các tội của anh, miệng kêu khẩn Danh
Ngài (Cv 22,14-16).
Nếu trước đây
Phaolô chỉ thờ một Thiên Chúa duy nhất và vô hình của tổ tiên thì nay Phaolô
cũng thờ một Thiên Chúa duy nhất của tổ tiên ấy đã nhập thể hữu hình nơi con
người Yêsu Nazareth đã chết và đã sống lại; Nếu trước đây do không biết, nên
Phaolô đã tàn phá Hội Thánh và bắt bớ những người theo Chúa Yêsu thì nay đã gặp
và biết quả thật Yêsu là Đức Chúa (x. Ph 2,11) thì ông đã yêu thương, xây dựng
Hội Thánh bằng cách thuyết phục những anh chị em Do Thái giáo của ông và đồng
chịu cách bắt bớ, phỉ báng và tù tội như những người trước đây ông đã bắt bớ;
Nếu trước đây vì là một người Biệt phái nghiêm nhặt, Phaolô không bao giờ tiếp
xúc với dân ngoại, vì họ là người tội lỗi không được tuyển chọn thì nay, sau
khi đã nhận lãnh sứ mạng cua Chúa Yêsu Phục Sinh , Phaolô đã mang ơn cứu độ đến
cho dân ngoại dù họ là chủ nhân hay đầy tớ (x. Plm).
Niềm tin vào Chúa
Yêsu Phục Sinh , tức là niềm tin Kitô giáo đã trở nên một sức mạnh lớn lao,
khiến Phaolô đủ sức giựt mình ra khỏi những lối sống khép kín, tự tôn của niềm
hãnh diện dân riêng của Chúa, đến mức không còn đủ sáng suốt và bình tĩnh để
nhận ra Chúa đang viếng thăm và đón nhận Ngài. Sức mạnh niềm tin ấy gắn chặt
cuộc đời Phaolô vào Chúa Yêsu, đến độ Phaolô sẵn sàng đánh đổi tất cả mọi giá
trị để được một mình Chúa mà thôi (x. Ph 3,8). Đối với Phaolô, không phải do
sức mạnh của lề luật, nhưng do sức mạnh của lòng tin vào Đức Yêsu Kitô người ta
mới được nên công chính. Sự công chính do tự Thiên Chúa ban xuống cho lòng tin
! (x. Ph 3,9).
Chính niềm tin
vào Đức Yêsu Kitô đã làm cho Phaolô được thỏa mãn mọi khát vọng hướng về Thiên
Chúa; làm cho Phaolô không còn là người chỉ biết nhân danh lề luật để bắt bớ,
nhưng làm cho ông nên quyền năng của Chúa trong việc chữa lành bệnh tật, cho kẻ
chết sống lại và nhất là rao giảng lẽ sống cho muôn người.
Sức mạnh niềm tin
Kitô giáo nơi các chứng nhân Thánh Kinh là sức mạnh có thể đánh đổi cơ nghiệp
và mạng sống. Nhưng khi dám làm một cuộc đánh đổi cho niềm tin như thế, thì
không một chứng nhân nào bị tiêu hủy hay trở nên vô ích, mà ngược lại, nơi các
ngài phát sinh một sự sống sung mãn của Thiên Chúa và là nguồn ơn cứu độ xuất
phát từ Đức Kitô Yêsu cho muôn người.
AN THANH,
CSsR – DCCT
Thánh GENNARO MARIA SARNELLI (1702 - 30.6.1744)
Nhìn thánh
Anphong, Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế thế nào, thì chân phúc Gennaro Maria
Sarnelli y như thế. Sarnelli và Anphong như hai anh em sinh đôi. Họ cũng là
người Napoli, cùng học và đỗ tiến sĩ luật đời cũng như luật đạo, cũng là luật
sư nổi tiếng, cùng gia nhập hàng giáo sĩ khi sự nghiệp cá nhân đã có hướng phát
triển ổn định, cùng hiến mình cho người nghèo, cùng làm chung một số mục vụ và
cùng là tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế.
Sarnelli sinh
ngày 12.9.1702. Thời còn là sinh viên luật, Sarnelli đã dành nhiều thời gian để
chăm sóc các bệnh nhân thuộc bệnh viện "Vô phương cứu chữa". Khi là
chủng sinh, Sarnelli đã cùng thánh Anphong lập các nguyện đường đêm, để đón
tiếp những người bị xã hội cho là du thủ du thực, những người nghèo khổ phải
làm thuê đến tận đêm mới được nghỉ ngơi. Dù xuất thân từ quý tộc, và cá nhân
ngài thừa hưởng một tài sản rất lớn, nhưng ngài đã quyết tâm rời bỏ gia đình để
vào Chủng viện Trung Hoa. Nơi đây tập họp những anh em có lòng ước ao muốn
truyền giáo cho Trung Hoa lục địa.
Ngày 8.7.1732,
Sarnelli thụ lãnh sứ vụ linh mục và tháng 8.1733 xin gia nhập Dòng Chúa Cứu
Thế. Trong vòng năm năm (1736 - 1741), cha Sarnelli đã viết và được xuất bản 40
tác phẩm lớn nhỏ. Trong đó có những tác phẩm, mà ngay các nhà xã hội học của
thế kỷ 20 vẫn phải tìm nghiên cứu như "Đấu tranh chống nạn mãi dâm"
(1736), "Lý lẽ Công giáo và những giải pháp nhằm bảo vệ các quốc gia khỏi
bị tàn phá bởi nạn mại dâm" (cũng năm 1736). Theo lý luận của Sarnelli về
vấn đề này thì con người của thế kỷ ánh sáng có ba thái độ đối với nạn mãi dâm:
cấm chỉ, cho hành nghề theo quy chế và xóa bỏ nô lệ tình dục. Còn Sarnelli,
ngài lên án một cơ cấu xã hội đang tạo ra thảm trạng mãi dâm, lên án cả nhưng
tú bà, ma cô đã sống sung túc trên máu, nước mắt và nhục nhã của các chị em làm
gái điếm. Ngài không quan tâm lắm đến các biện pháp hình sự, nhưng chú trọng
đến những can thiệp mục vụ. Cha Sarnelli tin vào sự thay đổi phong tục, tin vào
sức mạnh của ân sủng, của lời cầu nguyện và của việc sống các bí tích có thể
giải thoát các cô gái và xã hội.
Sanelli không chỉ
quan tâm đến các chị làm gái như một hiện tượng xã hội phải kêu gọi mọi người
giải quyết, nhưng chính ngài đã có 10 năm trực tiếp làm việc với các chị. Thánh
Anphong kể lại: "Gennaro Maria Sarnelli đã thổ lộ với một người bạn rằng,
lúc đầu khi ngài miệt mài với công việc khiêm hèn này, một vài người tỏ ra kính
trọng, nhưng sau đó, họ đã tránh mặt hoặc phản ứng không chút nhã nhặn."
Mặc cho mọi người tẩy chay, Sarnelli vẫn chạy đến với những con người bất hạnh
ấy để giúp họ lấy lại phẩm giá và tìm giải pháp để cứu họ. Các can thiệp của
ngài đã trực tiếp đụng đến "chén cơm" của bọn ma cô, nên chúng đã đe
dọa giết ngài.
Một trong các
hoạt động nổi bật khác của Sarnelli là huấn luyện tông đồ giáo dân. Ở các
nguyện đường đêm của ngài và thánh Anphong lập nên, lúc đầu, các ngài quy tụ và
hướng dẫn, nhưng dần về sau, chính bác thợ cắt tóc, anh phu khuân vác, chị bán
tạp hóa là những người chủ trì các buổi cầu nguyện và dạy giáo lý cho những
người mới đến.
Ngày 30.6.1744,
sau chuyến giảng đại phúc cuối, căn bệnh lao đã bộc phát đốt cháy từng tế bào,
làm năng lượng đưa cha Sarnelli về nhà Chúa. Cha Francesco Chiovaro ghi lại
nhận xét của thánh Anphong:
"Gennaro
Maria đã sống mãnh liệt những năm tháng làm linh mục. Đã 12 năm qua, ngài không
bao giờ biết đến sự nghỉ ngơi, giúp đỡ người nghèo, người bệnh và những cô gái
điếm, chăm lo giáo dục trẻ em, giảng thuyết, thức trắng nhiều đêm để viết hết
sách này đến sách khác, sau cùng bệnh lao đã đến phá vỡ thể trạng không bao giờ
tráng kiện của ngài."
Cuộc đời của chân
phúc Sarnelli là cuộc đời của một chứng nhân trọn vẹn về lời nói (qua 40 tác
phẩm) và việc làm (như mô tả của thánh Anphong) cho sức mạnh của niềm tin Kitô
giáo. Như Charles Chauvin nhận xét: Sarnelli là khuôn mặt tâm linh lớn của thế
kỷ 18, người đã đặt hy vọng hoàn toàn nơi sức mạnh giải phóng của ân sủng. Nên
có thể nói, đối với Sarnelli, dù trong một thân xác yếu nhược bởi bệnh tật,
nhưng với niềm tin vào Chúa Yêsu Phục Sinh - Đấng đã từng trở nên đồng hình
đồng dạng với con người, nhất là những người tội lỗi - thì sức mạnh của Thiên
Chúa quyền năng sẽ đủ sức làm cho thân xác không ra gì trở nên phương thế và cơ
hội cứu độ người khác. Đối với Sarnelli, sự cố gắng của con người là một điều
rất nhỏ - không đáng kể - chỉ có sức mạnh ân sủng của Chúa ban mới làm nên mọi
sự. Chính vì niềm xác tín ấy, mà con người Sarnelli thuộc trọn về Chúa trong
hàng chư thánh của người.
Sức mạnh niềm tin
Kitô giáo là do Thiên Chúa ban, nên không lệ thuộc ở phía con người. Do đó,
Thiên Chúa có thể dùng tất cả những ai dám tin tưởng vào Người để cứu độ người
khác, dù đó chỉ là một thiếu nữ ngang bướng, ương ngạnh.
AN THANH,
CSsR – DCCT
Thư mục vụ của Đức Cha Huỳnh Văn Nghi:
Ngày giới trẻ thế giới XVII tại Toronto
Ngày Giới trẻ Thế
giới lần XVII sẽ được cử hành từ thứ năm 18 đến Chúa Nhật 21-7-2002, tại
Toronto, Canada, phía Bắc Mỹ Châu. Người ta ước lượng sẽ có trên một triệu bạn
trẻ từ các quốc gia đến dự. Chủ đề suy niệm, học hỏi và hành động lần này là
Lời Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêu: "Anh em là muối
cho đời… Anh em là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,13.14)
Đức Thánh Cha
viết: "Đây là một dịp may nữa để gặp Chúa Kitô, để làm chứng cho sự hiện
diện của Ngài trong xã hội hôm nay, và trở nên những người kiến tạo nền văn
minh tình thương và sự thật" (số 1).
Anh em là
muối cho đời
Nói đến muối,
người ta nghĩ ngay đến chức năng của nó là làm gia tăng hương vị và bảo tồn
thức ăn khỏi hư thúi. Cả hai chức năng này đều có thể áp dụng cho đức tin Kitô
giáo và cho nhiệm vụ của người Kitô hữu trong xã hội và trong thế giới hôm nay.
Đức Gioan Phaolô II đã viết: "Chất muối, mà nhờ đó bản sắc Kitô giáo của
chúng ta giữ được tinh tuyền, ngay cả khi phải sống trong một thế giới rất tục
hóa, là một hồng ân của phép rửa tội. Thông qua phép rửa tội chúng ta được ơn
tái sinh" (số 2).
Nhờ Bí tích Rửa
tội, chúng ta được "gia vị" bằng cuộc sống mới đến từ Đức Kitô. Phẩm
giá chúng ta được nâng lên. Thánh Phaolô đã viết: "Chúng ta là hương thơm
của Đức Kitô dâng kính Thiên Chúa, tỏa ra giữa những người được cứu độ cũng như
những người bị hư mất" (2 Cr 2,15). Vì thế, thánh nhân khuyên các tín hữu
"đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải tiến con người anh em bằng cách
đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì
là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo" (Rm 12,2). Các bạn trẻ hãy cố gắng
sống trong sáng, thánh thiện, tinh tuyền và trọn hảo theo phong độ của Chúa Cha
trên trời (x. Mt 5,48).
Đức Thánh Cha kêu
gọi các bạn trẻ bảo tồn kho tàng đức tin bằng việc đào sâu căn cội Kitô giáo
của mình, học hỏi lịch sử Giáo hội, nghiên cứu những di sản tinh thần đã được
truyền lại, đi theo vết chân của những chứng nhân và những bậc thầy tiền bối,
có thế các bạn mới trở nên những tông đồ và những chứng nhân khả tín của ngàn
năm mới này… (Còn tiếp)
Đức Cha
HUỲNH VĂN NGHI (ViệtCatholic News)
TIN GIÁO HỘI THẾ GIỚI
COLLEGE PARK, Ga.
- Đức hồng y Jozef Tomko nói với hàng ngàn người tham dự Đại Hội Thánh Thể ở
Atlanta - Hoa Kỳ là "người Công giáo phải ý thức sâu xa rằng Thánh Thể là
sự hiện diện của chính Đức Giêsu Kitô giữa chúng ta. Thánh Thể là về một con
người, chính con người Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa trở nên xác phàm và trở
nên bánh cho cuộc sống chúng ta… Chúa Giêsu Kitô hiện diện thực sự giữa chúng
ta".
Khi Chúa Giêsu
làm phép lạ hóa bánh và cá nuôi sống đám đông dân chúng, Người đã tỏ lộ chính
Người như là "bánh hằng sống" mà thịt và máu Người trở thành của ăn
và của uống thực cho chúng ta…
THIÊN - ÂN
(ViệtCatholic News 25/6/2002)
Văn Phòng Phối
Kết Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam Hải Ngoại loan báo chương trình các sinh hoạt của
Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới Toronto
2002: Trong những ngày 24-26 tháng 07/2002, ban sáng sẽ có các giờ giáo lý bằng
tiếng Việt, ban chiều sẽ có các chương trình sinh hoạt văn hóa và đức tin cho
Giới Trẻ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại. Văn Phòng Phối Kết tha thiết
mời gọi các Nhóm Trẻ (không phân biệt đi với danh nghĩa "Vietmamese in
Diaspora" hay đi theo Giáo Phận, Hội Đoàn) đến tham dự các chương trình
của Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại, đặc biệt buổi Chia Sẻ "Thắp
Sáng Niềm Tin Yêu" chiều ngày 24 tháng 07/2002. Các chương trình chi tiết
và địa điểm các buổi sinh hoạt sẽ được Ban Tổ Chức thông báo sau.
Chúng ta cùng cầu
xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Chân Phước Anrê Phú Yên chúc lành đặc
biệt cho Giới Trẻ Việt Nam.
Trích lược
từ Thông Báo của phòng Phối Kết Mục Vụ, HOA QUỲNH chuyển tin.
TÂM TÌNH NGƯỜI TRẺ (Trích bài từ HOSANNA giới trẻ Sài gòn)
"Ai giữ mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy
được." (Mt 10,39)
…Trong cuộc sống,
tôi chẳng khác nào Phêrô năm xưa, lúc vui vẻ thì vỗ ngực: "Thầy đi đâu con
cũng nguyện theo Thầy đến cùng", ước mong được ngồi bên cạnh Thầy khi Thầy
làm vua, mà tôi quên rằng còn vế sau Phêrô chưa đám nói: "Tôi vác thập giá
lên núi Sọ cùng Thầy". Và Phêrô đã chối Thầy không chỉ một lần!
Hôm nay bạn bè
tôi đang tham gia phong trào "hiến máu nhân đạo", còn tôi, sợ mất sức
hay gầy đi thì mất dáng, mất duyên. Các lớp học tình thương cũng mời gọi tôi,
nhưng tôi trả lời: "Không học phí thì miễn bàn!" Anh em tôi tới chầu
Chúa mỗi sớm, còn tôi, ngủ khèo cho khoẻ…!
Giêsu ơi,
những hy sinh nhỏ đối với con đã là khó nói chi đến liều mạng sống mình vì
Ngài. Xin giúp con. Amen!
Thánh Tô-ma Tông
đồ (ngày 3 tháng 7)
"Đức Giêsu
bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!" (Ga 20,29)
Câu "Phúc
cho ai không thấy mà tin" đã đánh động tôi bấy lâu.
Đối với người
Công giáo, niềm tin được đặt lên hàng đầu. Vậy mà tôi thì cứ như Tôma, chẳng
dám tin và làm chứng cho Chúa trong môi trường sống của mình. Những lần cầu xin
mà không được, tôi đâm nghi ngờ và xa dầnThiên Chúa. Cho đến mãi thời ian gần
đây, tôi mới thấymình thật có lỗi với Chúa vì đã không nhận ra những việc nhỏ
mọn nhất mà Chúa làm cho tôi. Chúa đã êu thương tôi vô vàn.
Lạy Chúa vì yếu
lòng tin, nên con không nhận ra tình yêu Chúa dành cho con, xin Chúa thêm đức
tin cho con, để con luôn sống trong tin yêu và hy vọng. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét