Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Ý nghĩa Kitô giáo – Chương II: Dân Chúa

Ý nghĩa Kitô giáo
(The meaning of Christianity)
Tác giả: Lm Phêrô Nemeshegyi, S.J.
Người dịch: Lm Gioakim Đoàn Sĩ Thục.
Người hiệu đính và giới thiệu: Ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Chương II: DÂN CHÚA
CHÚA GIÊSU SỐNG TRONG CHÚNG TA
Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và đã sai Thánh Thần của Ngài đến “để qui tụ con cái Chúa đang tản mác khắp nơi” (Ga 11,52). Chúa Phục sinh đã ủy thác cho các tông đồ của Ngài mệnh lệnh: “Các con hãy đi… làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thày… và này, Thày hằng ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Ngài cũng đã cầu xin cho điều đó trong bữa ăn cuối cùng: “Con không chỉ cầu cho chúng, mà còn cho tất cả những ai tin ở con nhờ lời chúng, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chúng cũng ở trong chúng ta, hầu cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con… Con trong chúng và Cha trong Con, để chúng được nên một” (Ga 17,20-23). “Con trong chúng”: Chúa Giêsu Phục sinh sống trong chúng ta và đổ tràn tâm hồn chúng ta Thánh Thần của Ngài. Đây là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho các tín hữu của giao ước mới: Ngài ban tặng chính Ngài. Như thế, chúng ta trở thành con cái Chúa, anh em của Chúa Giêsu và chi thể của Thân Thể Ngài và là Đền Thờ sống ộng của Chúa Thánh Thần. Sự Sống mới mà Đức Kitô và Thánh Thần ban cho chúng ta được thể hiện qua lòng tin, lòng cậy và lòng mến.

TIN
Đời sống Kitô hữu là một tương quan cá biệt với Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, phó thác cho Ngài hoàn toàn, tin ở lời Ngài, đó là những thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Thánh Gio-an viết trong thư thứ nhất của Ngài như sau: “Chúng tôi biết và tin ở tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng tôi” (1 Ga 4,16). Chính Thiên Chúa nói với chúng ta qua lời nói, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đang nói với chúng ta rằng “Hãy tin rằng Ta đang ở với con, con là người rất quan trọng đối với Ta. Hãy tin rằng sự sống của con sẽ không bao giờ mất nếu được ký thác cho Ta. Hãy tin rằng Ta là Tình Yêu Bất Diệt”. Ngài hỏi chúng ta: “Con có tin Ta không?” Khi một người nào đó trả lời “Có”, người đó đã có đức tin. Người đó sẽ xây dựng cả cuộc sống của mình trên lời nói và sự thủy chung của Chúa. Người đó sẽ đặt tất cả cuộc sống và cái chết của mình trong tay Chúa. Đức tin không phải là một sự đón nhận một vài ý tưởng. Đó là một quyết định thay đổi cả cuộc sống của chúng ta. Một con người chỉ có thể quyết định như thế khi Thánh Thần chiếu rọi ánh sáng của Ngài vào trong đáy thẳm tâm hồn của người ấy. Chính Thánh Thần là Đấng làm cho người đó có thể nhận ra ánh sáng chiếu tỏa của Tình Yêu Thiên Chúa nơi bộ mặt đầm đìa máu me của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (2 Cr 4,6). Người có tâm hồn được Thánh Thần tháp nhập vào Thiên Chúa sẽ như thể hòa nhập với toàn thể các Kitô hữu của mọi thời đại. Không phải những cố gắng của con người làm cho những lời của Tin Mừng đánh động tâm hồn con người, mà chính là sự tác động của Thiên Chúa, Đấng “mở cửa tâm hồn chúng ta” (Cv 16,14).
Ơn Chúa rất khó đi vào tâm hồn của một con người kiêu ngạo, tự phụ, chỉ biết tìm vinh dự cho cá nhân, chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng tư hoặc cho rằng mình “biết tất cả mọi sự”. Thánh Thần đi vào và lấp đầy tâm hồn những ai thành tâm ước muốn Chân Lý, những ai “khao khát điều công chính” (Mt 5,6). Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Không ai có thể đến với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo người đó” và “Bất cứ ai nghe và học cùng Cha đều đến với Ta” (Ga 6,44-45). Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đức tin cũng đồng thời là một quyết định cá nhân của con người. Không ai bị cưỡng bách để tin vào Thiên Chúa do các phép lạ hoặc do sự cưỡng bách của Thánh Thần. Những dấu lạ chỉ bảo đảm với con người rằng quyết định chấp nhận Chúa Giêsu là một quyết định hợp lý. Nhưng người đó sẽ tin rằng ai là người đã thuyết phục mình lao mình vào cánh tay rộng mở của Thiên Chúa. Do đó, đức tin không ngừng bị cám dỗ. Có biết bao nhiêu điều xảy đến trong thế giới này xem ra đối nghịch lại với lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Nhưng khi một người được Chúa Giêsu Kitô làm cho “thuộc riêng về Ngài (Pl 3,12) và gắn bó với Ngài, thì sẽ không có sức mạnh nào có thể tách lìa người đó ra khỏi Ngài. Tin vào Chúa Giêsu, tin vào Tình Yêu của Chúa Cha, tin vào cuộc Chiến Thắng cuối cùng của Tình Yêu, dù cho bất cứ điều gì có xẩy ra, đó là lời tuyên xưng muôn thuở của một Kitô hữu đích thực.
Tin là hành động riêng biệt của mỗi tín hữu, nhưng người tín hữu không cô độc trong niềm tin của mình. Từ thời Thánh Phê-rô và Phao-lô, qua mọi thời đại cho đến ngày tận thế, vô số các Kitô hữu đều đi trên cùng một cuộc lữ hành. Họ không chỉ nói “tôi tin” mà nói “chúng tôi tin”. Hai tiếng “chúng tôi” rung động trong tâm hồn của triệu triệu anh chị em trong cùng một niềm tin thuộc mọi lục địa. Chúng ta tin cùng một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một Chúa Thánh Thần. Chúng ta đứng vững trên đá tảng vững chắc là lòng chung thủy của Thiên Chúa. Chúng ta đã cùng tìm thấy chìa khóa mở ra ý nghĩa của toàn thể vụ trụ. Lời Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong đức tin không phải là một mớ những lời tuyên bố được liên kết lại với nhau mà không có một hòa hợp nội tại nào hoặc hoàn toàn xa lạ với đời sống cụ thể. Tất cả tạo thành một toàn thể và chiếu rọi ánh sáng vào toàn tể cuộc sống. Điểm qui chiếu ấy có thể được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau, nhưng luôn luôn qui về một điều. Chính Chúa Giêsu đã diễn tả điều đó như sau: “Nước Chúa đã gần đến”. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều đó như sau: “Chúa Giêsu, Chúa chúng ta đã bị giết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại vì sự công chính của chúng ta” (Rm 4,25). Thánh Gio-an nói với chúng ta: “Thiên Chúa là Tình Yêu và ai ở trong Tình Yêu thì ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 4,16). Thánh nhân cũng đã nói: “Ngài đã không bị phán xét, nhưng đã đi từ cõi chết đến sự sống” (Ga 5,24). Công đồng Va-ti-can II đã dùng công thức như sau: “Thiên Chúa ở với chúng ta. Ngài giải phóng chúng ta khỏi bóng đêm của tội lỗi và sự chết và làm cho chúng ta sống lại trong sự sống vĩnh cửu”. Trong kinh Tin Kính, chúng ta lập lại lời tuyên xưng của các tông đồ: “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành vũ trụ. Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng tôi, Đấng đã hóa thân làm người vì chúng tôi, đã chết và đã sống lại từ cõi chết. Tôi tin Chúa Thánh Thần. Tôi tin Giáo hội, tôi tin ơn tha tội, tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu”. Lời tuyên xưng ấy cũng có thể được diễn tả như sau: khi sai Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần, Thiên Chúa là Cha đã tự trao ban cho chúng ta để chúng ta có thể tin ở Tình Yêu của Ngài, yêu thương Ngài bằng cách thế Ngài yêu thương chúng ta và nhờ Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta có thể chia sẻ sự sống vĩnh cửu trong Đức Giêsu Kitô.
YÊU
Khi một người tin với tất cả xác tín, tình yêu của Thiên Chúa sẽ tuôn đổ trong tâm hồn người đó như một kết quả tự nhiên của đức tin. Trong thư viết cho giáo đoàn Ga-lát, Thánh Phao-lô đã nói rằng chỉ có đức tin là đáng tin “đức tin hoạt động bằng tình yêu” (Gl 5,6). Một Tình yêu đích thực phát sinh từ đức tin. Gần như không thể diễn tả điều đó bằng lời nói. Chỉ có những ai cảm nghiệm được điều đó mới biết mà thôi. Nếu có ai hỏi thế nào là yêu bằng tình yêu đích thực, cách tốt nhất là chỉ cho người đó Chúa Giêsu, cuộc sống và cái chết của Ngài. Đó là tất cả câu trả lời. Tình yêu đích thực là được kết hợp với quả tim của Chúa Cha, với Thiên Chúa Đấng yêu thương bằng một tình yêu vô biên. “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta dường ấy, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,11). Chúng ta phải yêu thương bằng tất cả tâm hồn chúng ta, bằng những hành động cụ tể chứ không phải bằng những lời nói xuông. Chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha nhân. Tình yêu đích thực không loại trừ một người nào, kể cả kẻ thù của chúng ta. Kẻ yêu thương thực sự sẽ đau khổ vì lòng gian ác của người xấu, nhưng không phải vì thế mà thù ghét họ. Yêu thương đích thực là phải làm điều thiện và khao khát hạnh phúc ngay cho kẻ thù của mình. Một tình yêu vô điều kiện như thế, con người không thể có được duy với những cố gắng riêng của mình. Con người yêu thương đích thực là khi được Thánh Thần hướng dẫn, người đó tin rằng Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và phó mạng vì tôi” (Gl 2,20) và rằng Ngài yêu thương tất cả mọi người đều là anh em của tôi (1 Cr 8,11). Chúng ta chỉ yêu thương thực sự khi tình yêu của Thiên Chúa được đổ tràn trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được thông ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Kẻ không được Đức Kitô và Thánh Thần ngự trị trong lòng sẽ ganh tỵ, thù ghét người khác và vui thích khi thấy người khác gặp điều bất hạnh. Người đó chỉ xử dụng kẻ khác như phương tiện để đạt được quyền lợi và lạc thú riêng của mình. Tham vọng riêng cuả người đó sẽ chiếm lấy tất cả sự chú ý của người đó. Người đó sẽ không thể nhìn thấy nước mắt nơi người anh em của mình. Người đó không quan tâm đến đau khổ của người khác. Nếu chỉ “mắt đền mắt, răng đền răng” hoặc không phải sát hại kẻ đã bẻ răng hoặc móc mắt mình, thì đã là một điều cả thể rồi. Để yêu thương kẻ khác như Chúa Giêsu dã yêu thương, điều đó chỉ có thể có được khi Thánh Thần thấm nhập sâu đậm toàn thể con người chúng ta. Không ai có te mô tả Tình yêu ấy một cách tuyệt hảo như Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất Ngài gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Tình yêu thì nhẫn nhục và từ ái. Tình yêu không ganh tỵ hay khoe khoang, không kiêu hãnh hay thô lỗ. Tình yêu không tham lam, không tìm tư lợi, không giận dữ, không mưu mô gian ác. Tình Yêu tha thứ mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự” (1 Cr 13,4-7). Trong thư gửi các tín hữu Ga-lát, Thánh nhân cũng viết như sau: “Hoa quả của Thánh Thần là yêu thương, vui tươi, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung trực” (Gl 15,22). Tình yêu đích thực làm cho con người vui vẻ thực thi mọi giới răn của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã có lý khi nói: “Các giới răn ‘ngươi chớ phạm tội ngoại tình, ngươi chớ giết người, ngươi chớ trộm cắp, ngươi chớ làm chứng gian’ hay bất cứ giới răn nào, tất cả đều được tóm gọn trong một giới ran duy nhất là yêu thương hay đúng hơn một cuộc sống yêu thương.
Không có sợi giây liên kết nào vững chắc hơn tình yêu. Tuy nhiên, yêu thương không phải là một cưỡng bách. Không có phục vụ nào mà không là phục vụ vì yêu thương. Tuy nhiên yêu thương lại chính là tự do hoàn hảo. Không có nỗi đau khổ nào lớn hơn đau khổ vì yêu. Tuy nhiên yêu thương là niềm vui cao cả nhất. Không gì làm cho con người bị tổn thương cho bằng tình yêu. Nhưng không có sức mạnh nào mãnh liệt hơn tình yêu. Phân tích cho đến tận cùng, chỉ có tình yêu là đáng kể. Bởi vì tình yêu là sự sống vĩnh cửu.
HY VỌNG
Niềm hy vọng của người tín hữu Kitô không gì khác hơn là xác tín vững mạnh rằng tình yêu là vĩnh cửu. Nền tảng của niềm hy vọng Kitô giáo chính là niềm tin của chúng ta vào tình yêu của Thiên Chúa và sự phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và bởi vì Đức Kitô đã sống lại, chúng ta biết rằng không có gì là vô ích, rằng sự sống vĩnh cửu đã bắt đầu, rằng tình yêu mạnh hơn sự chết. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng chung thủy sẽ tác tạo một trời mới và một đất mới. Hoa trái của mỗi hạt giống được Thánh Thần gieo trồng sẽ được mặt trời làm cho chín mùi. Chúng ta biết rằng khi sống và hoạt động cho công lý, tự do và tình thương trên trái đất này, một cách nhiệm mầu, chúng ta đang chuẩn bị cho một cộng đồng huynh đệ sẽ được thực hiện trong nước vĩnh cửu của Chúa. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Qua chúng ta, Ngài đang hướng dẫn thế giới thụ tạo của Ngài đến một tình trạng hoàn hảo chung cục. Chúng ta tin rằng sống cũng nhu chết, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng vì yêu thương kẻ khác trong Chúa, cho nên dầu có chết, chúng ta vẫn sẽ sống mãi. Đó là niềm hy vọng của chúng ta và “niềm hy vọng này không lừa dối chúng ta” (Rm 5,5), bởi vì nó được xây dựng trên lòng thủy chung của Thiên Chúa, trên sự sống lại của Đức Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hỵ vọng cũng giống như một ánh lửa nhỏ bé của một ngọn đèn nhỏ, nhưng được nuôi dưỡng bởi dầu của Thánh Thần. Bóng đêm của thế giới xung quanh chúng ta không thể dập tắt được nó. Cho dẫu bóng đêm ấy có bao la đến đâu, nhưng nếu chạm đến ánh sáng bé nhỏ ấy, nó sẽ trở thành như không. Ánh sáng mạnh hơn bóng tối bội phần. Niềm hy vọng ấy là ánh sáng kỳ diệu. Không có thất vọng, không có thất bại nào có thể dập tắt được ánh sáng ấy. Niềm hy vọng ấy được bảo toàn và nuôi dưỡng qua mọi thời đại bằng một sức mạnh vô biên: sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa.
GIÁO HỘI
Tin, cậy, mến: liên kết trong một niềm tin, chiếu sáng bằng tình yêu hỗ tương, yêu thương mọi người, hy vọng rằng chúng ta sẽ về đến nhà Cha: đó là tâm tình chung của tất cả những ai thuộc vể gia đình Thiên Chúa. Ngay từ khởi đầu, Kitô giáo đã được thiết lập thành những cộng đoàn nhỏ của tin, cậy, mến. Và đó là kết quả của lời rao giảng của các tông đồ. Mỗi một cộng đoàn nhỏ này tự gọi là “Giáo hội của Đức Kitô”. Danh từ Giáo hội xuất phát từ một tiếng Hy Lạp có nghĩa là tập họp, qui tụ. Giáo hội của Đức Kitô là một cộng đoàn những người tin Đức Kitô, được qui tụ và sinh động bởi Thánh Thần. Đầu của Giáo hội là Đức Kitô và các tín hữu là chi thể của Thân Thể Ngài, được liên kết với Đầu là Đức Kitô (1 Cr 12,13).
Cũng chính Thánh Thần đó thúc đẩy mỗi người theo một cách thế riêng. Chính Thánh Thần là mối giây liên kết của cộng đoàn. Giáo hội là Dân Mới của Chúa. Dân được tuyển chọn không còn là một chủng tộc đặc biệt như thời Cựu Ước nữa. Giờ đây, dân này được qui tụ từ mọi dân mọi nước trên thế giới, được liên kết trong đức tin. Đây là thành quả của cái chết cứu độ của Đức Kitô và là ân sủng của Thánh Thần. Mỗi một phần tử của Giáo hội là con Chúa. Mỗi người đều tự do và bình đẳng trong phẩm gía làm người tín hữu Kitô trước mặt Chúa. Hiến pháp của Dân Mới này là giới răn của Đức Kitô: “Các con hãy yêu thương nhau nhuu Ta đã yêu các con”. Giáo hội tràn lan khắp mặt đất. Giáo hội được hiện thực nơi nào có các Kitô hữu tụ họp lại để lắng nghe Lời Chúa, để tưởng niệm bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu, để cùng nhau tuyên xưng niềm tin của họ, để nuôi dưỡng tình yêu của họ và để thắp sáng lên niềm hy vọng của họ. Dù cộng đoàn có nhỏ bé hay nghèo nàn đến đâu, Đức Kitô vẫn hiện diện trong đó và Giáo hội của Ngài cũng hiện diện trong đó. Chính Đức Kitô đã nói: “Ở đâu có hai hoặc ba người họp nhau lại vì Danh Ta, thì có Ta ở giữa họ (Mt 18,20).
THÁNH TRUYỀN VÀ THÁNH KINH
Việc rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô là điều qui tụ con người lại trong Giáo hội. Đó là lý do tại sao, ngay từ đầu, Giáo hội đã quan tâm một cách đặc biệt để bảo toàn và lưu truyền toàn vẹn lời giảng dạy của Đức Kitô được ủy thác cho mình (1 Tm 6,20). Chính nhờ đó mà “truyền thống của các tông đồ” được giữ gìn một cách sống động từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống này hay Thánh Truyền bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu. Nó được xây dựng trên sự giảng dạy và lời rao giảng của các tông đồ. Giống như một giòng suối tuôn trào, nó chẩy xuyên qua các thế hệ dưới sự đẩy mạnh của Chúa Thánh Thần là Đấng gìn giữ Giáo hội được sống động. Nó được biểu lộ trong toàn thể cuộc sống, lời cầu nguyện và giảng dạy của Giáo hội. Tuy nhiên, ý Chúa muốn rằng cái cốt lõi của Tin Mừng không chỉ được gìn giữ một cách sống động qua lời nói, mà còn phải được ghi lại bằng chữ viết nữa. Dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, một số người được Thiên Chúa tuyển chọn để ghi lại thành văn tự. Các lời ghi chép ấy được gọi là Tân Ước. Dân Do Thái cũng đã có riêng một sưu t6ạp các bài ghi chép do Thánh Thần linh ứng và họ xem đó như thẩm quyền tối cao nhất trong việc hướng dẫn cuộc sống của họ. Chính Chúa Giêsu cũng xem những lời ghi chép đó như được Thánh Thần linh ứng (Mt 22,43; Lc 22,37). Nhưng đối với Chúa Giêsu, những lời ghi chép đó chưa phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nhiều điều trong sưu tập của người Do Thái chưa được hoàn hảo. Chúng chỉ có một ý nghĩa có tính cách tạm thời. Cũng có những phần trong Thánh Kinh, theo Chúa Giêsu, vẫn còn phản ánh sự cứng cỏi của trái tim con người (Mt 19,8). Đó là lý do tại sao Ngài đặt lời giảng dạy của riêng Ngài đối nghịch lại với những qui định đã được “ủy thác cho các tiền nhân” (Mt 5,21-42). Dưới ánh sáng của giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giêsu, giao ước của Mô-sê trở thành “Cựu Ước” và những lời ghi chép lại giao ước cũ ấy là Cựu Ước, “Lời nói cuối cùng của Thiên Chúa, lời Ngôi Lời Nhập Thể: chính là Đức Giêsu Kitô (Dt 1,2). Cũng một cách thế, những cuốn sách của Tân Ước, tức những cuốn sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, là tuyệt đỉnh và đồng thời là chìa khóa giúp hiểu toàn bộ Thánh Kinh. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhìn nhận những cuốn sách sau đây như là thành phần của Tân Ước: đó là bốn quyển Sách Tin Mừng, Sách Công vụ Tông đồ, 24 thư của các Tông đồ, đa số là của Thánh Phao-lô và Sách Khải Huyền. Cũng như một người thích thưởng thức âm nhạc có thể nhận ra tức khắc tác phẩm của một nhạc sĩ đại tài, cũng thế, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhận ra trong những tác phẩm này tiếng nói của Phu Quân mình.
Toàn bộ Thánh Kinh, gồm có Cựu Ước và Tân Ước, là một kho tàng vô gía của Giáo hội. Trong hai ngàn năm qua, Thánh Kinh đã được sao chép và in ra không biết bao nhiêu lần. Thánh Kinh đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Ngay cả ngày nay, Thánh Kinh vẫn là Quyển Sách được đọc nhiều nhất. Ngay cả trong một quốc gia như Nhật Bản với đa số dân chúng không phải là Kitô hữu, Thánh Kinh vẫn được bán mỗi năm 3 triệu ấn bản.
Mặc dù đã được viết từ hai ngàn năm, Thánh Kinh vẫn mãi mãi mới mẻ. Đối với vô số người ngày nay, Thánh Kinh là ánh sáng chiếu soi họ trong cuộc lữ hành trần gian và là nguồn an ủi và vui tươi của họ. Đĩ nhiên, Thánh Kinh không nên được xem là một quyển sách lịch sử. Nó là một quyển sách tôn giáo. Với những hiểu biết hạn hẹp về khoa học tự nhiên, các tác gỉa Thánh Kinh suy nghĩ và viết theo sự hiểu biết của thời đại của họ. Nhưng trong những gì liên quan đến sự gặp gỡ với Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của chúng ta, họ là các hướng đạo bảo đảm nhất. Xuyên suốt qua Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với con cái của Ngài và Đức Kitô dạy dỗ anh em của Ngài. Trong Thánh Kinh, mỗi người có thể tìm thấy con đường của tin, cậy, mến là con đường dẫn đến sự sống vĩnh viễn.
CÁC TÔNG ĐỒ VÀ NHỮNG NGƯỜI KẾ VỊ CÁC NGÀI
Đức Kitô bảo đảm với Giáo hội của Ngài về sự trường tồn của Tin Mừng và sự hiện diện của Ngài với Giáo hội cho đến tận thế. Sự bảo đảm ấy được tìm thấy trong chính nhóm các tông đồ và những người kế vị các ngài. Chúa Giêsu đã không hề viết sách để lưu truyền lại lời giảng dạy của Ngài. Thay vào đó, Ngài qui tụ xung quanh Ngài một nhóm các môn đệ để làm chứng cho cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài sai các môn đệ như những sứ gỉa đi khắp thế giới: “Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con” (Ga 20,21); “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc 10,16). Ngài truey62n lệnh cho các ông hãy đi giảng dạy muôn dân (Mt 20,20). Sứ mệnh tông đồ, phát xuất từ chính Đức Kitô, là một sứ mệnh gắn liền với bản chất của Giáo hội. Sứ mệnh ấy cần phải được tiếp tục cho đến tận thế. Do đó, các tông đồ hằng quan tâm tìm những người cộng tác và kế vị. Lúc khởi đầu, chưa có một danh xưng nhất định để chỉ người kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, từ thế kỷ thứ hai trở đi, những người kế vị trong chức vụ các tông được gọi là giám mục và các cộng sự viên của họ được gọi là linh mục. Trách vụ của họ là rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô cho tất cả mọi người, là lãnh đạo và qui tụ thành một cộng đồng, giống như mục tử qui tụ chiên, để tế lễ nhân danh Đức Kitô và cử hành các bí tích.
Các Sách Tân Ước ghi lại rằng các cộng sự viên và những người kế vị các tông đồ nhận lãnh trách nhiệm và quyền bính qua một nghi thức gọi là đặt tay (2 Tm 1,6). Đó là dấu hiệu chứng tỏ họ đã lãnh nhận ơn đặc biệt để chu toàn trách vụ của mình. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là các giám mục và linh mục không còn là những con người yếu đuối nữa. Trái lại là khác. Tuy nhiên, chính họ là những người được Đức Ki-to ủy thác toàn vẹn Lời của Ngài, Quả Tim của Người Mục Tử Nhân Lành của Ngài, Thân Thể của Ngài và Lòng Nhân Từ Tha Thứ của Ngài. Các linh mục của Giáo hội thực thi sứ mệnh đó xuyên qua không biết bao nhiêu thế hệ rồi. Họ làm cho mọi người đều có thể gặp gỡ Đức Kitô và để cho Ngài tự do ban phát ơn cứu độ của Ngài cho họ.
Trong hàng ngũ các Tông đồ, Phê-rô đã được ủy thác cho một sứ mệnh đặc biệt. Và sứ mệnh này được truyền lại cho những người kế vị ngài. Chúa Giêsu đã chọn Phê-rô là “đá tảng” trên đó Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài. Ngài đặt ông làm thủ tướng trong vương quốc của Ngài. Chính Ngài đã hứa với Phê-rô rằng tất cả những gì ông cầm buộc dưới đất, trên trời cũng bị cầm buộc và tất cả những gì ông tháo gỡ dưới đất, trên trời cũng được tháo gỡ (Mt 16,16-18). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã trao phó cho Phê-rô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, chính Phê-rô đã đại diện cho các Tông đồ để lên tiếng công bố Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô (Cv 2,14-36). Vào cuối đời hăng say rao giảng Tin Mừng, Phê-rô đã chịu tử đạo tại Rô-ma. Một đá tảng kiên cố để giữ cho cả tòa nhà được vững chắc, để tham dự vào sức mạnh của Đức Kitô và bảo đảm sự hiệp nhất của Giáo hội cũng như loan báo niềm tin của mình cho đến tận thế: một chức vụ như thế cần phải được tồn tại trong Giáo hội. Giáo hội tiên khởi xác tín vững chắc rằng lời hứa và quyền bính được trao ban cho Phê-rô sẽ không chấm dứt với cái chết của ngài. Những người kế vị ngài trong chức vụ và quyền bính là các vị Giáo hoàng, tức những vị giám mục của kinh thành nơi Phê-rô đã làm thủ lãnh Giáo hội trong nhựng năm cuối đời ngài.
Đức Kitô hỗ trợ cho các sứ giả của Ngài một cách hữu hiệu cho đến tận thế. Ngài tuyệt đối trung thành với giao ước mới Ngài đã thiết lập. Như thế, chúng ta được bảo đảm rằng khi một chân lý đức tin được đoàn giám mục của toàn thể Giáo hội, cùng với Đức Giáo hoàng là thủ lãnh, long trọng công bố, thì một tín điều như thế là không sai lầm. Dĩ nhiên, khi làm như thế, các ngài không dựa trên quyền lực của riêng mình. Các ngài thi hành điều đó dựa trên sự mạc khải của Chúa, một sự mạc khải chỉ nên trọn hảo trong Đức Giêsu Kitô mà thôi. Một sự long trọng công bố tín điều như thế không phải là điều thường xẩy ra trong Giáo hội. Phần lớn các tín điều được công bố là để tránh những sai lầm trong Giáo hội. Tính bất khả ngộ, tức không thể sai lầm của Đức Giáo hoàng và đoàn giám mục liên kết với ngài chỉ có giá trị đối với những chân lý thuộc phạm vi đức tin và luân lý mà thôi. Tính bất khả ngộ ấy không hề được áp dụng vào lãnh vực chính trị hay khoa học. Một người công giáo tốt lắng nghe với lòng thành tín và yêu mến tất cả những gì Đức Giáo hoàng và các giám mục phải nói. Tuy nhiên, còn quan trọng hơn cả những công bố long trọng trên đây, đó là lời giảng dạy thường xuyên của các giám mục và linh mục trong mỗi ngày Chúa nhật, cũng như những lời hướng dẫn của các ngài cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu. Là những con người cho nên trong khi thi hành chức vụ, các linh mục không thể tránh khỏi những thiếu sót và giới hạn. Tuy nhiên, những gì các linh mục, các chủ chăn của toàn thể Giáo hội công bố với tất cả tâm huyết của họ như là cốt yếu của Tin Mừng của Chúa, thì những điều đó, nhờ Thánh Thần hướng dẫn, vẫn thông đạt cho chúng ta Lời của Đức Kitô.
Trong quá khứ, ngược lại với lời cảnh cáo của Đức Kitô, đã có những Giáo hoàng, giám mục và linh mục sống và hành động theo cung cách của những người giầu có và quyền thế trên thế gian này. Ngày nay, cám tạ Chúa, nhờ sự quan phòng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các vị đại diện trong Giáo hội mỗi lúc một ý thức hơn về lời nhắn nhủ của vị giáo hoàng đầu tiên là Thánh Phê-rô cho các linh mục như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên đã được ủy thác cho anh em, không phải vì ép tình, nhưng là với lòng nhiệt thành, không phải vì tư lợi, mà là vì tận tâm phục vụ” (1 Pr 5,1-3). Ngày nay tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, ơn gọi linh mục không còn là một hứa hẹn về những quyền lợi vật chất hoặc quyền hành chính trị nữa. Trái lại, ơn gọi ấy đòi hỏi phải sẵn sàng vác lấy thập giá của Đức Kitô vì Nước Chúa và sự công chính của Nước Chúa (Mt 6,33). Ơn gọi linh mục ngày nay không còn là một ơn gọi dễ dãi nữa. Tuy nhiên, ơn gọi ấy vẫn đáng giá để cho con người hy sinh cả cuộc sống của mình. Những ai cảm thấy được Đức Kitô kêu gọi phải tra tay vào cày và không nhìn lại đàng sau (Lc 9,62), họ phải đặt cày vào mảnh đất của Chúa. Chúa là chủ ruộng sẽ làm cho đồng lúa của Ngài chín mùa đúng thời hạn (Mt 9,38).
—————
SUY NGHĨ VÀ THẢO LUẬN
1. Đức tin Kitô của tôi có phải là một lòng tin mù mờ không? Hay nó là một lý thuyết trừu tượng? Hoặc chỉ là một ý tưởng bấp bênh? Hay trái lại, đức tin ất là một sự ký thác hoàn toàn vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho tôi trong Đức Giêsu Kitô?
2. Đâu là cốt yếu của niềm tin Kitô giáo? Tôi có thể diễn đạt điều đó bằng một cậu ngắn gọn không? Tôi phải trả lời như thế nào cho những người hỏi tôi “Tại sao bạn tin vào Đức Giêsu Kitô?”
3. Bạn hãy đọc 1 Cr 13 và thay thế tiếng Giêsu bằng tiếng “Tình Yêu”. Bạn thấy có ăn hợp không? Đâu là mối liên hệ giữa Tình Yêu Thiên Chúa và tình yêu của chúng ta? Làm thế nào để Tình Yêu của Đức Kitô được cụ thể hóa trong những quan hệ hằng ngày của chúng ta: gia đình, học đường, công sở, xưởng thợ, đời sống quốc gia và quốc tế? Bạn hạy đọc 1 Ga 3,11-18 và 4,7-12 và bạn hãy tự hỏi xem bạn có hoàn toàn chấp nhận giáo huấn được chứa đựng trong những đoạn này và bạn có cố gắng sống ohù hợp với giáo huấn đó không?
4. Tôi hy vọng ở điều gì? Tôi đang hy vọng có được một điều gì hay tôi đang hy vọng để được hiện hữu? Đâu là ý nghĩa đích thực của “hiện hữu”?
5. Tôi nghĩ về Giáo hội như thế nào? Như một người từ bên ngoài để phê bình Giáo hội? Như một khách hàng mua bán những dịch vụ của Giáo hội? Như một thành phần của một gia đình biết yêu và nhận ra trách nhiệm của mình? Tôi có cảm thấy liên đới với tất cả mọi anh em Kitô hữu trên khắp thế giới không?
6. Đâu là trách vụ chính mà tôi nghĩ là Giáo hội ngày nay phải có? Cộng đồng địa phương mà tôi đang là thành phần có là một sự cụ thẹ63 hòa của Giáo hội phổ quát của Đức Kitô không? Cộng đồng của tôi có hiệp nhất không? Làm thế nào để cộng đồng của tôi được hiệp nhất hơn? Cộng đồng của tôi có phải là một cộng đồng thánh thiện không? Làm thế nào để cộng đồng của tôi có phục vụ xã hội, có biểu thị được Tình Yêu của Đức Kitô, Đấng đã đến để phục vụ không?
7. Tôi có trân trọng yêu mến Thánh Kinh, Thánh Truyền của các tông đồ đã được lưu truyền cho chúng ta qua mọi thế hệ của các tín hữu không? Tôi có cảm thấy có trách nhiệm phải lưu truyền Thánh Kinh, Thánh Truyền ấy cho thế hệ kế tiếp không? Thánh Kinh có phải là quyển sáccch tôi thích đọc nhất không? Nếu không tại sao? Tôi có đọc Thánh Kinh để được hướng dẫn trong những chọn lựa của tôi không?
8. Đâu là thái độ của tôi đối với những người đang thi hành trách vụ đã được Đức Kitô ủy thác cho các tông đồ, tức Đức Giáo hoàng, các giám mục và linh mục trong Giáo hội? Tôi có thực sự cố gắng để nghe Lời của Đức Kitô được các ngài truyền đến cho tôi không? Đức Kitô có kêu gọi tôi để hiến dâng cả cuộc đời ddđể phục vụ Ngài bằng cách gia nhập hàng ngũ những người thực thi sứ mệnh tông đồ cho đến tận thế không?
9. Đức tin của tôi có phải là niềm vui và là điều mà tôi muốn chia sẻ cho người khác để chúng ta cùng chung vui với nhau không? Đức tin và đức ái của tôi có tỏa lan đến người khác và chinh phục họ không?
10. Tôi có nghĩ rằng tôi cũng phải tuân theo điều Chúa Giêsu đã nói trong lời cầu nguyện của Ngài: “Lạy Cha, xin gìn giữ chúng được nên một” (Ga 17,11) không? Tôi có cầu nguyện, hy sinh và hoạt động co sự hiệp nhất các tín hữu Kitô trong chân lý, tình yêu hay tôi đang thực sự xây lên những bức tường chia rẽ không?

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang