Người đăng: ThucQuyen
HƯỚNG SỐNG GIÁO HỘI HIỆN ĐẠI:
SỨ MẠNG DÂN CHÚA GIỮA TRẦN GIAN
Lm.
Giuse Vũ Kim Chính S.J.
I. Nhập Ðề
Khi đề cập tới chủ đề Giáo Hội, là ta mặc nhận những nền tảng căn bản của Giáo hội học như: nguồn gốc và bản chất của Giáo hội. Từ đó ta mới có thể phản tỉnh tới sứ mạng của Giáo hội trong lòng trần thế hiện nay. Và tất cả những cơ cấu Giáo hội không ngoài mục đích nhằm thực hiện và chu toàn sứ mạng này. Thiết nghĩ không cần phải nghiên cứu hay đào sâu về Giáo hội học, chúng ta ai cũng có thể biết được nguồn gốc của Giáo hội là chính Ðức Kitô. Ngài đã được “sai đi”, tức là được Chúa Cha giao cho trọng trách cứu thế và được Chúa Thánh Linh xức dầu thánh hiến để hoạt động trong một “địa chỉ” đặc thù: “mang tin mừng cho kẻ nghèo khó, loan tin giải phóng cho kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho kẻ đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức và loan truyền năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc. 4, 18f). Nhờ vậy, Ngài đã đánh thức trần gian, đã dẫn trần gian nhắm theo tiêu chuẩn “Tám Mối Phúc Thật” để dần dần trở thành Nước Chúa. Sự hiện hữu của Giáo hội được bắt nguồn từ mạch sống này và bản chất của Giáo hội là cụ thể hóa sứ mạng của Ðức Kitô trong những thời đại và môi trường khác nhau.
Khi đề cập tới chủ đề Giáo Hội, là ta mặc nhận những nền tảng căn bản của Giáo hội học như: nguồn gốc và bản chất của Giáo hội. Từ đó ta mới có thể phản tỉnh tới sứ mạng của Giáo hội trong lòng trần thế hiện nay. Và tất cả những cơ cấu Giáo hội không ngoài mục đích nhằm thực hiện và chu toàn sứ mạng này. Thiết nghĩ không cần phải nghiên cứu hay đào sâu về Giáo hội học, chúng ta ai cũng có thể biết được nguồn gốc của Giáo hội là chính Ðức Kitô. Ngài đã được “sai đi”, tức là được Chúa Cha giao cho trọng trách cứu thế và được Chúa Thánh Linh xức dầu thánh hiến để hoạt động trong một “địa chỉ” đặc thù: “mang tin mừng cho kẻ nghèo khó, loan tin giải phóng cho kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho kẻ đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức và loan truyền năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc. 4, 18f). Nhờ vậy, Ngài đã đánh thức trần gian, đã dẫn trần gian nhắm theo tiêu chuẩn “Tám Mối Phúc Thật” để dần dần trở thành Nước Chúa. Sự hiện hữu của Giáo hội được bắt nguồn từ mạch sống này và bản chất của Giáo hội là cụ thể hóa sứ mạng của Ðức Kitô trong những thời đại và môi trường khác nhau.
Như Chúa Giêsu
được sai tới để nhập thể và nhập thế hầu loan truyền và thực hiện Nước Chúa
giữa trần gian, Giáo hội cũng được Ðức Kitô kêu gọi và phái đi để làm chứng
nhân của Ngài, hầu mang ơn cứu độ và tin mừng cho tới “cùng trái đất”. Như vậy,
Giáo hội phải nhập thế mới có thể sống giữa trần gian, mặc dầu “không thuộc về
trần gian”. Chính vì thế mới trở thành “Bí Tích” thánh hóa trần gian. Nói cách
khác, như Chúa Giêsu khi nhập thế vẫn luôn thông hiệp với Chúa Cha và Chúa
Thánh Linh, Giáo hội là Dân Chúa sống giữa trần gian: một bên là cộng đoàn
thánh được Chúa chọn sống trong sự hiệp thông của chúa Ba Ngôi, nhưng đàng khác
cũng là thành phần của trần gian, chia sẻ vận mệnh của trần gian trong mọi nơi
và mọi thời. Giáo hội qua gần hai ngàn năm đã lưu truyền tới tay chúng ta hôm
nay để chúng ta luôn tiếp tục thân phận “hành hương” hầu làm chứng nhân cho Ðức
Kitô cho tới ngày Người tái hiện.
Ðể thực thi được
sứ mạng làm chứng nhân của Ðức Kitô giữa trần gian và cho trần gian, mặc dù
không thuộc về trần gian, chúng ta phải hiểu chính chúng ta cũng như hiểu trần
gian. Hiện giờ chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào? Nếu biết rõ được “địa
chỉ” này, chúng ta mới hy vọng dùng cách thế nào cho hợp thời hợp cảnh mà đem
Tin Mừng đến cho thế gian một cách hữu hiệu hơn. Cũng may cho chúng ta là không
phải tự mình vò đầu bóp trán để phát hiện ra những đường hướng và chương trình
này, nhưng là do chính Công Ðồng Vatican II đã vạch ra cho chúng ta những
phương hướng cụ thể đó. Dầu vậy, chúng ta cũng cần phải phản tỉnh để tự khám
phá ra đường hướng này, nhờ đó chúng ta một bên nhận ra Cộng Ðoàn Dân Chúa
trong sự liên hệ Hiệp Thông và đàng khác trong tinh thần phụng sự với những
khía cạnh mới, trọng tâm mới, nếu chúng ta đứng trên quan điểm Dân Chúa là
chứng nhân giữa trần gian và hiện hữu vì trần gian như Thượng Hội Ðồng Giám Mục
Thế Giới 1987 và Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn về
“Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân trong Giáo hội và giữa trần gian”.
II. “Ðịa
chỉ” của Giáo hội hiện đại
Mặc dầu không chủ
trương Xã Hội Học Thực Nghiệm là nền tảng để định đoạt Tri Thức Luận, nhưng qua
những bảng thống kê như là những phương tiện chính xác giúp ta có thể nương
theo sự phản tỉnh của các thần học gia để truy tìm “địa chỉ” của Giáo hội hiện
đại. Lẽ đương nhiên, chúng ta cũng có thể tự phản tỉnh và xét xem các thần học
gia đó nêu lên những nhận định có xác thực không? Ðó cũng là phần rất quan
trọng, nếu không muốn nói là phần quan trọng nhất.
Theo bảng thống kê của Giáo hội năm 1985, số Công giáo theo từng địa phương có tỷ lệ như sau:
Theo bảng thống kê của Giáo hội năm 1985, số Công giáo theo từng địa phương có tỷ lệ như sau:
Á Châu: 72,141,000
(8,47%)
Âu Châu: 278,047,000 (32,63%)
Ðại Dương Châu: 6,444,000 (0,76%)
Bắc Mỹ Châu: 64,475,000 (7,57%)
Nam Mỹ Châu: 358,188,000 (42,04%)
Phi Châu: 72,658,000 (8,53%)
Âu Châu: 278,047,000 (32,63%)
Ðại Dương Châu: 6,444,000 (0,76%)
Bắc Mỹ Châu: 64,475,000 (7,57%)
Nam Mỹ Châu: 358,188,000 (42,04%)
Phi Châu: 72,658,000 (8,53%)
Tổng cộng:
851,953,000 (100%)
Nếu đem con số này
sánh với một vài bảng thống kê của những năm trước, chúng ta sẽ phát hiện một
sự kiện đáng suy nghĩ. Năm 1900, số tín hữu Công giáo sống ở Âu Châu và Bắc Mỹ
là 77%. Ðến năm 1970, con số đó đã hạ xuống chỉ còn 49,14% so với số dân Công
giáo sống ở khắp hoàn cầu. Và cứ theo đà này, theo nhà thần học W. Buhlmann ước
lượng thì năm 2000, khoảng 60% số dân Công giáo sẽ sống ngoài Âu Châu và Bắc
Mỹ, nghĩa là số tín hữu Công giáo sẽ sống ở Nam bán cầu và thê giới thứ ba
nhiều hơn, nếu không kể tới những nơi dân chúng có thể đến cư ngụ vì công ăn
việc làm, thì sự ước lượng trên có thể sai lệch như dân số ở Bắc Mỹ và Âu Châu
không gia tăng, ngược lại số người ly khai Giáo hội có thể tăng. Dĩ nhiên đây
chỉ là một giả thuyết mà thôi.
Nhưng bảng thống
kê trên là những hiện tượng thúc đẩy nhiều nhà thần học phản tỉnh lại “địa chỉ”
của Giáo hội trong lịch sử của Giáo hội vừa qua cũng như nêu lên những nhận xét
về Giáo hội trong tương lai. Trong những nhà thần học trên, chúng ta chú ý đến
ba người tiêu biểu nhất là: Karl Rahner, Johann Baptist Metz và Walter
Buhlmann. Cả ba ông đều có một nhận định như sau: “Giáo hội Công giáo đang đứng
tước ngưỡng cửa của một thời đại mới”. Nói cách chung, đứng trên quan điểm lịch
sử Giáo hội, ba ông đều cho rằng Giáo hội Công giáo đang bước sang thời kỳ thứ
ba.
Trong giai đoạn
đầu, tương đối ngắn, Giáo hội sơ khởi phát triển từ Giáo hội Do Thái qua Giáo
hội Cận Ðông để trở thành Giáo hội Latin (Lamã). Trong giai đoạn này, Giáo hội
đã dần dần gọt bỏ “chủ nghĩa Do Thái” để “bản vị hóa” (inculturation) qua ảnh
hưởng của nền văn hóa Hy Lạp. “Công Ðồng Jerusalem” và Thánh Phaolô là những
hình ảnh tiêu biểu của giai đoạn này: Giáo hội sơ khai đã gặp phải những khó
khăn do sự ngộ nhận là đồng hóa Giáo hội với một nền văn hóa và tập quán của
một dân tộc, nên khó cởi mở. Nhưng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh cũng
như do sự cương quyết của một số nhà truyền giáo như Phaolô, Giáo hội đã tương
đối thành công trong việc “bản vị hóa” chính mình. Ðây là một bài học quí giá
cho nhà truyền giáo sau này.
Ở giai đoạn thứ
hai, Giáo hội đã trở thành Giáo hội Tây phương. Mở đầu cho giai đoạn này là
biến cố Hoàng Ðế La mã Constantin đã quy hóa Kitô hữu, đưa Giáo hội từ một cộng
đoàn chứng nhân bị đàn áp trở thành một quốc giáo. Chúng ta không phủ nhận được
đây là một thời vàng son của giáo quyền, nhưng đồng thời cũng không thể không
chú ý tới sự lu mờ dần vai trò Giáo hội là Cộng đoàn Chứng nhân (Christianity)
và thay vào đó là một Ðế quốc Giáo (Christiandom). Theo đó Giáo hội khó tránh
được những lúc đồng hóa với thế quyền hay tranh chấp với thế quyền. Những kinh
nghiệm đau thương này không khỏi không ảnh hưởng tới những phương pháp giải
quyết những căng thẳng nội bộ và công cuộc truyền giáo sau này, nhất là khi
phải đương đầu với những vấn nạn do những nền văn hóa khác nêu ra. Tóm lại, vì
coi mình là “Xã hội toàn mỹ” và là “Bảo tàng Chân lý” (ở đây nếu phân biệt rõ
ràng lý thuyết và thực hành có lẽ sẽ tránh được nhiều hiểu lầm), nên khó nhận
được mức quan trọng của những nền văn hóa khác cũng như những nền tư tưởng.
Giai đoạn ba, Giáo
hội đang trở thành Giáo hội Ðại đồng, hiệp nhất trong đa dạng. Giai đoạn này
chính thức bắt đầu với Công Ðồng Vatican II: Giáo hội nhận ra tầm mức quan
trọng của mình là “Ánh Sáng thế gian”. Vì vậy, Giáo hội không thể sống “ngoài”
hay sống “trên thế gian được, nhưng phải sống “giữa” những nền văn hóa khác
nhau. Như vậy, Giáo hội nhập thể không phải theo ý niệm “hai vương quốc” (thần
thế) những là “bản vị hóa” để những phần tử mình hiện hữu “giữa” thế gian hầu
thánh hóa thế gian. Trong giai đoạn Giáo hội đại đồng này, ba thần học gia vừa
nêu trên, mỗi người đều nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau. K. Rahner vì
quan tâm cho Giáo hội tương lai, ông đã khẳng định niềm tin (như vấn đề giữa
khoa học tự nhiên và thần học, bàn về “status naturae lapsae…”) hay có liên
quan tới giáo sĩ (độc thân, phụ nữ…)v.v…. mặc dù những thần học phản tỉnh này
có tính cách thảo luận hơn là đề nghị những giải đáp. Nhưng đàng khác ông đã
bộc lộ được những “giấc mơ” cho giáo hội tương lai, nhất là về việc cải tổ cơ
cấu Giáo hội, làm cho Giáo hội trở thành một “cộng đoàn” thực sự. Còn ông J.B.
Metz thì chủ trương đến khía cạnh thực tiễn nhiều hơn, nên ông không ngừng nỗ
lực giúp Giáo hội Âu Châu phản tỉnh trở về nguồn gốc mình đang “theo bước”
(nachfolge). Vì mỗi người đều bước theo Chúa nên trở thành một cộng đoàn hỗ
tương, nhất là đối với những người cần tương trợ, những người đau khổ. Giáo hội
chỉ có thể thực hành được điều đó, nếu Giáo hội biết sống “theo” và sống trong
Ðức Kitô mà thôi, vì chỉ một mình Ngài là nơi mà người tông đồ có thể nhận lãnh
được những kinh nghiệm mầu nhiệm ấy.
Trong khi đó, thần
học gia W. Buhlmann là một nhà tuyền giáo học, đặc biệt quan tâm đến vai trò
các xứ truyền giáo trong Giáo hội. Ông không ngần ngại nhấn mạnh: năm 2000 sẽ
là những năm thuộc về Giáo hội Truyền giáo. Nhưng vấn đề chính của Giáo hội
trong tương lai là những vấn đề đa dạng, nên không thể dùng quan điểm nhất dạng
để giải quyết được. Những vấn đề như “công lý”, “bản vị hóa”, “đối thoại với
những tôn giáo khác”, “tục hóa”… được coi là những vấn đề chính yếu trong Giáo
hội tương lai. Tóm lại, dù có những quan tâm khác nhau về tương lai của Giáo
hội, nhưng cả ba nhà thần học đều công nhận rằng: những suy nghĩ và những phản
tỉnh này đều do Công Ðồng Vatican II khởi xướng và chỉ dẫn. “Hành động khai
phóng đối với cái nhìn đa dạng cần thiết về tôn giáo cũng như về văn hóa là một
nguồn mạch tuôn ra sức sống dồi dào cho Giáo hội và cho khoa giáo hội học trong
hơn 25 năm sau công đồng vừa qua. Hành động này bắt nguồn từ một thái độ can
trường của Thánh Phaolô để đối diện với mọi hậu quả phát xuất từ những lãnh vực
khác nhau trong đời sống Giáo hội, nhưng đồng thời không phản bội đời sống đức
tin đồng nhất và bản chất bất di dịch của đức tin đó”.
III. Ðường
hướng của Công Ðồng Vatican II
Ðường hướng của
Công Ðồng Vatican II là Kim Chỉ Nam của Giáo Hội hiện tại. Công Ðồng Vatican II
là công đồng thứ 21 của Giáo hội Công giáo. Chỉ cần đưa mắt so sánh ba công
đồng cuối cùng, chúng ta sẽ thấy ngay tính cách đặc thù của Công đồng Vatican
II.
Công đồng
Tridentinô được triệu tập để đối kháng với các phe Phái Tin Lành và đồng thời
cải cách nội bộ Giáo hội theo tiêu chuẩn: Giáo hội được trao trách nhiệm để cứu
rỗi các linh hồn. Còn Công đồng Vatican I được triệu tập để đối phó với các
phong trao duy lý, duy vật, phiếm thần và vô thần đang hoành hành trong tư
tưởng Âu Châu và lan dần vào xã hội. Công đồng này đã tuyên bố tính cách bất
khả ngộ của Ðức Giáo Hoàng. Hai công đồng này đều coi thế giới bên ngoài như
một đe dọa và lấy việc bảo vệ mình là quan trọng (Apology). Trong khi đó, Công
đồng Vatican II coi trọng sự hiện hữu của Giáo hội là “Ánh Sáng của trần gian”,
nên một đàng kêu gọi mọi tầng lớp Dân Chúa tự phản tỉnh tìm lại nguồn sống của
mình là chính Ðức Kitô, nhờ đó mới có thể là Ánh Sáng được; đàng khác cần tìm
hiểu trần gian là nơi mình “soi chiếu” (phục vụ). trong quan điểm này, “hợp
thời hóa” (aggiornamento), “hiểu dấu hiệu của thời đại”, “đối thoại”, v.v… đã
nhấn mạnh đến sự quan tâm của Giáo hội đối với trần thế.
Nói tóm lại, Công
đồng Vatican II là một công đồng “Mục Vụ” hơn là bàn về những “tín điều” (mặc
dù không thiếu những điều phản tỉnh căn bản làm sáng tỏ tín điều, làm nền tảng
cho công việc mục vụ), và luôn quan tâm tới sứ mạng của mình là nhiệm tích của
“trần gian” hơn là hiện hữu cho chính mình: “Trung tâm sự hiện hữu của Giáo hội
ở ngoài Giáo hội”. Giáo hội thực sự tìm lại ý nghĩa hiện hữu nguyên thủy: “được
sai đi” (nghĩa là truyền giáo).
Sau đây chúng ta đề
cập tới một số chi tiết đặc biệt của Công đồng Vatican II đã ảnh hưởng tới việc
phản tỉnh về cơ cấu Giáo hội: đa dạng hòa trong hiệp nhất, phản tỉnh lý thuyết
bắt đầu bằng thực hành, hiệp thông trong đối thoại. Từ những đặc thù này, chúng
ta khám phá ra một trọng tâm hợp lý mới của cơ cấu Giáo hội: người tín hữu giáo
dân.
Công đồng Vatican
II là một biến cố đầu tiên trong Giáo hội Công giáo đã quy tụ được số giáo phụ
đông đảo nhất (3,058 vị so với Công đồng Vatican I là 747 vị, và các công đồng
trước còn ít hơn nữa) từ khắp nơi trên toàn thế giới, gồm đủ mọi màu da và sắc
tộc. Sự đầy đủ cả “lượng lẫn phẩm” này đã nói lên tính cách đa dạng, và xác tín
về bộ mặt mới của Giáo hội. Từ đây Giáo hội Công giáo Lamã thoát thai trở thành
Giáo hội hoàn vũ: bên cạnh Ðức Giáo Hoàng là Thượng Hội Ðồng Giám Mục thế giới
bao gồm các Hội Ðồng Giám Mục các quốc gia. Vì Giám mục vừa là vị chủ chiên
giáo hội địa phương, và vừa được tái xác định là người kế vị của các thánh Tông
Ðồ, đã được Chúa Kitô chọn và sai đi.
Việc xác nhận Cộng
đoàn Giám mục, không những trong thời họp Công đồng hay họp Thượng Hội Ðồng thế
giới, là nền tảng cho việc xác nhận các Hội Ðồng Giám Mục tại các quốc gia, và
đồng thời cũng chân nhận thực tại của giáo hội địa phương nữa. Sự kiện này quan
trọng đến nổi K. Rahner đã coi đó như là một góp phần quan trọng nhất và đầy
hứa hẹn nhất của Công Ðồng Vatican II. Thực vậy, vai trò Giám mục là quan trọng
trong cơ cấu tổ chức, các ngài vừa hiểu biết vừa trực tiếp điều hành Giáo hội
đa dạng thuộc các địa phương khác nhau, nhưng đồng thời cũng chia sẻ với Ðức
Giáo Hoàng trong quyền kế vị các Thánh Tông Ðồ để hợp nhất Giáo hội hoàn vũ.
Chính tính cách hợp nhất trong đa dạng, phân công để hợp tác này đã bộc lộ rõ
ràng nhất khi kết thúc và ban sắc lệnh thực thi Công Ðồng Vatican II.
Khi Công đồng
Vatican I kết thúc, Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã dùng thể thức truyền thống từ thời
Trung cổ để lại: “sacro approbante concilio” với ấn ký của ngài. Còn Công đồng
Vatican II đã được kết thúc bằng một nghi thức chưa từng có trong lịch sử Giáo
hội Công giáo là: đầu tiên là lời nhắn nhủ và ban bố của ÐGH Phaolô VI, sau đó
là những Thông điệp ngắn nhưng súc tích do nhiều Hồng Y, Giám mục đại diện
nhiều quốc gia đồng soạn nhằm gởi đến các tầng lớp trên khắp thế giới: từ giới
trí thức, văn nghệ sĩ tới phụ nữ, dân lao động, cho tới những người nghèo, bệnh
hoạn và đau khổ, rồi cuối cùng là giới trẻ.
Nhắc tới một vài
dữ kiện quan trọng trên, chúng ta thấy rằng Công Ðồng Vatican II không những
chỉ xác định lập trường hay chủ trương hợp nhất trong đa dạng, nhưng thực sự đã
khai phóng một đường hướng “thực hành thần học mới”: lấy dấu hiệu thời đại làm
khởi điểm cho phản tỉnh thần học và mục vụ, rồi đưa ra những lý thuyết (tức là
những văn kiện) để hướng dẫn thực hành. Nếu nhìn lại những tài liệu ghi lại sự
thành hình của các văn kiện, và cuối cùng thành những hiến chế và sắc lệnh của
Công Ðồng, chúng ta sẽ thấy rõ đó là kết quả của các Tiểu Ban nổ lực thu thập
tài liệu, cộng thêm những tranh luận dựa trên những “dấu hiệu thời đại” để hợp
thời hóa.
Tóm lại, kết quả
này được thành hình là nhờ việc biết tổng hợp cả hành động lẫn lý thuyết vậy.
Donal Kerr đã ghi lại hình ảnh “đang xảy ra” ở tại Roma lúc đó: “Khung cảnh
sinh hoạt quan trọng chưa từng có: nhiều giáo phụ đồng loạt cùng nhau cắp sách
đến trường để học hỏi những vấn đề thần học mới, đàng khác nhiều nhà chuyên môn
được mời về Roma để lắng nghe và phát biểu ý kiến trong những phiên họp khoáng
đại… Roma đã thành một hiện trường hội nhập “phản tỉnh” hay ít nhất là “lắng
nghe” vấn đề thần học quan trọng. Nếu đường hướng thực thi thần học này trở nên
mẫu mực cho những cuộc hội họp khác thuộc phạm vi nhỏ hơn như trong các địa
phận hay xứ đạo, thì có lẽ giáo hội địa phương sẽ trở thành sống động hơn
nhiều, vì không những lý thuyết và thực hành trở thành một thực thể bất khả
phân, hơn nữa mỗi người tham dự đều tích cực đóng góp tùy theo phạm vi “chuyên
môn” của mình; đồng thời cũng nhận lãnh những linh cảm của người khác. Kinh
nghiệm “đặc biệt” qúy giá của các giáo phụ phải là mẫu mực mới (paradigm) của
các cộng đoàn dân Chúa, thì việc hợp tác giữa các tầng lớp mới thực thi đúng
đường hướng của Công đồng được. “Sự liên quan thực tại giữa thực trạng linh
động và thực trạng xã hội nơi chúng ta phục vụ là một nguồn mạch căng thẳng
không ngừng trong thuyết lý giáo hội xã hội học và trong chính cuộc sống của
Giáo hội”.
Công đồng Vatican
II là một Công đồng đầu tiên không có đề mục nào lên án tuyệt thông. Nét độc
đáo trong Giáo hội nói lên tính cách đặc thù chủ trương dùng đối thoại như là
một phương tiện cần thiết để hợp nhất Kitô giáo, cũng như liên lạc với các tôn
giáo khác, kể cả việc giao tiếp với những người vô thần. Nguyên tắc bình đẳng
(par cum pari) và tôn trọng lẫn nhau là điều kiện thiết yếu để có một cuộc đối
thoại chân chính. Ðể có tinh thần công đồng tính này (ecumenical), Giáo hội một
đàng chân nhận thân phận “hành hương” của mình, nên không từ chối chấp nhận
“ecclesia semper reformanda” (Hiệp nhất số 6), đàng khác khi tìm hiểu cần phải
tôn trọng chân lý cộng với lòng nhân hậu. Nếu về đối thoại, Công đồng càng phải
đề cao mối liên lạc giữa các cơ cấu và sự hợp tác giữa các chi thể trong Giáo
hội nhiều hơn. Lẽ đương nhiên, cần bàn sâu xa và phổ quát của niềm tin thông
hiệp trong đối thoại phải là sự hiện hữu của Thánh Linh hoạt động trong và ngoài
Giáo hội: “Giáo hội vững mạnh nhờ Thần Lực của Chúa Phục sinh để toàn thắng các
khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài bằng yêu thương với kiên
trì và trung thành mặc khải cho thế gian mầu nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng
tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn trong ngày sau hết” (Ánh
Sáng trần thế số 8).
IV. Dân
Chúa và cơ cấu Giáo hội
Theo Y. Congar,
Công Ðồng Vatican II lúc đầu tiên bàn về Giáo hội đã đứng trên lập trường luật
tính, coi Giáo hội như là một “xã hội hoàn hảo” và một “xã hội có phẩm trật”
(societas inaequalis). Thực ra hai quan niệm này chỉ chung quy thành một mà
thôi, vì một xã hội có trật tự lớp lang mới là một xã hội hoàn hảo. Quan niệm
này (socieas perfecta) bắt nguồn từ lập trường triết học chính trị của
Aristoteles. Mặc dù Thánh Tôma Aquinô chỉ khai triển trên phạm vi dân sự, nhưng
về sau quan niệm này được dùng để chỉ trích và phê bình cơ cấu và hiến pháp dân
sự, nhất là sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Nhưng chuẩn tắc để phê bình là gì? Là
một xã hội lý tưởng. Từ ÐGH Grêgôriô XVI (1839) trở đi, Giáo hội đồng hóa mình
với xã hội lý tưởng này, vì Giáo hội có căn bản “quyền thần” làm nền tảng hợp
thức cơ cấu hiện hữu của mình. ÐGH Piô IX đã kết án những ai coi Giáo hội không
phải là xã hội chân thật và vẹn toàn, là sai lầm (DS 2919). Từ Công đồng
Vatican I trở về sau, Giáo hội hay xã hội hoàn hảo này đã được đồng hóa với xã
hội có phẩm trật (hierarchial) trong đó bao gồm hàng giáo sĩ và phần còn lại là
giới giáo dân.
Quan niệm trên đây
được nhiều nhà thần học coi như là giáo luật tính của giáo hội học mà Giáo hội
cần phải có để tồn tại cho tới kỳ thế mạt. Vì thế quan niệm này đã được đưa vào
làm căn bản trong các buổi thảo luận. Và ÐHY Montini (tức là ÐGH Phaolô VI) đã
không ngần ngại điều chỉnh lại quan niệm này vì quan niệm này có tính cách quá
nhấn mạnh về luật lệ hóa các cơ cấu của Giáo hội như sau: Giáo hội tự mình
không thể làm được gì cả, cả đến việc hiện hữu của Giáo hội và việc nhận lãnh
những hồng ân cũng đều do chính Ðức Kitô ban cho mà thôi vì Ngài vẫn còn tiếp
tục hoạt động trong Giáo hội luôn.
Khi nhấn mạnh Ðực
Kitô làm trung tâm, Giáo hội hiện hữu như là một “mầu nhiệm” (mystery) hơn là
một thực thể chỉ đơn thuần thống nhất nhờ nguyên tắc lề luật mà thôi. Từ quan
niệm này, ngày 5.12.62, Ðức Montini đã đề nghị xin các giáo phụ quan tâm nhiều
hơn tới cộng đoàn các Thánh Tông đồ là căn nguyên của các cộng đoàn Giám mục.
Tóm lại, vì Ðức Kitô là trung tâm của Giáo hội, Giáo hội hiện hữu là một mầu
nhiệm tham dự Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Danh từ “Hiệp Thông” đã trở thành “chìa
khóa” mở cửa vào khoa giáo hội học của Công Ðồng Vatican II và cả cho thời hậu
Công đồng nữa.
Nói cách khác,
Giáo hội là một cộng đồng Dân Chúa, trong đó mỗi người tín hữu đều được kêu gọi
để sống hiệp thông trong nhiệm vụ của mình như một thành phần của Nhiệm Thể để
sinh hoa kết quả và nhờ đó thánh hóa trần gian trong môi trường mình sống.
Chính vì Giáo hội hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, nên Giáo hội đã nhận ra được
Thiên Chúa muốn dùng mình và qua mình để cứu độ trần thế: Giáo hội hiện hữu là
kết quả của ơn cứu chuộc và đồng thời là lịch sử của ơn cứu chuộc. Trong ơn
thông hiệp này, Giáo hội là “bí tích của trần gian”, là “dấu chỉ” và đồng thời
“thực hiện” mầu nhiệm hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa và giữa con người
với nhau. Thực vậy, Giáo hội là “dấu chỉ” và đồng thời là “dụng cụ” Chúa dùng
nữa. Hai khía cạnh này bất khả phân và luôn bổ túc cho nhau.
Nhờ hiểu biết Giáo
hội là mầu nhiệm hiệp thông này mà chúng ta có thể thoát được ba chiều hướng
giải thích lệch lạc về Công đồng Vatican II, hoặc coi Công đồng Vatican I và II
là hai thực hữu đối nghịch nhau, hoặc dùng một trong hai lập trường như là “tín
điều” để phủ nhận lập trường khác, hoặc công nhận sự căng thẳng giữa hai lập
trường, nhưng muốn dùng viễn ảnh tương lai (utopic), tỷ dụ như trong hiệp nhất
như một thực tại sống động và hiệp thông thì những lập trường lý thuyết không
thể hạ giá thực hữu được, tức là mỗi tín hữu đều có chỗ đứng của mình và chỗ đó
là nơi ưu tiên cần mình phục vụ Chúa trong Giáo hội và trong thế gian. Mỗi
người đều là phần tử của Dân Chúa vậy.
Chương II của Hiến
chế về Giáo hội đề cập tới “Dân Thiên Chúa”, là điểm tựa để chúng ta giải thích
cho đúng và sứ mạng của giáo dân trong Giáo hội: qua phép Rửa, mỗi người tín
hữu đều là “dòng dõi được tuyển chọn, thành hàng tư tế vương giả và dân tộc
thánh”, là con Thiên Chúa nhưng được sinh ra bởi con người, và Thánh Thần ngự
trong tâm hồn họ như trong Ðền Thờ vậy. Dân tộc thiên sai này là “mầm mống của
hiệp nhất”, được Chúa Kitô thiết lập để “thông dự vào sự sống, bác ái và chân
lý”, được người xử dụng như “khí cụ cứu rỗi mọi người” được sai đi khắp thế
gian như “Ánh sáng trần gian và muối đất”. Như vậy theo chương trình mầu nhiệm
của Thiên Chúa, Giáo hội hiện hữu như một “sứ giả”, như một “khí cụ” của ơn cứu
rỗi, đang lữ hành trong thời đại này để tìm về Ðất Hứa. Bởi thế, Nước Chúa mới
là phạm trù cánh chung, còn Giáo hội phục vụ có phẩm trật chỉ là “phương thế”
để đạt tới biến cố cánh chung này. Trong ý nghĩa này, mỗi tín hữu đều là anh em
trong Ðức Kitô, đều đồng chia sẻ mầu nhiệm hiệp thông. Hơn nữa, vì Giáo hội
hiện hữu không phải vì mình và cho mình, nhưng như là “dụng cụ”của ơn cứu rỗi,
như là muối đất… thì người giáo dân chiếm một chỗ rất đặc biệt, nếu không muốn
nói là rất quan trọng và khó khăn nhất trong sứ mạng của Giáo hội: trực tiếp
thánh hóa trần gian.
Nếu Giáo hội hiện
hữu giữa trần gian phần lớn do giáo dân, lẽ đương nhiên là họ có quyền đòi hỏi
cần được lắng nghe, nhất là trong những phạm vi họ có thẩm quyền, như những vấn
đề liên quan đến đời sống hôn nhân, gia đình, thái độ của người Kitô hữu giữa
thế gian… Sự hiệp thông chân chính không thể đơn phương “thi hành điều quyết
định” được, nhưng là đa phương linh động, nhất là giáo dân cần được huấn luyện
để chủ động tham gia vào những đồ án có liên quan tới cuộc sống của họ hay cho
thực hiện những đồ án đó. Ðòi hỏi hợp lý này không phải là chối bỏ hay là đối
chất quyền uy phẩm trật, nhưng là lưu ý Giáo hội nhận rõ mức độ ưu tiên rong sứ
mệnh việc thánh hóa trần gian, cũng như cố gắng thánh hóa chính mình cũng là
một khía cạnh quan trọng khác của sứ mạng truyền giáo này. Nói cách khác, nếu
người giáo dân không thể nhận thức được vai trò chủ động trong phạm vi của
mình, cũng như nếu Giáo hội phẩm trật không ý thức sự hiện hữu của mình là nhằm
giúp đỡ và phục vụ cho giáo dân hơn là để cai quản hay ban chỉ thị, thì làm sao
sứ mạng “truyền giáo” tiến hành đúng mức được?
Chính vì vai trò
của người giáo dân quan trọng như thế, mà ÐGH Gioan Phaolô II đã đề nghị Thượng
Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới 1987 đặc biệt bàn về vấn đề “người giáo dân” và
chính ngài đã dùng Tông Huấn “Người Tín Hữu Giáo Dân” để diễn đạt mạch lạc và
trung thực lập trường của Thượng Hội Ðồng. CÐ Vatican II đã mô tả người giáo
dân theo hai khía cạnh: tiêu cực và tích cực. Theo khía cạnh tiêu cực, giáo dân
là tất cả các Kitô hữu “không thuộc thành phần có chức thánh hay bậc tu trì”.
Theo khía cạnh tích cực, người giáo dân là những người thi hành sứ mệnh của
toàn dân Kitô hữu “trong giáo hội và giữa trần gian theo nhiệm vụ riêng của
mình” (L.G.31). Vì hai khía cạnh mô tả trên mà nhiều người đã đặt vấn đề: vai
trò của giáo dân chỉ là hình ảnh tiêu cực của giáo sĩ hay tu sĩ mà thôi sao?
Trả lời câu hỏi này, Tông Huấn đã khẳng định rõ ràng: “người giáo dân hoàn toàn
thuộc về Giáo hội và thuộc về Mầu Nhiệm của Giáo Hội” (số 9). Họ, qua phép Rửa,
đã trở thành kẻ “tham gia theo cách thế của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao
giảng Lời Chúa và chức vụ Vương Giả của Chúa Kitô” (ibid).
Tông Huấn đã dùng
hình ảnh Ðức Piô XII giáo dân để diễn đạt “tham gia theo tính cách của mình”:
họ là những kẻ “đứng ở mặt trận tiền phong trong cuộc sống của Giáo hội; nhờ
họ, Giáo hội được trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người”. Như vậy,
định nghĩa của người giáo dân đã gạt bỏ được sự phân chia tiêu cực và tích cực,
đàng khác ý nghĩa của người giáo dân hiện hữu không còn phân ly thành “đơn
thuần thần học tính” hay “thuần túy xã hội tính”, nhưng là ý nghĩa hiện hữu của
Giáo hội giữa trần gian: “Vị thế của người tín hữu giáo dân trong Giáo hội được
minh định rõ ràng từ gốc rễ, bắt nguồn từ sự mới lạ của đời sống Kitô hữu và
đặc tính thế tục” (số 15). Tính cách thế tục không khác gì hơn là tiếp tục sứ
mệnh của Ngôi Lời Nhập Thể, là đích thân chia sẻ tình nhân loại: “Ngài đã trao
phó trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia vào việc tạo dựng,
để họ giải thoát thọ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ tự thánh hóa mình
trong địa vị hôn nhân, hoặc độc thân, trong gia đình, trong chức nghiệp và
trong các hoạt động xã hội” (số 15; propositio 4).
Hiểu rõ ơn gọi và
sứ mệnh của tín hữu giáo dân, chúng ta cũng hiểu được ý nghĩa toàn diện của
Giáo hội là một sự hiệp thông có cơ cấu, hiện hữu trong khác biệt nhưng luôn bổ
túc: “Mọi phần tử của Giáo hội có những ân sủng của Thánh Thần ban khác nhau
theo phẩm trật và ơn đoàn sủng (charismen) để Giáo hội hiệp thống nhất trong
hiệp thông và phục vụ: sự hiệp thông là điều kiện thiết yếu để sinh hoa trái
(Jn 15,1-16), như cành hiệp nhứt với cây nho mới có thể sinh hoa trái được.
Ngược lại hoa trái là kết quả hữu hình của sự hiệp thông. Và Giáo hội được sai
đi để sinh hoa kết quả. Trong sự liên đới mật thiết này, chúng ta hiểu thấu
được Hiệp Thông giữa các Thừa Tác Viên và các tín hữu giáo dân, giữa hồng ân bí
tích và ơn đoàn sủng, giữa giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ, giữa giáo
xứ và cá nhân Kitô hữu.
Tóm lại, giữa
thánh hóa (sanctitas) và truyền giáo (missio) mà mỗi tín hữu đều được gọi và
sai đi theo cách thế của mình giữa trần gian. Sau đây là một vài lời trích dẫn
được các Giám Mục hay Hồng Y lặp lại trong Thượng Hội Ðồng, hay được chính ÐGH
trích dẫn trong Tông Huấn, đáng cho chúng ta lưu ý; “Ðối với anh em, tôi là
giám mục, cùng với anh em, tôi là tín hữu” (Augustinus); “ích lợi của mọi
người” (diễn đạt Kinh Tin Kính); “trong Giáo hội, mọi người lo nâng đỡ các
người khác và các người khác lo nâng đỡ từng người” (Gregorio Cả).
Kết luận
Qua phép Rửa tội
và phép Thêm sức, tất cả Kitô hữu, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, đều được
Chúa gọi thành Dân Chúa để thực hiện sứ mệnh mà Chúa đã truyền giáo cho Giáo
hội, là dấu chỉ của Nước Chúa thống trị hầu trở thành dụng cụ Chúa dùng để
thánh hóa thế gian cho đến ngày Chúa lại đến. Như vậy, Giáo hội thánh hóa mình làm
“men”, làm “ánh sáng” cho muôn dân, do đó Giáo hội không hiện hữu cho mình và
vì mình nhưng vì tha nhân: trung tâm của Giáo hội ở ngoài mình. Nhiệm vụ chính
của Giáo hội là “truyền giáo”.
Ðể đạt được thực
thể sống động này, chúng ta có thể dùng nhiều mô hình và mỗi mô hình nhấn mạnh
đến một khía cạnh quan trọng nào đó, nhưng chính vì thế mỗi mô hình cần sự bổ
túc của các mô hình khác (16). Tỉ dụ mô hình Giáo hội là một “cơ câu” nhằm diễn
đạt Giáo hội là một “xã hội hoàn toàn”. Trọng tâm của phẩm trật hoặc đặt ở địa
vị thừa kế của Thánh Phêrô như Công đồng Vatican I, hay ở cộng đoàn thừa kế các
Tông đồ mà Phêrô là đại diện như Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh. Ưu điểm của
mô hình này là làm nổi bật Truyền Thống và Tông truyền. Bao lâu Giáo hội còn là
dụng cụ ban phát ơn thánh thì mô hình cơ cấu này mới còn giữ được vai trò quan
trọng. Dẫu vậy, Giáo hội hiện hữu trong cơ cấu không nhứt định phải nhận chủ
nghĩa cơ cấu, có phẩm trật không nhứt định phải nhận chủ nghĩa pháp luật cũng
như giáo lý không phải là giáo điều. Bởi vậy mô hình này phải được đi đôi với
mô hình Giáo hội là “Tôi tớ” (diaconia).
Mô hình Giáo hội
là Tôi tớ diễn đạt cùng đích của Giáo hội hiện hữu: vì tha nhân và cho tha
nhân. Hình ảnh người Samaritanô nhân hiền đối với tha nhân, nhất là những người
bị hà hiếp, đau khổ, nghèo nàn… nói lên sứ mạng của Ðức Kitô: Người đến để phục
vụ, chứ không phải để được người khác phục vụ. Như vậy trần gian trở nên môi
trường và phương thế cho ơn kêu gọi Kitô hữu nói chung và cho người tín hữu
giáo dân nói riêng. Trong mô hình này, người giáo dân có một địa vị đặc thù: họ
là những chứng nhân thường xuyên và trực tiếp giữa trần gian. Vì sứ mạng của họ
thật cao cả, bất khả thay thế và đầy khó khăn nên cần sự “trợ giúp” và sự “cộng
tác” của các “thừa tác viên” trong phẩm trật Giáo hội.
Như vậy, giáo dân
là hiện thân Giáo hội phục vụ giữa trần gian, thì các thừa tác viên là “tôi tớ
của các tôi tớ” (servi servorum Dei). Hai mô hình trên nhấn mạnh đến hai khía
cạnh quan trọng của Giáo hội hiện hữu: nguồn gốc (theo lịch sử tính) và cách
chung của Giáo hội hiện hữu cần được một mô hình khác bao dung và liên kết, đó
là: Giáo hội như một Huyền Nhiệm Hiệp Thông. Ở đây bao quát những khía cạnh như
Giáo hội là Bí tích, là người rao giảng.
Giáo hội Hiệp
Thông nói lên nguồn gốc càng thâm sâu của Giáo hội: Chúa Ba Ngôi, và đồng thời
cũng diễn đạt được cùng đích của Giáo hội, đang và sẽ được các tín hữu nỗ lực
thực hiện trong mỗi thời đại của mình: Nước Chúa thống trị. Như vậy chúng ta
hiểu được tại sao trong Tông Huấn, Ðức Thánh Cha từ đầu tới cuối đều dùng những
cách thế khác nhau để nói lên tâm tình của Người chủ vườn nho”: “Các ông cũng
thế, hãy đi vào làm vườn nho cho Ta”. Lời mời gọi nhiều khi thành những lời
cảnh tỉnh: “Tại sao các ngươi đứng đây suốt ngày mà chẳng làm gì?”. Lời mời
gọi, lời cảnh tỉnh không ngoài mục đích nói lên sứ mệnh của toàn dân Chúa và
vai trò đặc biệt của người giáo dân trong Giáo hội và giữa trần gian là “truyền
giáo” vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét