Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Giáo Hội Cần Linh Mục Nào

Lm. Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh: PRIESTHOOD IMPERILED,
A Critical Examination Of The Ministry
In The Catholic Church
Của : BERNARD HARING, C.S S .R.
Do nhà: TRIUMPH TM BOOKS ,
Liguori , Missouri xuất bản
LTS. Xin giới thiệu quý độc giả của sách của cha B. Haring, thần học gia luân lý. Chúng tôi xin giới thiệu cuốn sách này như là một tài liệu tham khảo và giúp suy nghĩ, chứ không phải là một tiếng nói của Huấn Quyền. Dù cuốn sách có nhiều suy tư sâu sắc và hữu ích, nhưng chúng tôi không đồng ý với nhiều điểm trong cuốn sách này, cụ thể là về vấn đề phụ nữ và chức linh mục. XBVN

1. Lời tựa
2. Lời giới thiệu
3. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời
4. Khám phá ơn gọi của tôi
5. Thánh lễ mở tay
6. Trong ngành y tế
7. Chúa có thể gởi một linh mục
8. Giữa đám dân tị nạn
9. Đánh thức ơn gọi
10. Sát cánh với các bệnh nhân
11. Hãy chữa lành những người ốm đau
12. Vai trò chữa trị của thần học luân lý
13. Quan tâm mục vụ với những người li dị
14. ÁNH SÁNG CỦA THÁNH KINH
15. Phép rửa của Đức Kitô
16. Dacaria, tư tế và ngôn sứ
17. Gioan Tẩy Giả
18. Sự tương phản
19. Câu chuyện về hy tế của Abraham
20. Người tôi tớ phi bạo lực
21. Tinh thần phi bạo lực
22. Chức linh mục của các tín hữu
23. NHẬN HIỂU Ý NGHĨA
24. Tiếng gọi dành cho Lêvi
25. Việc rửa chân tại Bữa Tiệc ly
26. Sự Kệch cỡn của tranh giành địa vị
27. Đức Giêsu - Người thợ mộc
28. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh
29. Một cử hành tạ ơn
30. Tất cả họ đều đầy tràn Thánh Thần
31. CHỨC LINH MỤC
32. Những Cộng đoàn ở Giêrusalem
33. Tính phong phú và đa dạng
34. Các trưởng lão của Giáo hội sơ khai
35. KHUÔN MẶT NGƯỜI LINH MỤC
36. Giám mục và Linh mục
37. Các ông hoàng của Giáo hội
38. Cuộc cách mạng của phong trào đan tu
39. Cuộc phản kháng phi bạo lực
40. Xuất khẩu và nhập khẩu các linh mục
41. CHỨC LINH MỤC
42. Những nỗ lực không thể phủ nhận
43. Trục trặc căn bản: Tách ly và kỳ thị
44. Một triết học và thần học đã lỗi thời
45. Xin cảnh bả: xu hướng khái quát hoá
46. Những ơn gọi ở tuổi muộn màng
47. Thánh Anphongsô Liguori
48. Hiệu lực của việc truyền chức
49. Cần biết hài hước
50. Cần loại thần học luân lý nào?
51. Vai trò của linh mục phình ra thái quá
52. VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN
53. Những xem xét khẩn trương
54. May mắn
55. Bất chấp những khó khăn
56. Độc thân
57. Hai nẻo đường khác biệt
58. Độc thân trong bối cảnh lịch sử
59. Độc thân linh mục
60. Độc thân và các vấn đề dân số
61. Tìm kiếm các giải pháp
62. Một linh đạo xây dựng cộng đoàn
63. KHUÔN MẶT LINH MỤC
64. Những nỗ lực ban đầu
65. Công Đồng
66. Những mẫu gương khích lệ
67. DỰ ĐOÁN TƯƠNG LAI
68. Một nhãn quan hoàn toàn mới
69. Các ơn gọi sứ vụ khác nhau
70. Ơn gọi tối thượng của Kitô hữu
71. Phụ nữ và chức linh mục
72. Để chủ tọa cuộc cử hành Thánh Thể
73. Linh mục thợ
74. Trong hoàn cảnh bị thách đố về thể lý
75. TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY
76. Con tàu Nô-e
77. Vừa kiêu hãnh vừa trịch thượng
78. Những con chim sơn ca
79. Nhà luân lý khắt khe
80. Những người lính gác
81. Những kẻ nệ nghi thức
82. Kẻ nhút nhát
83. Kẻ bi quan
84. Anh hề
85. Người nhạc sĩ
86. Nhà chữa trị
87. Người ngôn sứ
88. Hối nhân thánh thiện
89. NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ ĐỨC CHÚA
90. Maria: Nữ Tì của Thiên Chúa
91. Lời nguyện đúc kết
92. Hậu chú
93. ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ
Lời tựa
Cả đời linh mục của mình, tôi đã suy tư, giảng dạy và viết về câu hỏi: Giáo Hội cần đến loại luân lý và loại thần học luân lý nào? Quan điểm của tôi về vấn đề luân lý đã luôn luôn nhận ảnh hưởng từ – và luôn luôn được hiểu trong – bối cảnh rộng lớn hơn của một câu hỏi căn bản khác: Thế giới của chúng ta hiện tại và tương lai cần đến loại Giáo Hội nào? Gắn không rời hai câu hỏi nền tảng ấy là một câu hỏi thứ ba: Giáo Hội và thế giới của chúng ta cần đến loại sứ vụ nào?
Bởi vì tôi đã làm linh mục một cách vui vẻ và tận tình trong 56 năm qua và bởi vì trong phần lớn thời gian ấy, tôi đã đảm nhận công việc giảng dạy cho các linh mục và các chủng sinh, nên tôi được thúc đẩy – như một bổn phận – phải suy tư về loại linh mục mà tôi tin rằng Đức Giêsu đã mường tượng cho Giáo Hội trong sứ mạng thể hiện và loan báo sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta.
Trong thực tế và một cách cốt yếu, tôi đã phải đương đầu và trải qua những thay đổi rất quan trọng trong việc đào tạo linh mục qua ngần ấy tháng năm – đồng thời tôi cũng đã giúp bao người khác đương đầu và trải qua như vậy. Trong tiến trình đó, tôi không thể không suy nghĩ lại hình ảnh của chức linh mục cho thời đại chúng ta. Vì thế, khi tuổi đời mình đã xế chiều, có lẽ là thích hợp việc tôi cố gắng – qua tập sách nhỏ này – đưa ra lời chứng và chia sẻ kinh nghiệm của mình cho các anh em linh mục hôm nay và tương lai, cũng như cho tất cả các Kitôhữu là những người thi hành sứ vụ của mình trong Giáo Hội và trong thế giới.
Hơn nữa, tôi vuốt ve hy vọng rằng các Kitôhữu trưởng thành dấn thân trong sứ mạng và trong các sứ vụ của Giáo Hội - và tất cả những ai quan tâm sâu sắc đến chức linh mục - cũng sẽ đọc tập sách này. Tôi nói lên điều đó vì hai lý do. Thứ nhất, tập sách này sẽ tập chú vào ơn gọi linh mục chủ yếu từ nhãn quan ơn gọi căn bản của mọi Kitôhữu đã lãnh nhận Phép Rửa. Thứ hai, người linh mục không thể thực sự nhận hiểu ơn gọi chuyên biệt của mình nếu không có một nhận thức đúng mức và một lòng kính trọng sâu sắc đối với ơn gọi vừa cao cả vừa đầy thách đố của mọi Kitôhữu; cũng vậy, một điều rõ ràng không kém là tất cả các Kitôhữu dấn thân đích thực cần phải nhận hiểu sâu hơn, toàn triệt hơn về ý nghĩa của sứ vụ – để họ có thể sống triệt để và trân trọng đúng mức ơn gọi vừa phổ quát vừa độc đáo của họ.
Thần học luân lý thiết yếu phải suy tư về tất cả các nguồn thần học chính yếu, thì cũng vậy, quả là thiết thực việc chúng ta suy tư về chức linh mục Kitô giáo với cùng một cách thế tương tự. Tất nhiên, công việc suy tư này sẽ tùy thuộc vào một nhãn quan về nhân loại học, về những hình ảnh của Thiên Chúa và con người tương hợp cho thời đại chúng ta, về bản chất và sứ mạng của Giáo Hội... Đành rằng các suy tư thần học và cuộc hành trình không ngừng kiếm tìm sự thật của tôi có hàm chứa các kinh nghiệm bản thân mà tôi đã sống trong các bối cảnh khác nhau qua ngần ấy tháng năm, thì kỳ thực chúng vẫn được khơi lên bởi - và được cắm rễ trong - điều mà tôi cho là một khởi điểm tất yếu, đó là nhãn quan của Đức Giêsu như chúng ta khám phá thấy trong Thánh Kinh và trong truyền thống sống động của chúng ta, một truyền thống vừa lâu dài vừa phức tạp. Hai nguồn tri thức và khôn ngoan ấy phục vụ như một xúc tác giúp chúng ta biện phân: 1/ Thiên Chúa đòi hỏi những gì đối với con người linh mục? – và, 2/ Bằng cách nào chúng ta sẽ nhận diện được sự đòi hỏi đó cho hôm nay và tương lai?
Tôi không phủ nhận rằng mình cũng hơi sợ và âu lo khi dám chia sẻ những hy vọng, những cố gắng, những ước mơ và những xác tín riêng của mình với bạn. Thế nhưng, dù lo sợ, tôi vẫn tin rằng mình có lý do chính đáng để chia sẻ. Những giấc mơ của tôi, nếu chỉ được một mình tôi ôm ấp, sẽ vẫn cứ là những giấc mơ suông, nhưng nếu được chia sẻ bởi hàng triệu con người có khả năng hiện thực hóa chúng, thì chúng có thể xác lập một mức đáng kể tương lai của đời sống và sứ vụ linh mục. Thật vậy, các suy tư của tôi - được chia sẻ cho người ta thuộc nhiều ngôn ngữ và văn hóa khác nhau - đã trở thành một phương tiện giúp tôi tinh lọc các tư tưởng của mình, cũng như giúp tôi nhận định rõ và đo lường những chọn lựa dấn thân của mình. Tiến trình đó đã dẫn tôi đến chỗ tin tưởng sâu xa hơn rằng Giáo Hội và thế giới của chúng ta đang khẩn thiết cần biết hy vọng và biết nhìn một cách can đảm. Nói chung, Giáo Hội trong thế giới hôm nay cũng cần một công luận lành mạnh, không bị bưng bít và có sức chữa trị nữa.
Hồi tôi bước vào đời linh mục, mối quan hệ giữa linh mục và giáo dân có thể được đúc kết trong những dấu hỏi như sau: Các linh mục săn sóc dân Thiên Chúa như thế nào? Và bằng cách nào các ngài có thể vận động để các tín hữu hợp tác với các ngài? Tuy nhiên, ngày nay, mẫu thức làm việc là một mẫu thức mang tính hỗ tương và cộng tác, nó khơi lên một câu hỏi khác hẳn: Các linh mục cộng tác như thế nào cả với giám mục của mình lẫn với anh chị em giáo dân? Từ lăng kính này tôi đã mường tượng một chức linh mục cũng rất khác! Tôi thấy tất cả chúng ta cùng tìm kiếm với nhau trong một tinh thần tra vấn nhau để nhận hiểu hơn về quyền năng và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đối với Giáo Hội và thế giới.
Cuối cùng, xin chân thành cám ơn Joyce Gadoua, CSJ, đã tích cực cộng tác trong việc thực hiện bản dịch tiếng Anh của tập sách này.
BERNARD HARING, C.S S.R.
LỜI GIỚI THIỆU
Mới đây, tôi tình cờ bắt gặp một bài viết với cái tựa đề giựt gân: ĐỨC GIÊSU ĐÂU CÓ CẦN CÁC LINH MỤC! Là một linh mục cao niên, đã bỏ ra gần cả đời mình để giúp người ta xây dựng một tinh thần an hòa, vui tươi và bản lĩnh, song phải thú nhận rằng thoạt đầu tôi đã khó chịu với cái tiêu đề ấy. Thế nhưng, khi lần đọc qua bài viết, tôi khám phá rằng tác giả của nó, một nhà thần học Công Giáo, không hề có ý định chống đối chức linh mục. Đúng hơn, bằng những luận cứ chặt chẽ, ông thách đố bạn đọc suy ngẫm một câu hỏi thâm trầm hơn, đó là: “Đức Giêsu đã thực sự có ý định gì khi Ngài chọn và sai các Tông Đồ và các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người?”
Được gợi hứng từ bài viết đó, tôi đã đặt cho một số người Công Giáo tích cực câu hỏi rằng Đức Giêsu thực sự muốn hay không muốn chức linh mục. Họ trả lời câu hỏi của tôi bằng cách đặt ra câu hỏi của chính họ: “Hình ảnh nào về chức linh mục, theo cha, phù hợp với ý định của Đức Giêsu?” Trong khi câu hỏi của họ ít nhất biểu lộ một cách mặc nhiên niềm tin rằng Đức Giêsu đã có một cái nhìn về chức linh mục, thì họ đẩy lại cho tôi công việc phác họa cái nhìn đó.
Nhằm yêu cầu những con người trưởng thành ấy cùng tham gia vào cuộc suy tư này, tôi đặt lại câu hỏi nguyên thủy của mình một cách cụ thể hơn và hỏi họ: “Các bạn coi ai là mẫu linh mục lý tưởng mà Đức Giêsu đã phác họa?” Người thứ nhất trả lời: “Thưa cha, con nghĩ đến những người như Giám mục Jacques Gaillot, một vị tông đồ trung thực, thẳng thắn của hòa bình, một con người hoàn toàn dấn thân cho những kẻ bị loại ra bên lề cuộc sống.”
Mới đây, sau một bài nói chuyện với một nhóm vài trăm nhà hoạt động cho hòa bình, tôi thẳng thắn tuyên bố rằng một Kitôhữu, nhất là một linh mục, nếu không tỏa ra tinh thần hòa bình và không giúp thăng tiến hòa bình, nếu không cổ võ cho con đường phi bạo lực và cho một nền công lý phổ cập, thì Kitôhữu ấy chẳng có giá trị gì. Lập tức, từ trong thính giả có ý kiến: “Vậy phải nghĩ sao về việc cách chức Giám mục Gaillot, vị giám mục duy nhất ở Pháp nêu rõ lập trường chống vũ khí hạt nhân và kiên quyết đứng về phía những người tội lỗi và những kẻ bị khinh thường?” Hơi ngập ngừng, tôi nói: “Dường như một Kitôhữu, hoàn toàn dấn thân cho tinh thần phi bạo lực theo Tin Mừng, đương nhiên sẽ gặp rủi ro.” Tôi tin rằng đó là một rủi ro cùng loại với rủi ro của các ngôn sứ thời xưa, nhất là của Đức Giêsu, vị Ngôn Sứ và Người Mẫu của mọi thời đại.
Bạn đọc thân mến, vì thế, tôi mời bạn cùng bước vào cuộc tìm hiểu này để nhận hiểu sâu xa hơn về điều Đức Giêsu nhắm đến khi Ngài kêu gọi những kẻ tin Ngài thể hiện sự sống Phục Sinh của Ngài và loan báo chiến thắng cuối cùng của hòa bình trong và xuyên qua cuộc Phục Sinh ấy. Trong quá trình tìm hiểu, chúng ta sẽ tham chiếu đến Thánh Kinh và lịch sử – bởi vì Đức Giêsu, Đấng đã có, đang có và sẽ đến, dạy chúng ta trong nhãn giới của toàn lịch sử cứu độ.
Thật vậy, một lý do chính để khảo sát Thánh Kinh - (ngoài công việc rất quan trọng là vãn hồi ý nghĩa nguyên thủy trong những bối cảnh lịch sử khác nhau của nó) - là nhằm để khám phá theo một khoa chú giải mới những gì mà Tin Mừng muốn nói hôm nay, và những nhận hiểu này có thể ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩa của sứ vụ linh mục hôm nay và ngày mai. Như vậy, khoa chú giải này đòi hỏi chúng ta phải nhận hiểu và vận dụng các dấu chỉ của thời đại như một phần cốt yếu của cuộc thảo luận, nếu chúng ta muốn biện phân đúng đắn loại chức linh mục nào mà Đức Giêsu đã hình dung. Điều này đặc biệt quan trọng, vì với chủ điểm “linh mục”, chúng ta hầu như không tìm thấy gì liên quan trong Kinh Thánh Kitô giáo – chính bởi vì từ ngữ này chưa tồn tại vào thời mà Kinh Thánh được viết ra hay được sưu tập. Cuối cùng, điều quan trọng không phải là chính bản thân hạn từ chuyên biệt ấy mà đúng hơn là hiện tượng chức linh mục, theo một ý nghĩa chuyên biệt Kitô giáo, được ghi nhận trong lịch sử và qui hướng về cuộc đời và sứ vụ của chính Đức Giêsu.

KINH NGHIỆM GÓP NHẶT TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI

Dù được ý thức hay không, các kinh nghiệm sống của chúng ta sẽ ảnh hưởng trên cách nghĩ và cách cảm nhận của chúng ta về thực tại. Suy tư về những kinh nghiệm – cả tích cực lẫn tiêu cực - có thể là một công việc đầy bổ ích để hiểu sâu xa hơn cách thức Thiên Chúa hiện diện và hướng dẫn chúng ta trên hành trình đức tin của mình. Mang hoài bão ấy, khi kết thúc 56 năm linh mục của mình, tôi muốn suy tư ở đây về các kinh nghiệm của chính tôi - cũng như về cách mà những kinh nghiệm đó đã giúp tôi khám phá và tiếp tục thăng tiến ơn gọi linh mục của mình.
Khám phá ơn gọi của tôi
Đầu tiên, một điều thật chắc chắn: Những kinh nghiệm ấu thời của tôi với cha sở, một con người trung bình về mọi tiêu chuẩn, không gợi ra nơi tôi ý tưởng nào hay niềm khát khao nào muốn bắt chước ngài. Tuy nhiên, vào thời ấy, với chức thánh, vị mục tử được đoàn chiên nhìn nhận như một con người cao cả trỗi vượt, một thứ ông chủ, và là một trong những người được kính trọng nhất trong thị xã, cha sở là con người đưa ra phán quyết cuối cùng về mọi sự – dù phán quyết đó đúng hay sai.
Ngay từ hồi còn bé tẻo teo, tôi đã có một kinh nghiệm hãi hùng về con chó của cha sở. Không biết vì lý do gì, nó ghét cay ghét đắng tôi. Không giống như các thiếu nhi được cha sở đưa vào khuôn khổ răm rắp trong lớp học, con chó dữ tợn ấy được cho phép đi lang thang tùy thích. Không may, con đường từ nhà tôi đến trường phải đi ngang nhà xứ! Những lúc đi một mình, tôi tự võ trang bằng vài cục đá để tự vệ, phòng chống khả năng con chó có thể tấn công bất cứ lúc nào.
Vào một ngày như thế, con chó của cha sở chứng tỏ thế “thượng phong” của nó và tấn công tôi. Nó cắn đúng vào chỗ kín của tôi. Hoảng sợ, tôi chạy về nhà với mẹ, khóc bù lu bù loa suốt con đường. Sau khi săn sóc vết thương cho tôi, mẹ dẫn tôi đến nhà xứ và xin gặp cha sở để ngài tận mắt chứng kiến những gì con chó hung dữ của ngài đã gây ra cho tôi. Người giúp việc của ngài lạnh lùng trả lời: “Con Ki không vô cớ tấn công ai bao giờ!”
Thế đấy! Bạn thử tưởng tượng đi.
Tuy nhiên, tôi rất mừng để nói rằng khi cha sở thấy tôi trong tình trạng thê thảm như vậy, ngài tỏ vẻ cảm thông. Ngài cố an ủi tôi, rồi trao cho mẹ tôi một món tiền để mua cho tôi một cái quần mới. Nhiều năm sau, khi giảng tĩnh tâm cho các linh mục, tôi đã chia sẻ một bài suy niệm với đề tài “Con Chó Của Cha Sở” - dựa vào câu chuyện thời thơ ấu ấy của mình.
Họa vô đơn chí, đó không phải là kinh nghiệm cuối cùng của tôi với con chó kia. Vào giai đoạn đói kém ở Đức thời hậu chiến, tôi là một linh mục trẻ, phờ phạc dấu vết chiến tranh, trở về vùng quê ấy để giúp Mùa Chay. Vừa nhác trông thấy con chó ác ôn ngày trước - bấy giờ đã to mập hơn và hỗn láo hơn! - tôi cảm thấy sôi sục trong lòng. Dù tôi không tỏ ra một dấu hiệu gì ác cảm với nó, con chó vẫn gầm gừ khiêu khích. Rồi sau đó – vào khoảng nửa đêm, khi tôi giải tội về muộn - nó đã ra tay! Số là, trong bóng đêm tối mịt, tôi đứng đợi ở cửa nhà xứ, phía gần với khu vườn chỗ con chó hay đi qua và sủa la inh ỏi; tôi hy vọng sẽ có ai đó nghe tiếng nó và can thiệp. Vì chẳng ai chú ý, tôi đánh liều mở cửa và lập tức bị con chó độp một phát vào cổ. Hoảng hồn, tôi kêu thét lên. Nhưng một lần nữa, tôi hết sức ngạc nhiên và không thể tin vào tai mình khi nghe có tiếng nói vọng ra: “Con Ki không bao giờ vô cớ bắt nạt ai.” Sau này, có nhiều dịp lui tới rất nhiều nhà xứ, tôi ghi nhận rằng mình đã gặp rất nhiều con chó thân thiện, phản ảnh đúng những cha sở thân thiện - giống như con Ki phản ảnh rất đúng chủ của mình.
Kinh nghiệm thực tế đầu tiên của tôi với cha sở quê mình – xét trong tư cách là thầy dạy - đã xảy ra khi tôi tham dự lớp giáo lý của ngài. Là một con người rất nghiêm khắc, ngài thường giận dữ đến độ bất nhẫn, sử dụng đòn roi để kiểm soát và quản lý đám học sinh – không khác mấy với nhiều nhà giáo thời ấy. Đó là một trong những lý do khiến tôi không bao giờ gần gũi ngài, cũng không nhận được ấn tượng gì từ cung cách ngài giảng dạy đức tin Công Giáo.
Năm lên chín tuổi, tôi và các bạn cùng lớp được giúp sửa soạn rước lễ lần đầu, và biến cố này trở thành một kinh nghiệm không vui gì đối với tôi. Để đảm bảo rằng bọn nhóc sẽ xưng tội cách trọn vẹn, cha sở kể câu chuyện kinh khủng sau đây – câu chuyện làm tôi sợ điếng người:
Thầy tu già nọ qua đời một cách rất thánh thiện. Sau bài kinh “Requiem”, vị tu viện trưởng bắt đầu bài điếu văn ca ngợi người quá cố. Bỗng dưng, có một tiếng thét lớn từ trong quan tài:
-“Ngừng! Ngừng! Xin hãy ngừng những lời nói vô nghĩa ấy! Tôi đang ở trong hỏa ngục.”
-“Ủa, sao lạ kỳ thế?”, tu viện trưởng hỏi.
Người chết trả lời: “Dạ, lúc con xưng tội lần đầu, vì xấu hổ, con đã giấu đi một tội!”
Quá run sợ, tôi đã lấy giấy bút, ghi ra một bảng liệt kê dài ngoằng các tội – tội thực và tội tưởng tượng – và bắt đầu xưng thú với hy vọng ‘vuốt giận’ được Thiên Chúa, vị Thiên Chúa mà tôi hình dung là rất khắc nghiệt và sẵn sàng tống cổ tôi xuống hỏa ngục bất cứ lúc nào. Niềm háo hức trước đó của tôi đối với bí tích này chợt tắt ngúm ... cho tới khi một cha giải tội khôn ngoan của một tu viện gần đó đã cứu tôi.
Đối lập lại với kinh nghiệm nói trên, tôi có những ký ức dễ thương về người mẹ rất khôn ngoan của mình. Mỗi buổi tối mùa đông, mẹ đọc cho tôi nghe những đoạn Tân Ước đầy cảm kích, những câu chuyện về cuộc đời các thánh, và nhất là những mẩu chuyện về các nhà truyền giáo được viết phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Thật vậy, bố mẹ tôi đặc biệt quan tâm đến những tin tức về hoạt động truyền giáo ở nước ngoài. Tình yêu và lòng quan tâm của bố mẹ đối với công cuộc truyền giáo là hạt giống nuôi dưỡng nơi tuổi trẻ của tôi một khát vọng trở thành nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng tại Phi Châu hay Á Châu. Đó là niềm cảm hứng pha trộn giữa chất lãng mạn của tuổi trẻ và một nhận thức nghiêm túc về ý nghĩa của việc rao giảng Tin Mừng.
Khi tôi lên mười tuổi, việc chuẩn bị rước lễ lần đầu đã được cha sở làm một cách khá hơn. Sau mẹ tôi, chính chị Constantine là người đã giúp tôi nhiều nhất. Mẹ tôi ủy thác tôi cho sự ân cần hướng dẫn của chị Constantine – và vào hôm Rước Lễ lần đầu, tôi cảm thấy rất tự tin để nói với chị: “Em muốn trở thành một vị thánh.” Không chút tham vọng nào, nhưng vốn có tấm lòng và sự khôn ngoan của một giảng viên giáo lý đích thực, chị tôi đã trả lời một cách đơn sơ: “Nên lắm chứ!” Theo cách nghĩ của tôi, tôi thấy chị Constantine vượt xa cha sở nhiều năm ánh sáng về việc rao giảng cho tôi Tin Mừng ơn cứu độ. Và rõ ràng, chị đã bước đi trên con đường của Đức Kitô; rồi ở tuổi 51, chị qua đời một cách thánh thiện trong tư cách là một nữ tu Phan Sinh.
Gần 12 tuổi, có lần trong một khoảnh khắc lắng đọng, tôi sà lại chỗ mẹ tôi và hỏi: “Mẹ ơi, mẹ nghĩ gì nếu con trở thành một nhà truyền giáo – dù con biết mình phải cố gắng rất nhiều để đạt được điều đó?” Âu yếm nhìn tôi, mẹ khích lệ: “Bernard con, không có vị thánh nào từ trên trời rơi xuống cả. Điều mà những người khác làm được thì – với sự trợ giúp của ơn Chúa - con cũng sẽ làm được.” Kể từ giây phút đó, tôi quyết tâm hiện thực hóa giấc mơ thừa sai của mình. Tuy vậy, ở lứa tuổi đó, ý niệm làm ‘linh mục ‘ còn quá xa vời đối với tôi. Hình ảnh linh mục bằng xương bằng thịt của cha sở địa phương đã không hấp dẫn tôi chút nào, nhưng ý niệm về một nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng thì ngập tràn trong đầu óc non trẻ của tôi, với bao hình dung tuyệt vời. Đằng sau niềm hy vọng ấy, dấu hỏi căn bản vẫn còn nguyên đó với tôi: “Trở thành một vị thánh! Tại sao không?”
Ít lâu sau, niềm hy vọng truyền giáo của tôi được củng cố mãnh liệt bởi các cha Dòng Chúa Cứu Thế khi các ngài đến giảng tuần đại phúc tại giáo xứ. Tôi có ấn tượng đặc biệt với Cha Leonard Eckl, người về sau đã trở thành một nhà truyền giáo và được bầu làm Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế ở Brazil. Ngài có đặc sủng đặc biệt về việc khơi gợi và nâng đỡ các ơn gọi trong thanh thiếu niên. Các câu chuyện của ngài về những chuyến đi truyền giáo trên lưng ngựa để cử hành các bí tích và rao giảng về một Thiên Chúa tình yêu tại một số vùng của đất nước ấy đã thu hút sự chú ý của tôi cách mãnh liệt và đã củng cố nhiệt tâm nơi tôi.
Nhiều năm sau, khi sắp hoàn thành học trình tú tài, tôi đã manh nha nghĩ đến việc trở thành một nhà truyền giáo Dòng Tên. Số là, tôi rất ngưỡng mộ nhiệt huyết truyền giáo của các vị ấy: trở thành mọi sự cho mọi người tại các vùng đất A Châu. Tìm hiểu chương trình huấn luyện của dòng này, tôi được biết rằng sau giai đoạn tập, có hai hướng được mở ra: các sinh viên có năng lực được khuyến khích trở thành giáo sư, còn những sinh viên trung bình thì được mời gọi đi truyền giáo. Biết được điều này, niềm thích thú của tôi đối với Dòng Tên chợt tan biến – vì tôi muốn (song đã không đạt được) sự bảo đảm rằng mình sẽ trở thành một nhà truyền giáo chứ không phải là một giáo sư.
Bỏ cuộc với Dòng Tên, tôi tìm đến tham vấn vị Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế và dọ ý xem ngài có thể bảo trợ cho tôi trở thành một nhà truyền giáo hay không. Hết sức nghiêm túc, ngài nói rằng ngài có thể cung cấp cho tôi 90 phần trăm cơ hội để tôi hiện thực hóa giấc mơ của mình. Với đầy lòng xác tín, tôi gia nhập và hoàn thành giai đoạn tập của mình, rồi không lâu sau đó tôi được chỉ thị học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil. Cho tới lúc được truyền chức linh mục, tôi đã được chuẩn bị sẵn sàng để sống cuộc đời thừa sai và tôi hân hoan xác tín rằng đó là con đường cụ thể để tôi sống đời linh mục của mình.
Thánh lễ mở tay
Cùng với John Flad – là bạn và là anh họ của tôi - tôi thụ phong linh mục vào tháng 5, 1939. Còn nhớ, hồi tôi bắt đầu học thần học, mẹ của John (cũng là vú đỡ đầu của tôi) nói với anh ta: “Nếu Bernard, bạn con, dám học thần học, tại sao con không dám hở?” Ở đây có thể nói thêm rằng tôi vốn luôn được coi là kẻ dám liều hơn John; chắc hẳn cũng vì vậy mà tôi không được kể là một anh chàng ngoan ngoãn lắm. Điều thú vị là khá lâu trước những cải cách của Công Đồng Vatican II, John và tôi đã hăng hái bênh vực cho việc canh tân phụng vụ. Vì thế, xét rằng cả hai cùng đồng hành với nhau trong suốt những năm chủng viện, chúng tôi không thể hình dung mình không được phép dâng thánh lễ mở tay đồng tế với nhau. Tuy nhiên, không phải là những kẻ phản loạn, chúng tôi chỉ phê phán các qui định đó một cách ôn hòa mà thôi. Thật tiếc, mỗi chúng tôi phải làm lễ riêng, người này sau người khác, tại giáo xứ nhà quê của mình.
Hôm ấy trời trút mưa tầm tã, chúng tôi tự hỏi đó là điềm gì vậy. Vì John và tôi đều là những con người lạc quan, nên chúng tôi giải thích rằng cơn mưa ấy là một dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa tuôn tràn trên chúng tôi - để chúng tôi có thể trổ sinh dồi dào hoa trái.
Ít lâu sau, lúc tôi chuẩn bị mua vé tàu đi Brazil, Bề Trên Giám Tỉnh bất ngờ gõ cửa phòng tôi – và tôi hết sức ngạc nhiên về vinh dự này. Đây chính là vị giám tỉnh sáu năm trước đã bảo rằng tôi không cần phải sợ trở thành một giáo sư – và ngài cũng là người thầy đã hướng dẫn tôi học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil sau khi tôi khấn lần đầu. Té ra, cơn mưa hồng phúc dịp tôi thụ phong linh mục trở thành một gáo nước lạnh dội lên đầu tôi, khi tôi nghe vị giám tỉnh chậm rãi nhấn từng tiếng: “Khi các giáo sư của anh nghe biết anh được chỉ định đi Brazil, họ tỏ ra rất bức xúc với tôi. Họ muốn anh tiếp tục học để lấy học vị tiến sĩ thần học luân lý.” Giật mình, tôi trả lời: “Thưa Bề Trên, một yêu cầu như thế chỉ có thể là sự chọn lựa cuối cùng của con thôi.” Tôi cũng thẳng thắn trình bày thêm rằng tôi không ‘kỵ’ gì hơn việc phải học đào sâu loại thần học luân lý mà mình đã được dạy cho trong chương trình đào tạo. Giám Tỉnh lập tức trả lời: “Vì thế, chúng tôi muốn có sự thay đổi. Vả lại, anh không phải đi học ở Rôma đâu! Anh có thể chọn giữa Tubingen và Munich.”
Dù rất trân trọng sự tín nhiệm lớn lao mà các giáo sư dành cho khả năng trí thức của mình, tôi vẫn rất thất vọng vì các mơ ước và dự định của mình xem như đã hoàn toàn sụp đổ. Chỉ sau này khá lâu tôi mới nhận ra rằng lúc đó bề trên đã trao cho mình một sứ mạng thật quan trọng: tôi phải cố gắng hết sức mình để làm cho việc giảng dạy thần học luân lý thực sự trở thành một phần cốt yếu trong công cuộc rao giảng cho mọi người Tin Mừng về quyền năng và sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Vả chăng, lúc đó tôi không thể nào thấy trước rằng việc học và những kinh nghiệm của mình sau này trong chiến tranh sẽ giúp tôi có nhiều cơ hội để thực sự trở thành một nhà truyền giáo như mình vẫn ước mơ.
Trong ngành y tế
Được phép chọn lựa, tôi đã chọn học ở Đại Học Munich dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Theodore Steinbuckel; đây chính là một nhà tiên phong trong công cuộc canh tân thần học luân lý. Đề tài tôi được giao để làm luận văn tiến sĩ là: “Thánh và Thiện - hay mối Quan Hệ giữa Tôn Giáo và Luân Lý.” Tuy nhiên, chưa kịp bắt tay vào luận văn này thì tôi đã trở thành một trong những linh mục đầu tiên được gọi nhập ngũ vào quân đội Đức. Theo qui định của Bản Thỏa Ước giữa nhà nước với Rôma, các linh mục có thể được gọi nhập ngũ nhưng chỉ để phục vụ trong tư cách là những nhân viên y tế mà thôi. Đơn vị huấn luyện mà tôi được bố trí vào hầu như gồm toàn là các linh mục, bác sĩ và sinh viên y khoa. Tất cả chúng tôi sống với nhau trong bầu khí ấm tình huynh đệ – và tất cả đều chia sẻ nỗi căm ghét đối với cuộc chiến tranh phi nghĩa này.
Có một anh hạ sĩ nọ trong đơn vị tôi, tính tình rất chất phác, nhưng đồng thời cũng có nhiều mặc cảm tự tôn. Lần nọ, anh ta ra lệnh cho một linh mục phải vừa chạy dọc suốt chiều dài sân vừa la lớn: “Tôi là một thằng ngốc!” Chấp hành mệnh lệnh, anh linh mục ấy cắm cổ chạy và lém lỉnh la thật to: “Thưa hạ sĩ! Đúng, đúng! Hạ sĩ là một thằng ngốc!” Sự táo bạo ấy của anh bạn linh mục đã đem lại cho chúng tôi một trận cười nghiêng ngả – và nó cũng giúp đào sâu tình đồng đội của chúng tôi. Hơn nữa, câu chuyện ấy cũng cho thấy rằng các linh mục không ngu đần cũng không nhát đảm. Họ cũng không hề nghèo khiếu hài hước!
Là lính cứu thương, chúng tôi được qui định không bao giờ được phép làm bất cứ gì thuộc sứ vụ linh mục, trong bất luận trường hợp nào. Ai vi phạm điều lệnh ấy có thể phải nhận hình phạt tới chín năm tù. Tôi tự nhủ mình sẽ vi phạm điều lệnh ấy bất cứ khi nào có dịp cho mình vi phạm – tôi vốn đã chẳng từng mang tiếng là một anh chàng ‘bướng bỉnh’ đó sao! Trong cuộc chiến tranh kéo dài với Nga, tôi phục vụ trong bộ binh với tư cách là một trung sĩ cứu thương. Rất nhiều trường hợp, tôi mang về tuyến sau những người lính bị thương ở mặt trận, và tôi luôn luôn sẵn sàng phục vụ cho bất cứ ai cần đến sự săn sóc y tế. Qua thái độ sẵn sàng ấy của tôi, người ta nhận thấy rằng tôi thực sự là “một người trong họ” – và cũng nhờ đó, tôi nhận được sự tín nhiệm của họ ngày càng hơn.
Đàng khác, cũng có nhiều người quá khích luôn luôn tỏ thái độ khinh miệt các linh mục. Một hôm, một đại úy đã lăng nhục tôi trước mặt nhiều người lính. Tôi điềm tĩnh nói với anh ta: “Nếu một ngày nào đó anh cần sự giúp đỡ, tôi sẽ sẵn sàng. Xin anh đừng quên nhé!” Vài tuần sau, chuyện xảy ra là tôi mang chính viên đại úy ấy từ mặt trận về tuyến sau trong một cuộc tải thương ‘thập tử nhất sinh’ cho chính bản thân tôi – tôi chăm sóc vết thương cho anh ta một cách tận tình. Nước mắt ràn rụa, viên đại úy xin tôi tha thứ về sự xúc phạm của anh đối với tôi. Kinh nghiệm này đã giúp tôi thấy rõ hơn ý nghĩa của mấy tiếng “một người trong chúng ta”, một ý nghĩa được đào sâu thấm thía trong suốt cuộc chiến tranh ấy.
Đức Kitô, Con Người, là “một người trong chúng ta” cho hết mọi người không trừ ai. Cũng vậy, với tất cả niềm xác tín của mình, tôi đã chọn lựa vượt qua mọi biên giới quốc gia. Mùa đông 1940-41, đơn vị tôi đóng quân ở Normandy, nơi mà ban đầu rất nhiều gia đình Pháp và các linh mục địa phương đã coi tôi như một người bạn của họ. Bất chấp luật cấm của chế độ Đức Quốc xã, Chúa Nhật nào tôi cũng cử hành Thánh Lễ trọng thể trong Nhà Thờ Chính Tòa Bayeux, cho các quân nhân của chúng tôi và cho cả dân chúng địa phương của vùng đó. Vốn bị đói khát về tâm linh do hoàn cảnh chiến tranh, người ta đến tham dự thánh lễ mỗi tuần mỗi đông hơn. Chắc hẳn nhiều người trong họ không thể lường hết được sự liều lĩnh của tôi khi thi hành sứ vụ của mình như thế!
Một ngày Chúa Nhật, tôi cưỡi xe đạp vào thị xã và, trên đường, tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy ở Bayeux, ông gọi tôi lại. Tôi bồn chồn tự hỏi có phải ông ta muốn hạch tội mình về sự vi phạm của mình không. Và tôi sung sướng thở phào khi ông nồng nhiệt chào tôi và nói rằng ông cũng sẽ giúp tôi trong chuyện làm lễ ấy. Thêm nữa, ông còn ngỏ ý gửi đội quân nhạc tới để giúp cho Thánh Lễ thêm phần long trọng. Thế là từ đó ông cho người đưa tôi đến Nhà Thờ Chính Tòa bằng xe hơi! Rõ ràng, do nhận hiểu sự bất công của luật, viên chỉ huy này đã thể hiện một tinh thần cương trực và can đảm khi dám gạt luật qua một bên – ví ích lợi của mọi người.
Trong những tháng tiếp theo sau, các đường ranh giáo phái sụp đổ rất ngoạn mục. Một hôm, một nhóm quân nhân Tin Lành đến gặp tôi và ngỏ ý xin tôi tổ chức một buổi tối học hỏi Thánh Kinh với họ. Suốt thời gian ở đơn vị này, tôi đã gặp họ đều đặn và tình thân của chúng tôi ngày càng được đào sâu. Vào thời gian trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh với Nga, tôi đảm nhận việc cử hành Thánh Thể và giải tội chung cho các quân nhân thuộc các Giáo Hội khác nhau, và đa số trong họ đã tham dự. Trong tình hình khẩn trương lúc ấy, và với cảm nghiệm sâu sắc rằng tất cả chúng tôi là một trong Đức Giêsu Kitô, tôi nhận thấy quả là điều hết sức kỳ quái và tởm gớm việc kiên quyết duy trì sự phân biệt giữa người Tin Lành và người Công Giáo. Mọi người chúng tôi, bất kể thuộc niềm tin nào, đều cảm thấy được mời gọi chia sẻ trong mối hiệp thông. Vào một dịp khác, tôi nói với các người bạn Tin Lành của tôi rằng vị mục tử chính thức của họ chắc chắn sẽ đến để săn sóc họ, nhưng câu trả lời của họ là: “Thưa cha, thực sự chẳng có lý do nào để tạo ra bất cứ sự thay đổi nào cho chúng tôi cả, vì cha là ‘một người trong chúng tôi!’” Vâng, trở thành một người giữa những người khác – đó là một niềm vui và là đặc ân lớn lao hơn bất cứ cảm nghiệm nào khác mà tôi có được trong thời chiến, và tôi đã có nhiều dịp để kinh nghiệm lại điều này.
Tôi đã có những cơ hội tuyệt vời để cung ứng sự trợ giúp – cả về y tế lẫn về tâm linh - cho nhiều anh em Chính Thống Nga cũng như Ucraina. Chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ một cảm nghiệm đầy cảm kích qua một nghi lễ rửa tội cho một nhóm đông đảo các thiếu nhi và thiếu niên. Ít lâu sau đó, khi tôi nói với một số phụ nữ rằng tôi sẽ đến dâng Thánh Lễ vào Chúa Nhật tuần tới - tin tức này đã lan ra rất nhanh, và rất nhiều người, khao khát niềm vui của bí tích này, đã đến tham dự.
Gần cuối cuộc chiến bi thảm ấy, tôi là một tù nhân chiến tranh, được giam giữ tại một căn cứ ở Ba-lan. Giáo dân của một giáo xứ Ba-lan gần đó – mà tôi đã từng săn sóc cho một số bệnh nhân trong họ và rửa tội cho các em bé của họ – đã quyết định cứu tôi và vận động để tôi trở thành cha sở của họ. Một lần nữa, tôi cảm nghiệm được ý nghĩa thâm sâu thế nào là “một người trong chúng ta”. Đó là một biến cố giúp tôi thực sự nhìn thấy - bằng con mắt đức tin – ánh sáng của Đức Kitô, Đấng nhìn nhận chính Ngài là “Con Người”, là “một người trong chúng ta”.
“Chúa Có Thể Gửi Một Linh Mục Đến Với Tôi Sao?”
Vào một trong những ngày khốc liệt nhất ở mặt trận Nga, tôi hoàn toàn kiệt sức do phải làm việc với quá nhiều quân nhân bị thương và tử trận. Hy vọng tranh thủ được một chút nghỉ ngơi để hồi sức, tôi bắt đầu đào một hố cá nhân ngay trong tầm quan sát của ‘đối phương’. Vừa khi bắt đầu đào, tôi nghe một tiếng rên ở gần đó: “Cứu thương, cứu tôi với!” Xét theo tự nhiên con người và xét trong bối cảnh nhà binh, lúc ấy tôi có thể cho phép mình làm ngơ. Thứ nhất, vì tôi cảm thấy mình hoàn toàn kiệt sức; và thứ hai, con người đang kêu rên kia không phải là người của đơn vị tôi, không phải là “một người trong chúng tôi”. Tuy nhiên, bất chợt tôi nhận thấy rõ rằng anh ta là “một người trong chúng tôi”, một người – như mọi người chúng ta – đang cần tôi trong tư cách là một linh mục. Tôi tập trung hết sức lực còn lại của mình, bò ra kiếm người lính ấy. Mười phút sau, tôi tìm thấy anh ta giữa khoảng đồng trống, ngay trong tầm nhìn của lính Nga. Giờ đây nhớ lại, tôi vẫn còn ngạc nhiên không biết tại sao hôm ấy phía Nga đã không bắn tôi. Có lẽ họ nhận ra tôi là một lính cứu thương, và vì họ tôn trọng luật quốc tế nên tha mạng cho tôi. Đối với tôi, không bao giờ có chuyện phân biệt đối xử bên ta bên địch. Người linh mục không biết đến các vành đai phân cách; và người nhân viên cứu thương - do đặc tính công việc của mình - là người phục vụ kẻ khác không cần biết kẻ đó là ai.
Khi tôi tới chỗ người lính bị thương, tôi cố gắng giúp anh ta nhưng lập tức nhận ra rằng mình không thể làm gì để cứu sống anh ta được. Trong tâm trạng ân hận, tôi nói với anh: “Là một nhân viên cứu thương, tôi đã đến quá trễ, nhưng trong tư cách là một linh mục, tôi đang có mặt ở đây kịp thời cho anh.” Đôi mắt mở rộng với ánh nhìn ngạc nhiên, người lính hỏi: “Chúa có thể gửi một linh mục đến với một tội nhân như tôi sao?” Anh càng sửng sốt hơn nữa khi tôi cho biết rằng tôi có đem theo Mình Thánh Chúa cho anh làm của ăn đàng. Về sau, khi tôi báo tin cho gia đình người lính ấy về cái chết của anh, một linh mục – là anh em họ của người quá cố – đã cho biết: “Thật là một phép lạ! Anh ấy đã bỏ không lui tới nhà thờ kể từ khi xảy ra một vụ trong đó anh bị cha sở cư xử bất công một cách thậm tệ. Anh ấy đã không bao giờ trở lại – dù mẹ anh ấy vẫn không ngừng cầu nguyện đêm ngày cho anh được ơn trở lại.”
Một linh mục, nếu không phải là người cho người khác, thì linh mục ấy đang đi ngược lại ơn gọi của mình. Chỉ khi nào linh mục đáp ứng cho nhu cầu của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào mình được mời gọi đáp ứng, thì linh mục mới khám phá ra căn tính đích thực của mình nơi Đức Kitô, Đấng là “Con Người”, Đấng mãi mãi là “một người trong chúng ta.”
Riêng cá nhân tôi, thật là phấn khởi được nghe những người Nga, Ucraina, Ba-lan nói: “Cha Haring là ‘một người trong chúng tôi.’” Đành rằng nói cho cùng, đó không phải là cái gì phi thường lắm, song đó là một xác nhận quan trọng về căn tính của tôi – và là một thách đố tôi tiếp tục đào sâu và phát triển căn tính linh mục của mình suốt cuộc đời mình.
Giữa đám dân tị nạn
Ít lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng thừa sai của tôi được hiện thực hóa giữa những nạn nhân chiến tranh. Tôi và vài linh mục đồng sự trải qua một số năm rao giảng Tin Mừng cho những người tị nạn Công Giáo không nhà cửa ở Đức – họ sống trong những vùng, mà cho tới thời ấy, là những vùng riêng của Tin Lành. Không có một tổ chức giáo xứ hay cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở đấy. Suốt thời gian đó, mỗi năm tôi bỏ ra khoảng mười tuần để viếng thăm các vùng nói trên với ba linh mục khác – nhưng mỗi người chúng tôi phụ trách các thị trấn hay các làng riêng.
Ban đầu, chúng tôi thăm từng gia đình trong một khu vực nào đó - và đôi khi vị mục sư Tin Lành cho chúng tôi mượn nhà thờ để qui tụ và cử hành phụng tự. Tuy nhiên, đa số các trường hợp, chúng tôi thuê một vũ trường hay một căn phòng rộng để làm địa điểm qui tụ. Việc ăn uống ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người dân tị nạn này sắp xếp.
Tại một thị trấn nhỏ, không có người tị nạn Công Giáo nào mời tôi ngủ lại trong nhà họ, vì thế tôi đi tới một phòng trọ của một người Tin Lành. Chủ nhân cung cấp cho tôi một chỗ vốn thường dành cho những người ăn xin lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi nhận thấy các tấm trải giường lâu rồi chưa được thay. Vì những người ăn xin không có tiền để chi trả, nên chủ phòng trọ không buồn nghĩ đến chuyện săn sóc giường chiếu cho họ. Khi gia đình của một giáo viên Tin Lành phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ thay tấm trải giường cho tôi, mời tôi đi ăn tối, và thậm chí báo cho các người tị nạn Công Giáo biết về tình trạng chỗ ở của tôi. Nhờ biến cố đó, tôi đã nhận được sự trợ giúp đáng kể của những người tị nạn nhiệt tình liên đới với tôi.
Trước khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này, với lòng hăng hái của một linh mục, tôi đã chuẩn bị mười sáu bài giảng về các chủ đề chính của Kitô giáo, nhưng tôi đã không bao giờ dùng đến bất cứ bài nào trong số đó! Sống gần gũi người nghèo, tôi sớm hiểu ra rằng cách tốt nhất để rao giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn phải biết lắng nghe những ưu tư, hy vọng và niềm vui của họ.
Chính trong những năm đầy khó khăn thử thách ấy mà tôi đã bắt đầu viết ra các tư tưởng của mình, kết đọng lại trong tác phẩm ba tập Luật của Đức Kitô. Nếu không có những kinh nghiệm chia sẻ cuộc sống với bao người nghèo khổ và túng thiếu thời chiến tranh và sau chiến tranh như thế, thì bản văn kia của tôi rất có thể đã khác đi rất nhiều.
Quả thật, quãng thời gian đó đã giúp tôi nhận hiểu hơn rất nhiều về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng đã đi khắp các thị trấn và làng mạc Galilê rao giảng Tin Mừng cho người nghèo và là Đấng không bao giờ biết mình sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn sóc và rao giảng Tin Mừng cho các quân nhân và những người tị nạn đã trở thành một kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười tám quốc gia Phi Châu mà tôi đã phục vụ (một cách không liên tục) trong quãng thời gian hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II đã định hình nhãn quan, các ý tưởng và các phương thức thi hành sứ vụ của tôi trong Thế Giới Thứ Ba, và cũng đã hiện thực hóa những niềm hy vọng truyền giáo trước đây của tôi gấp trăm lần.
Những kinh nghiệm vừa có sức thay đổi đời sống vừa có tính thách đố sâu xa này đã cho phép tôi nhận thức những vấn đề nền tảng mà tôi nghĩ rằng rất có thể mình không bao giờ thực sự nhận hiểu nếu như mình không sống giữa người nghèo. Những kinh nghiệm ấy cũng giúp đào sâu nhận thức của mình về vai trò của người linh mục xét như là môn đệ Đức Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có thể thực sự chia sẻ sứ điệp Tin Mừng với những người cùng khổ nếu chúng ta không sẵn sàng đảm nhận thân phận nghèo của họ? Biết về cái nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn toàn khác nhau. Trở thành môn đệ của Con Người, điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy niệm hằng ngày - ở đây, bây giờ, và trong bối cảnh cuộc sống cụ thể - về ý nghĩa của tiếng gọi trở thành “một người trong chúng ta”. Tất cả điều này sẽ trực tiếp cho thấy chúng ta có thực sự “biết Đức Kitô” hay không. Vâng, chúng ta chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua việc dấn thân giúp đỡ những người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị bóc lột và bất cứ ai cần chúng ta giúp đỡ.
Đánh thức ơn gọi
Tìm cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người tị nạn, đó là một trong những mục tiêu sứ vụ thiết thực nhất của chúng tôi. Việc hiện thực hóa những mục tiêu đó đã nhắc tôi nhớ đến Thánh Phaolô và các bạn đường của ngài – các ngài không bao giờ rời một nơi bao lâu các ngài chưa phát hiện và đào tạo được những con người có khả năng thiết lập và phát triển cộng đoàn tín hữu, những người sẽ tiếp tục công việc của các ngài. Tại mỗi nơi, chúng tôi có thể nhận ra những người nam cũng như nữ sẵn sàng đồng hành với chúng tôi và - khi cần – giới thiệu chúng tôi cho các gia đình.
Kinh nghiệm đầu tiên của tôi trong việc tuyển chọn những người giáo dân có tiềm năng cho sứ vụ này là trong một vùng Tin Lành đôi khi có bầu khí căng thẳng – nơi mà những người tị nạn sống tạm bợ. Ở đó tôi đã may mắn có hai phụ nữ cao niên thánh thiện và một phụ nữ 22 tuổi tên là Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên kia tỏ ra hết sức nhiệt thành, thì tôi cũng nhận thấy rằng họ cần điều chỉnh một đều gì đó. Số là hai phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi đừng viếng thăm một gia đình Công Giáo nọ mà họ cho là quá bê bối. Mỗi lần họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên nhẫn và ân cần giải thích cho họ rằng tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu là tìm kiếm chính những loại người đặc biệt ấy. Đến cuối tuần, cả hai bị sửng sốt vì những gì đã xảy ra. Họ nói: “Tất cả những người mà chúng tôi xem là vô vọng đã bắt đầu tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ và đã trở nên những con người hoàn toàn mới.”
Matje, một phụ nữ rất không bình thường, là thành viên duy nhất trong gia đình quan tâm đến đức tin Công Giáo. Hoàn toàn cởi mở đón nhận đức Kitô, cô đã lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa. Ít lâu sau đó, cô tiết lộ cho tôi một điều cô đã hứa với Chúa: “Nếu con có thể thuyết phục gia đình con trở lại với Giáo Hội, con nguyện sẽ trở thành một nhà truyền giáo.” Và cô ta đã thành công một cách kỳ diệu về cả hai phương diện ấy. Cô đã không chỉ đưa mẹ và em gái mình trở lại trong dịp tôi đến vùng đó lần đầu tiên, mà cô còn đưa cả bố và anh trai cô trở lại khi tôi đến đó lần thứ ba. Rồi ít lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai Benedictine rất đắc lực ở Tanzania. Nhiều năm sau, khi cả hai chúng tôi bị bệnh ung thư, chúng tôi gặp lại nhau ở Đức. Bất chấp tình trạng bệnh hoạn của mình (cô đã chết vì chứng bệnh này ít lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui rạng rỡ của cô không bao giờ tắt. Đó quả là một tông đồ tuyệt vời.
Tại thị trấn kế bên, một người tị nạn và cũng là một giáo viên gốc ở Silesia - là người giúp đỡ tôi rất đắc lực - cũng đề cập đến những “trường hợp vô vọng” mà anh ta nghĩ là mọi nỗ lực đều vô ích. Thật cực kỳ khó để thuyết phục anh chấp nhận quan điểm mà tôi thường xuyên nhắc đến, đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái độ kỳ thị đối với bất cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi kết thúc, anh kể cho tôi về trường hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ của sáu đứa con - đã trở thành xì căng đan trong thị trấn. Phụ nữ này liên can đến hoạt động mại dâm với các quân nhân Mỹ. Kể xong câu chuyện, anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng, cha không thể bước chân vào nhà của con mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ rằng điều quan trọng là phải thực thi sứ mạng của Đức Giêsu, tôi trả lời: “Vì cả anh và tôi đều là những ‘bậc vị vọng’, chúng ta có thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.” Khi chúng tôi bước vào nhà người đàn bà nói trên, chị đang có mặt với một phụ nữ khác cũng liên can đến mại dâm. Bực bội vì sự hiện diện của chúng tôi, chị phun ra xối xả những lời thô tục mà cả đời mình cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe. Anh bạn của tôi nói: “Đấy! Con đã không cảnh báo trước với cha rồi đó sao?” Tôi trả lời: “Có lẽ chúng ta đáng nhận những lời chửi bới của chị ấy, vì trong thâm tâm mình chúng ta đã xem thường chị ấy!” Chiều hôm đó, người phụ nữ kia trố mắt ngạc nhiên thấy tôi ghé thăm chị lần nữa – lúc này chị đang một mình với các con của chị - và tôi đã tỏ ra thân thiện với chị như thể chưa có chuyện gì xảy ra cả. Sau một cuộc chuyện gẫu ngắn, chị hứa sẽ đến tham dự việc cử hành phụng tự của chúng tôi hai lần, vì tôi đã đến thăm chị hai lần. Cuối cùng chị đã vượt xa khỏi sự ‘mặc cả’ ban đầu của mình để đi bộ năm dặm với những đứa con lớn của chị, đến tham dự với chúng tôi vào mọi buổi tối.
Một năm sau, khi tôi trở lại, người đàn ông giáo viên đã trở thành bạn và mạnh thường quân rất đắc lực của tôi ấy đã nói: “Cha thật có lý. Chị ấy đã trở thành một con người mới và các con cái chị ấy cũng đã thay đổi rất nhiều.” Đây quả là tin mừng lớn lao. Trước hết, người mẹ goá bụa này vốn bị khinh miệt do bởi ngôn từ thô tục của chị – thì ra, (thật trái ngược với điều chúng tôi nghĩ ban đầu) việc chị sử dụng ngôn từ đó không phải vì chị phản kháng chúng tôi nhưng đúng hơn bởi vì chị bị thất đoạt nghiêm trọng. Thứ hai, nhiều người tốt đã giúp đỡ chị thoát ra khỏi tình cảnh khốn nạn và bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Và cuối cùng nhưng không kém quan trọng, người giáo viên mạnh thường quân của tôi nói trên đã trải qua một cuộc hoán cải trong tâm hồn, anh nhận hiểu từ kinh nghiệm này rằng – giống như Đức Giêsu – ơn gọi cốt yếu của anh là ưu tiên phục vụ cho những người bị xem là tội lỗi, những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Thật vậy, hoạt động truyền giáo là một nỗ lực ‘gây nhiễm’ trong đó nếu chúng ta muốn thể hiện sức mạnh yêu thương và cứu độ của Đức Kitô thì chúng ta không thể không nhúng tay chân mình vào sình lầy khốn nạn của con người. Hiện diện giữa những người cùng khổ nhất để phục vụ họ, đó là một con đường rất quan trọng để khám phá, đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người nghèo cũng như giữa bao người khác nữa xung quanh.
Một đàng, theo cách hoạt động tông đồ của Giáo Hội sơ khai, chúng tôi đã cố gắng xây dựng những cộng đoàn đức tin mọi nơi mà chúng tôi tới. Nhưng đàng khác, trong khi các Kitô hữu đầu tiên không bao giờ rời một cộng đoàn nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa được cung cấp một thừa tác viên Thánh Thể, thì trái lại chúng tôi – do một truyền thống nào đó và do những qui định khắt khe của giáo luật – đã để tất cả những cộng đoàn ấy lại phía sau lưng mình trong tình trạng không có linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng ngay cả dù không có thánh lễ, ít nhất nhiệt tâm truyền giáo cũng đã phát triển tại những khu vực bần cùng ấy. Thực tế Chúa cũng ban cho tôi khả năng cổ võ các ơn gọi linh mục và tu sĩ suốt trong thời gian đó, song rõ ràng đấy không phải là tiêu điểm nhấn mạnh của tôi. Bởi điều quan trọng hơn trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là giúp người giáo dân ý thức về ơn gọi Phép Rửa của họ – qua đó họ sẽ dấn thân thi hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội và trong thế giới. Một trách nhiệm quan trọng không kém, đó là hợp tác với các tín hữu để biện phân các nhu cầu của thời đại, để khám phá ra những sứ vụ nào phù hợp nhất với họ, theo các khả năng riêng của họ, và cuối cùng để nâng đỡ họ trong những sứ vụ mà họ đã chọn lựa.
Sát cánh với các bệnh nhân
Năm 1977, hồi tôi cần một cuộc giải phẫu thứ hai cho căn bệnh ung thư của mình, tôi đã quyết định đến với một trong những bệnh viện nghèo nhất ở Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm việc của vị bác sĩ giải phẫu đã phát hiện ra tình trạng ung thư của tôi. Vị bác sĩ này đã học một phương pháp mới ở Hoa Kỳ – chỉ có thể được áp dụng cho những người không hút thuốc. Trong tư cách là ứng viên đầu tiên của ông, tôi xem đây là một cơ hội tuyệt vời không chỉ cho chính mình mà còn để cho vị bác sĩ này kiểm tra hiệu năng của kỹ thuật mới. Trong khi động lực riêng của tôi ở đây có thể không hoàn toàn có tính bác ái, tôi vẫn sung sướng được ở giữa những người nghèo, trở thành “một người trong chúng ta”.
Thật ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này cũng là một bệnh viện hàng đầu - nhưng mặt khác, ở đây có nhiều người rất nghèo và mang trọng bệnh nhưng không có nhiều khả năng tài chánh. Hằng ngày, một nhóm thiện nguyện đến phục vụ các nhu cầu cần thiết cho các bệnh nhân mới. Họ tặng tôi một con dao, món quà đơn giản nhất. Cũng như với mọi người nghèo, họ mang đến cho tôi một bó hoa để làm cho căn phòng và tinh thần tôi được vui tươi phấn chấn hơn. Cả những bệnh nhân cũng niềm nở với tôi. Một phụ nữ đứng tuổi ở phòng bên cạnh ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát rất hay. Một cách hóm hỉnh, chị nói: “Tôi điếc, còn cha thì câm. Chúng ta giống nhau.” Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng những quà tặng của người nghèo, được diễn tả một cách ân cần và thân ái, thì thâm sâu hơn và quan trọng hơn bất cứ sự an ủi nào khác.
Vì hoàn toàn câm, tôi học cách giao tiếp thuần túy bằng cử chỉ và chữ viết. Khi giai đoạn khó khăn nhất của mình đã trôi qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các y tá và các bệnh nhân đến với tôi để lãnh bí tích hoà giải. Từ kinh nghiệm này, tôi càng xác tín hơn rằng ngay cả trong tình trạng bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt qua các rào chắn để đem lại niềm an ủi cho nhau.
Kinh nghiệm sống không có thanh quản của 15 năm qua – theo một nghĩa nào đó – là một ân huệ thật sự đối với tôi, bởi vì nó đem lại cho tôi nhiều cơ hội tuyệt vời để an ủi bệnh nhân, nhất là an ủi những người cùng cảnh ngộ với mình. Đó là những cơ hội mà tôi không thể có được nếu tôi không ở trong tình trạng ấy. Tôi nói như thế bởi vì khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi khích lệ một bệnh nhân, rất có thể người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói nghe có vẻ dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực sự hiểu được hoàn cảnh của tôi?” Tôi tin rằng một linh mục nếu không bao giờ đau ốm hay không bao giờ bị những vấn đề thể lý giống như các bệnh nhân thì sẽ không thể hiểu được hay diễn tả được niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như một linh mục ở trong hoàn cảnh của họ.
Từ đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía hơn lời của Ngôn Sứ Isaia: “Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi” (2V 20,5). Tôi cảm nhận được ý nghĩa thật thâm sâu trong những lời ấy bởi vì chính căn bệnh của tôi đã trở thành phương tiện kết hợp tôi với nỗi đau khổ của bao người khác; tôi có thể thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu nguyện của họ, nước mắt của họ, niềm hy vọng được chữa trị của họ. Cũng vậy, chương hai Thư Do Thái nối kết những nỗi thống khổ của Đức Kitô một cách mật thiết với việc Ngài chia sẻ cảnh ngộ của tất cả chúng ta. Nghĩa là, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô, huynh trưởng của chúng ta, nên hoàn hảo xuyên qua đau khổ. Tôi tin rằng tôi đã được đặc ân “biết” Đức Kitô này, người anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và là người chữa trị của tất cả. Và tôi cũng nhận ra ý nghĩa của sứ vụ Ngài bằng những cách mà tôi có thể không bao giờ hiểu nếu như chính bản thân tôi không đau khổ sâu xa.
Trong trường học đau khổ, Đức Giêsu, người anh em của tất cả chúng ta, không chỉ học vâng phục những gì Thiên Chúa đòi hỏi, mà còn học thương xót một cách đặc biệt (Dt 5,8-9). Không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Ý nghĩa sâu xa nhất của hy tế Đức Kitô trên Thập Giá được hiểu như mang lấy gánh nặng tội lỗi của loài người (Dt 9,8), bằng cách chia sẻ khổ đau của người ta với lòng trắc ẩn vô hạn. Qua cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Kitô đã trở thành bí tích tối thượng, trở thành người chuyển tải cao nhất lòng thương xót của Chúa Cha. Vì thế, không chỉ là thích hợp mà còn là cần thiết việc các linh mục cũng chịu đau khổ, và qua đau khổ các ngài trở thành cảm thông hơn với mọi người, nhất là với các bệnh nhân.
“Hãy chữa lành những người ốm đau!”
Xuyên qua các thế kỷ, Giáo Hội đã dạy và đã thúc đẩy việc săn sóc y tế và mục vụ cho các bệnh nhân. Trên khắp thế giới, Giáo Hội đã xây dựng rất nhiều bệnh viện. Sự săn sóc đầy yêu thương đối với những người đau ốm đã là chứng tá hùng hồn của tình yêu nơi Giáo Hội. Thánh Vincent de Paul, vị linh mục thánh thiện và được thần hứng, vượt lên trên những cấm kỵ văn hóa của thời ấy, đã giải phóng năng lực của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để họ phục vụ cho bệnh nhân. Sự săn sóc và sự hiện diện đầy yêu thương của những con người thánh thiện ấy – nam cũng như nữ – tự nó là một sức mạnh chữa trị.
Tuy nhiên, trong vài thế kỷ qua, một thái cực không lành mạnh đã phát triển trong đó việc rao giảng Tin Mừng bị tách rời khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như đã có hai cơ chế của Giáo Hội hoạt động song song nhau, một cho việc loan báo Tin Mừng và một cho việc chữa trị. Càng nghiêm trọng hơn nữa, đó là sự phổ biến của một nền luân lý đầy nguy hiểm và dễ gây tổn thương, lạc xa đức tin theo Thánh Kinh, như được đặc biệt ghi nhận vào thời sau Công Đồng Trindentinô. Những hiện tượng không lành mạnh này đã sinh ra nhiều chứng thần kinh loạn nghiêm trọng có nguồn gốc từ tâm lý và trí năng, đôi khi được coi là tình trạng thần kinh loạn và rối loạn tâm thần có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!
Trái lại, cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng một đức tin chân thực và một nền luân lý cắm rễ trong đức tin theo Tân Ước thì không bao giờ – trong bất luận trường hợp nào – là nguyên nhân của sự suy nhược tâm thần như thế. Đúng hơn, đức tin đích thực - được sống đúng đắn, được rao giảng và được làm chứng – luôn luôn là hiện thân của một sức mạnh chữa trị độc đáo.
Việc phát triển chiều kích chữa trị của đức tin và của luân lý Kitô giáo đã và vẫn còn là một mối quan tâm chính của tôi. Đức tin, trong toàn diện tính của nó, không thể bị giảm trừ đến chỉ còn là việc bám chặt vào một hệ thống các chân lý (niềm tin) được dạy bởi Giáo Hội. Một cách căn bản, đức tin - theo nghĩa chân thực và thâm sâu nhất của nó - là một mối quan hệ có tính chữa trị và có sức cứu độ với Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin sống động phải thiết yếu quan tâm đến những mối quan hệ lành mạnh và có sức chữa trị cũng như phải quan tâm đến việc phát triển toàn diện các cơ cấu của sự sống. Trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các linh mục và tất cả những ai nhận sứ vụ phục vụ người khác phải được hướng dẫn chu đáo và được đào tạo nội tâm cách kỹ lưỡng theo những viễn tượng này.
Cách đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma, có một phụ nữ trẻ, đang trong thời gian hoàn thành đợt thi tốt nghiệp ở đại học, bỗng trở nên cáu kỉnh, quạu quọ, hung hãn. Người ta khám phá ra rằng cô ta có một nhân cách tâm thần phân liệt (schizophrenic personality). Khi tôi lần đầu tiên gặp cô ta, con người Adam cũ trong tôi bỗng đùng đùng phẫn nộ, tôi tự hỏi: “Tại sao người ta luôn luôn đưa đến cho tôi những gánh nặng như thế này? Người ta phải biết rằng lúc này tôi không thể làm được gì nhiều để giúp đỡ bất cứ ai chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa chạm đến trái tim tôi, và tôi hiểu rằng nơi người phụ nữ này, Đức Giêsu Kitô đang gặp tôi và trắc nghiệm sự nhận thức của tôi đối với Lời Ngài: “Những gì ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất của gia đình Ta đây là ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh khắc mạc khải ấy, tôi quyết định kính trọng, yêu thương người phụ nữ tội nghiệp kia. Cô đang là sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô đau khổ ngay tại cửa nhà tôi. Cảm nhận mình được yêu thương và tôn trọng, Lina sẵn sàng tín nhiệm và cộng tác với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu thuật tâm lý (psychochirurgy) – vốn thường tàn phá mọi khả năng chủ động – Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào, và trong những lần gặp nhau sau đó, cô đã biết nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ, trìu mến.
Mặc dù không có bằng cấp nào về tâm lý trị liệu, nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà trị liệu nổi tiếng của thế kỷ này và tôi đã chú ý nhiều đến những trường phái trị liệu nhấn mạnh đến các mối quan hệ có tính chữa trị. Loại liệu pháp này chỉ thực sự có hiệu năng tùy theo mức độ người ta có lòng kính trọng thâm sâu và bền vững đối với người bệnh. Nhưng như thế cũng chưa đủ. Bên cạnh việc học hỏi và thực hành những gì thuộc chuyên môn của một nhà trị liệu tâm lý, cũng cần phải triển khai sứ mạng của Đức Kitô như được ủy thác cho chúng ta và các hệ quả của sứ mạng đó: “Hãy loan báo Tin Mừng rằng Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa lành những người đau yếu, ... băng bó những kẻ cùi hủi” (Mt 10, 7-8; Lc 10,9).
Đành rằng học kỹ thuật là điều rất quan trọng, nhưng sứ mạng chữa trị còn liên can đến rất nhiều chuyện khác nữa. Người linh mục phải cởi mở mình ra tới những chiều sâu của đức tin, và với một tâm hồn đầy tràn lòng biết ơn và niềm vui, người linh mục hoàn toàn phó thác chính mình trong bàn tay Thiên Chúa. Đặc biệt, tâm tình biết ơn sẽ là chìa khóa mở toang lòng trí người ta để họ đón nhận quà tặng tình yêu đầy năng lực chữa trị và giải phóng của Thiên Chúa. Như vậy, tiên vàn không phải là tôi phải làm gì – mà một cách căn bản hơn, đó là tôi phải gì và tôi phải đem cái gì tới cho mối quan hệ của tôi với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Chỉ khi biết mở rộng lòng mình ra đón nhận phúc ân và an bình tràn ngập của Thiên Chúa thì người linh mục mới có thể đem lại sức chữa trị cho người anh em bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh hoạn thể lý hay tâm thần. Điều này khác hẳn với hình ảnh ‘bác ái’ của người linh mục ở xa xa bệnh nhân -và từ trên cao nhìn xuống, ban phát cho người ta ánh mắt thương hại!
Sự cứu chuộc, sự lành mạnh và sự chữa trị được đóng dấu sâu sắc bởi điều mà thần học gọi là ơn dự phòng (gratia praeveniens). Khi giải thích điều này cho chính mình và cho người khác, tôi so sánh nó với một món quà ân sủng được ban cho trước. Chẳng hạn, chính Thiên Chúa luôn luôn có sáng kiến tín nhiệm và yêu thương chúng ta trước - dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói gì và làm gì. Các linh mục và các thừa tác viên săn sóc bệnh nhân có thể đi vào trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ này theo mức độ mà – để tôn vinh Thiên Chúa – họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em mình, ngay cả những người thù địch nhất, một sự tín nhiệm trước và vô điều kiện chảy ra từ thiện chí. Nghệ thuật cung ứng sự khích lệ trước được ghi nhận ở cốt tủy của Paraklesis trong Thánh Kinh, đó là sự khích lệ tuôn chảy từ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Những bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá thấp, bị lăng nhục, bị trách mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà giáo dục của mình sẽ vô tình đi đến chỗ tự xem mình là vô giá trị. Khi người ta “dis-ease” với chính mình trong thời niên thiếu, lớn lên người ta sẽ đi đến chỗ bại xụi, yếu nhược, què quặt, trở thành những bệnh nhân phung cùi thời hiện đại. Ngược lại, những cha mẹ và nhà giáo biết sống trọn vẹn vai trò Paraklesis và biết khôn ngoan đặt sự tín nhiệm trước nơi con cái, thì họ sẽ có khả năng làm những phép lạ – theo nghĩa đích thực của Thánh Kinh – có sức chữa trị các quả tim và các mối quan hệ căn bản nhất. Hơn nữa, trên chính nền tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa lành cả các chứng bệnh thực tế nữa. Đây là những nhà chữa trị thực sự có năng lực sáng tạo.
Trong tư cách là linh mục, chúng ta đừng bao giờ gán bất cứ loại sức mạnh kỳ diệu nào cho chính chúng ta viện lẽ rằng nhờ được truyền chức thánh. Chúng ta chẳng có gì kỳ diệu hay thần nhiệm cả đâu! Đàng khác, Thiên Chúa thực hiện những việc trọng đại nơi và qua những người – như Đức Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác vào Ngài. Đúng theo ơn gọi của mình, không hơn không kém, chúng ta là những cộng tác viên bé nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở rộng lòng mình đón nhận ơn Chúa để đem lại sự chữa trị trong mọi mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với tha nhân và với toàn thể tạo vật. Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận thức rằng cả chính chúng ta nữa cũng là những kẻ luôn luôn cần được chữa trị - cả chúng ta nữa cũng không ngừng cần đến tình yêu và sự hiện diện đầy khích lệ trước của Thiên Chúa. Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là những nhà chữa trị mang đầy thương tích mà thôi. Trong mức độ mà chúng ta biết mau mắn khích lệ và tín nhiệm người khác, thì sự tín nhiệm và khích lệ này sẽ chảy ngược về với chúng ta – hóa thành năng lực chữa trị và củng cố.
Cuối cùng, không chỉ một mình các Kitô hữu, các tông đồ giáo dân hay các linh mục, được mời gọi và được sai đi trong sứ vụ chữa trị. Nói theo ngôn ngữ của Cha Teilhard de Chardin thì chính “Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn mạch trước hết từ đó mọi năng lực chữa trị chảy ra và lan tỏa. Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc chúng ta phải tìm kiếm những mối quan hệ lành mạnh và những cơ cấu lành mạnh ở khắp nơi, bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Vả chăng, nhãn quan này không phát xuất từ sứ mạng nền tảng của chúng ta là loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu một cách toàn diện đó sao?
Vai trò chữa trị của thần học luân lý và của việc giảng dạy luân lý
Phải dần dần tôi mới khám phá được rằng thần học luân lý và, tổng quát hơn, sư phạm luân lý có những chiều kích chữa trị và tác động rất đáng kể. Một trong những trách nhiệm quan trọng nhất là giúp cho Giáo Hội, nhất là các linh mục, ngày càng trở nên những tấm gương mẫu mực hơn, những biểu tượng sống động hơn của vị Thầy Thuốc vĩ đại là Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống triệt để Tin Mừng về sự chữa trị. Đành rằng các linh mục không giữ độc quyền về sứ mạng chữa trị và mạc khải của Giáo Hội, tuy nhiên họ có thể phục vụ tốt nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên phong sống sứ mạng chữa trị một cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn, trong rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Người ta luôn luôn choáng váng khi nhận thấy một nền luân lý sách nhiễu - gây ra bệnh hoạn, phẫn nộ, xét nét và gây hấn - trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những tâm bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội gây phiền hà cho hầu như mọi mối quan hệ chủ yếu với Thiên Chúa, với bản thân và với tha nhân, thì cần phải có một nỗ lực phối hợp để điều nghiên và sửa chữa tất cả những qui phạm của thần học, nhất là thần học luân lý – vốn không tổng hợp và hội nhập được hai chiều kích chữa trị và mạc khải. Đương nhiên công việc này cũng cần đến một cuộc cải cách các cơ cấu Giáo Hội có tính đàn áp, chẳng hạn những cơ cấu hậu thuẫn cho chủ trương tập quyền đầy quan liêu và cho một quan điểm độc đoán về vai trò lãnh đạo ở mọi cấp độ. Trong nỗ lực này, khởi điểm của cuộc cải cách phải luôn luôn là những cố gắng hợp tác của chúng ta để hiểu biết thấu đáo Đức Kitô là Đấng Chữa Trị, là Ngôn Sứ và là hình ảnh Nhập Thể của Đấng Sáng Tạo.
Nhiều người Công Giáo đã được đánh thức bởi nhận định kịp thời và thích đáng của Karl Rahner rằng: Giáo Hội trước Công Đồng, thật đáng tiếc, đã gán là tội trọng (mortal sin) cho vô số chuyện vặt vãnh và vớ vẩn. Trong tư cách là một nhà thần học luân lý trẻ, tôi có lần giảng tĩnh tâm ở Tyrol cho một trăm linh mục. Trong phần dẫn nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi không có ý giảng về một danh mục các tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng cao niên lập tức công khai phản ứng lại: “Nhưng như vậy là không thực tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh được khả năng phạm tội trọng trong liên quan đến những luật chữ đỏ?” Quan điểm của vị linh mục này phát xuất từ thủ bản Noldin cũ kỹ, trong đó vạch ra vô số qui định về nghi thức mà các linh mục buộc phải tuân hành “nếu không thì mắc tội trọng”. Chẳng hạn, cho đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích của Vatican còn tuyên bố rằng một phụ nữ hay nữ tu mà trong Thánh Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan can cung thánh là mắc tội trọng. Khoảng ba mươi năm sau, có lần tôi vẫn còn đụng chạm với một hồng y kiên quyết bảo vệ một luật của Giáo Hội buộc trẻ em trên bảy tuổi phải xưng tội lần đầu trước khi rước lễ lần đầu, vì người ta giả định rằng trẻ em ở tuổi này có khả năng phạm tội trọng.
Kinh nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật rõ những nỗi kinh hoàng thuở ấu thời của mình với vị cha sở khư khư đòi chúng tôi xưng thú mọi tội trọng, đe doạ rằng chúng tôi sẽ bị đốt trong lửa và diêm sinh nếu như chúng tôi xưng thú không đầy đủ! Người ta trình bày cho trẻ em – chưa nói là cho người lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ dị biết bao! Rất may là cả lúc đó lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay cả trong thời đại hiện nay, quyền bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn cần phải quan tâm đến những cảnh báo nghiêm túc của các nhà trị liệu tâm lý có nhiệt tâm và giàu hiểu biết khi họ cảnh giác chúng ta về các chứng bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội, những chứng bệnh có thể phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực, sai trái và hà khắc.
Một điều nhấn mạnh mấy cũng không vừa, đó là giáo huấn của Giáo Hội và việc thực hành mục vụ - trong quan hệ với mọi chiều kích và mọi cơ cấu của đời sống - phải được giải phóng khỏi một nền luân lý cứng nhắc và phải được định hình lại trong viễn tượng một tổng hợp vững chắc và có tính nhân văn của hai sứ vụ rao giảng và chữa trị. Hơn nữa, tổng hợp này phải đặc điểm hoá việc huấn luyện và đời sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là một người ủng hộ mạnh mẽ thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng định mạnh mẽ sự cần thiết phải bao gồm chiều kích giải phóng và chữa trị trong mọi qui phạm thần học.
Quan tâm mục vụ đối với những người li dị
Mối quan tâm của tôi đối với những người li dị không phải là kết quả của các nghiên cứu lý thuyết – mặc dù tôi vẫn nhìn nhận công việc nghiên cứu có vai trò rất quan trọng. Đúng hơn, mối quan tâm này của tôi phát xuất từ hai nguồn: một là, từ tình thương và niềm kính trọng của Đức Giêsu đối với những con người đứng bên lề cuộc sống, những người bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô số các kinh nghiệm của bản thân tôi với những người li dị.
Nỗi thất vọng cùng cực và nỗi khổ đau tâm cảm của quá nhiều người li dị thiết tưởng cũng đã đủ lý do không chỉ để thúc đẩy niềm cảm thông nơi các linh mục mà còn để dẫn Giáo Hội tới một cách suy nghĩ mới. Gần như ở khắp những nơi trên thế giới mà tôi đã đi qua, các bạn tôi – nhất là những tu sĩ nam nữ – đã giới thiệu những người li dị đến gặp tôi, hoặc đã bày tỏ với tôi những nỗi quan tâm của họ đối với những người li dị mà họ quen biết. Tôi nhớ có lần, một giám mục Phi Châu giới thiệu chính em trai của ngài, một người li dị, đến gặp tôi. Giám mục nói với người em mình: “Chú hãy làm theo những gì Cha Haring khuyên chú làm!”
Những nỗi khổ đau cùng cực của những người li dị – thường đa số họ là những người rất đáng nể phục – luôn luôn làm tôi trằn trọc và suy nghĩ về những Lời này của Đức Kitô: “Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Tôi cảm kích sâu xa trước tấm lòng của Đức Giêsu đối với người phụ nữ Samaria – người phụ nữ mong muốn có được một đời sống nghiêm túc, nhưng đã bị khước từ bởi năm người đàn ông. Trong truyền thống Do Thái lúc bấy giờ, một “người đàng hoàng” sẽ không bao giờ tiếp xúc với một phụ nữ như thế. Đức Giêsu đã không chỉ khôi phục lại lòng tự trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn thế nữa, Ngài đặt chị làm một tông đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn đệ Đức Giêsu, tôi không thể nghĩ đến những con người khốn khổ ấy mà không đồng thời nghe âm vang Lời Đức Giêsu: “Tôi đến không phải để xét xử, nhưng là để chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc 19,10).
Trong đa số các trường hợp li dị mà mình tiếp xúc, tôi cảm nhận đó là một nỗi mất mát và nỗi đau bi thảm hơn là một tội. Từ kinh nghiệm và suy tư của chính mình, tôi ngày càng xác tín rằng phương thức oikonomia của Giáo Hội Chính Thống phù hợp với Thánh Kinh hơn so với hữu thể luận (ontologism) đầy tính pháp lý của giáo thuyết Công Giáo hiện đại. Tôi cho rằng chúng ta nên liều chấp nhận khổ sở (khổ sở do bị hiểu lầm và khổ sở do bị chỉ trích) để dám suy nghĩ lại và định hình lại việc săn sóc mục vụ nhằm giúp chữa trị những con người khốn nạn và mang đầy thương tích này. Trong tư cách là các thừa tác viên của Đức Kitô đối với dân Ngài, phải chăng chúng ta không thể hình dung rằng Đức Giêsu đã viết tên của chúng ta – tên bạn và tên tôi – trên đất và nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị ấy trước đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói thêm ở đây: nhiều người li dị đến gặp tôi không thể bị gọi là những kẻ ngoại tình – theo bất cứ nghĩa nào!
Người linh mục đích thực không phải là một quan tòa cũng không phải là một robot bị đóng hộp trong những phạm trù phán quyết quá đơn giản. Phần mình, thú thực tôi rất xấu hổ nếu cảm thấy mình hơi thoáng nghiêng về ý nghĩ rằng những người li dị và tái hôn là những người “đang sống trong tình trạng tội trọng một cách khách quan” sau khi họ đã chịu đựng quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục trong biến cố gãy đổ hoàn toàn cuộc hôn nhân thứ nhất của mình.
Săn sóc một cách chữa trị cho những người li dị, đó cũng là một trắc nghiệm đo lường quyết tâm đại kết của Giáo Hội. Các Kitôhữu Chính Thống và nhiều Kitôhữu thuộc các giáo hội Cải Cách khác rất choáng váng trước sự khắc nghiệt của những giám mục và linh mục Công Giáo cố khư khư bám vào một hữu thể luận nặng tính pháp lý lỗi thời để cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhãn quan của Thánh Kinh về tính bất khả phân ly bằng lối suy nghĩ và kiểm soát quá đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu của họ.
ÁNH SÁNG CHÓI LÒA CỦA THÁNH KINH
Đức Giêsu, Đấng tự xưng là “Con Người”, Đấng là “một người trong chúng ta”, đã yêu cầu Gioan Tẩy Giả, con trai của một tư tế và ngôn sứ, làm phép rửa cho Ngài cùng với đám đông ở sông Gio-đan. Hành động này là một biểu tượng đầy kích cảm cho thấy sự liên đới đầy sức cứu độ của Ngài với các tội nhân và sự giải cứu họ khỏi vòng tội lỗi.
Phép rửa của Đức Kitô – Một chìa khóa căn bản để nhận thức
Trong cốt lõi của nó, sự chuyển đổi từ tình trạng tội lỗi tới sự liên đới cứu độ là một chìa khóa để nhận hiểu ý nghĩa cuộc hoán cải mà Gioan rao giảng. Chính Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, làm cho chúng ta có thể đạt được sự hoán cải này, ở mức trọn vẹn của nó. Tuy nhiên, phép rửa của Đức Kitô còn có ý nghĩa hàm súc hơn nhiều chứ không chỉ là một sự chuyển đổi từ tình trạng liên đới trong tội lỗi tới ơn cứu độ. Đó là một biến cố độc đáo của Ba Ngôi Thiên Chúa, trực tiếp hướng chỉ đến cái chết thập giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Trong hành động Đức Giêsu công khai lãnh nhận phép rửa, Ngài tự thánh hiến chính mình và đồng thời được thánh hiến bởi quyền năng Chúa Thánh Thần – được biểu tượng nơi hình chim bồ câu hòa bình – để tôn vinh Cha là Đấng mãi mãi làm chứng cho Đức Giêsu: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta rất hài lòng về Người” (Mt 3,1-7); “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng về Con” (Lc 3,22; Mc 1,11). Những lời ấy – được trịnh trọng nhắc lại trên núi Tabo – âm vọng lại câu mở đầu của Bài Ca Thứ Nhất trong bốn Bài Ca Isaia Đệ Nhị (Is 42,1).
Việc thánh hiến qua phép rửa này, vốn luôn luôn hướng chỉ đến đỉnh điểm là cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh, bộc lộ cho thấy căn tính của Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ và là vị Thượng Tế mới, như được khai triển trong Thư Do Thái. Được thụ thai bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Kitô được mạc khải như là Người Tôi Tớ và Người Con phi bạo lực, đau khổ và đầy năng lực giải phóng của Thiên Chúa – Ngài là biểu tượng đích thực và là hiện thân của Bồ Câu hòa bình. Ngài là Đường không sai lầm, là Chân Lý và Sự Sống hoàn toàn mới của hòa bình được hun đúc từ thái độ phi bạo lực đầy sức giải phóng, từ sự liên đới có năng lực cứu độ và từ những đau khổ của Ngài.
Các linh mục - và tất cả những ai thuộc về đoàn dân tư tế, ngôn sứ và vương đế phục vụ của Thiên Chúa - không bao giờ có thể suy tư cho đủ về bốn Bài Ca của Người Tôi Tớ vốn được Đức Giêsu xem như chương trình sống và hoạt động của Ngài và – do đó – cũng là chương trình sống cho các môn đệ Ngài.
Dacaria, tư tế và ngôn sứ
Giao ước mới và nhãn quan hoàn toàn mới của nó về chức linh mục đã được biểu tượng nơi Dacaria, cha của Gioan Tẩy Giả, là người thuộc về một trong những phẩm hàm cao nhất của chức tư tế Lêvi và là người đang chu toàn một việc phụng tự truyền thống khi Thiên Chúa mạc khải cho ông biết vai trò của con trai ông: “Em bé sẽ đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái It-ra-en về với Đức Chúa. Em sẽ... làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay” (Lc 1,15-17). Sứ điệp ấy của thiên thần là một sứ điệp chan hòa niềm vui: “Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng sẽ được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc 1,14).
Tính mới mẻ của sứ điệp này và những bối cảnh xung quanh nó quá vĩ đại ngoài khả năng tiếp nhận của Dacaria đến nỗi ông trở thành câm. Tình trạng câm này của Dacaria tự nó là một biểu tượng của sự thay đổi lớn lao đã diễn ra. Dù vậy, ông vẫn trung thực đưa tin cho vợ mình là Êlidabét, người thuộc dòng tư tế Aaron và là một phụ nữ vừa có đức tin sâu sắc vừa có nhãn giới ngôn sứ.
Ngôi nhà của Dacaria trở thành khung cảnh đặc biệt cho một hiện tượng ngôn sứ độc đáo. Tất cả mọi người đều nói tiên tri – Êlidabét, Dacaria, Maria nữ tì khiêm cung của Chúa, và nhất là em bé Gioan với sự kiện “nhảy mừng trong bụng mẹ” (Lc 1,44).
Gioan Tẩy Giả, con trai của một tư tế và ngôn sứ
Theo luật, Gioan sẽ trở thành một thành viên của tầng lớp tư tế có phẩm hàm cao của người Do Thái. Thế nhưng, chúng ta không nghe nói gì về việc Gioan thực hiện những chức năng tư tế theo truyền thống. Phép rửa đặc biệt của Gioan, trong tư cách là một dấu hiệu của sự hóan cải, thì có tính phụng vụ theo ý nghĩa tốt nhất của từ ngữ này, nhưng nó hoàn toàn đối nghịch với bất cứ hệ thống nghi lễ nào. Phép rửa của Gioan vén mở trước mầu nhiệm thâm sâu của Phép Rửa Đức Giêsu và, qua đó, vén mở cho thấy mầu nhiệm Phép Rửa của chính chúng ta – nó đánh dấu việc chúng ta đi vào trong Giao Ước Mới của ơn cứu độ, một giao ước được đặc trưng bởi ơn gọi và căn tính của Đức Giêsu xét như Người Tôi Tớ và Người Con khiêm hạ, đau khổ, phi bạo lực và có quyền năng chữa trị của Thiên Chúa.
Ở cốt lõi của phép rửa Gioan Tẩy Giả là Đức Giêsu, “Con Người”, hiện thân tuyệt đối của sự liên đới có năng lực cứu độ, Đấng mở ra Luật Mới với ý nghĩa tối thượng là: “Anh em hãy mang lấy gánh nặng của nhau, và như thế anh em sẽ chu toàn Luật của Đức Kitô” (Gl 6,2). Sống luật này, đó không chỉ là nẻo đường dẫn tới sự liên đới có sức cứu độ (một sự liên đới được đào sâu không ngừng đến vô hạn) – mà đó cũng là con đường duy nhất để thoát ra khỏi tình trạng liên lụy trong tội lỗi. Giao Ước Mới nằm ở trung tâm mầu nhiệm thâm sâu của Phép Rửa Đức Giêsu và, do đó, của Phép Rửa chúng ta nữa.
Sự tương phản: Tư tế của các ông hoàng!
Vụ giết người tàn ác theo lệnh của nhà vua - mà Gioan Tẩy Giả là nạn nhân - báo trước việc Đức Kitô chịu đóng đanh và chịu chết trong tay của các thượng tế và người đại diện của quyền bính Đế Quốc Rôma.
Hai số phận của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu minh họa sự lạm dụng có hệ thống của tôn giáo vốn ủng hộ kẻ cường quyền và thí đốt những người nghèo hèn, yếu thế. Hình thức lạm dụng này cũng là một trong những cám dỗ lớn nhất được ghi nhận nơi giới tư tế thuộc các tôn giáo và văn hóa khác nhau. Một đoạn văn về tư tế Amaziah trong Sách Ngôn Sứ Amos cho ta thấy rõ sự thật này:
Bấy giờ ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-En, sai người đến gặp Gia-róp-am, vua It-ra-en, và thưa: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ It-ra-en, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế này:
“Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và It-ra-en sẽ bị đày biệt xứ.”
Bấy giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết-En này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” (Am 7,10-13).
Có thể cần đến cả pho sách để chỉ nói về đề tài mối quan hệ giữa các tư tế với các vua, nhưng thiển nghĩ chỉ cần chấp nhận rằng trong Giáo Hội Công Giáo nhiều người trong chúng ta có lý do để ăn năn hối lỗi vì đã gắn bó mật thiết và là đồng minh của những thế quyền áp bức. Thiết tưởng sẽ hữu ích việc vạch ra cách mà mối quan hệ bẩn thỉu này được hình thành và phát triển.
Trong ba thế kỷ đầu của Giáo Hội, các giám mục – cách riêng - đã trung thành theo bước chân của Đức Kitô. Trở thành một giám mục, linh mục, phó tế hay một kỳ lão của Giáo Hội, điều đó tất nhiên có nghĩa rằng người ấy hoàn toàn sẵn sàng trở thành một ứng viên của cái chết tử đạo. Những người được tuyển chọn ấy hiểu khá rõ ơn gọi phổ quát và đặc biệt của mình, và họ sẵn sàng đón nhận những hệ lụy của ơn gọi ấy trong ánh sáng của biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, một phép rửa bằng nước và máu.
Thế kỷ IV, khi Constantine, một người “trở lại” với đức tin, được tôn phong hoàng đế bởi giám mục Rôma, thì những thay đổi lớn đã xảy ra. Trong khi quả thực Giáo Hội được giải phóng khỏi cuộc bách hại đẫm máu, thì một cách nhanh chóng Giáo Hội cũng bị bế tắc trong bổn phận bước theo chân Đức Giêsu Người Tôi Tớ. Sự thỏa hiệp và quị lụy quyền bính thế tục - (điều mà Đức Giêsu đã chất vấn, như được thấy trong câu chuyện cám dỗ, và điều mà Ngài đã giải trừ huyền thoại trong toàn bộ cuộc sống của Ngài từ khi nhận phép rửa cho đến cái chết Thập Giá) - không may đã trở thành một thực tại trong mọi thành phần của Giáo Hội. Nhiều giám mục hoặc chịu khuất phục hoặc ngày càng xích tới gần nghiệp chướng trở thành “tư tế của các vua”.
Trong cố gắng nâng đỡ Giáo Hội và nâng đỡ các vị lãnh đạo của Giáo Hội trong tư cách là cột trụ và là bộ mặt của xã tắc, các hoàng đế và các vua đã xây dựng những dinh thự nguy nga cho các vị ấy, đã hào phóng ban tặng đủ thứ đặc quyền đặc lợi thế gian, đã tôn phong cho các vị những tước hiệu đầy cao ngạo như “Nhà Thần Học Của Triều Đình”, “Tổng Giám mục Hoàng Thân”, “Đức Thánh Cha”, “Đức Cha”, vân vân và vân vân...
Hiện tượng kỳ dị này và những biến cố có tính bước quặt đảo ngược này – vốn còn gây nhiều di lụy mãi đến hôm nay – phải được suy tư và đánh giá lại trong ánh sáng của phép rửa bằng nước và máu của Đức Giêsu. Cách mà chúng ta chọn để nhìn và suy tư về những biến cố lịch sử từng định hình một khuôn mặt chuyên chế như thế của Giáo Hội và của quyền lãnh đạo trong Giáo Hội có thể ảnh hưởng rất quan trọng đến bản chất và chất lượng của sự chọn lựa căn bản của chúng ta trong tư cách là những Kitôhữu và những linh mục trong thời đại hôm nay.
Nói chung, Đức Giêsu không chống đối chức tư tế Do Thái giáo trong truyền thống mà Ngài nhận được, Ngài cũng không chống đối các tư tế một cách quơ đũa cả nắm. Những xung đột chính của Ngài là với các phần tử cao nhất trong giới tư tế. Tuy nhiên, đáng ghi nhận sự kiện rằng Đức Giêsu không bao giờ gọi chính Ngài hay các môn đệ Ngài là “tư tế”, Ngài cũng không nói đến cơ chế của một “chức tư tế mới”. Ít nhất những phần cũ nhất của Tân Ước gần sát với thời Đức Giêsu không bao giờ dùng từ “tư tế” để nói về Đức Giêsu hay các tông đồ của Ngài. Chỉ trong bản văn rất muộn sau này, là Thư Do Thái, được viết khi Giáo Hội đã phát triển một mức nào đó thành một tổ chức và cơ cấu, thì từ ngữ này mới được sử dụng, và chủ yếu nhằm đề ra một tương phản rõ rệt với bất cứ gì có dáng dấp một mối quan hệ gây chất vấn có thể dẫn đến việc các giáo sĩ trở thành “tư tế của các vua”. Trái lại, nhãn quan Tân Ước về chức linh mục thì hoàn toàn khác biệt, và nhãn quan ấy được hình thành như vậy trong ánh sáng của phép rửa Đức Giêsu trong nước sông Giođan và trong máu của Ngài nơi cuộc tử nạn Thập Giá.
Câu chuyện về hy tế của Abraham
Sẽ là thiếu sót việc duy chỉ chăm chú đến những khác biệt rành rành giữa chức tư tế của Cựu Ước và tính mới mẻ của những người tôi tớ của Tin Mừng. Chúng ta cũng cần phải lưu tâm tới những quan niệm sai lầm về hy tế nữa.
Abraham sẵn sàng giết Isaác để làm hy lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa, đôi khi các nhà thần học nói về ý niệm hy tế đã chọn thái độ sẵn sàng ấy làm khởi điểm cho mình. Hồi tôi bắt đầu học thần học, người ta vẫn còn giảng dạy rằng Thiên Chúa thử thách sự sẵn sàng của Abraham trong việc giết Isaác để làm hy lễ. Abraham sẵn lòng, đó là sự thật, nhưng nói rằng Thiên Chúa muốn điều đó thì quả là một xác định hết sức đáng ngờ. Để hiểu chức linh mục của Tân Ước, điều trước hết là phải xua tan những ý niệm sai lầm về hy lễ để có thể hiểu đúng ý nghĩa đích thực của câu chuyện Abraham. Trong chiều hướng đó, cách đây khoảng 50 năm, W. Eichrodt, một học giả Thánh Kinh tên tuổi đã đề ra một cách giải thích hoàn toàn khác, cách giải thích này nói chung được chấp nhận trong giới Thánh Kinh và được giảng dạy trong lãnh vực huấn giáo ngày nay.
Eichrodt chỉ ra rằng, trong môi trường và nền văn hóa sơ khai mà Abraham đã sống và đã từ bỏ để theo tiếng Chúa gọi, có một niềm xác tín rằng trong một số trường hợp Thiên Chúa chỉ có thể được vuốt giận bằng hy tế đứa con trai đầu lòng của người ta. Người ta phải rùng mình tự hỏi trong giòng lịch sử đã có bao nhiêu đứa con trai đầu lòng bị hành quyết một cách dã man “nhân danh Thiên Chúa”. Abraham không là ngoại lệ của sự mê tín thảm khốc này. Vì ông sống trong bối cảnh mà theo truyền thống của thời ông, một hy tế như thế được kỳ vọng, vì thế Abraham với lương tâm sai lạc của mình đã kết luận rằng việc giết con mình để tế lễ là điều hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, ngay cả trong lương tâm sai lạc này của Abraham, một điều gì đó tốt vẫn có thể được nói về ông: Ông sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa khi ông hiểu sai thánh ý ấy! Tuy nhiên, khi câu chuyện diễn tiến, Thiên Chúa đã can thiệp và đã giải phóng Abraham khỏi một lương tâm mê tín. Đây là một kinh nghiệm mạc khải vĩ đại và một bước đột phá về văn hóa để giải phóng con người khỏi một hình ảnh sai lầm và bạo lực khủng khiếp về Thiên Chúa.
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho cách giải thích của Eichrodt là sự kiện hiển nhiên rằng kể từ đó đã có phát triển một ý thức trong It-ra-en rằng việc cố gắng làm nguôi lòng Thiên Chúa bằng mạng sống con người là một tội ác kinh tởm chống lại Thiên Chúa và loài người. Tuy nhiên, Thánh Kinh cũng nhanh chóng chỉ ra rằng trong một số giai đoạn tàn bạo nào đó của lịch sử Ít-ra-en, vẫn có một số người bị ảnh hưởng và bị nhiễm cái nhìn kinh khủng ấy – một cái nhìn vẫn còn rất bình thường trong thế giới xung quanh It-ra-en.
Hình ảnh sai lạc này về một vị Thiên Chúa hay báo thù đòi hỏi con người dâng hy tế các con trai đầu lòng, lạ thay, lại được đưa trở lại vào một lý thuyết cứu chuộc được gán (có lẽ một cách lầm lẫn) cho Thánh Ansenmô. Lý thuyết này dẫn đến sự ngộ nhận thông thường rằng tội lỗi của loài người quá lớn đến nỗi công lý của Thiên Chúa đòi hỏi hy lễ là chính Con Một của Ngài để chuộc lại. Dĩ nhiên, lý thuyết này sau đó phủ trùm bóng rợp của nó trên hầu như mọi sự được coi là hy lễ trong tương quan với chính Đức Giêsu. Để làm sáng tỏ sự ngộ nhận này, không gì hữu ích hơn là nhìn sát hơn phép rửa của Đức Giêsu và tất cả những hệ quả theo sau trong ánh sáng ấy.
Người Tôi Tớ phi bạo lực, đau khổ và có sức mạnh giải phóng của Thiên Chúa
Tin Mừng Máccô giới thiệu căn tính và sứ mạng của Đức Giêsu trong ánh sáng của một nhận hiểu căn bản được tìm thấy trong bốn Bài Ca của Isaia Đệ Nhị: “Vì Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ“ (Mc 10,45). Trong tư cách là Người Tôi Tớ, Đức Giêsu được nhìn nhận là Người Con yêu dấu. Trong bản văn tiếng Hípri, câu mở đầu của Bài Ca Thứ Nhất nói về ebed, nghĩa là người tôi tớ được tôn vinh – được tín thác mọi sự. Bản Bảy Mươi dùng từ Hy lạp pais để chỉ đứa con trai. Trong ánh sáng của các Bài Ca Người Tôi Tớ, Đức Giêsu được hiểu trước hết như người tôi tớ hòa bình – một cách hiểu không hề có bao hàm bất cứ ý niệm sai lạc nào về nhu cầu được nguôi giận của Thiên Chúa. Đúng hơn, cách hiểu ấy nhằm giúp cho con người tìm ra con đường hòa bình nơi chính Đức Giêsu, Đấng là đường hòa bình và là hiện thân của thái độ phi bạo lực.
Lời Đức Giêsu mời gọi yêu thương kẻ thù là con đường biến kẻ thù thành bạn hữu. Con đường hòa bình mà Đức Giêsu vạch ra cho chúng ta là con đường phi bạo lực – nó chọn lựa đau khổ và thậm chí sự chết thay vì giết chết hay làm hại kẻ thù. Chính năng lực phi bạo lực đầy sức giải phóng này là điểm tựa cho một thái độ hoàn toàn sẵn sàng khai quang con đường hòa bình, và sẵn sàng làm thế bằng cách trao ban mạng sống. Đức Giêsu là Sự Thật, và một cách rất chuyên biệt, Ngài là Sự Thật về tinh thần phi bạo lực đầy sức giải phóng.
Nhưng câu hỏi vẫn còn: Phải chăng Thiên Chúa đã đòi hy lễ là chính Con Một Ngài? Bởi vì chúng ta đứng trước một mầu nhiệm thâm sâu và bởi vì từ góc nhìn của mình chúng ta chỉ có thể phát biểu trong những giới hạn của ngôn ngữ, của nhãn quan, bối cảnh con người chúng ta – là những cái luôn luôn khiếm khuyết và bất toàn - nên câu trả lời là vừa có vừa không. Trong mối tương quan nội tại và năng động của Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn chỉ cho con người thấy con đường hòa bình bằng bất cứ giá nào. Như vậy, “hy tế Đức Kitô” là cái giá của hòa bình và hòa giải – một cái giá vừa có sức thanh toán sự chết vừa có sức trao ban sự sống, cái giá tột cùng của mạc khải độc đáo về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Nhưng, để hiểu cái giá này, cần phải cảnh giác một điều gì đó. Thiên Chúa không hề có ý định hay có kế hoạch sát hại Đức Giêsu, Người Con Yêu Dấu. Điều Thiên Chúa thực sự nhắm đến chính là sự hòa giải cho một nhân loại hòa bình và phi bạo lực. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn – và Ngài tiếp tục muốn – chúng ta sẵn sàng trả giá cho hòa bình, hòa giải và cho tình yêu cứu độ như được hiểu trong ngôn ngữ của Thánh Phao-lô: “Ngài là sự bình an của chúng ta” (Ep 2, 14).
Để làm sáng tỏ điều này hết sức có thể, Ba Ngôi Vị - Đấng Sáng Tạo, Đấng Cứu Độ và Đấng Hiệp Nhất – cấm giết người và nhất là cấm giết người nhân danh Thiên Chúa. Giết người là tội ác ghê tởm nhất. Như vậy, nhận thức này làm sáng tỏ cho mọi thời rằng Thiên Chúa không bao giờ có ý muốn Người Con nhập thể của Ngài bị giết như một nạn nhân để làm cho Ngài nguôi ngoai hay để chuộc tội.
Điều Thiên Chúa thực sự nhắm đến là thái độ sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm, thậm chí chấp nhận chết trên thập giá nếu cần, để mạc khải tình yêu vô hạn của Thiên Chúa và để cho con người thấy con đường hòa bình, chân lý và sự sống. Cuối cùng, đây là giá mà Đức Giêsu đã trả, thậm chí đến độ trên thánh giá Ngài cầu nguyện cho các kẻ thù của Ngài và cho mọi tội nhân. Như thế, việc giết Đức Giêsu trên thập giá là hệ quả của sự dám liều ấy chứ không phải là hệ quả của “hy tế có thể được chấp nhận” như đã được dạy hằng bao thế kỷ và vô tình đã vẽ ra cho Thiên Chúa một khuôn mặt khắc nghiệt và tàn bạo.
Cả ba Sách Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày câu chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa trong ánh sáng của bốn Bài Ca Người Tôi Tớ. Ngay cả Tin Mừng Gioan cũng minh nhiên giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian!” (Ga 1,29). Gioan cũng nhắc chúng ta nhớ chủ đề cốt lõi của Bài Ca Thứ Nhất trong bốn Bài Ca Người Tôi Tớ: “Tôi trung Ta sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét, nó chẳng nỡ tắt đi“ (Is 42, 2-3); “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7).
Một kết quả dị hợm do cách nghĩ méo mó biến Đức Giêsu thành một con dê tế thần ấy là bản văn tiếng Anh của bản Thánh Kinh Giê-ru-sa-lem – bám chặt vào cách dịch: “Yahweh has been pleased to crush him with suffering” = “Giavê hài lòng đè bẹp người trong đau khổ” (Is 53,10). Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa rút ra được niềm vui khi hành hạ Đức Giêsu không? Bản Thánh Kinh Anh ngữ mới và tất cả các bản dịch đại kết mới đều nói một cái gì đó hoàn toàn khác: “Yet the Lord took thought for his tortured Servant and healed him who made himself a sacrifice” = “Tuy nhiên Đức Chúa nghĩ đến Người Tôi Tớ tan nát của Ngài và chữa lành Người đã tự hiến mình làm hy lễ” (Is 53,10).
Trong khi chúng ta có thể và sẽ tiếp tục nói về “hy lễ” như một cách giải phóng khỏi tội lụy để đạt đến sự liên đới trong hòa bình, đạt đến tình yêu vô vụ lợi, công lý có sức cứu độ, thì hy lễ theo nghĩa đúng đắn của nó có hàm chứa những sự chọn lựa gay go kèm theo những hệ quả khó khăn cho các linh mục và các Kitôhữu. Những hệ thống nghi lễ, những công phu khổ hạnh và những “hy sinh” trống rỗng không thể là hầm trú cho ta ẩn náu và không thể cho phép ta bất cần một sự nhận thức đích thực về cuộc sống. Hơn nữa, tất cả chúng ta phải sẵn sàng và mau mắn từ bỏ những gì ngăn cản bước tiến của mình trên con đường hòa bình và công lý hướng về Thiên Chúa, và chúng ta phải sẵn sàng đảm nhận những gánh nặng do hòa bình và hòa giải đặt ra bằng cách dám chịu đau khổ, thậm chí dám chịu chết, nếu đó là yêu cầu của Tin Mừng hòa bình, Tin Mừng của Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa.
Chúng ta nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ rằng Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gọi là Cha và Mẹ của Đức Giê-su Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta, không hề muốn và không hề cho phép bất cứ loại hy tế nào dẫn chúng ta đến chỗ trốn tránh tiếng gọi đích thực của mình trong, và cho, lịch sử cứu độ. Ý nghĩa đích thực của hy tế Đức Kitô rõ ràng đòi hỏi một tinh thần hy sinh chính mình, một thái độ hoàn toàn sẵn sàng đảm nhận những gánh nặng của anh chị em mình, và một lòng can đảm không nao núng để đối mặt với những chống đối, khổ đau và nguy hiểm – tất cả những cái ấy có thể bật lên trong quá trình thăng tiến hòa bình, công lý và tình yêu cứu độ.
Tinh thần phi bạo lực và sự thứ tha tội lỗi
Cốt lõi của sự tự thức nơi Đức Kitô trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực và là bí tích của hòa bình cũng dọi tia sáng trên cuộc khủng hoảng hiện nay xung quanh bí tích hòa giải.
Câu chuyện nổi tiếng về Cơn Lụt Hồng Thủy là biểu tượng rõ ràng cho thấy con đường tự hủy diệt của toàn thể nhân loại xuyên qua bạo lực và sai lầm, cả hai luôn luôn sóng bước cùng với thói kiêu căng và ngạo mạn. “Đất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và đầy bạo lực. Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất” (St 6,11-12).
Thánh Kinh kể lại một lịch sử dài về bạo lực của chế độ đàn ông trị. Lamec, người khủng bố các vợ mình và là một hậu duệ của Cain, kẻ sát nhân, là một điển hình rất rõ nét cho sự thật này: “Ông Lamec nói với các bà vợ: ‘Ađa và Xila, hãy nghe tiếng ta! Thê thiếp của Lamec, hãy lắng tai nghe lời ta! Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Lamec thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4,23-24).
Điều rõ ràng là chỉ những con người phi bạo lực mới được cứu trong và xuyên qua cơn Hồng Thủy ấy. Chính Đức Giêsu đã qui chiếu đến nhãn quan này khi Phêrô hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ bao nhiêu lần? Bảy lần chăng?” Đức Giêsu đáp: “Ta không bảo anh tha thứ bảy lần, nhưng là bảy mươi bảy lần” (Mt 18,21-22). Viêc Matthêu vận dụng ẩn dụ này cho thấy rằng Đức Giêsu tha thiết muốn chúng ta tha thứ vô giới hạn.
Được rửa với Đức Kitô “để được thứ tha tội lỗi” nghĩa là được tha thứ, và điều đó cũng còn có nghĩa – quan trọng hơn nhiều - rằng tất cả được cứu khỏi số phận tội lụy, tất cả được mang về mối liên đới có sức cứu độ, và tất cả được mời gọi trở thành những người cộng tác trong sứ mạng hòa bình và hòa giải của Đức Kitô trên trần thế.
Nếu ta có thể nói rằng chức linh mục thừa tác thêm một cái gì đó cho chức linh mục phổ quát của tất cả những ai đã chịu Phép Rửa, thì sự “thêm một cái gì đó” ấy chắc hẳn nằm ở chỗ: ở mọi cấp độ, các linh mục phải là những mẫu gương của thứ tha, những nhà lãnh đạo và những người kiến tạo hòa bình trên con đường tiến tới phi bạo lực và hoà giải. Con đừơng ấy bao hàm một tinh thần hủy mình ra không và sẵn sàng nhận hiểu đúng đắn về thái độ từ bỏ chính mình. Nói cách khác, các linh mục phải là những nhà kiến tạo hòa bình dám nhận mọi hiểm nguy, mọi gánh nặng, mọi hy sinh cần thiết để thi hành sứ mạng của Đức Kitô. Để có được thái độ sẵn sàng và bỏ mình như vậy, các linh mục cần biết sẵn lòng khiêm tốn cộng tác với mọi người thiện chí nhằm phục vụ cho ơn cứu chuộc con người khỏi tội lụy trong mọi hình thức bất công, lầm lạc và bạo lực của nó ở bất cứ nơi nào mà nó có mặt. Điều này hoàn toàn khác hẳn với những thực hành khổ chế có tính trấn áp chính mình vốn bị nhiều người chất vấn – những thực hành này có bao gồm những sự hành hạ chính mình và những đau khổ không cần thiết nhằm mục đích làm nguôi ngoai cơn giận của một vị Thiên Chúa hay báo thù.
Thư Do Thái giới thiệu Đức Kitô như vị thượng tế đầy lòng trắc ẩn, và chính lòng trắc ẩn và tình thương này thúc đẩy Đức Kitô thương xót các tội nhân. Điểm đặc trưng nơi một người linh mục đích thực là: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ cho chính mình như vậy” (Dt 5,2-3).
Tôi có một đề nghị đầy sức chữa trị và đầy an ủi cho các linh mục cũng như cho các Kitô hữu phải khổ sở vì trằn trọc không biết mình đã xưng thú đàng hoàng mọi tội trọng của mình chưa, không biết mình đã xưng đúng loại tội và đúng số lượng chưa – đề nghị đó là: Bạn hãy tập trung mọi sự chú ý và mọi năng lực của bạn vào việc trở thành một dấu hiệu hữu hình và đầy thuyết phục của sự chữa trị, thứ tha và của tinh thần phi bạo lực hết sức có thể! Đó là một loại bí tích đấy! Rồi bạn sẽ được đảm bảo trong đức tin rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi của bạn. Chỉ khi nào quyết chí bước đi trên lộ trình này, chúng ta mới có thể đóng góp phần mình vào nỗ lực vượt qua cơn khủng hoảng hiện nay xung quanh bí tích của hòa bình và hòa giải.
Chức linh mục của các tín hữu và chức linh mục thừa tác
Công Đồng Vatican II đã sải những bước dài trên con đường vượt qua não trạng giáo sĩ trị in hằn bao đời, não trạng đó đánh giá cao các linh mục và đánh giá thấp người giáo dân – sự phân biệt này dẫn đến nhiều hình thức lảng xa và phân biệt trong Giáo Hội. Từ một góc nhìn phụng vụ, tôi thấy những lá chắn ấy chưa bao giờ được ghi nhận rõ ràng hơn thời điểm cách đây ít lâu khi tôi ghé thăm một số nhà thờ ở Ý và nhận thấy các bàn thờ được đặt ở một tầng cao hơn gian giữa của giáo đừơng. Thời ấy, ít khi một linh mục bước xuống vào giữa lòng Giáo Hội, ngay cả lúc cho rước lễ.
May thay, quyết định của Công Đồng uỷ trao cho mọi người đã chịu Phép Rửa - những Kitô hữu không có chức thánh – các vai trò quan trọng trong phụng vụ và mục vụ là một bước quan trọng trong việc phá bỏ các lá chắn ấy. Hiện nay đa số trong chúng ta đều biết rằng chức linh mục không phải là một bước đi lên trong bậc thang xã hội, nhưng đúng hơn, đó là một sự dấn thân đặc biệt để đi xuống, trong khiêm nhường và phục vụ, đến với con người để trở thành “một người trong họ”. Khi làm thế, ý nghĩa của chức linh mục không bị lạc mất. Đúng hơn, có thể nói, chức linh mục được vãn hồi, được củng cố và được đào sâu theo chiều hướng trở lại với sự khiêm nhường của Đức Kitô như dấu hiệu căn tính của Ngài là Thượng Tế tốt lành. Chức linh mục phổ quát và chức linh mục thừa tác cùng hướng chỉ đến ơn gọi Phép Rửa của chúng ta là ơn gọi phục vụ cho nền hòa bình Messianic trên trái đất này.
NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH SÂU XA HƠN CỦA ƠN GỌI LINH MỤC
Tiếng gọi đặc biệt dành cho Matthêu (Lêvi) là một ví dụ hùng hồn về ơn gọi nhưng không đối với giáo dân cũng như giáo sĩ. Khi Đức Giêsu đi ngang qua, Ngài trông thấy một người đàn ông tên là Matthêu đang ngồi ở bàn thu thuế; và Ngài nói với ông: “Hãy theo Ta”. Và ông đứng dậy đi theo Ngài. Và khi Đức Giêsu ngồi dùng bữa tối trong nhà, nhiều người thu thuế và những kẻ tội lỗi cùng dùng bữa với Ngài và các môn đệ Ngài (Mt 9,9-10).
Tiếng gọi dành cho Lêvi và bữa ăn Messianic
Lêvi là một thiên tài tôn giáo thực sự ở chỗ ông nhận ra và diễn tả tính nhưng không này một cách sáng tạo ngay từ đầu: “Nếu Thầy mời tôi, một kẻ xấu, một tên thu thuế bị khinh bỉ, lẽ nào Ngài không tiếp đón các bạn cũ của tôi nhỉ?” Cùng ngày hôm ấy, Lêvi dọn bữa cho Đức Giêsu và cho các bạn hữu của ông. Lêvi có nhận ra rằng hành động ấy của ông là biểu tượng của bữa ăn Messianic và của tính mới mẻ của Nước Trời không? Đối với chúng ta, hành động ấy của Lêvi là một diễn tả rất thuyết phục về ý nghĩa ơn gọi của chính chúng ta.
Lòng hiếu khách của Lêvi, đã phá đổ các rào chắn của con người và tất cả những thói trịch thượng ngạo mạn, đã không tránh được sự dòm ngó của những người Pharisêu. Nhóm Pharisêu hỏi các môn đệ Đức Giêsu: “Tại sao Thầy của các anh ăn uống cùng với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi? “ (Mt 9,11). Cũng vậy, cả lịch sử câu chuyện chúng ta được chấp nhận cách ưu biệt vào kết hợp với Thánh Thể được chứng minh trong câu hỏi của những người Pharisêu, một câu hỏi phát xuất từ thái độ loại trừ. Cốt lõi của lòng thương xót và của tình yêu đầy sức chữa trị của Đức Giêsu trong bối cảnh này được tóm kết trong câu trả lời đầy thách đố của Ngài: “Những người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người đau yếu mới cần. Hãy đi và học biết điều này: ‘Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ’. Vì Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính nhưng là những tội nhân” (Mt 9,12-13).
Có lẽ thời nào cũng có một tầng lớp linh mục nào đó không học biết được và không thể hiện được nhãn quan căn bản về tình thương và lòng khiêm nhường đầy sức chữa trị của Đức Giêsu, thay vào đó, các vị linh mục ấy sẽ cổ xúy một cái nhìn sai lạc về “hy lễ”. Tuy nhiên, cũng như Mátthêu, các linh mục đích thực không thể tìm thấy hạnh phúc chân thực trong việc bước theo Đức Giêsu nơi sự phân loại và loại trừ bất cứ ai ra khỏi bữa ăn Messianic với luận cứ rằng: “Họ ở trong tình trạng tội trọng một cách khách quan”.
Về vấn đề này, cũng như trong các vấn đề khác, những ai sống một đời sống đạo đích thực sẽ không giấu được nỗi thảng thốt, niềm thích thú và một cảm nhận bên trong về tấm lòng nhân hậu tuyệt vời của Đức Kitô, tấm lòng ấy giúp họ có thể bẻ gãy mọi rào chắn của con người chống lại thói tự cho mình là công chính. Dĩ nhiên, những phẩm chất này cũng bao gồm một khả năng biện phân Kitô giáo rành mạch tiên vàn giúp cho tất cả chúng ta là những linh mục biết cảnh giác đừng loại chính mình ra khỏi niềm vui của bữa ăn Messianic do bởi nhãn quan tự cho mình là công chính và thiếu vắng một tấm lòng. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ hay nói điều gì có tính qui kết người khác là tội nhân trước khi thú nhận rằng cả chúng ta nữa cũng là những tội nhân đáng thương. Trong bối cảnh này, chúng ta tự hỏi các linh mục có nên luôn luôn cố trao ấn tượng rằng mình là những con người thánh thiện hay ít nhất mình là những con người không có gì sai quấy? Rõ ràng câu hỏi ấy cần được trả lời sáng tỏ.
Nhà văn nữ Ba Lan Mary Winowska kể câu chuyện sau đây về một cha sở. Trước mắt tất cả giáo dân trong xứ, vị linh mục này là một mục tử tốt lành thánh thiện tuyệt vời. Dường như không ai có thể chê ngài về bất cứ điều gì cả. Ngày nọ, một công an chìm của Gestapo đến gặp ngài, tự giới thiệu, và đưa ra với ngài một đề nghị bất ngờ: “Chúng tôi tin rằng ông sẵn lòng hợp tác với chúng tôi bằng cách đều đặn cung cấp cho chúng tôi những thông tin trong nội bộ Giáo Hội. Công việc này không ai có thể làm tốt hơn ông, vì ông rất được tín nhiệm bởi các giám mục và các linh mục khác.” Cha sở trả lời không do dự: “Không được. Chúa không cho phép tôi làm điều đó!” Viên công an chìm rút trong túi ra một tấm ảnh, chìa cho cha sở xem. Đó là ảnh một phụ nữ đang ẵm đứa con nhỏ trên tay. Anh ta nhìn thẳng vào mắt vị linh mục, hỏi gằn từng tiếng: “Ông không phải là cha của đứa trẻ này đấy chứ?”
Hoàn toàn bất ngờ trước tang chứng ấy, vị linh mục trầm ngâm giây lát, rồi xin viên công an cho mình có thêm thời gian để suy nghĩ về đề nghị trên kia của anh ta: “Anh cho phép tôi khất đến Chúa Nhật tới.”
Chúa Nhật tuần ấy, mọi người tề tựu đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ như thường lệ. Và một sự kiện hết sức bất ngờ đã xảy ra. Vào đầu Thánh Lễ, thay vì đọc Kinh Cáo Mình theo nghi thức thông thường, vị linh mục xưng thú tất cả những tội lỗi của mình trước mặt toàn thể cộng đoàn giáo dân, kể cả những tội mà Gestapo không hề biết. Trà trộn giữa các tín hữu trong nhà thờ hôm ấy, có hai viên công an chìm của Gestapo. Trong nước mắt, vị linh mục xin cộng đoàn giáo dân tha thứ cho mình và cho phép mình xin chuyển đi nơi khác để đền tội. Sau một thoáng im bặt, cả nhà thờ bắt đầu xôn xao lên. Mọi người đều sa lệ vì cảm kích. Họ nhất tề la lên: “Xin cha đừng đi đâu cả, xin cha tiếp tục ở lại săn sóc chúng con. Chúng con vốn kính mến cha, hôm nay chúng con càng kính mến cha và cảm thấy cha gần gũi hơn bao giờ!” Nhờ sự thú nhận công khai của mình, vị linh mục nói trên, qua tình trạng tội lỗi của ông, đã tỏ ra ông là “một người trong chúng ta” với các giáo dân của ông.
Để trả lời cho câu hỏi căn cơ trên kia, rõ ràng người linh mục phải hiểu rõ mình được gọi sống thánh thiện tới mức trở thành một nguồn khích lệ cho mọi người trên con đường tiến tới sự hoàn thiện Kitô giáo. Tuy nhiên, bất cứ sự ngụy tạo nào của sự thánh thiện cũng sẽ là một mô ụ gây cản trở cho nỗ lực trên. Linh mục nào không thể nhận ra rằng mình cũng sống nhờ vào sự thứ tha của Chúa và rằng mình cũng sai lầm thì linh mục ấy sẽ không thể nhận được một sự tín nhiệm nào cả.
Sẽ thật có ý nghĩa việc chúng ta chọn Lêvi Matthêu như một vị quan thầy. Làm thế, chúng ta có thể trở nên những linh mục có hiệu năng nhiều hơn, trong chừng mực chúng ta sẵn sàng hơn để mời những kẻ bên ngoài bước vào bàn ăn Messianic của Đức Giêsu; và làm thế, chúng ta sẽ thấy mình được đón nhận niềm nở hơn bởi chính Đức Giêsu. Cũng như Lêvi, chúng ta cần nhận hiểu sâu xa hơn và hiện thực hóa lời của Đức Giêsu: “Ta không đến để xét xử nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 12,47).
Càng khiêm tốn ca ngợi tình yêu chữa trị của Thiên Chúa đối với mọi con người, chúng ta càng có thể – nhờ ân sủng Thiên Chúa - trở thành những “thầy thuốc bị thương” đầy hiệu năng. Rõ ràng, các linh mục không bao giờ được phép coi bất cứ ai thuộc trách nhiệm săn sóc của mình là “hết thuốc chữa”. Mọi cảm quan và hoạt động mục vụ của chúng ta phải được thấm nhuần bởi ý thức ngày càng hơn về tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa, một tình yêu vô hạn và chúng ta chỉ là những kẻ bất xứng - ngay cả khi chúng ta cảm nghiệm về sự thiếu thốn của mình. Tất cả những gì chúng ta có thể làm chỉ là tiếp tục sẵn sàng để cho tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa hành động và, khi nhìn nhận tấm lòng ấy, chúng ta thể hiện sự quảng đại của Thiên Chúa trong thái độ mục vụ của chúng ta, trong việc khích lệ người khác một cách không mệt mỏi. Chúng ta hãy để cho Lêvi hướng dẫn mình!
Việc rửa chân tại Bữa Tiệc Ly
Biến cố phép rửa của Đức Giêsu ở sông Giođan và việc Ngài rửa chân cho các tông đồ tại Bữa Tiệc Ly là hai sự kiện hoàn thành lẫn nhau. Khi nâng việc rửa chân ấy lên hàng nghi lễ, Đức Giêsu muốn diễn tả phép rửa mà Ngài tự nguyện lãnh nhận trong máu của chính Ngài để thứ tha tội lụy và để cho tình yêu phi bạo lực được khải thắng. Khi chọn làm công việc rửa chân, một công việc thường được gán cho các tôi tớ thấp hèn nhất, Đức Giêsu muốn xác nhận rằng hành động khiêm nhường này – vốn soi sáng cho toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài – phải được coi là chuẩn mực cao nhất, đặc biệt đối với những ai được gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngài và sứ mạng hiệp nhất tất cả các môn đệ trong tình yêu của Ngài.
Mặc dù Tin Mừng Gioan mang sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nó vẫn không đưa ra một trình thuật minh nhiên nào về cơ chế của Thánh Thể. Cũng như nhiều học giả Thánh Kinh khác, tôi xem bản trình thuật rửa chân trong bối cảnh của nó là một trình thuật tuyệt vời về Thánh Thể. Đó là một chìa khóa không thể thiếu để nhận hiểu sâu xa hơn về cả Thánh Thể lẫn chức linh mục.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta mối quan hệ độc đáo của Ngài với Chúa Cha. Hơn nữa, Ngài mạc khải cho chúng ta biết Cha là ai qua nghi thức rửa chân này, qua việc Ngài tự hiến trở thành bánh ban sự sống và, cuối cùng, qua việc Ngài đổ máu trao ban nguồn sống. Gioan đã nhấn mạnh mạc khải này trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô“ (Ga 17,1-3).
Có một số người kiên quyết chống lại việc truyền chức linh mục cho phụ nữ dựa vào giả thuyết rằng không có phụ nữ nào hiện diện tại Bữa Tiệc Ly, và do đó họ kết luận rằng chức linh mục Tân Ước rõ ràng chỉ dành riêng cho nam giới. Có lẽ không có phụ nữ nào hiện diện ở đó, nhưng đó là điều ta chỉ có thể giả đoán thôi. Điều quan trọng hơn, đó là sự kiện rằng phụ nữ có hiện diện với Đức Giêsu, có liên hệ một cách tích cực trong đời sống sứ vụ của Ngài, và phụ nữ tiếp tục liên hệ tích cực như thế bằng những cách thế đầy ý nghĩa và có sắc thái linh mục trong quá trình xây dựng Hội Thánh.
Các phụ nữ không chỉ đi theo Đức Giêsu trong tư cách là những người tôi tớ khiêm nhường, mà họ còn trung thành ở lại dưới chân thập giá khi những người khác đã bỏ đi mất. Người đầu tiên gặp thấy Chúa Phục Sinh vào sáng sớm ngày đầu tuần và loan báo tin mừng đó chính là một phụ nữ. Biến cố này chúng ta chỉ cử hành trong Thánh Lễ một cách xứng đáng khi chúng ta biết từ chối mọi thái độ trịch thượng và biết tự biến mình – cùng với những phụ nữ ấy – trở thành những tôi tớ của Người Tôi Tớ Giavê.
Gioan, người môn đệ được Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã cho thấy rõ rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép mình đi vào trong trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành động rửa chân. Dĩ nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai không thể đón nhận nó như luật nền tảng của đời sống Kitôhữu và nhất là của sứ vụ tông đồ của người linh mục. Khi Phê-rô hỏi phải chăng Đức Giêsu sắp rửa chân cho ông, Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ anh không hiểu điều Thầy sắp làm, nhưng rồi anh sẽ hiểu.” Bị sốc, Phê-rô nói: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được đồng bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu hàng khi nhận được tối hậu thư đó, dù ông không nhận ra tầm mức đầy đủ ý nghĩa của nó đối với mình. Cũng như Phê-rô, chúng ta chỉ ý thức mơ hồ về ý nghĩa của tối hậu thư nói trên khi chúng ta đang trên hành trình tiến đến một nhận thức hiện sinh trọn vẹn hơn.
Một phần nào đó, nguyên nhân của sự bối rối nơi Phê-rô cũng như nơi những người khác là do bởi hình ảnh sai lệch về Đấng Mêsia vốn rất phổ biến thời ấy. Vào thời của Đức Giêsu, những người anawim, tức những con cái It-ra-en khó nghèo và hèn mọn – như Maria và Giu-se – hát và rao giảng những Bài Ca của Người Tôi Tớ với hết tâm hồn họ. Tuy nhiên, đối lập với niềm hy vọng của những người anawim, nơi giới thượng lưu có tồn tại một ngưỡng vọng về một vị anh hùng dân tộc đầy uy lực sẽ giải phóng It-ra-en khỏi ách thống trị Rôma.
Suy nghĩ về Tin Mừng Maccô, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đầu tiên nhận thấy rằng trong nhiều trường hợp, Đức Giêsu được mô tả như một Đấng yêu cầu các tông đồ không được tiết lộ Ngài là Mêsia. Maccô có lý do chính đáng để trình bày như thế. Vì Phê-rô và những người theo Đức Kitô bám chặt vào một Mêsia quyền lực, nên dường như vào thời điểm ấy họ không thể tin tưởng rằng Con Người, rằng “một người trong chúng ta” ấy chính là Đấng Mêsia. Chỉ khi các tông đồ trở nên hoàn toàn vỡ mộng với ý niệm về quyền lực như nói trên, họ mới có thể – trong niềm tin sâu xa vào Người Tôi Tớ của Thiên Chúa – nhận hiểu Ngài là Đấng Mêsia đích thực và đầy sức mạnh.
Khi áp dụng sự thật này cho chính mình, tôi nhận ra rằng chỉ trong mức độ tôi “biết” Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, tức Con Người, và chỉ trong toàn thể con người và cách sống của tôi trong tư cách là người tôi tớ của Người Tôi Tớ ấy, mới có thể có bất cứ ý nghĩa nào trong lời ca ngợi Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Trong mức độ mà bất cứ linh mục, phó tế hay người được đào tạo mục vụ nào còn bám chặt vào đặc quyền đặc lợi, chức quyền, vinh dự thế gian hay cố níu giữ một thói trịch thượng nào đó, thì bất cứ gì được nói về “địa vị” của chức linh mục thừa tác và chức linh mục phổ quát cũng đều trở thành rỗng tuếch, sai lạc và hoàn toàn giả trá.
Trong mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các tư tế có năng lực ngôn sứ đích thực đến cho Giáo Hội và cho thế giới. Các vị này – với lòng khiêm nhường sâu thẳm và với sự sáng suốt tuyệt vời – đã qui hướng lòng trí vào phép rửa của Người Tôi Tớ Giavê, vào sự kiện Con Người rửa chân cho các môn đệ, vào tình yêu mãnh liệt của Ngài đối với những người nghèo khổ và bất lực nhất trên mặt đất này, và cuối cùng, vào thái độ Ngài sẵn sàng đảm nhận thập giá. Tất cả những tiêu điểm ấy được cử hành trong bữa ăn Thánh Thể – nơi mà Đức Kitô Phục Sinh hiện diện một cách thâm sâu.
Sự kệch cỡm của những cuộc tranh giành địa vị cao thấp
Nếu chúng ta không lột trần những khuynh huớng kiếm tìm vinh dự và mọi hình thức tự đề cao mình, chúng ta sẽ bị sốc trước sự thật khi đọc trình thuật Thánh Kinh về cuộc tranh luận lố bịch giữa các tông đồ trong đó các ông cãi nhau xung quanh vấn đề ai là người lớn nhất. Thật là không thể tưởng tượng! Liền sau việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và giải thích về ý nghĩa thâm sâu của hành động đó, chúng ta đọc thấy:
“Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 24-27).
Cũng vậy, chính Giacôbê và Gioan, qua mẹ các ông, đã xin chỗ vinh dự bên cạnh Đức Giêsu. Phải chăng họ không nhận ra rằng lời yêu cầu ti tiện ấy của họ làm đau lòng Đức Giêsu biết bao? Đức Giêsu đã trả lời họ: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì. Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và nhận phép rửa mà Ta nhận không?” (Mc 10,38).
Bản văn này rất quan trọng cho chúng ta, bởi vì ở đây Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hiểu phép rửa của chính chúng ta trong quan hệ với phép rửa của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực – một phép rửa bằng máu. Ở đây đặt ra cho các Kitôhữu và nhất là cho các linh mục một nhận thức hết sức quan trọng: đó là, mọi sự phải được cân nhắc lại. Hoặc chúng ta chấp nhận sự chọn lựa nền tảng để bước theo Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ một cách trung thành, khiêm tốn và can đảm, dù phải chịu đau khổ cho đến chết nếu cần, hoặc chúng ta vẫn tiếp tục làm nô lệ cho thói kỳ thị và lòng kiêu ngạo.
Maccô 9, 30-37 là một kiệt tác về văn chương và sư phạm. Dưới ngòi bút của Maccô, Đức Giêsu trình bày sứ điệp căn bản của Ngài cho các tông đồ như sau: “Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại“ (Mc 9,31).
Lúc ấy Đức Giêsu bước đi trước các ông - tiến về sự hoàn thành những gì Ngài đã giải thích. Trên đường đi, các tông đồ giữ một khoảng cách với Ngài để Ngài không nghe những gì họ bàn tán. Nhưng Ngài biết tỏng! Khi thầy trò quây quần trong nhà ở Carphanaum, Đức Giêsu hỏi: “Anh em tranh luận với nhau về điều gì khi đi đường?” Họ im lặng, vì chủ đề cuộc tranh luận của họ là ai lớn nhất giữa họ. Phải chăng các ông có một lương tâm tệ hại đến nỗi các ông ước mong rằng Đức Giêsu, Đấng vừa mạc khải số phận thê thảm của Ngài, không biết những gì họ đang suy nghĩ trong đầu óc mình?
Sau hai mươi thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, chúng ta có khôn ngoan hơn chút nào chăng? Nếu chúng ta thành thật, thì người tốt nhất trong chúng ta cũng sẽ phải nhìn nhận rằng có những lúc mình rơi vào cám dỗ muốn đề cao chính mình. Tại Công Đồng Vatican II, đã thường xuyên vang lên những cảnh giác chống lại thói hãnh thắng của Giáo Hội. Trong chính phiên họp cuối cùng, một số hồng y, thượng phụ, giám mục và một số nhà thần học – kể cả tôi – đã qui tụ lại với nhau để thảo luận một đề nghị cuối cùng cho Công Đồng, đó là: Chúng tôi đã kiến nghị rằng các Nghị Phụ Công Đồng sẽ không trở về với các giáo phận của mình mà trước hết không trịnh trọng cam kết theo tinh thần khó nghèo của người tông đồ - và trước hết là theo tinh thần đơn sơ tông đồ bằng cách tháo gỡ mọi tước hiệu đối nghịch với Tin Mừng vốn vẫn còn rất phổ biến trong tầng lớp lãnh đạo Giáo Hội. Vài trăm giám mục đã sẵn sàng cho bước này. Tuy nhiên, do thời gian gấp rút lúc bấy giờ, đề nghị ấy đã không bao giờ được thông qua. Tôi xác tín rằng rất có thể chúng ta đã tránh được cho Giáo Hội rất nhiều rắc rối sau Công Đồng nếu chúng ta đã chính thức biểu quyết và trung thành tuân giữ một quyết định rõ ràng về vấn đề này.
Một cách vô cùng sáng tỏ, câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11) hoàn toàn lột trần mưu chước Satan cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian; và những cám dỗ này được thấy là trực tiếp đối nghịch với ơn gọi của Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ. Những cám dỗ khủng khiếp ấy nguy hiểm một ngàn lần hơn so với – chẳng hạn – việc thủ dâm, việc quan hệ tình dục tiền hôn nhân, việc ngừa thai ... và bất cứ ưu tư nào khác liên quan đến lãnh vực tính dục mà Giáo Hội thường xuyên xôn xao bàn luận và khắc ghi sâu trong tâm trí người tín hữu.
Tình trạng phóng thể tôn giáo và nhất là tình trạng xuống cấp của mạc khải trọn vẹn về Đức Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, xuyên qua lòng kiêu hãnh và cao ngạo của con người, xuyên qua lòng tham quyền lực, ... tất cả đều là công trình của ma quỉ. Chúng ta cần không ngừng dốc sức để lột trần những quyến rũ ấy – trước hết nơi chính chúng ta và rồi nơi Giáo Hội và thế giới. Công việc vạch mặt những cám dỗ này chỉ có thể thực hiện được trong mức độ mà lòng trí chúng ta gắn chặt với Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.
Đức Giêsu – người thợ mộc
Trong nhiệm cục cứu độ, Đức Giêsu ngay từ đầu được sinh ra và lớn lên trong khung cảnh nghèo. Được gọi là “con trai của bác thợ mộc”, hay đơn giản hơn: “anh chàng thợ mộc”, Ngài quen với công việc vất vả – và chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu vui vẻ làm việc cho người ta, giúp dựng nhà cửa, đóng bàn ghế cho họ ... Khuôn mặt người thợ Giêsu ăn khớp với khuôn mặt lớn hơn của Đức-Giêsu-Người-Tôi-Tớ-Giavê, “Con Người”. Cuối cùng, khuôn mặt người thợ này cũng rất am hợp với hình ảnh Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan giữa đám đông những người bình thường, những người đón nhận lời Gioan kêu gọi hoán cải.
Tôi còn nhớ hồi cuối thập niên 1950, nhiều người trong chúng ta đã bị sốc khi Hồng Y Giuseppe Pizzardo, vị lãnh đạo có nhiều quyền hành trong tòa thánh, đã cấm các sáng kiến về linh mục thợ với luận cứ kỳ quặc rằng vị trí của một người công nhân hạng quèn sẽ không phù hợp với phẩm cách của chức linh mục. Dĩ nhiên, phong trào này mâu thuẫn với cái nhìn của vị hồng y nói trên về chức linh mục, một cái nhìn được kết tinh từ cả một lịch sử dài của những linh mục mơ tưởng sự nghiệp, những linh mục ngay từ đầu bận tâm săn đuổi các tước vị và các đặc quyền trong Giáo Hội - những bận tâm này dẫn họ tiến thẳng đến chiếc mũ hồng y! Ý niệm linh mục thợ chắc hẳn đã làm sững sờ những giáo sĩ này, những người đầy tham vọng phấn đấu tranh thủ áo mão cân đai cũng như bao thứ rác rưởi vốn hão huyền và ngớ ngẩn hơn cả những thứ đang nằm trong tay bao kẻ cường hào trên thế gian này.
Thật mỉa mai, khi tôi viết những dòng này, một lá thư nặc danh vừa mới được gửi tới với lệnh truyền: “Ông hãy ngừng ngay chuyện phê bình Giáo Hội! Cả ông nữa cũng có thể được mặc áo tía đó.” Buồn nhất là sự thật trần trụi mà tác giả của lá thư này muốn nói lên: có một mối liên quan giữa sự vâng phục tối mặt và con đường tiến thân vốn đặc trưng một thời và hiện nay vẫn còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều kẻ săn tìm sự nghiệp trong Giáo Hội! Thật hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc và các tông đồ của Ngài – phần đông trong họ là những ngư phủ. Ngay cả Phao-lô, người thợ dệt bố, vẫn tiếp tục công việc của mình trong khi thi hành tất cả các trách nhiệm của người tông đồ, hay như anh bạn thầy thuốc Luca vẫn duy trì công việc chữa bệnh trên đường đồng hành với Phao-lô trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Khi nhìn lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa vào trong thân phận khó nghèo, vào trong cảnh vực bần cùng hạ cấp của xã hội là một sự đối nghịch hoàn toàn với mọi hình thức cầu quyền cầu danh. Hơn tất cả các ngôn sứ trước Ngài, và ăn khớp với tôn chỉ độc đáo của Ngài là “tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”, Đức Giêsu vạch mặt và tố giác mọi sự lạm dụng tôn giáo để tranh thủ tư lợi cá nhân.
Ở đây, cần phải nhấn mạnh lại danh hiệu duy nhất mà Đức Giêsu tự gán cho mình: “Con Người” (ben adam). Thư Do Thái giải thích rõ ràng điều này như sau: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa” (2,17). Sau đó, cũng trong Thư này, ta đọc thấy: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (4,15).
Trong cảnh vực đức tin Công Giáo hay trong bất cứ truyền thống Kitô giáo nào, hễ bất cứ ở đâu có tồn tại một giai cấp giáo sĩ vị vọng được đúc nặn từ một hệ thống đặc quyền phân biệt hẳn họ khỏi đại chúng, thì tầng lớp ấy sẽ trở thành một thứ muối đạo đức giả nhạt nhẽo và trở thành sự mâu thuẫn trực tiếp với châm ngôn của Tin Mừng vốn tha thiết mời gọi chúng ta trở thành muối đất và ánh sáng cho đời. Như thế, trong ánh sáng của Tin Mừng, bất cứ sự phân biệt nào giữa giáo sĩ và giáo dân dựa trên đẳng cấp và đặc quyền đều hoàn toàn thô bỉ.
Ngay trong Giáo Hội sơ khai, sự phản đối việc thi hành quân dịch đã trở thành một dấu hiệu rõ ràng của tất cả các tín hữu bước theo Người Tôi Tớ phi bạo lực. Tuy nhiên, khi Giáo Hội thích nghi với những thay đổi xảy ra do sắc dụ của Constantine năm 313, một sự phân biệt mới kỳ quặc đã xuất hiện giữa các linh mục (lúc bấy giờ thật sự là “giáo sĩ”) và giáo dân. Việc từ chối thi hành quân dịch dựa trên tinh thần phi bạo lực bỗng trở thành một đặc quyền cho chỉ một tầng lớp người – đó là tầng lớp giáo sĩ – trong khi đó quần chúng thường dân được kỳ vọng là phải thi hành quân dịch nếu họ được lệnh trưng binh.
Một đàng, việc miễn quân dịch cho các linh mục có vẻ như bảo đảm cho các ngài thi hành vai trò của giáo sĩ là làm chứng cho Đức Kitô Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê; nhưng đàng khác, các linh mục và các giám mục đã để mình được sử dụng nhằm khuyến khích việc thi hành quân dịch của các Kitôhữu “thường dân”. Ở đây, toàn bộ ý nghĩa của việc được rửa nhân danh Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ phi bạo lực - vốn là đặc điểm của toàn dân tư tế của Thiên Chúa - đã hoàn toàn bị phá sản. Làm sao tôi, trong tư cách là một linh mục, có thể đòi rằng vai trò làm chứng và sự đồng hình dạng của tôi với Đức-Kitô-Đấng-Kiến-Tạo-Hòa-Bình không cho phép tôi thi hành quân dịch trong khi đồng thời tôi, trong tư cách là linh mục, lại bảo các anh em Kitôhữu của tôi rằng họ phải chấp hành một sắc luật nhà nước yêu cầu họ thi hành quân dịch?
Là một linh mục lính cứu thương trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, tôi đã hưởng lợi từ sự miễn chuẩn này hết mức độ mà mình có thể. Nếu không có chế độ miễn chuẩn, rất có thể tôi đã phải đương đầu với một khủng hoảng luân lý nghiêm trọng, vì trong lương tâm mình, tôi không bao giờ có thể cầm súng trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy. Nói ‘hưởng lợi’, song tôi thấy cũng cần phải chỉ rõ rằng chính sách miễn chuẩn cho linh mục ấy đã đòi trả giá đắt, bởi vì trong số các đơn vị quân đội khác nhau, con số tử vong cao nhất đã thuộc về các lính cứu thương là linh mục. Tuy nhiên, sự sẵn sàng chết trong tư thế không vũ trang để phục vụ cho sự sống là một cái gì đó hoàn toàn khác với thái độ cảm tử trong khi tham gia vào việc giết đồng loại. Theo nghĩa đó, tôi đã hưởng lợi rất nhiều. Tôi có thể thêm rằng gần như mọi thành viên của Giáo Hội Hòa Bình Mennonite ở Đức đã dứt khoát từ chối tham gia quân đội, và điều xảy ra là nhiều người trong họ đã chấp nhận bị xử tử theo lệnh của Hitler để kiên trung làm chứng cho tinh thần phi bạo lực.
Dọc theo bao thế kỷ cho đến thời đại chúng ta, nhiều giám mục và giáo sĩ Công Giáo ở cả hai phía của các cuộc chiến tranh đã đóng một vai trò quị lụy rất đáng buồn – họ cổ súy sự vâng phục đối với Xê-da trong khi lẽ ra cần phải vâng phục Đức Kitô. Chỉ cần nêu ra ở đây một ví dụ của chính thế kỷ này: Khi Jagerstatter, anh bõ nhà thờ người Ao, từ chối thi hành quân dịch “theo sự điều động của một tên tội phạm như Hitler”, cả cha sở lẫn giám mục của anh đều cố thuyết phục anh rằng thà chịu tòng quân một cách cưỡng bách hơn là phải chết. Tuy nhiên, anh ta đã tỏ ra khôn ngoan hơn và dũng cảm hơn các giáo sĩ ấy.
Trong ánh sáng của phép rửa, cuộc sống và cái chết của Đức Kitô, tôi xác tín rằng sự dấn thân thâm sâu cho tinh thần phi bạo lực và cho hòa bình là một cái gì rất cơ bản của ơn gọi Kitôhữu và ơn gọi linh mục. Trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, luôn cần phải chú ý thăng tiến một cơ chế công lý, tình yêu, hòa bình và phi bạo lực.
Tôi hơi ngần ngại đối với câu hỏi thường được đặt ra rằng phải chăng các linh mục nên có những quan điểm chính trị nhằm thăng tiến hòa bình, công lý, và tinh thần phi bạo lực. Dù sao, trong tư cách là linh mục và đặc biệt trong tư cách là những nhà thần học, chúng ta phải cố gắng hết sức mình để cổ võ các ơn gọi hoạt động chính trị. Đàng khác, những linh mục nào tin rằng họ phải hiện diện và hoạt động trong mọi đấu trường cuộc sống sẽ cho thấy khả năng thất bại của họ trong ơn gọi rao giảng và làm chứng cho cốt lõi tinh thần của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.
Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vô số nam nữ Kitôhữu hoàn toàn dấn thân cho các giá trị hòa bình và phi bạo lực của Tin Mừng đã phục vụ cho người nghèo, cho những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị bỏ rơi bằng những cách thức đầy sáng tạo và với tinh thần mục vụ sâu sắc. Thử nghĩ, phải chăng Giáo Hội không thể cho phép những thừa tác viên này của Đức Kitô thi hành các chức năng chuyên biệt mà cho đến nay vẫn chỉ dành riêng cho những người được truyền chức? Và nếu những người nam nữ ấy được ban quyền như vậy – như trong trường hợp chức phó tế được tái lập (tuy nhiên rất đáng tiếc là chỉ dành riêng cho nam giới!) – thì phải chăng họ không thể được truyền chức thánh nếu họ khao khát điều đó?
Làm chứng cho Chúa Phục Sinh
Ngay trước khi bầu chọn Matthia để bổ sung đầy đủ con số các tông đồ, Phê-rô đưa ra một mô tả sắc nét về những yêu cầu của một tông đồ như ta đọc thấy trong Sách Công Vụ: “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép ưủa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi lam chứng rằng Người đã Phục Sinh.” (1,21-22).
Tôi thấy thật là một điều rất có ý nghĩa khi Phê-rô nhắc các tông đồ nhớ lại tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, vì biến cố phi thường ấy cho thấy rằng Đức Giêsu, trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê, vui lòng đón nhận những gánh nặng của chúng ta. Đối với mọi Kitôhữu và, một cách đặc biệt khẩn thiết, đối với tất cả các giám mục và linh mục, mầu nhiệm này phải trở thành khuôn mẫu cho chứng tá của họ về lòng khiêm nhường và tinh thần phi bạo lực của Đức Giêsu cũng như cho chứng tá về việc Ngài chuyển hóa kẻ thù thành bạn hữu xuyên qua tình yêu vô điều kiện của Ngài.
Yêu cầu thứ hai là phải có sự thân mật gần gũi với Đức Giêsu qua việc đồng hành với các môn đệ Ngài. Điều này có nghĩa rằng phải nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Con Người, là “một người trong chúng ta”. Nhận biết Đức Kitô như chính Ngài biết Ngài là ai, điều đó sẽ thúc giục chúng ta – cũng như Ngài – luôn dõi mắt hướng về Giê-ru-sa-lem. Luôn luôn hướng vọng những gì sẽ được hoàn thành ở Giê-ru-sa-lem, đó là cách mà các tác giả Tin Mừng giải thích về yêu cầu này, và đó cũng được ghi nhận là đặc điểm của nhóm tông đồ Đức Giêsu. Đó là một con đường gập ghềnh sỏi đá, đầy những bất trắc và bất ngờ.
Tại sao Phê-rô không nói thẳng với vị ứng viên tông đồ kia rằng anh ta phải là một người có mặt với Đức Kitô cho đến khi Ngài chết trên thập giá? Không kể Gioan, ai trong họ sẽ đáp ứng được điều kiện này! Nếu Phê-rô cố đòi rằng người được tuyển chọn phải là một chứng nhân trực tiếp về cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, rất có thể các tông đồ sẽ giới thiệu một phụ nữ trong nhóm họ. Vì như các Sách Tin Mừng cho thấy, có nhiều phụ nữ đi theo Đức Giêsu trên con đường đến Can-vê và đứng đó với Ngài đến cùng. Các Kitôhữu trong mọi thời đại đã tôn vinh những phụ nữ thánh thiện và can đảm này – họ, cùng với Đức Maria và Gioan, là những chứng nhân trực tiếp về cái chết của Đức Giêsu. Hơn nữa, chính Maria Ma-đa-lê-na là người đầu tiên trông thấy Chúa Phục Sinh và loan tin mừng này cho các tông đồ. Thế nhưng, vị tông đồ mới được tuyển chọn lại là một nam nhân, vì đối với các tông đồ, vốn chìm sâu trong truyền thống tổ phụ Do Thái, con số mười hai mang ý chỉ mười hai người con trai của Gia-cóp. Và theo cách hiểu ấy, một nam nhân đã được chọn.
Dù sao đi nữa, sự nhấn mạnh chính yếu của Phê-rô cũng đặt vào việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô chịu đóng đanh, Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh, đó là cốt lõi của ơn gọi Kitôhữu và là đặc điểm sâu xa của những ai được gọi để rao giảng Tin Mừng một cách đặc biệt. Tôi hy vọng rằng tất cả những ai đọc quyển sách này sẽ nhận ra mọi khía cạnh khác nữa mà tôi đề cập đến trong ánh sáng này. Tôi sẽ chỉ ra ở đây rằng những linh mục không làm chứng một cách thuyết phục cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của mọi người tin thì đều chỉ là những đại diện giả danh của Đức Kitô mà thôi.
Vì việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Người Tôi Tớ đau khổ là trọng tâm của cuộc khảo sát lương tâm không ngừng của chúng ta và là cuộc trắc nghiệm căn tính linh mục, nên câu hỏi nền tảng luôn luôn đặt ra cho chúng ta là: Chúng ta có sẵn sàng để với trọn lòng mình thể hiện khuôn mặt Người Tôi Tớ đau khổ, khiêm nhường và trắc ẩn trong một tinh thần hân hoan tuôn trào từ niềm tin của chúng ta vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của chính chúng ta hay không? Người xung quanh có nhận ra rằng chính đức tin sống động của chúng ta là nguồn nghị lực giúp chúng ta kiên nhẫn và hân hoan giữa bao nỗi thống khổ, bao bệnh tật, căng thẳng, bất đồng không? Chắc chắn việc suy tư về chiều sâu của đức tin chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta chú ý đến phép rửa của mình trong Đức Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền lành của Giavê.
Một cử hành tạ ơn
Thánh Thể đứng ở vị trí trung tâm của đoàn dân mới Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế tiến về điểm tận thời. Thánh Thể là cuộc cử hành (trong tâm tình tạ ơn) phép rửa bằng nước của Đức Giêsu trong Thánh Thần và phép rửa bằng lửa của Ngài trong cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh. Đó là một cử hành sự khải thắng của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ khiêm nhường – Đấng mà chúng ta ký thác niềm hy vọng hằng sống. Nếu đời sống Kitôhữu được hiểu và được sống trong nhãn giới về nhiệm cục hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, thì việc cử hành Thánh Thể là tột đỉnh của sự hiện diện ấy – một chóp đỉnh mà ở đó chúng ta gặp gỡ và hiện diện với Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu Chuộc của lịch sử nhân loại.
Việc gắn kết khoảnh khắc hiện tại và lịch sử quá khứ của chúng ta vào trong lịch sử cứu độ của Đức Kitô sẽ làm nên thời gian kairos – một thời gian hồng phúc, một cơ hội độc đáo nối kết quá khứ với tương lai. Việc cử hành với một hồi tưởng tạ ơn đích thực sẽ làm cho tất cả lại trở thành kho tàng hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử và nối kết chúng với cả những nỗ lực có sức trao ban sự sống lẫn những thất bại của chính chúng ta. Những nỗ lực và những thất bại của chúng ta sẽ nhận được ý nghĩa trọn vẹn của chúng trong mối tương giao ấy với Chủ Tể của lịch sử. Ở đây, trong khoảnh khắc của sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta được trao ban nguồn năng lực sự sống của Ngài để tiếp tục cuộc hành trình cùng với Ngài tiến về tương lai – một tương lai có cả đau khổ lẫn niềm vui mời gọi chúng ta đương đầu với những thách đố mới và những trách nhiệm mới trong niềm hy vọng kiên vững đợi chờ sự hoàn thành chung cuộc vào Ngày của Chúa. Đó chính thật là giờ phút chúng ta gặp “rồi” Đấng mà chúng ta hy vọng cử hành cuộc chiến thắng trọn vẹn của tình yêu của Ngài – và tình yêu của chúng ta nữa – vốn còn ở phía trước.
Việc cử hành Thánh Lễ với tâm tình tạ ơn đích thực sẽ tuôn trào trong chúng ta niềm vui và niềm tín thác, và thường khơi dậy trong chúng ta thái độ sẵn sàng hơn và tỉnh thức hơn. Những năng lực của cuộc tưởng niệm tạ ơn sẽ cho phép chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, đảm nhận tất cả những đòi hỏi và những khó khăn của cuộc sống mà không bao giờ lạc mất dấu vết của Đấng Phục Sinh. Hoa quả của phút giờ hiện tại ở trong sự hiện diện của vị Chúa Tể lịch sử trổ sinh từ những năng lực quá khứ cũng dồi dào không kém chi so với hoa quả trổ sinh từ niềm hy vọng hiện tại của chúng ta, một niềm hy vọng có sức làm sống họat và đào sâu cảm thức trách nhiệm cá nhân cũng như tập thể của mình. Sức mạnh và sức bền của chúng ta được củng cố trong nghi thức hiệp lễ - qua đó chúng ta được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Trong khi tất cả những gì được nói về Thánh Lễ đều đúng cho mọi Kitôhữu, thì cách riêng, những điều ấy đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản cho các vị chủ tọa hèn mọn của Lời Chúa và Thánh Thể. Trong vai trò linh mục của mình, chúng ta có ngày càng trở nên những dấu hiệu sống động của các động lực lịch sử không? Trong tư cách là những tôi tớ của Đức Kitô, chúng ta có sẵn sàng cho phép Đức Kitô Phục Sinh đưa chúng ta ngày càng sâu hơn vào cộng đoàn lữ hành của Ngài không? Chúng ta có ngày càng nhận thức hơn về tầm quan trọng của sự cộng tác và tinh thần đồng trách nhiệm với cộng đoàn tín hữu qui tụ lại trong tư cách là những người cùng cử hành đức tin không?
Từ những gì tôi đã chia sẻ cho tới đây, các tiêu chuẩn cho người chủ tế Thánh Lễ rõ ràng đã hiện lộ ra. Tôi cho rằng mỗi và tất cả những đòi hỏi đặt ra cho đời sống linh mục như đã thảo luận trên đây thì có tầm quan trọng hơn nhiều so với vấn đề hạn hẹp có tính sinh học và chẳng có mấy cơ sở là vấn đề phái tính.
Thánh Lễ là giờ phút vượt qua, là sự vận động và chuyển hóa của Chúa. Đó là khoảnh khắc nghỉ ngơi? Đúng thế, nhưng còn hơn thế nữa, đó là khoảnh khắc để lên đường lần nữa, để vào chuyến phiêu du vĩ đại hơn nhiều so với những gì mà Môsê và dân It-ra-en đã kinh nghiệm. Trong mỗi cuộc cử hành Thánh Lễ, chính Đức Kitô lại mời gọi chúng ta: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!” (Mt 26,46).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta nghỉ ngơi, điều đó không có nghĩa là chúng ta trở thành những con người “ngồi ì”. Ai là những con người “ngồi ì”? Để trả lời cho câu hỏi này, cần phải đặt nó trong câu hỏi nền tảng của chúng ta: Giáo Hội cần có loại linh mục nào? Những con người “ngồi ì” là những người nam cũng như nữ thường xuyên uể oải, thiếu lý tưởng và cảm hứng, những con người không thể thu nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần để khích động người khác. Con người ngồi ì là con người không thể nội tâm hóa lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” – nhất là khi việc bước tới có bao hàm nguy cơ phải chịu đau khổ, chịu thay đổi, chịu bất ổn trong nhất thời. Con người ngồi ì là con người bất động, tự thỏa mãn với mình, tự hài lòng với những thành quả đạt được trong quá khứ và tránh né những trách nhiệm đầy thách đố đòi mình phải dám liều. Nói tắt, con người ngồi ì là con người nhút nhát.
Rất thường, những kẻ tự thỏa mãn với mình là những kẻ có não trạng cố chấp (fundamentalists), dị ứng với những cách nghĩ mới mẻ đầy sáng tạo và bám chặt vào những chuẩn mực và những qui tắc của quá khứ. Đó là những nhà bảo vệ truyền thống cách cứng nhắc – nếu có năng lực, họ sẽ tích cực sử dụng năng lực của mình để vãn hồi và củng cố một trật tự của quá khứ. Những người ngồi ì là những người bám dính vào những chiếc ngai do mình tự tạo ra, không sẵn sàng tiến lên phía trước – bởi vì việc tiến lên như thế sẽ có nghĩa là họ phải từ bỏ những hấp dẫn và những đặc quyền của chủ nghĩa giáo sĩ trị trong mọi dạng thức và ở mọi cấp độ của nó.
Thời đại của chúng ta, với những đổi thay nhanh chóng và với bao phát triển mới mẻ, mở ra một khó khăn rất đặc thù. Giáo Hội hôm nay phải khổ sở nhiều vì những linh mục và giám mục - bám chặt vào các địa vị, các chức tước của mình – khuyến khích các tín hữu quay ngược chiều kim đồng hồ, hướng vọng về lớp bụi mờ quá khứ. Các vị đó không hề ý thức rằng làm thế là biến tất cả chúng ta – như trường hợp của vợ ông Lót – trở thành những cột muối! Chỉ khi chúng ta cùng sống với Đức Giêsu, Chủ Tể của lịch sử, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại, thì chúng ta mới có thể cùng nhau tiến về phía trước. Thật vậy, trong cái nhìn của nhiều người, việc tiến lên phía trước cùng với Đức Giêsu trong cuộc tưởng niệm tạ ơn là một hồi ức và thách đố quá nguy hiểm. Nếu Đức Kitô Phục Sinh của lịch sử có thể chọn hiện diện trọn vẹn với chúng ta trong hành vi bẻ bánh và chia sẻ chén rượu, thì phải chăng Ngài không thể biến đổi những con người ngồi ì trở thành những khách hành hương hăng hái và những người tiên phong của lịch sử? Đây là một phép lạ vĩ đại mà chúng ta khát khao và cầu xin.
Cố gắng định hình lịch sử tương lai trong tư cách là những nhà kiến tạo hòa bình phi bạo lực và dũng cảm, đó rõ ràng là cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời đại chúng ta. Nếu cảm nghiệm về Bài Giảng Trên Núi có thể gây cảm kích lớn lao cho những con người nam và nữ như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr., Dorothy Day và các vị sáng lập đầy dũng cảm của các cộng đoàn tu trì, và có thể chuyển hóa họ trở thành những nhà tiên phong luôn luôn lao về phía trước, thì tại sao thời nay xem ra thiếu vắng những khuôn mặt lãnh đạo như thế?
Trong ánh sáng này, chúng ta thấy rõ rằng mình cần một cuộc canh tân phụng vụ. Nhưng một nền phụng vụ canh tân mà chúng ta cần đến phải vượt quá tiêu điểm hiện nay vốn đặt trên những tranh luận về nghi lễ. Tiên vàn, một cách lột xác triệt để, chúng ta cần trở thành những con người đầy niềm tin và hy vọng hơn, biết rộng mở đôi tai, quả tim và trí óc hơn để sẵn sàng đón nhận và hưởng ứng lời mời gọi tiến lên đầy thách đố của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy bước tới!”
 “Tất cả họ đều đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,4)
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!”, Phê-rô, con người tự tin thái quá, đã trả lời: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với Thầy dù phải tù tội hay phải chết” (Lc 22,23). Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết, sự dũng cảm ấy của Phê-rô đã dẫn ông ta trôi tụt xuống chỗ thê thảm. Khi Charles de Gaulle đang cầm quyền ở Pháp, các nhà báo Pháp vì muốn châm biếm đã dựng nên câu chuyện rằng có lần De Gaulle đọc kinh cầu ở Montmartre trong đó có câu như sau: “Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, hãy tin tưởng vào con!” Trong khi các giám mục và các linh mục biết rõ sự cảnh giác về việc quá tin vào chính mình, tôi vẫn e rằng có rất nhiều người trong chúng ta – nhất là những ai đã thành công trong việc leo lên các nấc thang trong Giáo Hội – cũng cơ hồ muốn thốt lên lời nguyện pha trò rất ư hàm súc ấy.
Không phải những người có quyền lực và giàu tài năng trong chúng ta là những người bị cám dỗ đặc biệt đó sao? Không có thuốc chữa trị nào khác cho căn bệnh này ngoài việc đặt trọn niềm tín thác vào sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vào lời hứa của Lễ Ngũ Tuần. Chính Chúa Thánh Thần – Đấng đã thay đổi triệt để Phê-rô và các tông đồ khác vốn trước đó đã vấp ngã trước ‘bài trắc nghiệm’ là cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – cũng sẽ biến đổi chúng ta.
Nếu trong đức tin sâu thẳm, chúng ta suy ngẫm những lời này: “Tất cả họ được đầy tràn Thánh Thần”, thì những tước hiệu như ‘Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh Cha’... và tất cả các tước hiệu sáo rỗng khác sẽ xẹp như bong bóng xì. Vì trong Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc của những mối quan hệ chính trực, thì chính những người bé nhỏ nhất, vô danh nhất, hèn kém nhất là những người mang trong mình sức mạnh đầy tác động của Chúa Thánh Thần.
Toàn thể trình thuật về biến cố Hiện Xuống hướng sự chú ý của chúng ta về lời tiên tri của Ngôn Sứ Giôen: “Ta sẽ tuôn đổ Thánh Thần của Ta trên mọi xác phàm / con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri ... Ngay cả các nô lệ của Ta, nam và nữ, cũng sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Ta trong những ngày đó, và họ sẽ nói tiên tri” (Cv 2,17-18). Rõ ràng, ở đây không hề muốn nói rằng các tôi trai tớ gái sẽ trở thành linh mục, vì ý niệm này (= linh mục) không tồn tại trong Giáo Hội sơ khai của các tông đồ. Chỉ đến thời hậu tông đồ thuật ngữ ‘linh mục’ mới được vận dụng lại trong liên hệ đến Đức Kitô, Vị Linh Mục Thượng Phẩm đích thực.
Cộng đoàn Hiện Xuống, được đánh dấu cả bởi nhãn giới về Đức Kitô Ngôn Sứ lẫn bởi niềm xác tín sâu sắc về nhu cầu phải ngoan ngoãn và tín thác vào Chúa Thánh Thần, đã tin tởng rằng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều được đánh dấu để trở thành những người thông dự cách khiêm tốn vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô. Nói một cách nôm na hơn, mọi Kitôhữu đích thực, dù nam hay nữ, đều là những con người ngôn sứ, những con người được giải phóng và đầy tràn Thần Khí do tác động của Thánh Thần Đức Kitô; và họ được trao ban một sứ mạng giải phóng, sứ mạng mà trong thời đại chúng ta luôn luôn đòi hỏi phải tỉnh thức và sáng suốt biện phân. Như vậy, câu hỏi mãi còn cho chúng ta trong tư cách là Kitôhữu và là thành viên của Nhiệm Thể Đức Kitô là: Chúng ta có sẵn sàng mở lòng ra – bằng bất cứ giá nào – để đón nhận sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta và nơi những người khác không?
CHỨC LINH MỤC TRONG BUỔI BAN ĐẦU
“Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2,46-47). Chúng ta có thể hình dung và hiểu bản văn ấy như thế nào đây? Có lẽ, thoạt đầu, chúng ta có thể mường tượng một linh mục nam giới, mới được truyền chức bởi một trong số các Tông Đồ, cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn cho - và cùng với - cộng đoàn qui tụ. Điều chắc chắn là những cộng đoàn non trẻ này của các Tông Đồ, được hình thành bởi một nhóm các gia đình, biết rất rõ lời di chúc của Đức Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy!”
Những "cộng đoàn dùng bữa" ở Giê-ru-sa-lem
Khi quây quần với nhau, những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này giữ hồi ức đức tin của họ sống động bằng cách chia sẻ với nhau đức tin, đức cậy, đức ái, niềm vui. Họ chia sẻ chính con người họ và những gì mà họ sở hữu, nhưng nhất là họ chia sẻ đức tin và tâm tình ca ngợi của mình hướng về Thiên Chúa. Họ chẳng mấy cần đến cơ cấu và tổ chức, mặc dù qua các Thư của Phao-lô và qua Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng vấn đề cảm thức tôn ti trật tự đã thu hút nhiều sự quan tâm. Nghĩa là, cần có người canh chừng để bảo đảm mọi sự được làm cách đúng đắn và không một điều thiết yếu nào bị bỏ sót. Suy đi ngẫm lại, chúng ta có thể kết luận rằng như vậy cần có một người nào đó ‘chủ tọa’ những buổi qui tụ này, nhưng tất cả mọi người đều chịu trách nhiệm về sự trưởng thành thiêng liêng và về chứng tá của cộng đoàn.
Các cộng đoàn nhỏ ở Phi Châu hay các cộng đoàn cơ bản ở Châu Mỹ La Tinh có thể giúp chúng ta mừơng tượng về những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này. Tuy nhiên, chúng ta không nên bỏ qua tầm quan trọng của sự kiện rằng các cộng đoàn đức tin sơ khai rất khác nhau về một phương diện. Trong những cộng đoàn quá non trẻ, người ta không bao giờ bị mất Thánh Lễ do thiếu vắng một linh mục được truyền chức. Cả Công Vụ Tông Đồ và các Thư Phao-lô đều sử dụng thuật ngữ oikia, nghĩa là Giáo Hội tại gia. Rất nhiều những Giáo Hội tại gia này được nhận ra qua những cái tên phụ nữ. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy “gia đình của Stephanas” (1Cr 16,15), và một đôi vợ chồng “Prisca và Aquila ... với toàn gia đình họ” (1Cr 16,19). Trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phao-lô nồng nhiệt chào “Phoebe, một phó tế của Giáo Hội ở Cenchreae” (Rm 16,7), và ở cuối thư chúng ta gặp thấy một danh sách dài những đàn ông và phụ nữ dấn thân phục vụ cho Tin Mừng và cho các cộng đoàn đức tin bé nhỏ hay các Giáo Hội tại gia của họ.
Không phải tôi là người duy nhất nghĩ rằng các phụ nữ đôi khi đã chịu trách nhiệm toàn bộ buổi qui tụ của cộng đoàn đức tin, việc ca ngợi, tưởng niệm tạ ơn và huấn giáo tại nhà họ. Lúc ấy họ đã không – và không thể – lường trước được những vấn đề của chúng ta hôm nay, họ càng không hiểu được những cân nhắc chi li của chúng ta liên quan đến “tính hiệu lực của các thứ bậc”, nhưng chắc chắn họ có quan tâm đến lòng trung thành đối với Đức Kitô và – một mức nào đó – quan tâm đến tính kỷ luật của các nghi lễ.
Việc suy tư về những Giáo Hội tại gia nhỏ bé này phải thúc đẩy chúng ta hăng hái quay trở về và nắm bắt lại sự tươi trẻ của buổi ban đầu Giáo Hội và phải giúp chúng ta biết hình dung ra những viễn tượng đầy sáng tạo và những khả năng khả thi cho thời đại chúng ta.
Tính phong phú và đa dạng của các đặc sủng
Cả Công Vụ Tông Đồ lẫn các Thư Phao-lô đều giới thiệu cho chúng ta những ý tưởng sống động liên quan đến tính phong phú và đa dạng của các đặc sủng và các sứ vụ trong Kitô giáo thuở sơ khai. Một điều hiển nhiên nhất, đó là loại chức linh mục mà sau này Công Đồng Tridentinô phát triển không hề có gốc rễ nào trong cảm nghiệm Thánh Kinh này. Cũng không thấy có hướng chỉ nào về chiều hướng ấy trong cách hiểu và cách thể hiện cử hành thời sơ khai. Ý niệm về nhóm “một người” (“one-person” team) vốn không hề được ai tưởng nghĩ tới – tôi muốn nói đến ý niệm về một cá nhân có năng lực đảm nhận hết mọi sự cho mọi người! Thật vậy, nhóm “một người” tự thân nó là phản Tin Mừng. Trong khi các mục tử tốt lành ngày nay phải săn sóc một số người và một số nhóm chuyên biệt theo những khả năng, đặc sủng, và mức độ sẵn sàng riêng của họ, thì chính toàn thể cộng đoàn đảm nhận trách nhiệm quan tâm tới việc giáo dục, cử hành, săn sóc các bệnh nhân, những người già, những người neo đơn.
Thánh Phao-lô nói: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ” (1Cr 12,27-30). Trong ánh sáng này, chúng ta được thúc đẩy để nhận ra, biện phân và – trong sự tự do đầy sáng tạo và trong ý thức trách nhiệm – chúng ta sẽ ngày càng phát huy những năng lực khác biệt và đa dạng ấy trong toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Các trưởng lão của Giáo Hội sơ khai và các linh mục hôm nay
Theo từ nguyên, từ hiện đại “linh mục” (priest, prêtre, presbitero, priester) có gốc ở từ Hi Lạp “presbyteroi”, nghĩa là “những công dân lão thành”. Trong cộng đoàn Do Thái giáo truyền thống, có một vị trí dành cho các công dân lão thành. Sự kiện sống lâu không phải là yếu tố có tầm quyết định lắm; đúng hơn, điều được người ta kỳ vọng ở đây là sự khôn ngoan và nhiệt tình phục vụ. Trong truyền thống Do Thái giáo, người ta thấy một nhóm trưởng lão làm việc sát cánh với các phẩm trật tư tế và Lê-vi khác nhau. Không bao giờ có ai nghĩ đến chuyện gạt một trưởng lão ra khỏi nhóm – vì tự bản chất, nhóm luôn luôn là một cơ chế có tính tập đoàn. Cùng với nhau, các trưởng lão đưa ra những lời khuyên và những hướng dẫn cho cộng đoàn trong việc hợp tác với các tư tế.
Cũng thế, có một sự kiện hiển nhiên rằng trong cộng đoàn Kitô giáo sơ khai, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thống Do Thái giáo, không một trưởng lão đơn độc nào đã từng đứng ra cai quản cách đơn phương. Một cách thiết yếu, công việc cai quản là công việc có tính cộng tác, chia sẻ sự khôn ngoan và quyền bính, mang dấu ấn bởi một tinh thần quảng đại và nhiệt tâm phục vụ.
Các Thư Mục Vụ cho chúng ta một thoáng nhìn về sự phát triển tính tổ chức của Giáo Hội vào khoảng năm 100. Một nhóm tương đối nhỏ các trưởng lão (presbyteroi) thi hành một thứ chức vụ chủ tọa có tính tập đoàn trong hội đồng, nhằm phục vụ cho thiện ích của cộng đoàn. Một số trong họ cũng được cộng đoàn ủy thác sứ vụ giảng thuyết và giáo huấn. Đành rằng những công việc này được xem như là những công việc đầy vinh dự, nhưng những con người thi hành các công việc ấy không bao giờ được coi là bề trên của người ta , cũng không được ban tặng bất cứ tước hiệu hay sự phân biệt nào theo chiều hướng đẩy họ lên cao hơn và tách biệt họ khỏi cộng đoàn. “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ Lời Chúa và giảng dạy” (1Tm 5,17).
Như vậy, rõ ràng là không thể tưởng tượng việc tạo lập và phát triển các cộng đoàn Kitô giáo mà không có một tập đoàn các trưởng lão được thiết định, như chúng ta thấy trong các chỉ thị mà Thánh Phao-lô đề ra cho Titô: “Tôi đã để anh ở lại đảo Crêta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh ...” (Tt 1,5).
Ở giai đoạn này trong chặng đường phát triển của Giáo Hội, các Thư Mục Vụ cũng đề cập đến sự tuyển chọn các giám mục. Mặc dù những qui tắc hay những tiêu chuẩn cụ thể cho việc lựa chọn các giám mục và các phó tế vốn đã có sẵn rồi, song các qui tắc ấy luôn luôn được hiểu và được triển khai trong một bộ khung có tính tập đoàn rộng lớn hơn. Hơn nữa, để phục vụ cho sự hòa thuận và cho việc làm chứng, trật tự cũng được nhấn mạnh.
Mối quan tâm sâu xa và sự săn sóc ân cần đối với các bệnh nhân là mối ưu tiên hàng đầu của những cộng đoàn Kitôhữu bé nhỏ này, như được ghi nhận rất rõ trong Thư của Thánh Gia-cô-bê: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ nục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa” (Gc 5,14). Nói chung, bản văn này được hiểu trong bối cảnh một tập đoàn tính trong đó nghi thức xức dầu được cử hành bởi các trưởng lão. Đây đích thực là một kinh nghiệm phụng vụ không có những áo mão cân đai của lễ nghi nặng nề.
Trên khắp thế giới ngày nay, người ta đang tha thiết mong muốn giới cầm quyền trong Giáo Hội ủy trao việc trao ban Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho các y tá, bác sĩ, các hiệp hội mục vụ giáo dân hay các nhóm người cao tuổi có năng lực – trong tính cách tập đoàn, họ có thể thăm viếng và săn sóc các bệnh nhân và những người già cả. Những người đã về hưu, cả nam lẫn nữ, là một kho tàng dồi dào chưa được khai thác để đảm nhận những sứ vụ khác nhau trong Giáo Hội. Nhiều người trong số này không những đã nhận được sự đào tạo về thần học, mục vụ và lâm sàng, mà còn có một căn bản linh đạo sâu sắc ngang bằng hoặc hơn cả một số linh mục hay giám mục. Thật vô lý khi rả rích than thở rằng Giáo Hội thiếu ơn gọi linh mục trong khi mà Chúa Quan Phòng cung cấp cho chúng ta dư dật những con người vừa có khả năng vừa giàu nhiệt tâm ngay trước mắt chúng ta! Những sứ giả đầy tiềm năng này của Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta không chỉ những cơ hội kịp thời để bổ sung cho Giáo Hội và giải phóng Giáo Hội khỏi những khuôn khổ cứng nhắc và não trạng nệ nghi lễ cũ rích, mà còn có thể thăng tiến tính tập đoàn ở mọi cấp độ.
KHUÔN MẶT NGƯỜI LINH MỤC QUA DÒNG LỊCH SỬ
Khi tôi chọn trở thành một linh mục, khuôn mặt người linh mục (nhất là trong các dòng tu) không còn quá cứng nhắc như có thể ghi nhận trong các thế kỷ trước đây. Vào thời điểm đó, cũng như ngày hôm nay, cũng có một số một số dòng tu (của linh mục và giáo dân) với những linh đạo đặc sắc và đa dạng, những khả năng dồi dào để đáp ứng nhiều sứ vụ khác nhau.
Tuy nhiên, đối với chức linh mục triều, khuôn mặt của một vị mục tử ‘toàn năng’ vẫn tiếp tục được khẳng định. Một cách tiêu biểu, ông cha sở một chiều của Công Đồng Tridentinô được đặc trưng bởi tính đồng nhất, bởi sự vâng phục tối mặt, và thường bởi sự thiếu sáng tạo. Mặt khác, các cha sở, các phụ tá mục vụ, các tuyên úy trong khi hoàn toàn phục tùng giám mục của mình thì cũng được “bù lại” bằng một chế độ linh mục nặng tính kiểm soát trên các tín hữu. Một thoáng nhìn về quá khứ có thể giúp chúng ta nhận ra nguồn gốc của tình trạng này và cũng có thể giúp chúng ta đưa ra những dự án hợp lý cho tương lai – điều mà chúng ta có thể nói rằng vốn đã bắt đầu trong thực tế rồi.
Giám mục và linh mục trong tư cách là những vị tuẫn đạo
Từ “tuẫn đạo” (martyr) ban đầu có nghĩa là làm chứng cho đức tin. Theo nghĩa đó, các Tông Đồ, những người kế vị của các ngài, và quả thực tất cả các tín hữu trong mọi thời đại đều được mời gọi làm chứng cho Đức Giê-su Kitô, cho Tin Mừng của Ngài và cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Các giám mục thuở đầu tiên thường không có nhiều tín hữu trong địa phận của các ngài hơn so với một cha sở của thời nay. Tầm cỡ tương đối nhỏ ấy của các địa phận cho phép các giám mục gần gũi giáo dân hơn. Các ngài không sở hữu những ngôi nhà nguy nga lộng lẫy cũng không sống đời sống ưu đãi dư dật. Trong mọi khía cạnh bên ngoài, các giám mục thuở đầu tiên sống cùng một mức độ như các anh chị em Kitôhữu của các ngài. Điều thực sự phân biệt các ngài với đại đa số các tín hữu là chứng tá hữu hình của các ngài cho sự chết và sự Phục Sinh của Đức Giêsu qua thái độ các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết tuẫn đạo. Thật vậy, đây là yếu tố cốt yếu trong sự thánh hiến của các ngài.
Cho đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai, các giám mục hay các giám quản là những vị lãnh đạo cùng với các trưởng lão trong địa phận của mình. Lúc đó chưa ngã ngũ rõ ràng về chuyện các ngài khác với các trưởng lão như thế nào. Tuy vậy, có một điều thật chắc chắn: không vị nào trong các ngài có khao khát hay có khuynh hướng trở thành quí phái, quí tộc. Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vẫn thường xuyên có những mẫu gương linh mục đầy sức thuyết phục trong tư cách là những chứng nhân tuẫn đạo. Trong những thập niên mới đây thôi, các mẫu gương này đặc biệt hiện lộ tại Châu Mỹ La Tinh, nơi mà nhiều – nếu không phải là tất cả – các giám mục và các linh mục đều đứng về phía người nghèo, dám liều lãnh cái chết tuẫn đạo dưới tay các thế lực giàu có. Chính phẩm chất này là nét phân biệt các vị ấy với những giám mục và hồng y khác vốn bám víu lấy tham vọng hão, bám víu những thái độ quí tộc, những tước vị sáo rỗng, và những cung cách độc đoán nhằm phục vụ cho lợi ích riêng.
Các ông hoàng của Giáo Hội trong thời đại Constantine
Với chiến thắng của Constantine và với mối liên minh tiếp theo đó giữa Giáo Hội với hoàng đế và với giới quí tộc, một kiểu thức mới và kỳ quặc về một Giáo Hội quân chủ đã phát sinh – kiểu thức này trở thành hiện thực đặc biệt do bởi các giám mục vui mừng đón nhận các bổng lộc về đặc quyền và đẳng cấp. Được thoát khỏi tình trạng nghèo khổ, bách hại và tuẫn đạo, thật oái ăm, các ngài xem ra lại đánh mất chính sự tự do mà Đức Kitô đã giải phóng tất cả chúng ta để đem lại cho chúng ta.
Constantine và các hoàng đế, các vua và hoàng thân tiếp theo sau biết rõ rằng một Giáo Hội mà các vị lãnh đạo được hưởng các đặc quyền do một sắc dụ của nhà nước - và do đó lụy thuộc vào nhà nước - sẽ có thể trở thành hết sức hữu ích cho quyền lực “được thần thánh hóa” một cách sai lạc của họ. Việc vị giám mục của đế quốc hay của vương quốc xức dầu các ông vua là một biểu tượng kinh khủng của cái gọi là “tư tế của các vua” trong một Giáo Hội đầy hào quang và vinh dự. Khi sự việc cứ diễn tiến theo lôgíc ấy, chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên để nhận thấy rằng trên chóp đỉnh của khối liên minh ma quỉ này giữa các hoàng đế, các chức sắc của Giáo Hội, thậm chí cả các giáo hoàng, câu hỏi ai là người có quyền lực cao nhất là một câu hỏi thường xuyên âm ỉ. Và tất cả đều nhân danh Thiên Chúa trong Đức Giê-su Kitô! Trong khi các vị lãnh đạo Giáo Hội có thể nghĩ rằng như vậy vinh quang của Giáo Hội được tăng triển, thì trái lại, Giáo Hội đang suy sụp hoàn toàn, nếu hiểu trong ánh sáng lời mời gọi của Đức Giêsu trong tư cách là “Con Người” qua cuộc thánh hiến trong phép rửa của Ngài ở sông Gio-đan, và cuối cùng qua việc Ngài đổ máu ra trên Thập Giá.
Trong bất cứ tôn giáo nào, hễ có tồn tại thứ xung lực quái gở này đẩy tôn giáo tới chỗ chia sẻ quyền lực với thế tục, thì đó rõ ràng là những mưu chước cám dỗ của Satan – những mưu chước vốn bị Đức Kitô lật tẩy trong câu chuyện cám dỗ mà Tin Mừng Matthêu kể lại.
Tuởng chỉ cần nêu ra đây ba ví dụ để minh họa kiểu thức về chức linh mục quân chủ vốn tràn lan trong thời Constantine – đối nghịch với kiểu thức phép rửa của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa.
-Hệ Thống Danh Vọng: Một sinh viên trước đây của tôi – là một linh mục tuyệt vời – đã đến gặp tôi để xin ý kiến về việc có nên chấp nhận một đề xuất gia nhập ngành ngoại giao của Giáo Hội hay không. Đầu tiên, tôi ngần ngại trình bày quan điểm của mình, nhưng cuối cùng tôi nói thẳng rằng hình thức hiện tại của các cơ quan ngoại giao (trong Giáo Hội) không phản ảnh ánh sáng Tin Mừng lắm, nhưng một linh mục thông minh và khiêm tốn có thể làm nhiều việc hữu ích và có thể phòng tránh những cạm bẫy sừng sững. Vì thế, tại sao không tận dụng cơ hội này để cống hiến một sự phục vụ tốt nhất cho ngành ngoại giao – là ngành vốn tự bản chất không phải là xấu xa? Khi đưa ra ý kiến ấy, tâm trí tôi nhớ đến những con người vĩ đại như Gioan XXIII, cũng từng làm việc trong ngành ngoại giao, đã phục vụ cho Nước Thiên Chúa và cho thiện ích của nhiều người.
Thật lâu về sau, tôi mới có dịp đọc những gì Giuseppe Roncalli viết trong một lá thư đề ngày 24 tháng 11, 1928: “Tôi sung sướng rời khỏi Rôma. Bởi tôi thật phiền lòng khi phải chứng kiến tất cả những biểu hiện bần tiện. Ai cũng hăm hở phấn đấu để được bổ nhiệm, được danh vọng; và người ta không ngừng đồn đoán với nhau về chuyện thăng quan tiến chức. Ôi, một sự xuống cấp đáng buồn của đời sống linh mục!”
Ít lâu sau đó, người bạn linh mục nói trên của tôi trở lại gặp tôi và cho biết rằng anh ta đã bỏ con đường sự nghiệp của mình sau khi đã tiến lên hết chức này đến chức khác và cuối cùng nghe có kẻ nói vào tai mình: “Rồi có ngày anh sẽ leo lên tới cả chức hồng y đấy!” Anh bạn tôi kể: “Một đêm nọ con bị sốc khi trong giấc mơ con thấy mình trở thành một hồng y.” Thật lòng, tôi phải thú nhận rằng mình đồng thời vừa mừng vừa tiếc – tiếc vì ngành ngoại giao bị mất con người tuyệt vời này, nhưng mừng vì anh ta đã đề kháng được những cám dỗ của chức quyền.
Hiện nay, có khoảng mười bảy tước hiệu và sự đề bạt sáo rỗng được ban tặng bởi Vatican. Trước đây, Thánh Philíp Nêri, một linh mục và là nhà hài hước tuyệt vời, đã cố dùng lối khôi hài và đôi khi châm chọc để làm nhụt chí các linh mục vốn bám víu vào những quyến rũ kệch cỡm này. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên huy động khả năng trào lộng của mình để phản kháng một cách phi bạo lực cái hệ thống danh vọng mang tính phản Tin Mừng vẫn còn rất phổ biến hôm nay.
-Những Lễ Nghi Phô Trương Phù Phiếm: Hồi tôi đến Rôma trong tư cách là một giáo sư trẻ, tôi đã giúp lễ trong một nghi lễ long trọng tại Đền Thờ Thánh Phê-rô. Giáo hoàng được kiệu trên ngai, được hộ tống bởi những người Ý có đẳng cấp cao trong trang phục quí phái. Theo sau giáo hoàng là các hồng y vận áo choàng đỏ tía, vạt rộng, với những đuôi tua dài cả chục mét được các chủng sinh cung kính nâng trên tay. Thật là một quang cảnh dị hợm! Hay nói đúng hơn, thật là một trò bắt chước lố bịch! Ít năm sau, khi Giáo Hoàng Piô XII quyết định cắt đuôi áo bớt đi ba mét, các vị hồng y uy phong kia đã thất vọng ra mặt. Tạ ơn Chúa, mọi sự đã được cải thiện kể từ đó.
-Tài Sản Và Quyền Lực: Vào năm 1870, khi Giáo Hoàng Piô IX bị mất các lãnh địa giáo hoàng, và đồng thời mất luôn cả quyền lực chính trị, ngài và các vị kế nhiệm của ngài đã tự giam mình trong Vatican, hứa sẽ không bao giờ rời gót khỏi đây cho đến khi nắm lại được những bất động sản đồ sộ ấy. Gần sáu mươi năm sau, năm 1929, Giáo Hoàng Piô XI đã can đảm từ bỏ cuộc đấu tranh vô ích ấy, một cuộc đấu tranh quá dằng dai song chỉ hậu thuẫn cho một hệ thống đã tiêu vong và không còn hợp thời nữa. Mãi cho đến năm 1958, người ta mới thấy một giáo hoàng tên là Gioan XXIII đi ra khỏi lãnh thổ Vatican để thực hiện những cuộc viếng thăm mục vụ của ngài.
Những sự kiện nói trên và nhiều sự kiện khác nữa không có liên hệ gì với một lịch sử thù địch hay tội ác. Tuy nhiên, việc ôn lại những kinh nghiệm này có thể giúp ích nhiều cho Giáo Hội, đặc biệt là cho chức linh mục, trong chừng mực mà chúng ta rút tỉa được bài học từ những kinh nghiệm này và có đủ can đảm để – một lần dứt khoát - tháo gỡ khỏi Giáo Hội và chức linh mục tất cả những dấu vết của kiểu thức thời Constantine.
Ngoài ra, cũng cần ghi nhận rằng trong Giáo Hội luôn luôn có những phong trào hô hào một sự hồi sinh và tìm lại những nguồn gốc của chức linh mục cắm rễ trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” Tôi xin nhắc lại ở đây hai vị giám mục mẫu mực của Milan để làm ví dụ. Vào thế kỷ thứ tư, với lòng can đảm đến độ liều lĩnh, Thánh Ambrôsiô đã buộc hoàng đế phải ăn năn hối lỗi vì những sự đổ máu mà ông đã gây ra trước khi ông có thể được nhận trở lại vào Giáo Hội. Thánh Charles Borromeo, được tấn phong hồng y bởi giáo hoàng là cậu của mình, đã cắt giảm con số các người hầu xuống ‘chỉ’ còn mười hai người, và sự việc này đã suýt gây ra một xáo trộn lớn. Chưa hết, vào cuối đời ngài, Charles đã không chỉ cắt hết các biên chế người hầu của mình mà ngài còn tự vác trên vai chiếc giường của ngài, với một người nghèo đang nằm trên đó – một cử chỉ vừa có tính thực tại vừa có tính biểu tượng cho thấy nỗi niềm ăn năn thống hối của ngài về lối sống linh mục bất xứng của mình trước kia.
Quyền năng Chúa Thánh Thần và ánh sáng của Tin Mừng vẫn không ngừng canh tân bộ mặt của thế giới và của Giáo Hội. Một cách rõ ràng, quyền năng Chúa Thánh Thần đã biểu lộ trong thế kỷ này khi tất cả thế giới Kitô giáo đều tin rằng, qua sự khôn ngoan và sự hướng dẫn của Giáo Hoàng Gioan XXIII, sự thật và căn tính nguyên thủy của Tin Mừng đã vượt thắng trên những truyền thống méo mó của con người.
Cuộc cách mạng phi bạo lực của phong trào đan tu
Khi hòa bình được thiết lập giữa đế quốc Rôma và Giáo Hội, bắt đầu có những làn sóng đông đảo người ta ùn ùn gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên, hiện tượng ấy thật đáng ngờ, vì chẳng ai có thể biết bao nhiêu người trong số ấy hoán cải (converted) thực sự. Chọn trở thành một Kitôhữu không còn được thấy có nghĩa là chọn đau khổ và chọn liều mất mạng sống vì danh Đức Kitô nữa. Thay vào đó, bấy giờ đối với nhiều người, nhất là đối với các giám mục và linh mục, Kitô giáo trở thành một ‘vụ’ làm ăn béo bở!
Tuy nhiên, ba thế kỷ tuẫn đạo đã không hóa thành vô ích, bởi vì, từ đầu triều đại Constantine, vô số Kitôhữu đã nhận ra rằng mối liên minh giữa “ngai vàng và bàn thờ” thật rất nguy hiểm và có sức hủy hoại sự tinh tuyền của đức tin. Ngay cả ở Constantinople nơi mà những người kế vị Constantine ngự trị, cũng có những giám mục sáng suốt và kiên định như Gregory Nazianzus và John Chrysostom – là những người sống theo kiểu thức của Người Tôi Tớ phi bạo lực, khiêm nhường và đau khổ của Thiên Chúa bằng cách lật tẩy những quyền lực phô trương và những ưu đãi đội lốt thánh thiêng. Các vị ấy vẫn trung thành với phong trào đan tu ban đầu – và do bởi lập trường kiên vững của mình, các ngài đã phải chịu nhiều nỗi thống khổ.
Sự xuất hiện của phong trào đan tu vào thế kỷ thứ tư là một phản kháng có tính ngôn sứ và phi bạo lực chống lại mẫu thức Constantine của Giáo Hội và của chức linh mục. Đó là một phong trào mang tầm vóc một cuộc cách mạng. Trong khi các tu sĩ Đông phương và Tây phương không ly khai khỏi Giáo Hội dù dưới hình thức nào, thì họ vẫn đấu tranh một cách dứt khoát không khoan nhượng để vãn hồi cho Giáo Hội tiếng gọi trung thành bước theo và làm hiện thân của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa. Thời ấy cũng không hề xảy ra tình trạng khan hiếm ơn gọi tu trì như trường hợp của chúng ta hôm nay. Trong chừng mực mà các Kitôhữu nhiệt thành ý thức mình là cộng đoàn Kitô giáo thấm đẫm trong tình yêu đối với Đức Giêsu và Giáo Hội Người - như sức sống của những cộng đoàn dùng bữa hồi thế kỷ đầu tiên - thì người ta ùn ùn kéo đến xin gia nhập.
Ban đầu, phần đông các tu sĩ là giáo dân, nhưng cũng có một số linh mục. Một vài tu viện trưởng được truyền chức thánh. Chẳng bao lâu, người ta ghi nhận rằng các tu viện nổi tiếng chính là những trường đào tạo tuyệt vời cho các giám mục tương lai. Việc chọn lựa các giám mục xuất thân từ các tu viện (nhất là ở phần phía đông của đế quốc) là một liều thuốc giải độc chống lại những hậu quả tai hại của mối liên minh giữa ngai vàng và bàn thờ.
Lịch sử đời sống đan tu là một nghiên cứu thú vị vén mở cho thấy những nhập nhằng giữa một bên là nhiệt tình cháy bỏng và bên kia là nỗi u ám phủ trùm trên Giáo Hội. Giáo Hội thời Constatine thường xâm chiếm các tu viện và cướp đi các của cải để làm nguồn biếu tặng cho giới vị vọng trong Giáo Hội và nhiều khi cũng là để cứu giúp người nghèo. Phải thành thật nhìn nhận rằng những cuộc cướp bóc ấy ngày càng trở nên một nguồn cám dỗ cho người linh mục. Trong suốt các thế kỷ cho đến thời Cải Cách, một mối căng thẳng lớn tồn tại giữa một bên là những cố gắng cải cách không ngừng của đời đan tu và bên kia là tình trạng hủ hóa ngày càng leo thang trong lòng Giáo Hội.
Giáo Hội xét như một toàn thể (bao gồm cả những phong trào cải cách dũng cảm nhất) luôn luôn cần đến những sự canh tân liên lỉ. Hoán cải không phải là một công việc được làm một lần thay cho tất cả. Nguyên tắc tu đức về sự “không ngừng hoán cải” và nguyên tắc giáo hội học về sự “không ngừng cải cách” (ecclesia semper reformanda) là hai nguyên tắc bổ sung để hoàn bị lẫn nhau. Luôn luôn cần phải có những cuộc lên đường trở lại – và cám ơn Chúa, những cuộc lên đường như thế vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn. Sự thay đổi nơi bản thân người linh mục và sự thay đổi trong cơ chế chức linh mục là những nỗ lực tương tác lẫn nhau, như trường hợp của các dòng tu và các cộng đoàn tông đồ vậy.
Cuộc phản kháng phi bạo lực của các dòng hành khất
Khi quyền lực và uy danh giáo hoàng lên đến mức cao nhất trong triều Giáo Hoàng Innocent III, không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên việc bộc phát phong trào hành khất như một cơn lốc của Thánh Thần. Phong trào này thu hút hàng ngàn con người phi bạo lực, nam cũng như nữ, trong Giáo Hội lữ hành. Khuôn mặt quan trọng và hấp dẫn nhất của phong trào này là Thánh Phan-xi-cô Assisi, vị ngôn sứ vô song về tinh thần đơn sơ khó nghèo trong mọi phương diện, sống Tin Mừng của Người Tôi Tớ nghèo khó và phi bạo lực của Giavê. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Phan-xi-cô tỏ ra vừa là một ngôn sứ phi bạo lực vừa là một con người vững tin vào lối sống giản dị, trung thực và nghèo khó.
Là một con người có căn bản tu đức thâm sâu, tại sao Thánh Phan-xi-cô không hướng đến chức linh mục? Rất may là ngài đã chấp nhận chức phó tế với niềm hy vọng rằng khuôn mặt của linh mục và giám mục sẽ được vãn hồi trong ánh sáng của Người Tôi Tớ Giavê, tương tự như niềm hy vọng của Thánh Đa-minh, vị sáng lập dòng hành khất thuyết pháp (dòng Đa-minh).
Chắc chắn đã đến lúc chúng ta cần nhìn ngắm lại dung mạo của chức linh mục vốn đã tác động mãnh liệt trên các linh mục thánh thiện trỗi vượt của quá khứ, nhất là các vị sáng lập các dòng tu. Thánh Inhaxiô Loyola và Thánh Anphongsô Liguori đã dành rất nhiều ưu tư tìm kiếm dung mạo đích thực của chức linh mục và của mối dây huynh đệ. Những lời khấn mà Thánh Anphongsô và các bạn đường đầu tiên của ngài đảm nhận đã đặc biệt cho thấy cụ thể nỗi ưu tư này. Các ngài đã khấn hứa sẽ không bao giờ phấn đấu kiếm tìm vinh dự, kiếm tìm các tước hiệu và ngay cả chức giám mục trong Giáo Hội. Hơn nữa, các ngài nguyện sẽ không chấp nhận bất cứ một vinh dự nào, trừ phi phải chấp nhận vì sự vâng phục minh nhiên và luôn luôn ở trong mối quan hệ với lời khấn ưu tiên phục vụ người nghèo khổ nhất và những kẻ bị bỏ rơi nhất.
Xuất khẩu và nhập khẩu các linh mục
Các nhà thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mang theo với họ những linh mục từ đất nước quê hương và từ nền văn hóa của họ. Rõ ràng họ có ý định “cứu các linh hồn” qua phép rửa, nhưng họ cũng làm thế với mục đích giúp cho việc kiểm soát các vùng đất mới chinh phục được dễ dàng hơn.
Trước khi tôi đáp tàu đi Philippines để làm công tác giảng dạy và truyền giáo, tôi đã đọc và nghiên cứu nhiều sách vở được gửi tới cho tôi về đề tài này. Các nhà chinh phục người Tây Ban Nha đã mang các linh mục và các giám mục theo với họ, được hậu thuẫn bởi triều đình, với lệnh truyền không úp mở rằng phải giáo hóa để dân bản địa biết qui phục và trung thành với hoàng đế Tây Ban Nha.
Mọi người dân bản địa đều được yêu cầu phải học tiếng Tây Ban Nha, thứ tiếng trở thành ngôn ngữ duy nhất sử dụng trong phụng vụ. Hơn nữa, những người bản xứ không thể mơ tưởng đến chức linh mục ngay cả dù họ có cha hay mẹ là người Tây Ban Nha. Một lý do vì sao không cho người bản xứ làm linh mục, đó là vì người ta cho rằng họ không có khả năng sống đời độc thân. Ở Châu Mỹ La Tinh, tình hình cũng tương tự như thế.
Nhiều trong số những linh mục nhập khẩu tỏ ra chẳng phải là những linh mục lý tưởng lắm. Người ta phải rùng mình khi đọc những gì mà sử gia Bartolomé de Las Casas đã viết về họ. Nhiều linh mục nhiệt tâm đối với tiền bạc và của cải không kém chi sự nhiệt tâm “cứu các linh hồn”.
Tuy nhiên, trong số những vị thừa sai ấy có một số linh mục rất khôn ngoan và dũng cảm, dấn thân thực sự cho Tin Mừng và cho dân chúng mà các ngài có trách nhiệm phục vụ – như Thánh Phao-lô, các ngài sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người. Thế nhưng lý tưởng của các ngài và phần lớn những việc tốt lành mà các ngài cố gắng thực hiện đều một mức nào đó bị cản trở bởi những bối cảnh chính trị và văn hóa trong đó các ngài sống và làm việc. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Philippines, tôi sửng sốt bởi biết bao linh mục nhập khẩu và được trả thù lao đã có nhãn quan rõ ràng và có can đảm để bênh vực những người dân bản xứ, nhất là người nghèo, trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân.
Khi phục vụ ở Phi Châu trong vài thập niên sau Công Đồng Vatican II, tôi đã học biết được rất nhiều về tính cách anh hùng của các nhà truyền giáo. Đi thăm nhiều nghĩa trang, tôi khám phá rằng rất nhiều linh mục được chôn tại đó là những chàng trai còn rất trẻ, đã chết chỉ sau vài năm sống và làm việc tại vùng đất nóng bức ấy – những con người trẻ ấy hoàn toàn ý thức về các nguy hiểm xảy đến cho họ, nhưng họ vẫn quảng đại tự nguyện đón nhận. Họ là những con người ra đi dấn thân mà không hề có một chút ý định nào nhằm giúp củng cố cho hệ thống thực dân của triều đình.
Chỉ sau giai đoạn phi thực dân hóa, Giáo Hội mới nhận ra rằng việc hợp tác với những đòi hỏi của hệ thống thực dân đã để lại những hậu quả nghiêm trọng và sâu rộng biết bao.
Tại hầu như mọi vùng ở Phi Châu, luật độc thân đã có những hệ quả tiêu cực – xét trong nhiều khía cạnh, nó cản trở không cho người ta hội nhập trọn vẹn vào nền văn hóa. Dĩ nhiên, lý do chính cũng bởi vì sau nhiều thời gian người ta vẫn thất bại không phát triển được một tầng lớp giáo sĩ bản địa. Tại nhiều bộ tộc Phi Châu ngày nay, đời sống độc thân đã hoàn toàn có thể, song tại nhiều bộ tộc khác – ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại – độc thân vẫn còn là một cái gì mà người ta không thể hình dung được. Hơn nữa, việc nhập khẩu linh mục từ các bộ tộc khác là một sự sỉ nhục đối với lòng tự hào tự nhiên của họ.
Chỉ đến thế kỷ này, Giáo Hội mới tấn phong các giám mục Trung Hoa. Trước đây, những lý do chính chống lại việc ấy không nằm ở vấn đề độc thân nhưng đúng hơn nằm ở một mặc cảm tự tôn lì lợm của người Âu Châu. Ít nhất là người ta có ấn tượng như thế. May thay, thái độ tự tôn này đang biến đi dần. Có lần một thừa sai người Ý ở Nhật Bản nói với tôi: “Cám ơn Chúa, tôi phục vụ ở một xứ sở mà nền văn hóa của người dân bản xứ là cái chúng tôi không thể xem thường. Trái lại, phải nhìn nhận rằng có quá nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi từ dân tộc này.”
Cách đây bốn mươi năm, tôi nhớ mình có đọc trên tờ Osservatore Romano lời tuyên bố kinh khủng sau đây của một hồng y đầy quyền lực ở Roma: “Tiếng La Tinh phải được duy trì là ngôn ngữ của Giáo Hội, để giúp khai hóa các dân man di bằng nền văn hóa La tinh siêu đẳng.” Dĩ nhiên ngày nay chúng ta biết rằng một cái nhìn như thế hoàn toàn vô lý và hoàn toàn không thể hình dung được. Tuy nhiên, chúng ta phải mang lấy gánh nặng các hậu quả của hình thức kỳ thị này trong quá khứ.
Một thực tế hiện còn gây ngạc nhiên hôm nay, đó là do bởi nguyên tắc dứt khoát gắn kết chức linh mục trong “Nghi Lễ Latinh” với sự độc thân, nên phần đông người ta và các cộng đoàn ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và nhiều nơi khác đã và vẫn đang còn trong tình trạng không có Thánh Lễ. Rõ ràng, đây chỉ là một trong những triệu chứng của một tình hình trục trặc, cần đến một cách nhìn táo bạo và mới mẻ. Sự tinh khôi của cảm nghiệm tâm linh về Thiên Chúa và năng lực giải phóng của Tin Mừng không thể bị ngăn chặn hay bưng bít bởi bất cứ hình thức nệ luật hay tôn thờ ngẫu tượng nào.
CHỨC LINH MỤC VÀ ĐỜI SỐNG CHỦNG VIỆN THEO MẪU THỨC TRIĐENTINÔ
Trong suốt thời Trung Cổ, người ta đã nghe vô số những tiếng ta thán về các linh mục và các giám mục bất tài và thiếu năng lực mục vụ. Mặc dù đã có một số nỗ lực được ghi nhận trong thời cải cách, tình hình vẫn xem ra không thực sự thay đổi gì xét về lâu dài. Mối thông giao giữa ngai vàng và bàn thờ đã dẫn đến việc bổ nhiệm hay tuyển chọn các giám mục hay thậm chí một số giáo hoàng trong thực tế không được chuẩn bị gì về thần học, tu đức và mục vụ. Cũng may là các dòng tu cải cách và các tu viện đã đào tạo được một số nhân vật có năng lực, nhưng những cố gắng này cũng không đủ để hóa giải các vấn đề về giáo sĩ triều. Những vụ ‘rã ngũ’ ào ạt của các giám mục và các linh mục vào thời cải cách rất có thể đã không xảy ra nếu như Giáo Hội đã chuẩn bị cho họ một cách tốt hơn.
Những nỗ lực không thể phủ nhận của thời cải cách
Công Đồng Triđentinô nghiêm túc quan tâm tới thực tại bi đát này, xem việc chuẩn bị tốt hơn cho chức linh mục là một trong những công việc chủ yếu của mình. Phải công bằng mà nói rằng Công Đồng này đã cố gắng hết sức trong hoàn cảnh cho phép. Căn cứ vào các qui luật được ban hành nhằm thiết định một mẫu thức đời sống chủng viện theo Công Đồng Triđentinô, Giáo Hội Công Giáo trong vài thế kỷ đã bảo đảm được việc giáo dục cho một hàng ngũ giáo sĩ nhiệt tâm và giàu tri thức. Trong khi không thể trách cứ gì ở đây, chúng ta vẫn cần ghi nhận rằng mẫu thức này là một nền giáo dục đối phó với tình hình nhất thời song được cắm rễ trong một truyền thống cứng nhắc.
Các đại chủng viện đảm nhận công việc giảng dạy triết học và thần học, trong khi các tiểu chủng viện chỉ cung cấp một sự chuẩn bị xa cho chức linh mục. Tuy nhiên, đứng trước những điều kiện xã hội học nhất định của thời đó, việc tuyển sinh có khuynh hướng ưu tiên. Trong khi các gia đình quí phái không gửi các con đầu lòng của họ vào chủng viện – vì lý do nối dõi tông đường – thì những người con thứ được sốt sắng gửi vào với hy vọng rằng họ sẽ trở thành những giáo sĩ có địa vị cao và đạt được nhiều danh vọng.
Đối với những gia đình thuộc tầng lớp nghèo hơn thì gửi con vào chủng viện là cơ hội duy nhất để con cái mình đạt được một vốn liếng học vấn khấm khá. Các tiểu chủng viện cũng chuẩn bị cho nhiều người bước vào các ngành nghề khác, chẳng hạn ngành y tế. Xét về lâu về dài, đó là một nền giáo dục có một ảnh hưởng quan trọng về mặt văn hóa cho một số quốc gia. Chẳng hạn, ở một số quốc gia Phi Châu đã giành lại độc lập, người ta ngạc nhiên nhận thấy rằng đa số các nhà lãnh đạo chính trị giàu năng lực đã từng qua chương trình học vấn trong các tiểu chủng viện, nhưng do không đáp ứng được luật độc thân nên họ đã quyết định không trở thành linh mục.
Trong thời đại hậu Công Đồng Triđentinô, một sự thực hiển nhiên là trình độ học vấn của các giáo sĩ cao hơn nhiều so với thời Trung Cổ. Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội chủ chốt của Tin Lành đều cố xây dựng một hàng giáo sĩ được đào tạo kỹ lưỡng và có tính đồng nhất một mức nào đó, với những lý tưởng và những quan điểm tương tự nhau. Nhưng thường xuyên - và phải nói thêm là không may - rằng các Giáo Hội cũng cố xây dựng một hàng giáo sĩ rập khuôn trong những ý thức hệ giống hệt nhau nữa.
Được đào tạo để hiểu biết luật Giáo Hội và giáo thuyết của Giáo Hội một cách chính xác, các linh mục tất nhiên phải tuân thủ các qui tắc đời sống được giáo luật xác định cặn kẽ. Nghĩa là, họ ”biết” một lần thay cho tất cả rằng họ được yêu cầu những gì. Tuy nhiên, trong sách lược đào tạo linh mục này không hề thấy có nhãn giới nào về một chương trình huấn luyện thường xuyên (hay còn gọi là thường huấn).
Do cơ chế bổ nhiệm giám mục phổ biến thời ấy, đa số các ứng viên đều xuất thân từ tầng lớp quí tộc; và các tiêu chuẩn tuyển chọn không hề cắm rễ trong Thánh Kinh cũng chẳng xuất phát từ các mối quan tâm mục vụ. Tuy nhiên, sẽ là bất công trầm trọng nếu chúng ta phán xét cơ chế của thời hậu Công Đồng Triđentinô bằng lăng kính của chúng ta thời nay. Một cách không phê phán, chúng ta có thể nghĩ rằng Giáo Hội đã làm mọi điều có thể trong hoàn cảnh thời đó. Công Đồng Triđentinô cũng không phải chịu trách nhiệm về thời gian sau này – bởi lúc bấy giờ các hoàn cảnh đã trở nên hoàn toàn khác và những cải cách của Công Đồng đã hóa thành hoàn toàn lỗi thời rồi.
Trục trặc căn bản: Tách ly và kỳ thị
Lên chín hay mười tuổi, các cậu thiếu niên được cha sở tuyển chọn dựa trên khả năng học vấn và tính tình (tính tình ở đây được hiểu trước hết phải là tính cách ngoan ngoãn và vâng phục tuyệt đối). Các cậu được niêm kín trong một môi trường mới, hầu như cách ly khỏi gia đình, hiếm khi các cậu được gặp người nhà của mình – và tất cả điều này được giải thích là để “bảo vệ ơn gọi”.
Hình ảnh thê thảm nhất, mà tôi vẫn còn trông thấy ở Rôma cách đây khỏang 50 năm, là hình ảnh một chủng sinh mười hai tuổi bị buộc phải mặc áo chùng thâm mọi nơi mọi lúc, kể cả khi chơi thể thao. Chiếc áo chùng thâm ấy đã trở thành dấu hiệu thiêng thánh cho biết rằng kẻ vận nó đã được chọn và được tách riêng ra.
Hồi ấy, một giám đốc đầy uy tín của “Đại Chủng Viện” ở Rôma và đồng thời là một nhà giảng thuyết tĩnh tâm cho các giám mục đã viết một quyển sách có tựa đề là Phương Pháp Đào Tạo Hiện Đại Cho Các Linh Mục Tương Lai. Trong quyển sách này, tác giả nói rằng vì ích lợi của ơn gọi linh mục, cần phải thực hiện một nền giáo dục “vô tính” (asexual). Kết quả là, không được cho phép một phụ nữ nào lảng vảng đến gần các bức tường chủng viện, cả trong nhà bếp và trong bệnh xá cũng không được có bóng dáng phụ nữ. Các cô gái và các phụ nữ trẻ không được đến thăm chủng sinh. Cha và mẹ chủng sinh không được phép thăm con mình cùng một lúc và trong cùng một phòng khách. Một linh mục nọ cay đắng kể với tôi rằng hồi còn ở chủng viện, có lần cha và mẹ anh ta cùng đến để báo tin em gái anh đã qua đời. Anh được phép gặp cha trước – mẹ anh được dẫn sang một phòng khác ở dãy bên kia, chờ đến phiên được gặp anh sau.
Tôi đã từng được nghe rất nhiều câu chuyện tương tự như thế - do các cựu chủng sinh và các linh mục kể lại trong các buổi gặp tư vấn với tôi. Tôi thường ngạc nhiên tự nhủ: “Vậy mà anh ta chỉ bị rối loạn tới mức này thôi. Thật là may!” Tôi cho rằng thời ấy và môi trường ấy có thể cung cấp cho Eugen Drewermann nhiều kinh nghiệm thú vị hơn so với những kinh nghiệm mà ông thu thập về sau này và ở trong một bối cảnh khác.
Dĩ nhiên, đó không phải là chuẩn mực cho chức linh mục theo Công Đồng Triđentinô. Đúng hơn, đó là một trong những dạng suy thoái của đời sống chủng viện, và chúng ta cần phải đề cập đến nó bởi vì ngay cả trong thời đại chúng ta, nó vẫn còn gây ảnh hưởng rất nhiều cho Vatican và cho các cơ chế khác trong Giáo Hội.
Có thể nêu một ví dụ từ cuộc đời Thánh Anphongsô Liguori để nhấn mạnh sự rập khuôn của các thế kỷ trong quá khứ. Gia đình Anphongsô, vốn thuộc tầng lớp quí phái, đã dự kiến rằng anh sẽ là người thừa kế gia sản và – do đó – đã cung cấp cho anh một nền học vấn thượng hạng. Một trong các em gái của Anphongsô được đính hôn với một nhà quí tộc, còn hai em trai và ba em gái khác thì được gia đình dự kiến cho đi tu. Một cô em gái của Anphongsô, mới lên năm tuổi, đã được gửi vào một nhà dòng nội cấm để “chuẩn bị cho ơn gọi của con bé”. Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng về sau, trở thành nữ tu, cô em gái ấy của Anphongsô đã có những trục trặc lớn về tâm lý.
Khi Anphongsô từ bỏ sự nghiệp của mình trong ngành luật, người cha ngoan đạo của anh rất có thể đã không bối rối gì nếu Anphongsô - trong bối cảnh thời ấy - khao khát một sự nghiệp giáo sĩ và nhắm đến một địa vị cao trong Giáo Hội. Thế nhưng, điều xảy ra là linh mục Anphongsô đã kết thân và phục vụ cho Lazzeroni, tức những kẻ lang thang trên đường phố của Thành Naples – và sự kiện này đã được ông bố coi là một tai tiếng.
Nhiều yếu tố có tính củng cố hay có tính bù trừ rất thường được người ta tính đến. Các thứ nam của những gia đình quí phái thường được cha mẹ hoạch định ngay từ đầu sẽ trở thành giám mục hay ít nhất cũng là một giáo sĩ có đẳng cấp. Các cậu ấm có năng lực trung bình của những gia đình giàu có và các con trai có tài năng của những gia đình nghèo sẽ được trao cho cơ hội để đạt đến một địa vị cao trong xã hội. Đây là một phần làm nên bối cảnh lịch sử cho não trạng tham quyền cố vị, một não trạng vẫn còn tồn tại đây đó cả trong thời đại hôm nay.
Não trạng tham quyền cố vị đã và vẫn còn đang là một cám dỗ lớn làm cách ly và phân rẽ các ứng viên và các linh mục ra khỏi dân chúng. Thú thật, tôi không thích thú gì khi đề cập đến tình trạng này, nhưng chúng ta phải đối diện với thực tại để, thứ nhất, nhận hiểu bối cảnh đặc thù của quá khứ và các vấn đề của hiện tại - và thứ hai, để chữa trị và phòng tránh nguy cơ loại bệnh họan xã hội này xảy ra trong tương lai.
Một triệu chứng khác của mặc cảm tự tôn nơi giáo sĩ là việc sử dụng cụm từ “khiết tịnh hoàn toàn” - được hiểu một cách sai lầm là chỉ được gán cho sự độc thân của các tu sĩ và giáo sĩ. Trái lại, theo giáo thuyết trên giấy trắng mực đen của Công Đồng Vatican II và trong sự tương hợp hoàn toàn với Tân Ước, mọi Kitôhữu đều được mời gọi nên thánh và nên trọn lành. Mọi Kitôhữu, vì thế, cũng đều được mời gọi trở nên khiết tịnh hoàn toàn – song đây là một sự khiết tịnh tương hợp với các đặc điểm riêng của bậc sống của họ.
Những người kết hôn được mời gọi sống sự khiết tịnh vợ chồng, dĩ nhiên sự khiết tịnh này không hoàn toàn giống với sự trinh tiết của người độc thân. Tuy nhiên, đó vẫn là một tiếng mời gọi họ phấn đấu đạt được sự khiết tịnh hoàn toàn. Theo quan điểm của tôi, cụm tư ”khiết tịnh hoàn toàn” được hiểu như dành riêng cho người độc thân thật là một cái gì hết sức vô căn cứ – và cách hiểu như vậy chỉ khoét sâu thêm nguy cơ chia rẽ.
Thiết tưởng cần phải đề cập đến nguy cơ này trong ánh sáng của những phê bình hiện nay. Nhiều linh mục than vãn rằng ơn gọi linh mục đã suy giảm trầm trọng kể từ Vatican II. Họ có khuynh hướng qui gán rằng sở dĩ xảy ra sự khan hiếm này là do bởi tư tưởng tự do mới và do bởi sự phủ nhận việc vâng phục tuyệt đối. Điều chúng ta cần đến hôm nay không phải là những tố cáo sai lầm và thiếu căn cứ nhưng là một niềm trung thành vững chãi hơn đối với Tin Mừng và một nhận thức mới về tính xác thực (authenticity). Mọi biểu hiện của mặc cảm tự tôn và mọi động lực có tính nhập nhằng đánh lận con đen phải được lật tẩy và phơi trần, phải được triệt nhổ tận gốc rễ trong ánh sáng của Người Tôi Tớ Giavê. Trong quá trình ấy, cơn khủng hoảng hiện nay có thể trở thành một cơn khủng hoảng đầy hồng phúc, một cơn khủng hoảng giúp lớn lên xuyên qua những nỗ lực đầy triển vọng cố bứt ra khỏi một chức linh mục nông cạn và thay vào đó bằng một đời sống linh mục sâu xa hơn và vững chãi hơn. Không còn ngờ gì nữa, chúng ta phải đọc các dấu chỉ của thời đại, nhưng việc đọc như thế chỉ có thể được thực hiện bằng một niềm trung thành mới mẻ đối với ơn gọi căn bản Kitôhữu và ơn gọi linh mục như được hiện thân nơi Đức Giêsu, Vị Ngôn Sứ và Người Tôi Tớ khiêm nhường.
Một triết học và thần học đã lỗi thời
Không kể một số rất ít ngoại lệ, các chủng sinh được nhồi nhét cũng chỉ thứ triết học cũ rích bất di bất dịch ấy, cũng chỉ thứ thần học cổ điển ấy, cũng chỉ những chân lý bất biến ấy, bất chấp bao nhiêu sự khác biệt sừng sững về văn hóa. Tất cả các chân lý đều được hiểu như rơi trực tiếp từ trời xuống và không cần đưa ra bất cứ sự xem xét nào về các bối cảnh thời gian và văn hóa nhất định. Vai trò của cảnh vực không bao giờ được xem xét đến, và không biết từ bao giờ chưa hề thấy có một sự chú ý nhỏ nhoi nào được dành cho sự kiện rằng để trung thành với Lời Nhập Thể, Giáo Hội phải luôn luôn tìm kiếm những cách thức mới mẻ để “nhập thể” vào văn hóa – nói tắt là: để hội nhập văn hóa. Mối quan tâm chính yếu duy nhất là quan tâm đến tính đồng nhất của giáo sĩ nhằm phục vụ cho mục tiêu hiệp nhất. Nhưng loại hiệp nhất nào đây? Chỉ mới gần đây, nhờ đánh giá lại được tầm quan trọng của đại kết, chúng ta mới hiểu đúng hơn ý niệm về một sự hiệp nhất được xây dựng bởi những nét khác biệt được hòa giải với nhau và bởi việc cùng chia sẻ mối ưu tư đối với công cuộc không ngừng hội nhập văn hóa của Tin Mừng mọi nơi và mọi thời.
Để trả lời một cách thiết thực cho câu hỏi căn bản của chúng ta: Giáo Hội cần loại linh mục nào?, tất nhiên chúng ta phải nêu lên một loạt những câu hỏi liên quan khác – trong đó một câu hỏi rất quan trọng là: Thế giới hôm nay đang cần loại Giáo Hội nào? Loại Giáo Hội nào có thể hết sức trung thành đáp trả tiếng gọi của Tin Mừng và của Đấng Chủ Tể lịch sử? Chúng ta không được phép quên rằng giai đoạn hiện tại của lịch sử nhân loại được đánh dấu bởi một cuộc bùng nổ các biến cố và các biến chuyển lịch sử, bởi sự hiểu biết rõ hơn về lịch sử quá khứ trong tất cả tính đa dạng của nó, bởi một nhận thức mới mẻ về tính đa nguyên hiểu như yếu tố giúp làm phong phú lẫn nhau, và cuối cùng, bởi nhu cầu cần phải có một sự biện phân sâu sắc hơn.
Một câu hỏi khác chúng ta có thể nghĩ đến là: Trong việc biện phân các biến cố văn hóa và các biến cố có tính toàn cầu trong ánh sáng của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê, đâu là những cơ hội cho dân Thiên Chúa cộng tác với các linh mục để loại trừ tinh thần thâm căn cố đế nô lệ cho chiến tranh và để loại trừ sự kích động bạo lực trong tất cả các hình thức của nó?
Đành rằng càng ngày chúng ta càng ý thức hơn về bản chất tiệm tiến của sự thay đổi, song chúng ta cũng không thể bỏ qua sự thực rằng một số thay đổi đang diễn ra quá chậm chạp. Cần phải nhấn mạnh rằng, nói chung, sự dồn dập của những tiến trình lịch sử không cho phép chúng ta thoải mái ngồi chờ một cách thụ động.
Tại bước quặt hiện nay của lịch sử, ý niệm về một hàng giáo sĩ hoàn toàn “đồng nhất” với những qui tắc đồng nhất được ấn định bởi một nhãn quan phiến diện (cụ thể, đó là một quan điểm thuần túy Tây phương với sự tập quyền và toàn trị) là một cái gì hết sức kỳ quái trong Giáo Hội. Giỏi lắm nó chỉ biến Giáo Hội thành một thứ bảo tàng viện vui vui mà thôi. Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nhận thức rất rõ điều này. Tôi không bao giờ quên lời ngài nói với các nhà thần học mà ngài đã đích thân chọn hay đã phê duyệt để chuẩn bị cho Công Đồng. Đầu tiên, với vẻ ngán ngẩm rất rõ, ngài bắt đầu đọc một tài liệu mơ hồ nào đó, và rồi bất thình lình ngài bỏ tập giấy kia qua một bên và nói với giọng sâu lắng: “Xin quí vị đừng bao giờ quên rằng Giáo Hội không phải là một viện bảo tàng!”
Vận dụng lại mẫu thức cải cách linh mục của Công Đồng Triđentinô làm mẫu thức và làm qui tắc cho cuộc cải cách hiện nay? Đó là điều hết sức sai lầm và chỉ có nghĩa là hy sinh cả hiện tại và tương lai để hậu thuẫn cho một quá khứ mà chúng ta không bao giờ có thể quay về. Vấn đề được báo động khẩn trương ở đây là chính sự tín nhiệm của người ta đối với chức linh mục.
Trong thế kỷ vừa qua ở Đức, rất nhiều giáo sĩ đã nhận được sự đào tạo trí thức tại những đại học do nhà nước bảo trợ, ở đó cái gọi là philosophia perennis (triết học cổ điển đồng nhất) đã nhường chỗ cho một thế giới quan có cảm thức lịch sử rộng thoáng về lịch sử cứu độ xét như là trọng tâm của thần học. Trong ánh sáng của cảm thức mới này, các nhà thần học kiệt xuất đã xuất hiện như Johann Adam Mohler, người đã định hình thần học tín lý, Johann Michael Sailer, Johann Baptist Hircher và Franz Xavier Linsenmann, người đã mở ra một thần học luân lý đầy kích cảm, sống hoạt và có tính năng động về mặt lịch sử.
Những nỗ lực đầy triển vọng nhằm đem lại sự canh tân đích thực này, cũng như nhiều dấu hiệu hy vọng khác trong Giáo Hội sau cuộc Cách Mạng Pháp, đã bị cản trở bởi cái gọi là Khôi Phục, một khuynh hướng phản ứng trong Giáo Hội bắt nguồn từ Hội nghị Vienna năm 1816 khi Khối Liên Minh thần thánh giữa giáo hoàng trong tư cách là nguyên thủ của Giáo Hội và các hoàng đế Nga, Ao, Phổ gặp nhau nhằm mục đích khôi phục lại các quyền lực chuyên chế của các vị.
Thực ra đây là một liên minh ma quỉ mà hệ quả tệ hại nhất của nó là việc lạm dụng tôn giáo, hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh người linh mục bước theo Đức Giêsu Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường của Thiên Chúa trong chương trình phi bạo lực của Ngài. Hơn nữa, nó hoàn toàn đối nghịch với nhãn giới tiên tri của Đức Giêsu thể hiện qua việc Ngài lật tẩy các mưu chước Satan nhằm cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để mưu cầu quyền lực trần tục (x. Mt 4,8-10). Thiết tưởng có thể thêm ở đây rằng mối liên minh nói trên cũng đã dẫn đến những hậu quả hết sức tiêu cực trong lãnh vực đào tạo linh mục nữa.
Ít lâu sau Công Đồng Vatican II, tôi được gọi tới “cung điện” của tòa thánh. Tại đó, Hồng Y Pietro Parente, một sản phẩm đặc trưng của nền giáo dục chủng viện theo Triđentinô và của chức linh mục nhiễm mùi danh vọng, đã trao cho tôi hai lời cảnh cáo: “Nếu anh cứ tiếp tục theo kiểu của anh, anh sẽ không có một cơ hội tiến thân nào đâu,” và “Tôi nghĩ đã đến lúc anh cần ngừng lại.” Độc giả hẳn không khó nhận ra mối liên hệ giữa hai lời cảnh cáo ấy. Quả thật là sung sướng cho tôi việc tôi sẽ không bao giờ có danh vọng, tôi cũng sẽ không tự trấn áp các quan điểm của mình bao lâu chúng còn phản ảnh tiếng gọi linh mục của Người Tôi Tớ khiêm nhường và phi bạo lực của Giavê.
Xin cảnh báo: Hãy tránh xu hướng khái quát hóa
Việc tìm hiểu thần học và lịch sử không thể được thực hiện nếu không có một số tiêu thức nào đó. Dù vậy, chúng ta phải hết sức cẩn thận để không khái quát hóa thái quá. Tiêu thức luận (typology) cho chúng ta biết rằng trong Giáo Hội Latinh trước Vatican II, hàng giáo sĩ có tính đồng nhất, ổn định, vâng phục và qui củ thật đáng kinh ngạc, và đôi khi thậm chí người ta lầm lẫn rằng như thế là hiệp nhất. Hơn nữa, rất nhiều linh mục trung thành bền bĩ với kinh nhật tụng và hăng say trong bổn phận “cứu các linh hồn”.
Tuy nhiên, ở đây ta không được khái quát hóa xa hơn nữa. Cần phải ghi nhận rõ rằng trong mọi thế kỷ, nhất là trong hai thế kỷ vừa qua, luôn luôn có những linh mục phi thường, thấm đẫm tính cách độc đáo và sáng tạo, đã thoát ra khỏi những chuẩn mực. Tôi thiển nghĩ rằng một linh mục có nhân cách trỗi vượt có thể tác động tích cực đến thế giới nhiều hơn là một trăm bản sao loại xoàng của loại linh mục rập khuôn máy móc.
Trong số những khuôn mặt lớn, có thể kể đến Thánh Inhaxiô Loyola, Thánh Anphongsô Liguori và Thánh John Neumann. Ngay cả Thánh Gioan Vianney, một đại diện thứ thiệt của mẫu thức giáo sĩ theo Triđentinô, cũng là một thiên tài trong việc dẫn dắt người ta bước vào sự an bình và thánh thiện nội tâm. Cũng còn phải kể đến John Henry Newman nữa, một con người cải giáo và trở thành một linh mục Công Giáo vĩ đại bậc nhất của thế kỷ 19; ngài đã nhận được sự đào tạo ban đầu trong phong trào Oxford và đã được bổ nhiệm làm hồng y ở tuổi xế chiều. Cần phải có cả một pho sách mới có thể trình bày hết những đóng góp của ngài cho công cuộc canh tân việc đào tạo linh mục.
Bartholomew Holzhauser (1613-1658), một linh mục triều, cũng là một mẫu gương kiệt xuất cho thấy những gì mà một con người giàu đặc sủng có thể làm để đóng góp cho cuộc canh tân Giáo Hội. Trong suốt cuộc Chiến Tranh Ba Mươi Năm, ngài đã thành công trong việc thuyết phục nhiều cha xứ sống đời sống chung, chia sẻ với nhau mọi sự, nhất là chia sẻ đời sống cầu nguyện và công việc mục vụ. Những linh mục này là những kiểu mẫu của “nhà cầu nguyện”. Trên khắp vùng đất Bavaria và Ao, người ta thấy mọc lên những trung tâm cổ võ sự cải cách đích thực trong Giáo Hội – qua đó chứng tỏ rằng Thần Khí (ruah) muốn thổi đâu thì thổi.
Những ơn gọi linh mục ở tuổi muộn màng
Có một sự kiện thật thú vị, đó là đa số các khuôn mặt kiểu mẫu đều bước vào chức linh mục ở một độ tuổi khá muộn màng, khi đã có nhiều kinh nghiệm sống phong phú. Tất cả các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế được phong thánh cũng đã bước vào chức linh mục khá muộn trong tuổi đời, chẳng hạn các Thánh An-phong-sô, Clement Hofbauer và John Nepomucene Neuman, vị tông đồ của những người dân nhập cư vào Hoa Kỳ và là người - với năng lực và khả năng tiên liệu phi thường - đã tổ chức cả một hệ thống các trường học Công Giáo. Peter Donders, người tôi tớ hèn mọn của những người cùi và là tiếng nói ngôn sứ mạnh mẽ chống lại cơ chế nô lệ, đã đi tiên phong trong phong trào linh mục thợ. Những con người trở lại và những ơn gọi muộn mằn lừng danh ấy, vốn đã được đào tạo chín muồi về trí thức và đã dày dạn trong kinh nghiệm sống, đã trở thành một thứ cầu nối giữa các giáo sĩ có nguy cơ tách ly xa rời cuộc sống cảnh vực đời thường của dân chúng với tất cả những thực tế của nó.
Thánh Anphongsô Liguori, mẫu gương điển hình của “một người trong chúng ta”
Ở tuổi 17, Anphongsô hoàn thành một cách xuất sắc học vị tiến sĩ về dân luật và giáo luật. Hai mươi tuổi, được coi là một trong những luật sư uy tín nhất ở Naples, ngài đã “quay lưng lại với thế giới” – như chính lời ngài tự bạch.
Anphongsô muốn nói đến loại thế giới nào khi nói: “Hỡi thế giới, giờ đây ta đã biết ngươi!” Đó là một thế giới trong đó một tôn giáo nặng hình thức và đầy bổng lộc cung ứng những địa vị thế giá và những tước hiệu cao trọng cho các ứng viên có tiềm năng. Anphongsô quay lưng lại với một thế giới vốn tiêu biểu cho một thứ “đa thần giáo”, một hỗn hợp của danh, phú và thú – và cả Thiên Chúa nữa cũng được lộng vào trong cuộc đổi chác này. Món ‘thập cẩm’ ấy buộc chúng ta đặt ra câu hỏi: “Đó là loại Thiên Chúa nào vậy?”
Đối với nhiều linh mục, Thiên Chúa của Công Đồng Triđentinô được khắc họa như một Thiên Chúa đứng về phía những người có quyền lực và những người có cấp bậc cao trong Giáo Hội. Loại đa thần này có thể sống còn một cách thoải mái, thậm chí có thể hậu thuẫn cho các tín điều của đức tin Công Giáo, bao lâu thói tự tôn của giới tư tế vị vọng chưa được lột trần và chưa được vượt qua.
Ngay sau khi được truyền chức linh mục, Anphongsô tiếp tục triệt để chống lại khuôn mặt Thiên Chúa đầy tính vương giả và quí tộc ấy qua việc ngài hoàn toàn dấn thân phục vụ cho người nghèo, cho những người bị bỏ rơi và bị khinh miệt nhất. Thật vậy, sự dấn thân này là lý do nền tảng giải thích việc Anphongsô thoát ly khỏi thế giới của những người giàu, của những người quyền thế, nhất là thoát ly khỏi “thế giới” được hiểu theo nghĩa xấu: sự lạm dụng tôn giáo để phục vụ cho quyền lực và danh vọng.
Như chúng ta đã ghi nhận, sự dấn thân đầu tiên của Anphongsô nhắm đến những người Lazzeroni. Ngài không chỉ quan tâm săn sóc những kẻ bơ vơ không nhà, mà hơn thế nữa, ngài biến họ thành những người cộng tác để xây dựng các nhóm huynh đệ trong chính tầng lớp của họ. Ngài tổ chức các “lớp đêm dạy cầu nguyện” trong đó những con người này tham dự một cách đầy năng động và sáng tạo. Thiên năng của Anphongsô bộc lộ nơi sự săn sóc ân cần của ngài đối với người nghèo không nhiều bằng nơi sự kính trọng mà ngài dành cho họ, đặc biệt qua việc ngài sẵn sàng tín nhiệm họ trước, ngay cả khi ‘sự tín nhiệm trước’ ấy của ngài không đem lại kết quả tức thời.
Cha của Anphongsô, một nhà quí tộc có tính cách hướng nội, là một người dễ nóng nảy nhưng đồng thời rất e dè. Trong nhiều năm, ông không nói chuyện với Anphongsô – đứa con mà ông cho là phản bội lại danh giá của gia đình. Một hôm, ông bố quí tộc này đi ngang qua một nhà thờ chen chúc người, và một bài hát cảm động đã thu hút sự chú ý của ông. Ông tò mò bước vào ... và rất đỗi ngạc nhiên khi nhận ra đứa con trai mà ông kể như đồ bỏ đang hát bài Tin Mừng từ trên thư đài và đang truyền cảm xúc sâu lắng cho cả cộng đoàn đang hiện diện. Đó là khoảnh khắc hoán cải của ông bố này – ông bắt đầu ước mơ không chỉ tham gia vào cộng đoàn mới thành lập này mà ông còn mong muốn trở thành một chức việc cho nhà thờ. Vốn thực tiễn, Anphongsô đã từ chối nguyện vọng đó của cha mình.
Các bạn đồng hành đầu tiên của Anphongsô – ban đầu chuyên giúp đỡ những người nghèo túng và bị bỏ rơi ở Naples, về sau đảm nhận việc săn sóc mục vụ cho các dân quê nghèo – tất cả đều trở thành linh mục khi tuổi đời đã khá muộn. Chính trong tinh thần phản kháng một cách yêu thương và phi bạo lực chống lại một số sự dữ nổi cộm trong Giáo Hội thời đó mà ngoài ba lời khấn truyền thống, Anphongsô và các bạn mình còn thêm hai lời khấn hoàn toàn mới: -ưu tiên kính trọng và quan tâm tới người nghèo, những người bị khinh miệt, bị bỏ rơi; và –không bao giờ săn đuổi hay chấp nhận các danh dự, đặc quyền, tước vị hay thậm chí chức giám mục trong Giáo Hội.
Trong những năm Anphongsô học chương trình thần học, có một khuynh hướng khắt khe cứng nhắc rất phổ biến nơi các giáo sư của ngài, nhất là nơi những người giảng dạy môn thần học luân lý. Thật khó cho Anphongsô tách mình ra khỏi khuynh hướng này. Vậy điều gì đã giúp Anphongsô làm được chuyện đó? Theo nhận xét của tôi, đó chính là cuộc thoát ly gồm ba chiều kích mà ngài đã thực hiện: thoát ly khỏi thế giới đặc quyền để dứt khoát đi tới với những người nghèo và những người bị khinh miệt; thoát ly khỏi lòng tự tôn về văn hóa để đến với những con người đơn sơ chất phác và hấp thụ tính cách đơn sơ của họ; và cuối cùng, thoát ly khỏi cái thế giới lạm dụng tôn giáo và trục lợi cá nhân để đạt đến tấm lòng và nhãn quan của Đức Kitô, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê. Một lần nữa, ở đây tôi muốn qui chiếu đến bản văn Mt 4,1-11, trong đó Đức Giêsu được mô tả như một người vạch mặt các mưu chước Satan nhằm cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để tranh thủ bổng lộc trần thế, tranh thủ hào quang, danh dự và quyền lực trên người khác.
Những tranh cãi kỳ quặc về hiệu lực của việc truyền chức
Cuộc tranh luận lố bịch về chuyện ai (trong số các kẻ được Đức Giêsu chọn đi theo Người) sẽ là người có địa vị cao nhất đã không chấm dứt với các môn đệ thuở đầu tiên ấy. Thật vậy, câu hỏi thâm căn cố đế ấy còn ám ảnh nơi Giáo Hội thời Constantine một cách lố bịch hơn nhiều so với cuộc tranh luận của các ngư phủ chất phác xưa kia. Không thể đếm được bao nhiêu cuộc tranh luận và bao nhiêu câu hỏi đã được đặt ra xung quanh tính hiệu lực của nghi thức bí tích, nhất là của nghi thức truyền chức. Những cuộc tranh cãi ấy đã rộ lên vào thời đó và vẫn còn tiếp tục cho đến hôm nay.
Cách đây hai năm, khi tôi ở Prague, tôi có dịp có mặt tại một cuộc qui tụ một số nhóm Công Giáo. Họ trước đó vốn từng trải qua một giai đoạn dài bị bách hại, phải sống chui nhủi và đã phải truyền chức ‘chui’ cho nhiều linh mục, một số các linh mục này là những người đã kết hôn. Thật tuyệt vời biết bao đức tin của họ, thái độ dấn thân và tinh thần đơn sơ của họ! Rõ ràng, những con người được truyền chức này và gia đình của họ là những Kitôhữu hết sức tuyệt vời.
Nhưng có một vấn đề gây trăn trở một cách không cần thiết cho những linh mục này, đó là họ nghi ngờ tính hiệu lực của việc truyền chức của mình – nỗi nghi ngờ ấy được thổi phồng lên bởi một số thẩm quyền trong Giáo Hội. Các linh mục và giám mục này được truyền chức một cách hết sức bí mật sau khi được Giáo Hoàng Piô XII đích thân cho phép, mặc dù ngài tránh các thủ tục ngoại giao thông thường do phải cảnh giác mật vụ cộng sản đang ráo riết hoạt động lúc bấy giờ. Tôi có may mắn gặp nhiều linh mục trong diện này và cả một số giám mục nữa – trong đó có một giám mục được truyền chức một cách vô cùng kín đáo bởi vị giám mục trước đây của (giáo phận) Augsburg.
Vị giám mục nói trên là một trong những vị tiên phong dũng cảm nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất trong số những người được truyền chức chui thời bấy giờ. Không ai chối cãi ông là một con người linh lợi tháo vát, có lòng can đảm và khả năng tiên lượng trỗi vượt. Thật đáng tiếc, một số quan chức thiển cận ở Rôma đã tuyên bố rằng ông mất quân bình tâm lý và do đó việc truyền chức cho ông rất có thể vô hiệu lực.
Phải nghĩ sao về một tuyên bố kỳ cục như thế? Nếu một sự mất quân bình tâm lý được người ta quyết đoán – chứ không phải được chứng minh hẳn hoi – là lý do để người ta nghi ngờ hiệu lực bí tích truyền chức của đương sự, thì chúng ta có thể không bao giờ chấm dứt được những mối nghi ngờ về bao thế hệ linh mục, vì chắc chắn trong lịch sử có hàng ngàn giám mục (gồm cả những giám mục trong thời đại chúng ta) bị mất quân bình hơn cả vị giám mục nói trên kia. Tiếc thay, ông đã qua đời rồi và do đó không thể tự bênh vực cho mình được.
Đòi các linh mục đã được truyền chức chui, nhất là những người đã kết hôn, phải được “truyền chức lại” đúng qui định – đó là điều hết sức quái đản. Người ta khó chịu và ngán ngẩm gọi đây là “siêu chức thánh” (superordination). Một số người miễn cưỡng chấp nhận lệnh này, trong khi những người khác dứt khoát không chấp nhận. Giáo Hội không có đủ các vấn đề thực để giải quyết hay sao mà còn bày ra những vấn đề nhân tạo như thế? Tôi thực sự tin rằng những linh mục nói trên – một cách độc đáo - là hiện thân đích thực và sống động của Đức Giêsu, Con Người, Đấng là “một người giữa chúng ta”. Tôi cho rằng cần phải coi các linh mục ấy như là hình mẫu cho chức linh mục tương lai.
Khi tôi còn là một nhà thần học luân lý trẻ, một số linh mục thuộc loại nguyên tắc chi li, trong đó một số có chức tước cao, đã đến tìm sự tư vấn với tôi vì cảm thấy bất an xung quanh tính hiệu lực của bí tích truyền chức. Bạn có thể tưởng tượng được mối băn khoăn nhất của họ là gì không? Họ tự hỏi không biết hồi được truyền chức mình có đã đụng chạm cùng một trật đến chén thánh, đĩa thánh và bánh thánh trên bàn thờ hay không (vào thời ấy, sự đụng chạm này được coi là dấu hiệu chủ yếu cho hiệu lực của việc truyền chức) – và họ lo rằng nếu mình đã không làm nghi thức đó một cách thành sự thì tất cả những thánh lễ và những bí tích mà mình cử hành sau đó đã không có hiệu lực! Rất may, Giáo Hoàng Piô XII đã chấm dứt tất cả những băn khoăn ngớ ngẩn này bằng cách chính thức tuyên bố rằng nghi thức nói trên không có liên quan gì với tính hiệu lực của việc truyền chức.
Ngày nay, trong nhãn giới đại kết, những tranh luận xung quanh tính hiệu lực kiểu như trên càng đặc biệt gây sốc. Các linh mục Anh giáo trở về với Công Giáo vẫn phải được truyền chức đúng qui định, và sự tranh cãi chính yếu chống lại tính hiệu lực thì thật khá kỳ quặc. Người ta nêu lập luận rằng các giám mục Anh giáo vốn trước kia ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo trong thời Cải Cách đã không thật sự biết ý nghĩa của bí tích truyền chức và chức linh mục và, do đó, họ có thể đã không có ý hướng đúng đắn.
Nếu lập luận ấy chứng tỏ có trọng lượng đối với Rôma, thì nên bắt đầu “truyền chức lại” cho tất cả các linh mục và giám mục của chính chúng ta nữa. Nhưng ai sẽ làm điều này? Chúng ta có thể tự hỏi rằng các giám mục thời Phục Hưng của Giáo Hội Công Giáo có ý hướng đúng đắn hay không. Họ có hiểu biết hơn những người kia về chức linh mục là gì không? Giáo Hoàng Gioan XII phóng đãng được bầu lên ngôi giáo hoàng năm 17 tuổi, trước mặt Chúa, đã hiểu biết được bao nhiêu về ý nghĩa của việc trở thành một giám mục – chưa nói là trở thành một giám mục Rôma? Thiển nghĩ để khôn ngoan hơn, cần phải dẹp bỏ những tranh cãi và những quan tâm ngớ ngẩn này và – thay vào đó – hãy cố gắng nhận hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của truyền thống tông đồ am hợp với toàn bộ Tin Mừng của Đức Giê-su Kitô.
Nếu chỉ bận bịu với vấn đề nghi thức như thế, sẽ có những khó khăn đặc biệt nghiêm trọng xung quanh vấn đề kế thừa không gián đoạn của các giám mục Rôma. Lịch sử nhắc chúng ta nhớ rằng có nhiều giáo hoàng là những kẻ buôn thần bán thánh được bầu vào chức vị đó một cách không ngay chính. Đã nhiều lúc người ta không biết ai là người kế vị đích thực của Thánh Phê-rô, nhất là trong những thập niên có tồn tại đồng thời đến hai hay ba giáo hoàng, một số trong đó là những con người bất xứng. Rõ ràng, có một tính tông truyền trong Giáo Hội mà – nếu hiểu theo một nghĩa thâm sâu hơn – có thể giúp chúng ta chấm dứt một cách dễ dàng hơn những tranh cãi đần độn, nhất là nếu chúng ta biết thiết tha với công cuộc thăng tiến đại kết.
Cần biết hài hước
Khiếu hài hước của chúng ta, một cách nào đó, chắc chắn là một phản ảnh bé nhỏ của khiếu hài hước vĩ đại nơi Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao Thiên Chúa có thể chịu được chúng ta một cách vô cùng kiên nhẫn như thế? Hài hước quả thật là một đức tính đầy năng lực giải phóng và chữa trị.
Chẳng hạn đối với vấn đề về tính hiệu lực, từ một nhãn quan sinh vật học, chúng ta biết một số người đàn ông có nhiều yếu tố nữ hơn là yếu tố nam trong DNA (di truyền tố) của mình; thế nhưng xét mặt ngoài, họ vẫn là đàn ông. Nếu, theo giáo huấn của Vatican, phụ nữ không thể được truyền chức một cách thành sự, thì bằng cách nào chúng ta giải thích việc truyền chức cho các linh mục và giám mục với những di truyền tố chứng tỏ họ là nữ nhiều hơn là nam? Xuất phát từ lập luận dựa cơ sở trên sinh vật học được Vatican sử dụng để bác bỏ việc truyền chức cho phụ nữ, ta thấy ở đây bật ra một câu hỏi thứ hai, không kém hài hước: Chúng ta sẽ phán đoán thế nào về hiệu lực của việc truyền chức cho những người là đàn ông theo di truyền tố song lại bộc lộ cốt cách ẻo lả yếu ớt như phụ nữ?
Điều cần rút ra ở đây là: khi chúng ta khởi đi từ những tiên đề sai lạc, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể đạt đến những cách giải quyết khả dĩ hợp lý. Những lập luận hàm hồ, thiếu cơ sở và viển vông có thể được vượt qua một cách tốt nhất, ít là phần nào, nếu ta có đủ tinh thần hài hước.
Giáo Hội đang cần loại thần học luân lý nào?
Rảo qua cái thế giới kỳ quặc nhiễm nặng bệnh nghi lễ, chúng ta trở về với một câu hỏi cốt lõi về con người linh mục tương lai. Đứng trước thực tế rằng, một phần nào đó, các linh mục đã được đào tạo một cách méo mó bởi những hệ quả tiêu cực của khuôn khổ luân lý và nghi thức theo mẫu thức Triđentinô, một câu hỏi căn bản đặt ra cho chúng ta là: Người linh mục lý tưởng của hôm nay và tương lai cần được dạy cho thứ thần học luân lý nào, không chỉ để đương sự nhận hiểu chính bản thân mình mà còn để giúp cho đương sự trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng – một sứ vụ thiết yếu bao hàm việc hướng dẫn luân lý cho người ta?
Phần đông các linh mục thuộc loại nệ nghi lễ và gặp bối rối nhiều trong các thế kỷ vừa qua đều là những nạn nhân của một nền thần học luân lý của Rôma. Họ bị đòi hỏi phải học một danh sách dài liệt kê những tội trọng được phân loại chính xác, trong đó có nhiều tội được coi là ex toto genere. Hàng trăm câu hỏi về tội trọng được giải đáp trong qui chiếu với các định chế về nghi thức, và thường là chìm trong đám mây mù của những cấm kỵ.
Giáo huấn về một sự vâng phục và trung thành theo quan niệm hẹp hòi đã dẫn tới một thái độ khắc nghiệt trong đó mọi chất vấn đụng chạm đến thẩm quyền Giáo Hội đều bị đè bẹp. Một thứ tinh thần khù khờ xoàng xĩnh có thể sống còn được trong một bầu khí có xu hướng tiêu diệt mọi sự nghi ngờ nghiêm trọng đối với chính thể chế. Dĩ nhiên, những chủng sinh và linh mục sắc sảo hơn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc trấn áp các nghi ngờ của mình về tính chính đáng của một hệ thống luân lý như thế và, do đó, cách này hay cách khác những chủng sinh và những linh mục này phải chịu khốn khổ rất nhiều về mặt tâm lý.
Nhiều người xem ra đã tìm được cách giải quyết. Hàng trăm câu hỏi nhỏ được mở ra để thảo luận, và bởi vì những tranh luận kiểu đó sẽ không cùng, nên một số người có cảm nghĩ rằng ít nhất qua đó họ cũng phát triển được khả năng biện phân. Nhưng những “câu hỏi mở ra” này phần lớn lại không phản ảnh những mối quan tâm nóng bỏng của số đông dân chúng.
Còn một vấn đề nghiêm trọng khác nữa tập trung xung quanh những thủ bản thần học luân lý của Rôma được sử dụng rộng rãi lúc bấy giờ; những thủ bản này đưa ra một cái nhìn hết sức thiển cận về ân sủng, xem ân sủng sự trợ giúp của Thiên Chúa để người ta chu toàn mọi điều luật và mọi qui tắc một cách trung thành. Thật xa lạ biết bao với nhãn quan của Thánh Phao-lô về ân sủng: “Anh em không thuộc về Lề Luật, nhưng là thuộc về ân sủng” (Rm 6,14). Thêm vào với vấn đề này là vô số những luật phạt vạ của Giáo Hội, chưa kể đến một hệ thống chi li những tước phẩm và vinh dự dành sẵn cho những linh mục ngoan ngoãn vâng phục nhất. Thật là một sự xuống cấp của đời sống linh mục khi mà lòng kính sợ chính đáng đối với Thiên Chúa bị thay thế hay bị pha trộn bằng một hệ thống những hình phạt và những hứa hẹn!
B. F. Skinner, một bậc thầy xuất chúng trong việc huấn luyện chuột và khỉ, đã quả quyết rằng con người cũng có thể được huấn luyện như loài chuột và loài khỉ, bằng cách sử dụng một sách lược huấn luyện tương tự bao gồm một sự pha trộn đúng liều lượng giữa những phần thưởng hấp dẫn và những đe loi kinh hoàng. Tôi nghĩ rằng điều đó chỉ đúng cho những kẻ yếu nhược, tầm thường, nhất là khi những kẻ ấy bị niêm trong một hệ thống luân lý nệ luật kết hợp với một nền giáo dục chỉ đề cao chuyện thưởng phạt. Rất tiếc là Skinner không biết gì về một nền thần học và giáo dục luân lý đặt nền tảng trên kinh nghiệm về lòng quảng đại và về tính nhưng không (gratuity). Sẽ thật đáng xấu hổ nếu các vị lãnh đạo Giáo Hội ngày nay không ý thức về – hay không nhạy cảm với – năng lực giải phóng của một đời sống không còn thuộc về luật lệ nữa mà đã thuộc về ân sủng.
Nếu các linh mục được đào tạo bởi loại luân lý ngụy tạo và nệ luật của Rôma và đồng thời bị phơi sườn cho những quyến rũ của danh vọng trong Giáo Hội, thì quả thật họ sẽ phải có một mức tinh sạch phi thường trong ý hướng và một đức tin hết sức mạnh mẽ mới có thể vượt qua những cám dỗ cuồn cuộn lên từ cả bên trong lẫn bên ngoài mình – nhất là khi ảnh hưởng của nền giáo dục thuở thiếu thời của họ càng được củng cố thêm bởi một môi trường Giáo Hội đầy dẫy những cám dỗ của Satan làm cho người ta “sử dụng” tôn giáo và các chức vụ tôn giáo để mưu cầu danh vọng và quyền lực cá nhân.
Cuối cùng, thật không có gì đáng ngạc nhiên khi tại một số vùng trên thế giới vốn còn in đậm dấu ấn của một truyền thống luân lý và một cơ cấu nặng tính thưởng phạt, các linh mục thường bị coi – theo một nghĩa nào đó – là những kẻ lừa bịp, hay nếu dùng từ ngữ nhẹ nhàng hơn thì đó là những “kẻ mắt lác”. Người ta cảm thấy hình như các linh mục luôn luôn qui chiếu đến hệ thống thưởng phạt, với câu hỏi trằn trọc mãi trong tâm trí họ là: Làm như thế này thì sẽ ảnh hưởng ra sao đến uy tín cá nhân và sự nghiệp của mình? Thật đáng buồn, thường thì chỉ sau khi đương sự đã ổn thỏa được mối quan tâm vị kỷ này rồi, thì vấn đề sự thật mới được đặt ra. Cũng may, nhiều linh mục trưởng thành vốn đã từng trải qua chế độ đào tạo cứng ngắt và đầy tính nệ luật song không bị ảnh hưởng sâu đậm lắm, vì họ biết luôn trước hết tham vấn Tin Mừng và nhìn ngắm mẫu gương của Chúa Giêsu và các thánh.
Vì vai trò của linh mục chủ yếu là vai trò nêu chứng tá khả tín, nên điều tối quan trọng là tất cả các cơ cấu Giáo Hội, tất cả các mối quan hệ căn bản trong Giáo Hội, và toàn bộ việc đào tạo luân lý phải khích lệ và thúc đẩy sự trung thực và tinh thuần tuyệt đối. Cố gắng này cũng trùng hợp với nhu cầu khẩn thiết phải phòng tránh sự lan tràn của các tâm bệnh do Giáo Hội. Bất cứ gì có thể gây phương hại đến yêu cầu tuyệt đối về sự trung thực và sự đáng tin cậy của người linh mục đều không bao giờ có thể được dâng lên Thiên Chúa như một hy lễ khả dĩ được Ngài chấp nhận.
Vai trò của linh mục phình ra thái quá
Người linh mục theo mẫu thức Triđentinô, nhất là trong thế kỷ 19, thường bị quá tải bởi quá nhiều vai trò phải đảm nhận và, do đó, phải khốn khổ nhiều. Ông phải là một mục tử tốt, một cha giải tội siêng năng, một vị giảng thuyết có sức lôi cuốn, một ông thầy dạy luật, và đồng thời còn phải là một người điều hành các nghi lễ. Thêm vào đó, ông phải dạy giáo lý, phải quản lý tài sản và tiền bạc của giáo xứ, vân vân và vân vân ... Chỉ có trời mới liệt kê hết các bổn phận của ông.
Một cách thiết yếu, các vai trò được ghi nhận trong lịch sử của giáo hoàng đã được tham chiếu như một nguyên mẫu cho vai trò của ông cha sở ở giáo xứ. Xưa nay giáo hoàng vẫn là giám mục Rôma, thủ phủ của nước Ý và là thượng phụ của Tây phương và của đa số các lục địa. Qua thời gian, các giáo hoàng dần dần dành cho mình quyền bổ nhiệm các giám mục. Trong quyển De Consideratione của Thánh Bernard, một quyển tuyển tập các bài giảng tĩnh tâm cho Giáo Hoàng Eugene III, tác giả thẳng thắn và quyết liệt cảnh cáo mọi sự phình trướng các hoạt động của giáo hoàng:
Suốt ngày con nghe trong dinh thự của Đức Thánh Cha đầy dẫy những tiếng bàn tán rôm rả về luật và luật. Và con chẳng nghe thấy luật nào khác ngoài luật của Hoàng Đế Justinian! Con chẳng nghe gì về thứ luật mà mình thích thú – luật yêu thương. Đức Thánh Cha đã phung phí phần lớn thời giờ cho những vấn đề chính trị. Xung quanh Đức Thánh Cha vây kín những kẻ xu nịnh, dối trá và những người tìm kiếm bổng lộc. Đức Thánh Cha hãy dành thời giờ quí giá của mình để suy niệm và rao giảng Tin Mừng một cách phấn khởi ...
Trong thời đại chúng ta, giáo hoàng đảm nhận công việc bổ nhiệm hầu như tất cả bốn ngàn giám mục trên khắp thế giới và điều hành một bộ máy đồ sộ phụ trách việc bổ nhiệm các nhà thần học và việc giảng dạy của họ trên toàn cầu, không còn bao nhiêu chỗ cho các công việc khác. Giáo hoàng có khuynh hướng trở thành người giám thị toàn thế giới, và gần đây tỏ ra muốn trở thành chính hiện thân của vị thầy dạy luân lý. Như một thể chế quân chủ chuyên chế, hoàn toàn chỉ có giáo hoàng định đoạt chuyện mở rộng ra hay hạn chế bớt mức độ cộng tác của hồng y đoàn hay của thượng hội đồng giám mục. Đây há không rõ ràng là biểu hiệu của sự phình trướng quá mức nơi hàng giáo sĩ đó sao? Sự kiện giáo hoàng ôm đồm quá rộng như vậy có thực sự thăng tiến các ơn gọi linh mục đích thực không? và có giúp người ta nhận thức đúng đắn về chức linh mục và chức giám mục theo nền tảng Thánh Kinh không?
Cũng vậy, chúng ta có thể tự hỏi liệu các linh mục và giám mục ôm đồm trăm công ngàn việc như thế có còn thời gian dành cho việc thường huấn và cập nhật về thần học, tu đức và các khoa nhân văn không? Họ có đủ thời gian cho việc cầu nguyện, cho việc khám phá các phương pháp cầu nguyện và cho việc cố gắng hòa hợp giữa cuộc sống và cầu nguyện không?
NHỮNG VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN
Khi nói về sự độc thân vì Nước Trời, chúng ta phải hết sức cẩn thận để phân biệt giữa độc thân xét như một sự chọn lựa tự do nơi tự thân nó và sự độc thân được chọn lựa như một điều kiện dứt khoát để được truyền chức linh mục.
Những xem xét khẩn trương
Những xem xét xa hơn nữa sẽ giúp chúng ta phân biệt giữa sự chấp nhận tự do đích thực đối với đời độc thân xét như là tiêu chuẩn được kỳ vọng cho chức linh mục của đời tu , đàng khác, sự chấp nhận tự do không chủ yếu cho giá trị và hấp lực nội tại của chính nó - mà bởi vì đó là điều kiện dứt khoát để trở thành một linh mục. Qua quá trình thời gian, sự đồng ý vì luật đòi hỏi nó có thể trở thành một nguồn vui với một nhận thức được đào sâu hơn về ý nghĩa và vẻ đẹp của nó, hoặc đàng khác nó có thể ngày càng trở thành một gánh nặng phải mang.
Mỗi linh mục sống đời độc thân của mình một cách độc đáo trong bối cảnh văn hóa và xã hội riêng của mình. Chúng ta sẽ nhận ra rằng bối cảnh xã hội tại phần lớn các quốc gia ngày nay rất khác biệt với bối cảnh đã tồn tại vào thời mà luật nối kết chức linh mục với đời độc thân xuất hiện trong Giáo Hội.
May mắn
Việc so sánh giữa tình yêu và sự trung thành trong đời hôn nhân đích thực với một đời sống độc thân đích thực sẽ là khởi điểm của tôi cho cuộc thảo luận này, vì tôi tin rằng một đời hôn nhân hạnh phúc là một hình ảnh thích đáng để đối chiếu với một cuộc đời độc thân được sống cách chân thực và thuyết phục.
Vợ chồng Eric và Dorothee, những người bạn của tôi, mời tôi tham dự dịp họ cử hành ngân khánh hôn nhân. Vì tôi không thể tham dự, sau đó Eric đã kể cho tôi mẩu đối thoại giữa anh và vợ anh trong dịp đó. Trước mặt tất cả bạn bè và quan khách, anh nói với vợ: “Thật may mắn em ạ! Hôm nay chúng ta vẫn yêu nhau như chúng ta đã yêu nhau vào ngày đầu tiên của cuộc sống vợ chồng.” Nghe tới đây, vẻ mặt Dorothee sa sầm, và Eric kịp nhận ra mình đã nói tầm phào, anh lập tức đính chính:
Anh xin lỗi vì đã đánh giá chưa đúng về cuộc sống chung giữa chúng ta. Một điều rất rõ ràng là tình yêu của chúng ta đã được đào sâu và trở nên vững chắc hơn. Trong quá trình đó, chúng ta đã học biết chấp nhận những mảng tối của nhau – là cái làm cho ánh sáng trở nên rực rỡ hơn. Qua ngần ấy tháng năm, chúng ta đã giúp nhau xử lý các điểm yếu của mình. Đành rằng khi đi vào cuộc sống chung, chúng ta đã đủ trưởng thành, nhưng quá trình học hỏi đã không phải lúc nào cũng lãng mạn. Chúng ta đã thường cần phải xin nhau sự thứ tha. Và tình yêu của chúng ta đã lớn lên biết bao khi chúng ta chia sẻ nó với bốn đứa con của mình, nhất là trong quá trình học hỏi hết sức thiết yếu để nuôi dạy Gerald, đứa con trai bệnh hoạn tội nghiệp của chúng ta. Cám ơn em thật nhiều, Dorothee! Ngay từ đầu, em đã sẵn sàng tín nhiệm vào anh – và em vẫn luôn luôn sẵn sàng tín nhiệm như thế trong quá trình cả hai chúng ta ngày càng khám phá nhiều hơn về các tiềm năng bên trong của mình. Chúng ta hãy hy vọng rằng, trong những năm sắp đến, tình yêu của chúng ta sẽ tiếp tục lớn lên, tiếp tục sinh hoa trái và chín muồi.
Những ý tưởng tuyệt vời ấy của anh bạn tôi đã thường xuyên thúc đẩy tôi suy tư về cách sống và cách yêu đời độc thân của chính mình trong và xuyên qua tình yêu không ngừng lớn lên của Đức Kitô. Tôi cảm nghiệm Đức Kitô đã diễn tả tình yêu của Ngài đối với tôi một cách vô cùng quảng đại và kiên nhẫn. Rõ ràng chính bởi tình yêu mà Thiên Chúa đã chọn tôi vào đời sống linh mục, và tôi có thể chân thành nói rằng cũng chính bởi tình yêu mà tôi đã đáp trả lại tiếng gọi ấy. Chắc hẳn hơn cả Eric và Dorothee, tôi đã phải học biết loại tình yêu này đòi hỏi những gì và bao hàm những gì. Đó là một quá trình học tập lâu dài, và tôi hoàn toàn nhận ra rằng quá trình này phải tiếp tục. Tôi vuốt ve hy vọng rằng tôi sẽ luôn luôn là một học trò chăm chỉ, biết mở ra đón nhận những ý tưởng mới và những khả năng mới. Tạ ơn Chúa vì trên đường mình đi tôi đã không có một khủng hoảng nghiêm trọng nào, nhưng chắc chắn đã có nhiều lỗi lầm và thiếu sót. Cho phép ngọn lửa của Thánh Thần thanh luyện các động cơ của mình và, đồng thời, đánh thức trong mình một tinh thần khiêm tốn và quảng đại sâu xa hơn, tôi cảm nghiệm thấy việc đó đã không phải bao giờ cũng “du dương lãng mạn”.
Chỉ dần dần tôi mới nhận biết rằng Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, đã gặp gỡ và đã trắc nghiệm mình nhất là qua những con người trong hoàn cảnh khốn khổ, chẳng hạn những người li dị – họ chìm đắm trong bao nỗi khó khăn, họ phải chịu đựng bao thái độ phê phán và bài xích, ngay cả từ phía Giáo Hội. Mặc dù nay tôi đã luống tuổi, tôi vẫn ý thức rằng mình chỉ là một học trò bé bỏng mà thôi.
Sống độc thân và yêu thương trong tư cách một con người độc thân trong thế giới hôm nay là một công việc chỉ có thể đảm nhận trôi chảy khi chúng ta đặt sự tín thác của mình không phải vào chính mình mà vào chỉ một mình Thiên Chúa, và biết không ngừng mở lòng ra đón nhận sự hướng dẫn của Mầu Nhiệm Thánh.
Cám ơn các bạn, Eric và Dorothee, vì đã tặng cho tôi một bài học tuyệt vời! Mong sao bài học này sẽ sinh hoa kết quả trong đời tôi và trong đời nhiều bạn bè linh mục độc thân của tôi!
Bất chấp những khó khăn
Có lần tôi giảng tuần đại phúc cho những người tị nạn. Vài ngày đầu, trong số những người lớn đến tham dự chỉ có một người là đàn ông. Không rõ vì lý do gì, những người đàn ông khác trong thị trấn hứa với nhau rằng họ sẽ không đến nghe giảng. Tò mò muốn tìm hiểu, tôi gặp đôi vợ chồng duy nhất vốn vẫn đến tham dự một cách đều đặn và sốt sắng. Trong cuộc trao đổi ấy, người vợ đã kể cho tôi nghe câu chuyện riêng của chị. Hồi còn là một thiếu nữ, chị từng có ý định trở thành một nữ tu, nhưng rồi chị gặp Robert và phải lòng anh ấy. Bị giằng co trong lòng, chị gặp cha giải tội và thố lộ nỗi băn khoăn: “Thưa cha, giữa hai đàng: trở thành một nữ tu và chinh phục một người đàn ông về với đức tin, đàng nào sẽ đẹp lòng Chúa hơn?” Chị tin chắc rằng mình sẽ thuyết phục được Robert một cách khá dễ dàng, vì anh ta là một chàng trai thật sự tuyệt diệu. Quả vậy, chị đã hoàn toàn thành công trong việc đó.
Chính nhờ những cố gắng của người chồng rất có khả năng và giàu nhiệt tâm của chị mà chúng tôi đã có thể lôi kéo được hầu như tất cả nam giới Công Giáo của thị trấn ấy đến với tuần đại phúc. Người vợ tuyệt vời của anh đã bắt đầu bằng một cú liều lớn, và chị đã gặt hái được gấp trăm. Điều tương tự cũng đúng đối với nhiều người trẻ cảm thấy viễn tượng sống độc thân suốt đời là một cú liều. Nếu các linh mục thật sự yêu mến Thiên Chúa và đoàn dân của Ngài, trong đó gồm cả những con người khó khăn và khốn khổ nhất, tại sao họ không dám liều và – trong ý thức về những giới hạn của con người mình – mạnh dạn xin được giải chức trong trường hợp họ nhận ra rằng mình không thể sống độc thân được nữa?
Một số người trẻ rất nhiệt thành với Thiên Chúa và rất say mê việc chinh phục người ta cho Thiên Chúa, nhưng họ không thích thú với đời độc thân, nhất là nếu họ sợ sự nguyền rủa của những kẻ khác và lo ngại khả năng mình có thể bị đối xử tệ hại trong trường hợp mình không sống cuộc đời độc thân một cách trung thành. Những người trẻ này phải có đủ can đảm để tự mình mạnh dạn chọn lựa. Không ai có thể nói cho ai khác biết sự chọn lựa ấy liều lĩnh như thế nào.
Tuy nhiên, cần ghi nhận một điều ở đây. Trong một số trường hợp cha giải tội hay người tư vấn có thể phải vạch rõ rằng cú liều ấy có thể quá không cân xứng. Mặt khác, người ta sẽ dễ dàng hơn và yên tâm hơn để quyết định chọn lựa cú liều ấy nếu những người cầm quyền trong Giáo Hội có cái nhìn cảm thông hơn khi xảy ra trường hợp có những linh mục – ở mọi độ tuổi - dù nỗ lực hết sức mình nhưng vẫn đến lúc nhận ra rằng mình không thể luôn luôn sống đời độc thân cách trọn vẹn.
Từ kinh nghiệm giảng dạy và giúp tĩnh tâm cho hàng ngàn linh mục trên khắp thế giới, tôi được biết rất nhiều linh mục là những người sau một thất bại ban đầu đã có thể sống đời độc thân linh mục một cách khiêm tốn và nhiệt thành thực sự. Cũng như trong hôn nhân, sự dấn thân sống đời độc thân thường sẽ mãnh liệt hơn, hạnh phúc hơn và đích thực hơn sau một cơn khủng hoảng.
Có nhiều linh mục thực sự rút ra được hạnh phúc từ cuộc sống độc thân (chứ không phải họ vẫn hạnh phúc được dù họ sống độc thân!) Cũng có nhiều linh mục rất hạnh phúc trong đời độc thân song họ có thể còn hạnh phúc hơn nữa và rực sáng hơn nữa nếu như họ được phép kết hôn hoặc nếu như họ đã được truyền chức trong tư cách là những người kết hôn. Có những linh mục có những phẩm chất nhân bản và tôn giáo tuyệt vời song lại gặp rắc rối về những vấn đề tính dục, chẳng hạn chuyện thủ dâm – một khó khăn mà họ không thể vượt qua, bất chấp bao nỗ lực lớn lao mình đã thực hiện; những linh mục này càng khốn đốn hơn nữa do bởi thái độ bi thảm hóa một cách quá quắt của Giáo Hội đối với vấn đề thủ dâm. Thường thì thủ dâm không phải là một vấn đề luân lý chút nào cả, mà đúng hơn đó là một vấn đề tâm lý và có liên quan đến hoóc-môn.
Nếu các linh mục được giúp đỡ một cách thuyết phục để bớt bi kịch hóa những khó khăn của họ, họ có thể ngạc nhiên nhận ra rằng mình dần dần trở nên được tự do trọn vẹn. Ngay cả dù điều đó không xảy ra, họ vẫn có thể trở thành những linh mục tuyệt vời. Một số linh mục thực sự trở thành những linh mục và những nhà chữa trị tuyệt vời chính nhờ các vấn đề mà họ phải đương đầu và đang cố gắng vượt qua. Trong sự hiểu biết và chấp nhận hoàn toàn những yếu đuối của mình, họ trở nên khiêm tốn hơn, cảm thông hơn và nhân hậu hơn đối với những người yếu đuối khác. Tôi cho rằng nhiều người trẻ rất có thể sẽ sẵn sàng hơn để chọn lựa đời linh mục độc thân nếu như vấn đề thủ dâm không bị thổi phồng và hiểu sai một cách quá đáng.
Trái lại, một linh mục sống thành công đời độc thân của mình và có tài năng về giảng dạy, tư vấn ... vẫn có thể bị cám dỗ nếu không bởi tính kiêu hãnh thì cũng bởi lòng tự tôn. Khi lòng tự tôn này phát triển ngày càng lồ lộ hơn, vấn đề của ông thậm chí có thể trở thành nghiêm trọng hơn nữa: ông dễ dàng tiến tới chỗ tự mãn.
Một linh mục vui tính và cởi mở nọ có lần kể cho tôi nghe cách mà anh ta giải quyết được tính tự tôn nơi mình. Anh giải thích cho giáo dân của mình rằng việc phê bình một cách trung thực thẳng thắn là một nhân đức, và anh cho họ biết rằng lúc nào họ cũng có quyền – thậm chí có bổn phận – phê bình chủ chăn của họ, đó chính là một hành vi bác ái. Một giáo dân, thấm nhuần những lời đó của anh, đã gặp anh vào Chúa Nhật sau đó và nói: “Thưa Cha, nghe bài giảng của Cha, con cứ tưởng như mình đang nghe chú gà trống của Thánh Phê-rô đang gáy bài ca tự khoe khoang mình bằng những ngôn từ hoa mỹ.” Anh bạn của tôi nói rằng anh bị sốc kinh khủng bởi câu nói ấy, song anh cho biết cũng chính nhờ đó mà anh đã bước xuống khỏi đỉnh núi cao ngạo của mình. Trong câu chuyện này và trong những câu chuyện tương tự khác, tôi tin rằng điều mà nhiều linh mục có thể rút ra là rằng dù gì đi nữa thì mọi sự cũng đã diễn tiến tốt đẹp.
Độc thân trong so sánh với một cuộc hôn nhân vô hiệu
Chỉ trong vài thập niên gần đây các chuyên viên giáo luật và luân lý mới khám phá thấy và chấp nhận sự kiện rằng rất nhiều cuộc hôn nhân trong Giáo Hội có thể được tuyên bố là vô hiệu bởi vì, ngay từ đầu, những mối kết hợp này tự bộc lộ cho thấy là quá yếu ớt và bệnh hoạn đến nỗi chẳng có mấy cơ hội thành công, ngay cả khi một trong hai hoặc cả hai bên đều có ý hướng ngay lành. Mặc dù những đôi bạn này được thấy cũng bình thường thôi, song trong tính tình, cảm nghĩ và những khía cạnh quan trọng khác, họ quá khác biệt nhau đến độ hoàn toàn lạ lẫm, và rõ ràng họ không thể nào vượt qua được những phản ứng “dị ứng” đối với nhau. Đành rằng chúng ta không phủ nhận những khác biệt thường là yếu tố giúp cho người ta nên phong phú, song chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một số khác biệt quá lớn đến nỗi việc sống chung với nhau suốt đời chỉ làm cho đôi bạn thành bệnh hoạn kinh niên. Từ lâu rồi, Giáo Hội Chính Thống đã nhận ra rằng điều này hoàn toàn có thể xảy ra, và rằng những cuộc hôn nhân ấy có thể không những được coi như đã chết mà thậm chí có thể được coi là không thành sự ngay từ đầu.
Cũng vậy, điều tương tự có thể xảy ra - và đã rất thường xảy ra - trong đời sống độc thân không xì-căng-đan hoặc ít nhất là không có xì-căng-đan nghiêm trọng. Làm sao một chàng trai hai mươi ba tuổi có thể thấy trước được hết mọi vấn đề khó khăn thực tế xung quanh đời sống độc thân của một ông cha sở? Vấn đề càng khó hơn nữa khi chàng trai này vốn được niêm kín trong hàng rào của tiểu chủng viện và đại chủng viện, hoàn toàn cách ly khỏi cuộc sống bên ngoài.
Tất cả chúng ta đều từng biết những câu chuyện đại loại như một linh mục tốt lành đáng kính nào đó bỗng dưng làm mọi người phải ngạc nhiên khi ông xin được giải chức – tức ‘hồi tục’, theo cách nói vẫn còn rất phổ biến ngày nay. Trong một số trường hợp, đây không phải là vấn đề độc thân mà đúng hơn đây là một kinh nghiệm thương tổn thâm sâu mà tôi xin đặt cái tên là “tưởng vậy nhưng không phải là vậy”. Xin kể ở đây một trường hợp – chắc hẳn không phải là một trường hợp hi hữu.
Tại bữa ăn chung vào ngày Lễ Giáng Sinh, ông cha sở độc đoán nọ mắng xối xả anh linh mục phụ tá hai mươi chín tuổi của mình vì linh mục trẻ này duỗi thẳng hai cánh tay khi đọc lời nguyện - (anh bắt chước điều này nơi một vị hồng đáng kính). Cha sở nói: “Anh sẽ biết tay tôi nếu anh còn tiếp tục làm gương xấu qua việc bất tuân phục các qui luật thánh của phụng vụ.” Một cách từ tốn, anh linh mục trẻ lên tiếng: “Bất tuân phục như đức hồng y, giám mục giáo phận chúng ta, phải không thưa cha?” Câu nói đó quá đủ để cho cha sở lồng lộn lên, ông phồng mang trợn mắt quát: “Bổn phận của anh là phải tuân phục luật lệ của Giáo Hội, chứ không phải là bắt chước một hồng y. Anh chỉ là một linh mục phụ tá quèn. Anh không là cái thá gì cả, anh hiểu không?”
Chiều tối hôm ấy, gặp lại nhau chỗ chân cầu thang, cha sở lại xả cơn hằn học của mình lên cha phụ tá một lần nữa. Vài năm sau, anh linh mục trẻ này cho tôi biết rằng đó chính là buổi tối mà anh thủ dâm lần đầu tiên – không phải để tìm khoái cảm mà chỉ như một cách bày tỏ nỗi chán nản tột cùng. Rồi, vì anh còn tiếp tục sống ở đó nên những cuộc ‘đụng độ’ với cha sở vẫn còn tiếp tục - thế là, anh tiếp tục thủ dâm theo với đà leo thang của nỗi chán nản trong lòng mình. Anh tìm sự giúp đỡ của một nhà tâm lý trị liệu; qua trao đổi, vị y sĩ này xác quyết rằng anh cần được giải phóng khỏi môi trường ngột ngạt và độc hại ấy. Vị y sĩ khuyên anh xin giải chức, giải thích rằng đó là điều kiện tiên quyết để mong có cơ hội chữa trị vấn đề của anh.
Nhiều năm sau đó nữa, tôi gặp lại anh. Lúc này anh đã kết hôn với một phụ nữ duyên dáng và đã có những đứa con kháu khỉnh. Hơn nữa, anh kể rằng anh đang tham gia tích cực vào giáo xứ trong tư cách một giảng viên giáo lý. Quả thật, cả gia đình anh toát ra một tinh thần nhiệt tâm truyền giáo, và cả nhà đều hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn trằn trọc băn khoăn rằng biết đâu chức linh mục và đời độc thân của anh đã không bị đánh mất, nếu như anh không vướng phải những kinh nghiệm nghiệt ngã ấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu như anh đã được trao cho cơ hội sống với những linh mục tốt lành, những linh mục biết giúp nhau nên phong phú bằng cách chấp nhận tính cách riêng của mỗi người? Vô số người xung quanh chúng ta, kết hôn hay độc thân, đã từng là nạn nhân của những thương tổn tương tự – duy chỉ vì những dị ứng đối với sự khác biệt trong cá tính.
Luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo Rôma qui định rằng độc thân là cửa ngõ duy nhất để bước vào chức linh mục thừa tác. Một luật như thế thật độc hại cho nhiều người do bởi kinh nghiệm của họ về một “Giáo Hội khác”, cắm rễ trong những cơ cấu độc đoán và in đậm dấu những thái độ tiêu cực, những phán xét và những pháp chế từ trên cao ban xuống. Ở đây tôi không thể không nói lên quan điểm của mình đối với cách giải quyết trong trường hợp các linh mục xin được giải chức – một cách giải quyết rất giống với (đôi khi còn căng hơn) cách giải quyết được áp dụng cho những người li dị. Nói tắt, đó là cách giải quyết quá hà khắc!
Tôi đã có dịp trao đổi với Giáo Hoàng Phao-lô VI về vấn đề này; và tôi nhận ra rằng ngài hết sức nhạy cảm đối với vấn đề. Thậm chí ngài đã gửi các linh mục có chuyện rắc rối đến gặp tôi để được tư vấn. Hơn nữa, ngài hứa sẽ xướng xuất những thay đổi. Cho tới lúc bấy giờ, thỏa ước giữa Tòa Thánh với chính phủ Ý qui định rằng những linh mục hồi tục để kết hôn sẽ không được chính phủ cung cấp việc làm. Theo quan điểm của Giáo Hội, một linh mục đã kết hôn và có con cái chỉ có thể được nhận vào hiệp thông với Giáo Hội khi đương sự cung cấp được bằng chứng rằng mình tiết dục hoàn toàn, sống chung với vợ chỉ như anh em thôi. Nếu vị linh mục này ‘xé rào’ dù chỉ một lần, đương sự sẽ mắc vạ và phải được thẩm quyền Tòa Thánh Rôma giải quyết. Giáo Hoàng Phao-lô VI đã có những thay đổi dứt khoát về vấn đề này.
Ngay đầu triều đại của mình, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã áp dụng một biện pháp nghiêm ngặt hơn nhiều so với vị tiền nhiệm. Theo chỗ tôi ghi nhận, các kết quả chỉ có bi đát hơn chứ không khích lệ chút nào. Thật vậy, người ta nhận thấy nhiều cựu linh mục kết hôn theo thủ tục dân sự hay thậm chí chỉ sống chung với người ‘bạn’ của họ mà không hề có hôn thú theo pháp luật. Một sự kiện khác cũng nghiêm trọng không kém, đó là tôi nghe một số bạn trẻ nói rằng họ không còn có đủ can đảm để lãnh chức thánh và sống đời độc thân linh mục bởi vì họ sợ sẽ gặp lôi thôi lớn nếu chẳng may sau này họ khám phá ra rằng mình thực sự không thể sống độc thân được.
Hai nẻo đường khác biệt
Về mối ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, của độc thân, và – quả thật - của toàn bộ đời sống Kitôhữu, có hai cách nhận hiểu và thực hành rất khác biệt. Một là nẻo đường của Tin Mừng, từ lăng kính này Thánh Phao-lô nhìn thấy mọi sự trong nhãn giới của ân sủng Thiên Chúa. Nẻo đường thứ hai là nẻo đường thiên lệch về luật, về sự giữ luật và sự kiểm soát bởi luật.
Hôn nhân, như được hiểu từ viễn tượng ân sủng, có nghĩa là tín thác rằng Thiên Chúa sẽ ban ơn giúp sức cho người ta để họ dám dấn thân vào giao ước hôn nhân trong viễn tượng trung thành suốt đời với giao ước ấy. Ngay cả trong trường hợp gặp những khó khăn và trắc trở, người ở trong giao ước hôn nhân vẫn không bỏ cuộc. Nói đúng hơn, cũng như Thiên Chúa tiếp tục không ngừng tín nhiệm trước đối với đôi bạn, đôi bạn được mời gọi thể hiện cùng một sự quảng đại và lòng tín nhiệm như thế. Sự tha thứ của Thiên Chúa được thực hiện bởi việc người ta kêu xin và sẵn sàng cung ứng sự tha thứ về những lỗi lầm và những vấp ngã của nhau. Chỉ khi một cuộc hôn nhân trở nên rõ ràng không còn là một con đường cho hai người chia sẻ ơn cứu độ nữa và trở thành mối nguy hại lớn cho tính thống nhất và sự lành mạnh của cá nhân thì lúc ấy hai người mới có thể chia tay – dĩ nhiên vẫn không bao giờ đánh mất niềm hy vọng rằng rồi sẽ đạt được sự tha thứ lẫn nhau.
Trong khi đôi bạn không nên bước vào giao ước hôn nhân một cách nông nổi hay một cách tùy tiện, thì sự thành công vẫn không hoàn toàn được bảo đảm ngay cả trong trường hợp họ đã quyết định một cách đầy cân nhắc. Bất chấp ý hướng ngay lành vào ban đầu, có thể rồi đến một ngày đôi bạn khám phá ra rằng mối kết hiệp giữa họ đã đổ vỡ không thể hàn gắn được. Ngay cả lúc ấy, hay phải nói đặc biệt là lúc ấy, cả hai người cần biết tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa, Đấng luôn rộng ban cho họ khả năng bắt đầu lại và khích lệ họ xem xét lại toàn cục vấn đề để tìm ra giải pháp tốt nhất có thể.
Từ nhãn giới nệ luật, hôn nhân được đặt nền trên một cái nhìn có tính khế ước rằng đó là một bí tích ràng buộc vĩnh viễn, và sự ràng buộc vĩnh viễn này được tất định chiếu theo luật. Ngay cả khi rõ ràng một cuộc hôn nhân đã đổ vỡ và hoàn toàn không thể sửa chữa gì được, “bí tích” có tính khế ước ấy vẫn treo trên đầu hai người như thanh gươm của Damocles. Cách diễn giải này về bí tích đã đến lúc cần phải được dứt khoát loại bỏ.
Sự độc thân, như được hiểu từ viễn tượng nệ luật, có thể dẫn đến hiện tượng đối xử với một linh mục vấp ngã như thể anh ta là một kẻ phản bội hay là một kẻ cùi hủi, thế nhưng vẫn cương quyết buộc anh ta tiếp tục làm một linh mục chiếu theo luật – ngay cả khi sự việc cho thấy rành rành rằng luật không hề cứu anh ta. Trái lại, luật ấy không chỉ làm thương tổn anh ta, mà còn có thể hủy diệt anh ta nữa.
Tuy nhiên, nếu theo quan điểm đích thực của Thánh Phao-lô, chúng ta nhận thức đúng đắn rằng mọi Kitôhữu không còn ở dưới chế độ Lề Luật nữa, nhưng là thuộc về ân sủng, thì một người cảm thấy mình được mời gọi sống đời linh mục độc thân sẽ đặt trọn niềm tín thác vào ân sủng Thiên Chúa, sẽ sống đời sống thấm đẫm cầu nguyện, sẽ bước đi một cách sáng suốt, sẽ không ngừng tỉnh thức. Tuy nhiên, chúng ta không thể loại bỏ khả năng rằng rồi một ngày nào đó, rõ ràng độc thân được thấy không phải là ơn gọi của đương sự. Trong trường hợp này, đương sự nên được ân cần khích lệ xin giải chức mà không chút lo sợ bị Giáo Hội trù dập hay khinh miệt.
Một thoáng nhìn qua hàng ngàn năm truyền thống Phật giáo sẽ có thể hữu ích cho chúng ta trong vấn đề này. Trong khi các phật tử rất đề cao đời sống độc thân, họ cũng hiểu rằng trừ một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ, người ta sẽ không bao giờ đưa ra một lời cam kết không thể rút lại. Theo một truyền thống Phật giáo, sự độc thân được sống tạm thời trong một giai đoạn được coi như là một chuẩn bị tốt cho cuộc sống hôn nhân sau này. Đành rằng tôi không hề đề xuất việc bắt chước cách thực hành này, tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên có một cái nhìn mới mẻ hơn và nhân văn hơn về truyền thống của chúng ta, nhất là khi các hoàn cảnh lịch sử đang thay đổi một cách rất thâm sâu và nhanh chóng.
Độc thân trong bối cảnh lịch sử
Nhà khoa học lừng danh Marcel Légaut, một trong nhiều người tự nguyện chọn sống đời độc thân, đã hùng hồn nhắc cho Giáo Hội ấy rõ giá trị và hoa quả của sự độc thân vì Nước Trời. Những hoa quả này càng được gặt hái rõ rệt hơn nếu người ta lưu ý đầy đủ đến toàn bộ bối cảnh trong đó cuộc sống độc thân được thực hiện. Tuy nhiên, ông cũng xác nhận – và tôi đồng ý - rằng không bao giờ được phép hiểu những luật liên quan đến các đặc sủng đặc biệt như là cái gì có tính vượt thời gian, cơ hồ như chúng là một thực tại trên trời, nằm ngoài cảnh vực lịch sử không ngừng thay đổi.
Độc thân linh mục như một biển báo trên đường
Sự độc thân linh mục – được sống một cách trung thành và vui tươi – có thể là một sự giúp đỡ và là một biển báo trên đường cho những ai, vì hoàn cảnh nào đó của cuộc sống, bị buộc phải sống độc thân, ngay cả dù họ không tự nguyện chọn lựa như thế. Tôi nghĩ đến những người li dị và rất nhiều người, nam cũng như nữ, sống đời sống độc thân hoặc bởi vì không có cơ hội để kết hôn hoặc vì những khó khăn về sức khỏe không cho phép họ lập gia đình. Cảm thông với những người không thể kết hôn – đó có thể là một cách giúp củng cố niềm khao khát nhận hiểu sâu sắc hơn tiếng gọi độc thân của chính chúng ta. Hơn nữa, chúng ta có thể học được nhiều điều từ những người độc thân đã biết chấp nhận cuộc sống không do mình chọn lựa, và những người đã khám phá ra không chỉ cách tạo ý nghĩa cho đời độc thân của mình mà cả cách để sống đời độc thân của mình một cách đầy hiệu quả.
Trong cuộc chiến tranh trước đây ở Nga, một linh mục đứng tuổi thuộc Giáo Hội Chính Thống Nga đến gặp tôi để xin giúp đỡ - vì ông bị bệnh. Sau khi chào ông, tôi hỏi ông câu hỏi xã giao: “Ngài và bà nhà vẫn khỏe chứ?” Ông trả lời: “Vợ tôi đang ở trên trời; và tất cả các con tôi cũng không còn. Bây giờ tôi sống hoàn toàn một mình – một mình với Chúa và cho Chúa.” Khuôn mặt ông rạng rỡ khi ông thốt lên những lời đó, một cách hết sức đơn sơ chân thành đến nỗi tôi không nén được niềm cảm kích sâu sắc. Tôi nghĩ rằng đó là bài giảng ngắn nhất và tuyệt vời nhất trong tất cả những bài giảng mà mình nghe được về ơn gọi độc thân của mình.
Nếu các linh mục chúng ta, với ơn Chúa, có thể sống đích thực đời độc thân của mình, thì tự thân điều đó có thể là một sứ điệp không lời song đầy sức tác động đối với nhiều người phải sống độc thân vì họ không có sự lựa chọn nào khác. Thế nhưng, việc suy tư về ý hướng này và về giá trị của sự độc thân mà thôi thì không đủ. Sự độc thân phải đẩy ta tới nhiệt tình cao hơn và sáng kiến mới mẻ hơn để nâng đỡ những con người độc thân, nam cũng như nữ, bằng hết sức mình. Ít nhất, chúng ta cũng phải khích lệ họ sống cuộc sống của họ một cách hiệu quả hơn - bằng cách giúp họ cảm nghiệm được sự nâng đỡ của cộng đoàn, nhất là bằng cách tạo các cơ hội cho họ phát triển những tình bạn vững bền và đầy ý nghĩa.
 Độc thân và các vấn đề dân số
Có một mối nối kết rõ rệt giữa sự độc thân và vấn đề dân số. Tôi sẽ đề cập đến hai khía cạnh có liên hệ đến luật độc thân linh mục. Vào thời mà việc thực hành độc thân và luật độc thân được thấy là điều rất tự nhiên và phổ biến, thì tình trạng đông dân số chưa phải là một vấn đề. Con số gia đình thời đó cũng không nhiều, và con số ấy không dễ tăng lên như trong thời đại công nghiệp và đô thị hóa. Các gia đình quí tộc, trung lưu và nhất là các gia đình thuộc tầng lớp nghèo cảm thấy sung sướng khi con cái họ chọn đời sống trong cộng đoàn tu trì có lời khấn hay chọn trở thành linh mục triều hoặc dòng. Mặc dù đông dân số không phải là một vấn đề, nhưng các điều kiện kinh tế lại khiến cho một số người không thể cưới vợ. Thường đây là tình trạng của đại đa số các gia đình lớn. Kết quả là, một đời sống độc thân trong các gia đình lớn được chấp nhận như chuyện bình thường trong xã hội, và chắc hẳn rằng đời sống độc thân linh mục đã đóng góp tích cực vào chiều hướng chấp nhận ấy.
Trong thế giới ngày nay, tình trạng đông dân số rõ ràng là một vấn đề ngày càng gay cấn. Trước hết, đây là vấn đề bảo toàn các điều kiện trên hành tinh chúng ta để sự sống có thể tiếp tục. Nói cho ngay, cái đang lâm nguy nhất là chính trái đất này; và sự sống còn của trái đất này là điều kiện cần trước hết để nâng đỡ mọi dạng sự sống. Những ai tự nguyện đảm nhận đời sống độc thân vì Nước Trời thì cũng đồng thời đang đóng góp một cái gì đó cho thiện ích chung.
Các vấn đề dân số có thể có một ảnh hưởng rất lớn đối với việc tuyển người vào đời sống độc thân linh mục hoặc tu sĩ. Trong những điều kiện hiện nay của xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp Tây phương, quyền kết hôn được xem như một trong những quyền căn bản nhất của con người. Tuy nhiên, nền văn hóa hiện đại, nhận thức được các vấn đề gắn liền với tình trạng đông dân số, có khuynh hướng ủng hộ mô hình gia đình chỉ với một hay hai con. Trong một xã hội với những gia đình nhỏ như vậy thì hẳn nhiên việc tuyển người vào chức linh mục sẽ gay go hơn rất nhiều so với trong quá khứ.
Trong bối cảnh những khó khăn về dân số hiện nay, ta thấy rất đáng ghi nhận một số kiểu sắp xếp của thời trước. Một mô hình đã từng có thời rất quen thuộc, đó là ông cha sở sống với bà mẹ góa bụa và một vài chị em gái của ông trong nhà xứ – không chỉ đơn thuần là để họ giúp việc nội trợ, mà nhất là để cha sở có bầu bạn, có một bầu khí gia đình. Cũng không nên nghĩ rằng những chị em gái này tự nguyện từ khước đời sống hôn nhân để phụ giúp cho người anh (hay em trai) linh mục của mình. Thường thì đấy chỉ là vấn đề hoặc chọn đi tu hoặc chọn phụ giúp các linh mục bởi vì đương sự không có cơ hội để kết hôn. Ngày nay, dĩ nhiên, hiếm khi người ta còn gặp thấy một mô hình như thế.
Hơn hai mươi năm cách đây, khi tôi giảng dạy cho các giáo sĩ ở Malta, tôi nhận ra rằng ở đó có một truyền thống các linh mục sống tại gia đình cha mẹ mình. Họ vô cùng thoải mái và “tự nhiên như ở nhà”! Mô hình này có một hiệu ứng phụ, đó là các linh mục cảm thấy nỗi mất mát lớn lao khi phải rời bỏ gia đình để đi phục vụ Tin Mừng tại một nước khác.
Lần nọ tôi ghé thăm một giám mục ở Ý, tôi rất ngạc nhiên nhận thấy vị giám mục này không có một người giúp việc nào cả. Chính ngài phải tự sửa soạn bữa điểm tâm. Tôi hỏi tại sao như thế; vị giám mục trả lời rằng mặc dù ngài có đủ khả năng để thuê mướn một người giúp việc, nhưng ngài quyết định không làm thế, vì đa số các linh mục của ngài không có khả năng này. Rồi, tiếp tục khen ngợi các linh mục của mình, ngài nói rằng nhiều người trong họ sống rất cô độc và dành vô số thời giờ ngồi trước ti-vi.
Một chuyển biến văn hóa khác có liên hệ đến sự độc thân là một chuyển biến về triết học. Dưới ảnh hưởng các trường phái triết học khắc kỷ và Platon cổ xưa, đời sống kết hôn được xem như một cái gì hạ cấp, trong khi đó việc tiết dục được đánh giá là cao trọng. Một cách lệch lạc, truyền thống Augustin hậu thuẫn cho quan điểm này, về sau trở thành giáo huấn luân lý. Ngày nay, rất may là tất cả thế giới Kitô giáo và đa số các nền văn hóa khác có một cái nhìn đúng đắn và lành mạnh hơn về tính dục của con người, xuất phát từ nhãn quan tôn giáo hay những nhãn quan nhân văn khác.
Một triết học hay một khoa tâm lý một chiều nhấn mạnh đến sự thành toàn cá nhân thì hầu như không tìm thấy ý nghĩa trong việc tiết dục. Dĩ nhiên, độc thân được hiểu trong ánh sáng đức tin thì rõ ràng không chỉ là vấn đề tiết dục. Trước hết, đó là niềm vui trong Chúa, cùng với lòng quảng đại phục vụ Tin Mừng vì ích lợi của dân Thiên Chúa, điều này sẽ trao ý nghĩa thâm sâu hơn cho sự tiết dục, qua đó làm cho nó trở thành một kinh nghiệm tích cực. Tuy nhiên, chỉ những người có đức tin sâu xa mới nhận ra được điều này.
Tìm kiếm các giải pháp
Không có giải pháp đơn giản nào cho những vấn đề phức tạp, nhưng người ta có thể vạch ra một số con đường để cố gắng vượt qua chúng. Một con đường như thế có liên quan đến vấn đề thời sự về tình bạn giữa các linh mục ở các giáo xứ gần nhau. Tôi biết một số linh mục tham gia những nhóm linh đạo như phong trào Focolare, một phong trào theo mẫu thức của Bartholomew Holzhauser. Những linh mục này chọn sống trong những cộng đoàn nhỏ gồm ba hay bốn người, và thậm chí họ được khích lệ bởi các giám mục vốn ủng hộ mô hình này bằng cách sắp xếp cho họ làm mục vụ tại các giáo xứ gần nhau.
Cách đây ít lâu, tôi giảng tĩnh tâm cho hai mươi linh mục vào dịp lễ ngân khánh của họ và tôi nhận ra rằng tình bạn giữa họ thật tuyệt vời. Tôi rất phấn khởi khi nghe rằng từ khi thụ phong linh mục, năm nào họ cũng tổ chức một tuần đi nghỉ hè và cầu nguyện với nhau.
Một linh đạo xây dựng cộng đoàn
Đối sách tốt nhất cho mối nguy hiểm của sự cô độc là một linh đạo hướng nội dựa trên giáo huấn vững chắc của Thánh Gioan Tác Giả Tin Mừng và Thánh Phao-lô – “Đức Kitô ở trong chúng ta, chúng ta ở trong Đức Kitô.” Nếu hiểu đúng, nhãn quan linh đạo này không dính dáng gì tới chủ nghĩa thoát ly thực tế. Cảm nghiệm Đức Kitô ở trong mình một cách sâu sắc, điều đó sẽ mở ra một chân trời kỳ diệu cho một tình bạn mở rộng ra với tất cả. Đức Kitô, Đấng ở trong tôi, yêu tôi và được tôi yêu, sẽ giúp tôi có thể tháp nhập với Ngài trong tình yêu của Ngài đối với tất cả anh chị em tôi. Tình yêu và lòng quan tâm của tôi dành cho họ chính là tình yêu của Đức Kitô trong và xuyên qua tôi. Và đến lượt họ, sự đáp trả đầy yêu thương của họ là một phần của chính tình yêu Đức Kitô đối với tôi và đối với họ.
Thật rõ, mầu nhiệm thâm sâu này là một cái gì lớn lao ngàn trùng - chứ đây không duy chỉ là vấn đề liệu pháp chống lại nỗi cô độc. Tuy nhiên, mối nguy hiểm thật sự của cô độc tự nó cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra và nếm cảm những tinh túy của một linh đạo Thánh Thể. Các vị chủ tọa tại các buổi cử hành Thánh Thể cần phải thực hiện được cuộc khám phá và cảm nếm này. Cũng rất cần thiết việc họ phải mời gọi những người tham dự tự khám phá ra ý nghĩa ấy trong linh đạo xây dựng cộng đoàn, một linh đạo luôn luôn tiên vàn được thúc đẩy bởi Thánh Thần, Đấng đưa dẫn ta vào mầu nhiệm Thánh Thể kỳ diệu. Như thế, độc thân không được cảm nhận như một hình thức tách ly khỏi các tín hữu. Trái lại, độc thân - được thể hiện như “sự sống trong Đức Kitô” và “tình yêu trong Đức Kitô” - chính là chóp đỉnh và trung tâm của đời sống độc thân linh mục.
Sự mật thiết tuyệt diệu này của sự sống trong Đức Kitô là phản đề hoàn toàn đối với tinh thần cá nhân chủ nghĩa. Ở đây không chỉ những gọng cùm của cá nhân chủ nghĩa bị tiêu diệt, mà mọi khả năng phát triển các mối quan hệ phong phú, như được diễn tả trong lời nguyện Abba tại bữa Tiệc Ly, sẽ được thiết lập lại. Sự sống mật thiết ngày càng hơn trong lời nguyện Abba là một kinh nghiệm về Ba Ngôi Thiên Chúa và là một kinh nghiệm có sức xây dựng những nhịp cầu trong nhân loại đã được cứu độ. Chính Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc của thế giới và là Con Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của Thánh Thần, đang thưa lên lời Abba nơi chúng ta – lời Abba ấy sẽ đồng thời vang âm thành Abbuni (Lạy Cha chúng con). Vâng, Cha là Cha của Chúa Giêsu, và là Cha của chúng ta hết thảy.
Cảm nghiệm về sự mật thiết theo mẫu thức Ba Ngôi này sẽ khai phá mọi chân trời của sự liên đới có sức cứu độ, của cộng đoàn ơn cứu độ, của tình huynh đệ, và của tất cả. Trong sự mật thiết đó, chúng ta sẽ biết nhìn nhận và kính trọng nhau như là các con trai con gái của một Cha chung. Chúng ta cũng nhận ra và trân trọng tiếng gọi mời chúng ta cùng chia sẻ và cùng trách nhiệm đối với mọi sự sống thụ tạo. Sức mạnh của mối liên đới này tùy thuộc vào chiều sâu của sự mật thiết giữa chúng ta. Từ nhận thức đó, chúng ta thấy rõ ràng các tín hữu được ủy thác cho mình săn sóc mục vụ không bao giờ là đối tượng (object) của sứ vụ linh mục. Đúng hơn, chúng ta là một người ở giữa dân chúng, đón nhận từ họ nhiều không kém chi trao tặng cho họ. Như vậy, ở đây không có chỗ cho sự tách biệt “ta” và “họ”. Cùng với nhau, trong tư cách là những chủ thể, tất cả đồng hành trên con đường với, trong, và hướng về Đức Kitô, Đấng là xuất phát điểm và là kết điểm của hành trình chúng ta.
KHUÔN MẶT LINH MỤC THỜI CÔNG ĐỒNG VÀ SAU CÔNG ĐỒNG
Tại Công Đồng Vatican II, các giám mục – và các cố vấn của các ngài trong đó đa số là linh mục – rất ý thức rằng các linh mục trong Giáo Hội đang kỳ vọng một văn kiện mạch lạc sáng tỏ về đời sống và sứ vụ của họ giữa một thế giới và một Giáo Hội đang thay đổi. Mãi đến cuối Công Đồng, vào ngày 7-12-1965, sau một giai đoạn thai nghén đầy vất vả, các Nghị Phụ mới phê chuẩn xong Sắc Lệnh Về Sứ Vụ Và Đời Sống Linh Mục.
Những nỗ lực ban đầu
Đầu tháng 10 năm 1964, bản dự thảo thứ 17 về chức vụ linh mục được đệ trình cho hội nghị khoáng đại và đã nhận được những phê phán kịch liệt. Thay mặt các giám mục Tây Đức, Hồng Y Julius Dopfner của Munich đã đưa ra sự phản đối dữ dội nhất. Bản văn được đánh giá là hoàn toàn trật khớp với kinh nghiệm lịch sử về các linh mục và giáo dân, làm nên một thứ thần học và tu đức khơi khơi bên ngoài lịch sử. Phản ứng tức thời ấy của đại đa số các giám mục đã cho thấy hết sức rõ rằng chính đây là điểm yếu nhất của bản văn kiện dự thảo.
Một bản văn hoàn toàn mới được gấp rút soạn thảo. Quả thực, ủy ban soạn thảo đã tập trung mọi cố gắng để bao hàm những vui mừng, hy vọng, buồn sầu, lo lắng của con người trong thế giới hôm nay mà các linh mục chia sẻ. Tuy nhiên, ba mươi năm sau Công Đồng, phải nhận rằng các vị soạn thảo và biểu quyết bản văn đó vẫn chưa nhận thức được hết tầm mức của cơn khủng hoảng, và tầm mức của sự thay đổi chi phối trực tiếp đến các nền văn hóa và các xã hội hôm nay cũng như ngày mai. Vẫn còn thiếu một sự tiên lượng gắn liền với thực tiễn; và Giáo Hội vẫn cần phải nhạy cảm hơn nhiều rất nhiều, ngay cả khi đang phải đương đầu với bao khó khăn và biến động.
Dù sao, chúng ta cũng nên xem lại Sắc Lệnh quan trọng này, vì chính trong đó chúng ta sẽ gặp thấy một số điểm rất có ý nghĩa như sau: Các linh mục không thể thực sự phục vụ người ta trừ phi các vị thấu cảm hoàn toàn hoàn cảnh sống của họ, nghĩa là các linh mục phải sống ở giữa dân chúng được ủy trao cho mình (đoạn 3). Cần phải nhấn mạnh đến việc giúp người ta tiến tới mức trưởng thành đầy đủ (đoạn 6). Và há chúng ta không thể khẳng định rõ rằng ở đây có bao hàm việc nhận thức và khích lệ người ta biết phê bình đó sao? Một điểm quan trọng khác, đó là các linh mục cần đặc biệt quan tâm đến những người đau khổ, những kẻ bệnh tật, những người nghèo khó. Cũng không nên quên rằng Sắc Lệnh này nhấn mạnh đến việc xây dựng cộng đoàn Kitôhữu với trung tâm là Thánh Thể (đoạn 8).
Công Đồng đã không quên lưu ý đến hiện tượng lịch sử đang đổi thay nhanh chóng, song tại sao có vẻ như các Nghị Phụ không thấy trước những hệ quả nổi cộm nhất của hiện tượng này – chẳng hạn, các vấn đề xung quanh tính đa nguyên và sự hòa giải – trong ý thức đầy đủ về sự đa dạng văn hóa? Sắc lệnh nhấn mạnh một cách đúng đắn đến tầm quan trọng của tinh thần khó nghèo nơi các linh mục, thế nhưng tại sao không hề thấy nói rằng chính các giám mục phải là những mẫu gương sống động về cuộc sống khó nghèo và đơn sơ? Bản văn cũng giới thiệu động lực phong phú cho linh đạo linh mục xét như một diễn tả của mối dây liên đới huynh đệ. Cuối cùng, song không kém quan trọng, các linh mục được thúc bách trung thực đánh giá chính mình trong ánh sáng của những đòi hỏi mà họ phải đáp ứng để có thể sống gần gũi dân chúng (đoạn 22).
Công Đồng có chịu trách nhiệm về cơn khủng hoảng nghiêm trọng của chức linh mục hôm nay không?
Trước hết, một cách chính xác chúng ta muốn nói gì qua hai tiếng “khủng hoảng”? Cần phải phân biệt giữa khủng hoảng xét như biểu hiện của sự suy sụp và khủng hoảng hiểu như một dấu hiệu lớn lên (hay một cơ hội cho phép đạt được một bước trưởng thành mới).
Mười năm sau Công Đồng Vatican II, một linh mục gốc Tây Ban Nha vốn từng phục vụ tại Châu Mỹ Latinh đã viết – dưới sự hướng dẫn của tôi – một luận án tiến sĩ về cơn khủng hoảng được ghi nhận quá rõ rệt trong đời sống linh mục. Anh kết luận rằng cơn khủng hoảng này hoàn toàn có thể trở thành một loại khủng hoảng để lớn lên, nếu việc đào tạo linh mục được nhận thức và được thực thi theo đúng tinh thần của Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes của Công Đồng. Anh cũng kết luận rằng một trong những lý do chính làm cho cơn khủng hoảng này trở nên nghiêm trọng, đó là người ta thường chẳng quan tâm – nếu không nói là hoàn toàn vứt bỏ – đường hướng canh tân linh đạo như được đề ra trong Hiến chế nói trên.
Không thể chối cãi gì nữa, thời đại chúng ta là một thời đại với bao biến động lịch sử dồn dập. Phần đông các giới thẩm quyền trong Giáo Hội không có đủ sự chuẩn bị về linh đạo và thần học để có thể nhận thức được đầy đủ tầm mức của thách đố đặt ra cho Giáo Hội hôm nay. Đặc biệt, những người ủng hộ phong trào Khôi Phục, khư khư tìm cách quay về thời cũ và tố cáo rằng Công Đồng phải chịu trách nhiệm về cơn khủng hoảng và tình trạng xáo trộn này, họ không đủ khả năng (hay không muốn) nhận ra và khảo sát những mối nguy hiểm và những cơ hội mà lịch sử trong đà biến chuyển nhanh chóng hiện nay đang đặt ra. Họ tiếp tục đắm chìm và bị giam hãm trong một thứ triết học và thần học cũ sì mốc meo, coi như mọi sự đều ngưng đọng, không có gì thay đổi cả! Họ dường như không thể - hay không muốn - chuyển từ một kiểu thức luân lý nặng tính tuân phục sang một nền đạo đức mang tính trách nhiệm và đồng trách nhiệm. Lỗ hổng nơi họ càng được thấy rõ hơn nữa qua việc họ bám chặt vào chủ nghĩa trung ương tập quyền, nắm quyền kiểm soát thái quá, trực tiếp đối ngược lại tập đoàn tính và bổ túc tính – là những giá trị nhân văn hơn. Trong một thời đại mà các biến chuyển lịch sử diễn ra hết sức nhanh chóng, xu hướng tập quyền và tất cả hệ thống kiểm soát của nó có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự bỏ nhỡ hoàn toàn hay sự phong tỏa các cơ hội hưởng ứng công cuộc đại kết và hòa nhập trong tính đa dạng toàn cầu xuyên qua sự hội nhập văn hóa.
Thật trớ trêu, những người lẽ ra phải bật đèn xanh và thúc đẩy bước nhảy sang kiểu thức mới lại chính là những người đang đắp ụ để cản trở bước nhảy ấy. Một dấu hiệu rõ rệt của phương diện khủng hoảng này là sự kiện cay đắng rằng ngay cả những giám mục hơi hơi năng động cũng được thay thế ‘đúng qui định’ vừa khi các vị này đến tuổi nghỉ hưu, trong khi đó những ‘chiếc phanh hãm lì lợm’ thì được tiếp tục tại vị lâu hơn nhiều. Các giám mục tiên phong trong nhãn quan hiện đại bị nguy cơ cho ‘về vườn’, trong khi đó những vị lề mề tụt hậu thì được lưu dụng. Một tinh thần hoài cổ như vậy, nói cho cùng, không có gì nguy hiểm mấy nếu ở trong một giai đoạn tĩnh tại; song trong một thời đại đầy biến chuyển như ngày nay, việc cố chấp quay ngược chiều kim đồng hồ có thể dẫn người ta đến chỗ phải hứng chịu cái số phận trở thành cột muối của bà vợ ông Lót.
Những mẫu gương khích lệ
Đứng trước tình trạng hiện nay của Giáo Hội, chúng ta có thể nói một cách đầy quả quyết như Galilê rằng: “E pur si muove!” (Dù sao, nó vẫn quay!). Tôi có thể dễ dàng viết một quyển sách với đầy đủ tư liệu trưng dẫn để hỗ trợ cho các ghi nhận của mình. Trong tư cách là một linh mục người Đức, tôi chọn tham chiếu ở đây bức thư ngỏ của các giám mục Đức gửi cho các linh mục mang tựa đề “Về Sứ Vụ Linh Mục” (24-9-1992). Tài liệu này là một ví dụ tuyệt vời về sự chuyển đổi kiểu thức diễn ra trong thời đại chúng ta.
Hết sức thẳng thắn, các giám mục Đức đề cập đến cơn khủng hoảng hiện nay trong chức linh mục và mời gọi trước hết các thành viên mở rộng tầm mắt ra để nhìn thấy những cơ hội tích cực thay vì phung phí năng lực vào những lời lẩm bẩm ta thán vô ích trước những tình hình bi đát của thực tế. Dĩ nhiên, bức thư cũng nhắc nhở rằng không được phép coi nhẹ hay phớt lơ những khía cạnh ảm đạm của chức linh mục và những nguy cơ thực sự của nó. Trước hết, đây là vấn đề về sự ưu tiên, vì tinh thần Kitô giáo không bao giờ tập chú trước hết đến chiến thắng của sự dữ, rồi sau đó mới miễn cưỡng quay sang chấp nhận sự kiện rằng Thiên Chúa đóng một vai trò trong việc lúc này lúc khác đem phần thắng về cho sự thiện.
Trong tư cách là giám mục của Giáo Hội phổ quát, các vị lãnh đạo của Giáo Hội ở Đức đã mời gọi các linh mục của mình phát triển một tầm nhìn toàn diện thế giới, vì cơn khủng hoảng hiện tại (hy vọng đây là thứ khủng hoảng để lớn lên) có liên hệ đến sự chuyển biến thâm sâu của các nền văn hóa, các xã hội, các khoa học và cả của cái nhìn về vũ trụ – tức toàn bộ thế giới thụ tạo. Như vậy, mối quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới không thể ở trong một tình trạng ngưng đọng, bất biến. Kỷ nguyên Kitô giáo đã trôi qua một cách dứt khoát rồi.
Các linh mục đang đứng giữa cơn khủng hoảng này – cơn khủng hoảng mà nhiều người mệnh danh là cơn khủng hoảng của đức tin. Đâu là ý nghĩa thực sự của việc chờ đợi trong đức tin? Trong đời sống và sứ mạng, cách riêng các linh mục (nghĩa là không loại trừ các tu sĩ nam nữ và toàn thể dân Thiên Chúa nữa) phải đương đầu với nhiều hình thức phân cực gây tê liệt trong Giáo Hội. Ở điểm này, các giám mục Đức, với sự thành thực và thẳng thắn, đã đề cập đến những vấn đề gây ra bởi các giáo huấn chính thức hiện hành của Rôma về một số khía cạnh của luân lý tính dục và hôn nhân: những giáo huấn hoặc bị thản nhiên phớt lơ hoặc bị tẩy chay cách minh nhiên bởi số đông các tín hữu. Như vậy, hai thứ lòng trung thành đang xung đột nhau. Một đàng, đa số các linh mục cảm nghiệm sâu xa về lòng trung thành đối với quyền giáo huấn của giáo hoàng; và đàng khác, họ muốn trung thành với toàn dân Thiên Chúa. Làm sao chúng ta hòa giải những đối nghịch này trong các lương tâm cũng như trong giảng dạy và thực hành mục vụ? Ai là những người khổ sở nhất ở đây nếu không phải là các linh mục và những người cộng tác trong lãnh vực mục vụ?
Hiện tượng phân cực này đặc biệt gây khốn khổ cho các linh mục luống tuổi – là những người chủ yếu đã được đào tạo theo tinh thần tiền Công Đồng. Rất thường, chiều sâu của cơn khủng hoảng này thậm chí len tới cấp độ của một cơn khủng hoảng về căn tính.
Bức thư của các giám mục Đức đưa ra những lời đầy thách đố sau đây, trong ý thức đầy đủ về vấn đề: “Người mục tử phải mang lấy gánh nặng trách nhiệm cuối cùng đối với giáo xứ. Nhưng ngài rất thường nhận ra rằng giáo dân giỏi giang hơn mình” (tr. 5). Tiến trình học biết cộng tác với giáo dân và với các linh mục trẻ thật sự không dễ dàng chút nào cho tất cả các phía liên hệ.
Về vấn đề độc thân, các giám mục Đức cũng thẳng thắn không kém: “Phải chăng lối sống độc thân quan trọng đến nỗi cho phép việc trì hoãn những gì thuộc về chính cốt lõi của sứ vụ mục vụ, ít nhất như được quan niệm cho đến nay?” (tr. 6)
Các giám mục Đức đề cập rất nhiều vấn đề liên quan đến câu hỏi cơn khủng hoảng hiện nay của chức linh mục “có quan hệ như thế nào với khuôn mặt tương lai của Giáo Hội” (tr. 9). Khi suy tư về các động lực của giai đoạn lịch sử mà chúng ta vừa trải qua, các giám mục này kết luận rằng hiện nay và trong tương lai, hơn cả trong quá khứ, các ơn gọi linh mục cần phải được nhận hiểu và được thúc đẩy một cách năng động: “Với thời gian, chúng ta phải thực sự trở thành những con người đúng như bản chất của mình” (tr.10). Bao hàm trong câu nói trên là một chân lý đầy thách đố. Nhìn ơn gọi linh mục như một cái gì tĩnh tại, đó thật là một nhãn quan chết chóc. Bức thư nói thêm: “Ở đây, cũng như trong nhiều phương diện khác, chúng ta phải học biết đón nhận và phát triển một sự trưởng thành ngày càng hơn” (tr.10). Các nguyên động lực của sự lớn lên phải ngày càng trở thành đặc trưng và bộc lộ rõ trong đời sống linh mục, cùng với lòng can đảm sống một cuộc sống hoàn toàn trong suốt trước mặt cộng đoàn – cho dù nơi mình vẫn còn những khuyết điểm riêng (tr. 13).
Khiêm tốn chấp nhận những khuyết điểm và những giới hạn nơi con người mình, đó có thể là một hành vi ca ngợi lòng từ bi và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Đồng thời, sự chấp nhận này có thể là một phương thế chống lại cơn cám dỗ quá dằn vặt đay nghiến chính mình.
Trong cái nhìn của các giám mục Đức, tình trạng hiện nay vừa là một lời mời gọi vừa là một cơ hội đúng lúc cho các linh mục, trong liên đới với nhau, bước lên đường và đặt mình vào giữa những nhu cầu và những thảm cảnh của nhân loại (tr. 34). Tôi cho rằng tinh thần mới mẻ này được diễn tả một cách tha thiết trong lời tuyên bố đầy cảm kích sau đây: “Chúng tôi không quên liên đới với những bạn đồng sự của chúng tôi – là những người thường xuyên bị vây bọc bởi các thảm cảnh, đã từ bỏ sứ vụ. Không bao giờ chúng tôi bỏ rơi họ” (tr. 30). Quả thật, toàn bộ bức thư rực cháy tinh thần Tin Mừng và khích lệ niềm hy vọng của chúng ta vào tương lai của Giáo Hội và tương lai của chức linh mục.
Người ta cũng ghi nhận thấy cùng một âm hưởng mục vụ thẳng thắn và cởi mở ấy trong lá thư mục vụ của các Giám Mục Lehman (Mainz), Saier (Freiburg), và Casper (Rottenburg-Stuttgart) liên quan đến vấn đề săn sóc mục vụ cho những người Công Giáo li dị và tái hôn – gồm cả việc chấp nhận cho những người Công Giáo ấy tham dự Thánh Thể dựa theo những nguyên tắc biện phân khôn ngoan. Cả sau khi bị Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Vatican chỉ trích, ba vị giám mục này vẫn duy trì tinh thần của mình – một cách trung trực và phi bạo lực.
Chỉ trong mối liên đới và trong niềm tín nhiệm lẫn nhau giữa các giám mục và các linh mục thì cơn khủng hoảng hiện nay mới có thể được vượt qua, vì yếu tố hiệp nhất họ chính là tình yêu và mối quan tâm mục vụ mà họ cùng chia sẻ.
DỰ ĐOÁN TƯƠNG LAI CỦA ƠN GỌI LINH MỤC
Câu hỏi về tương lai của ơn gọi linh mục có thể là một câu hỏi vô cùng nhức nhối nếu sự bàn luận chỉ hoàn toàn xoáy vào tình trạng khan hiếm linh mục – và không dành sự lưu tâm đến các dấu chỉ của thời đại và đến ơn gọi căn bản của mọi Kitôhữu. Một nhãn giới như thế sẽ quá chật hẹp, thậm chí có thể tai hại cho sứ mạng của Giáo Hội. Vì thế, tôi nghĩ rằng chúng ta phải dám có một cái nhìn mới đối với ơn gọi Kitôhữu mà mọi người chúng ta đều đang đảm nhận, nhất là nhìn trong ánh sáng của phép rửa mà Đức Giêsu nhận lãnh bởi tay Gioan ở sông Giođan.
Một nhãn quan hoàn toàn mới
Ơn gọi của Đức Kitô – mà chúng ta được mời gọi tham dự vào – tiên vàn là ơn gọi của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê nhằm đem lại ơn cứu độ và hòa bình cho thế giới. Đời sống công khai của Đức Giêsu – qui hướng đến việc công bố tin mừng về cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài – là một đời sống được xây dựng từ mối quan hệ của Ngài với Chúa Cha: “Con là Con Yêu Dấu của Ta” (Mc 1,11). Đức Giêsu được gọi và được xức dầu để gánh lấy tất cả gánh nặng của nhân loại trong mối liên đới có năng lực cứu độ - để giải phóng nhân loại khỏi mối liên đới trong tội lỗi, một mối liên đới hủy diệt. Người là vị ngôn sứ bước đi trước chúng ta, giới thiệu cho chúng ta con đường hòa bình, phi bạo lực và chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của tình yêu nhằm chuyển hóa những kẻ thù địch thành bạn hữu.
Ngay sau biến cố phép rửa của Đức Giêsu, Tin Mừng Matthêu đưa ra cho chúng ta một trong những chìa khóa chính yếu để hiểu nhiệm cục cứu độ. Đó là việc lột trần những cám dỗ quỉ quyệt nhất của Satan bằng cách cho thấy rõ những kỳ vọng sai lạc về một Mêsia đầy cường quyền và bạo lực, và bằng cách phơi trần những sự lạm dụng tôn giáo nhằm tranh thủ lợi lộc, quyền thế và danh vọng trần gian. Mặc dù các cám dỗ vây kín Đức Giêsu từ mọi phía, chúng hoàn toàn không có quyền lực nào trên Ngài. Chính vì ích lợi của chúng ta mà Đức Giêsu đã – một lần cho tất cả – vạch mặt tất cả các cám dỗ ấy xuyên qua sự trung thành tuyệt đối với ơn gọi của Ngài trong tư cách là Người Con và Người Tôi Tớ đau khổ, phi bạo lực của Thiên Chúa.
Nhận thức nói trên về ơn gọi của Đức Giêsu thiết yếu có quan hệ với nhận thức của chúng ta về ơn gọi Kitôhữu của mình. Vì thế, có thể thấy rõ rằng tướng lai của tất cả các ơn gọi Kitôhữu tùy thuộc vào mức độ trung thành của chúng ta trong việc đi theo bước chân của Người Tôi Tớ Giavê trong bối cảnh mới này. Từ thời đại Constantine, và gần như cho đến tận hôm nay, phần đông người ta là Kitôhữu do huyết thống, tức ‘cha nào con nấy’. Ngày nay, kiểu thức mới rõ ràng thúc giục chúng ta trở thành Kitôhữu do chọn lựa, do ơn gọi. Điều này có nghĩa rằng tương lai của Giáo Hội sẽ được ấn định không chỉ bởi những “ơn gọi” của một tầng lớp đặc thù nào đó, mà nhất là bởi tất cả những ai – với ý thức của chính mình – quyết định chọn lựa đi theo Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa. Sự khác biệt giữa một bên là những người sống một cách ý thức và thuyết phục chuẩn mực của phép rửa Đức Giêsu ở sông Giođan bằng Thánh Thần và bằng máu và bên kia là những người Công Giáo do di truyền vốn chỉ theo Chúa một cách uể oải và thụ động – sự khác biệt ấy mới đáng kể hơn nhiều so với sự khác biệt giữa chức linh mục phổ quát và chức linh mục thừa tác. Điều thật sự đặc trưng người Kitôhữu là chiều sâu ý thức của họ về ý nghĩa của việc mình được Đức Kitô kêu gọi để phục vụ cho Vương Quốc của Người Tôi Tớ Giavê, và sự kiên vững của họ trong việc đảm nhận ơn gọi căn bản này.
Nhãn quan nói trên là nền tảng chắc chắn cho mọi ơn gọi Kitôhữu, bao gồm cả đời sống linh mục theo nghĩa hẹp hơn. Đây không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ. Bố mẹ tôi là những Kitôhữu do di truyền, song qua cuộc sống của mình, các ngài đã trở thành Kitôhữu do chọn lựa – và trong khi các ngài sống tận lực ơn gọi làm vợ chồng và làm cha mẹ của mình, các ngài cũng dấn thân một cách đầy sáng tạo vào đời sống của Giáo Hội. Các ngài là những nông dân trong ánh nhìn của Đấng Sáng Tạo, là bạn hữu của những người nghèo, và đồng thời các ngài cũng đương đầu với bao nguy hiểm lớn lao trong sự phản kháng đầy dũng cảm và kiên quyết đối với chế độ Hitler.
Robert Schuman, bạn đồng sự của Alcide De Gaspari và Konrad Adenauer, là một trong những nhà hòa giải hàng đầu của Trung Âu, đã từng trải qua một thời gian phân vân giữa hai sự chọn lựa: làm linh mục hay trở thành một chính trị gia chuyên nghiệp! Một linh mục đã góp ý với anh rằng trong lãnh vực chính trị anh sẽ chu toàn ơn gọi Kitôhữu của mình tốt hơn là trong chức linh mục thừa tác – và thế giới cũng như Giáo Hội phải đặc biệt mang ơn vị linh mục tư vấn ấy. Hồi còn là một giáo sư trẻ, tôi có dịp quen biết De Gaspari và gia đình anh ta. Với thái độ đơn sơ không ngờ, anh đã giúp lễ cho tôi trong rất nhiều lần tôi dâng lễ. Đó là những con người tuyệt diệu! Họ chu toàn ơn gọi Kitôhữu của mình qua việc làm chứng cho Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê.
Tôi không hề có ý làm giảm giá trị của ơn gọi linh mục – vì những giá trị này vốn quá rõ ràng! Tuy nhiên tôi dám nói rằng tương lai của Giáo Hội và của các ơn gọi linh mục tùy thuộc vào một bước chuyển biến triệt để từ kiểu thức Constantine sang kiểu thức một ơn gọi được tự nguyện chọn lựa – một ơn gọi mà trong đó người ta xua đuổi bằng mọi giá bất cứ ý tưởng tham quyền cố vị nào. Một bước chuyển biến như thế đương nhiên bao hàm trong đó một cái nhìn mới về ơn gọi linh mục thừa tác. Sẽ có đủ số ơn gọi linh mục, nếu tiêu điểm chính yếu được nhắm vào ơn gọi theo một ý nghĩa rộng hơn nhưng có tính chuyên biệt Kitôgiáo hơn, và dĩ nhiên luôn luôn ở trong nhãn quan về ơn cứu độ của thế giới.
Thật sung sướng biết bao khi chúng ta gặp được những bác sĩ y khoa và những chuyên viên trị liệu thể hiện ơn gọi Kitôhữu một cách thuyết phục trong tư cách là những thầy thuốc và, đồng thời, làm chứng cho Đức Kitô Đấng Chữa Trị! Cũng vậy, chúng ta kỳ vọng gặp được các luật sư là những người làm việc cách tận tụy và khôn ngoan để xây dựng những luật pháp nhân văn hơn và ứng dụng luật một cách tốt hơn – và đồng thời là những người, qua nghề nghiệp của mình, giới thiệu được Đức Kitô Đấng đã đến không phải để xét xử nhưng là để chữa trị.
Ở đây tôi nghĩ đến một cựu sinh viên của mình – anh rất mê học thần học nhưng không cảm thấy mình được gọi sống độc thân. Trong tư cách là một thẩm phán của tòa án xét xử người vị thành niên, anh đã phát triển được một khả năng chữa trị đầy sáng tạo. Thay vì gửi những người trẻ phạm pháp vào tù, anh đã cung ứng cho họ các cơ hội trị liệu – qua việc phục vụ cộng đồng - để giúp họ đổi đời. Chẳng hạn, những người trẻ này được yêu cầu đi thăm viếng các bệnh nhân và các người già lão, đôi khi mang theo hoa để tặng và tự đề xuất các công việc khác nhau mình có thể làm để phục vụ. Những người trẻ này được yêu cầu không cho những người mà họ thăm viếng biết rằng luật pháp đòi họ làm công việc này như biện pháp sửa chữa sự sai quấy của họ, nhất là – như trong trường hợp này - chính vị thẩm phán cũng không đưa qui chế này ra như một hình phạt.
Có thể viết cả một quyển sách về những nghề nghiệp khác nhau và những phương thức khác nhau mà qua đó người ta có thể sống triệt để ơn gọi Kitôhữu của mình nhằm phục vụ cho ơn cứu độ của thế giới – và trong một cách thế mà trong đó kiểu thức mới “Kitôhữu do chọn lựa” có thể đi vào cụ thể trong xác thịt. Tôi không hề ái ngại rằng một nhãn quan như thế có thể làm phương hại cho ơn gọi linh mục hiểu theo nghĩa chuyên biệt. Trái lại, tôi tin rằng tính đích thực của ơn gọi linh mục có thể được củng cố rất nhiều nhờ một nhãn quan như vậy.
Giáo Hội có nên nhìn nhận tính bí tích nơi các ơn gọi sứ vụ khác nhau không?
Qua việc canh tân giáo thuyết về chức linh mục phổ quát của các tín hữu và qua việc minh nhiên ủy trao nhiều hoạt động tông đồ khác nhau của Giáo Hội cho các giáo dân nam cũng như nữ, Công Đồng Vatican II có một sự đóng góp đúng đắn và hợp thời vào vấn đề ơn gọi. Trên khắp thế giới, mặc dù trong những mức độ khác nhau và bằng những phương thức khác nhau, một tầng lớp “giáo sĩ” mới, vốn không phải là giáo sĩ, đã xuất hiện.
Tôi đã ghi nhận sự phát triển này, đặc biệt ở Phi Châu, với niềm vui mừng và tin tưởng dạt dào. Hàng ngàn giảng viên giáo lý được huấn luyện chu đáo cùng với các người vợ đầy quảng đại của họ đang thực tế đảm nhận mọi công việc của giáo xứ: dạy giáo lý, huấn giáo cho người lớn, hòa giải, xây dựng cộng đoàn, săn sóc bệnh nhân và người nghèo, cử hành rửa tội và, vào các Chúa Nhật, cử hành phụng vụ Lời Chúa và chủ tọa việc rước lễ. Đấy là chỉ liệt kê một số có tính tượng trưng!
Trong ánh sáng của những đóng góp thật đáng nể ấy, tôi tự hỏi: Có nên đòi hỏi những người này phải vượt qua những quãng đường dài – đi bộ hoặc bằng xe đạp – để nhận Bánh Thánh đã được truyền phép? Xem xét tất cả những gì những người này đã làm từ quan điểm luật, ta thấy họ vẫn không thông dự vào chức linh mục được thiết định theo bí tích. Đa số những người này không có ý định lãnh chức phó tế, vì điều đó có nghĩa rằng họ phải đảm nhận đời sống độc thân nếu vợ họ qua đời. Hơn nữa, trong văn hóa Phi Châu hiện nay, làm sao người ta có thể quan niệm được một sự độc thân như vậy?
Họ không thể cử hành Bí Tích Xức Dầu, một bí tích có ý nghĩa rất thâm sâu trong văn hóa Phi Châu. Trong quan điểm cá nhân của mình, tôi không thấy có gì trở ngại để thay đổi trong vấn đề này. Chẳng phải cuộc đời của Đức Giêsu và hoạt động của Chúa Thánh Thần vẫn mời gọi Giáo Hội: “Hãy biết sáng tạo!” đó sao?
Chưa bao giờ trong lịch sử Giáo Hội đã từng có nhiều người nam nữ giàu khả năng và có căn bản thần học như ngày nay. Hiện nay, con số người có năng lực trong Giáo Hội còn đông hơn cả mười tám thế kỷ trước đây gộp lại. Vậy thì, tại sao chúng ta lại than vãn về tình trạng thiếu các ơn gọi Kitô hữu trong Giáo Hội?
Cùng với vị đương kim giáo hoàng, chúng ta vẫn sốt sắng cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục độc thân. Nhiều người đã buông trôi nhiệt tình này do không tìm thấy câu trả lời cho những suy nghĩ và những vấn nạn hợp lý – chẳng hạn: Tại sao chúng ta bảo Chúa Thánh Thần rằng các linh mục chỉ nên được ban cho Giáo Hội xuyên qua ngả đường độc thân? Phải chăng chúng ta nghĩ rằng Chúa Thánh Thần vui sướng khi chúng ta, những người trong Giáo Hội, ấn định độ rộng của lỗ kim để qua đó Chúa Thánh Thần sẽ chuyển trao cho Giáo Hội những ơn gọi cần kíp nhất? Có còn ngẫu tượng nào quái gở hơn là áp đặt ý muốn của con người cho Chúa Thánh Thần hoặc ‘đóng hộp’ Chúa Thánh Thần trong những phạm trù chật hẹp của tư tưởng chúng ta không? Nếu các Tông Đồ và những vị kế nhiệm đầu tiên của các ngài hành động như vậy – nghĩa là áp đặt những loại qui định ấy cho Chúa Thánh Thần – thì hẳn các ngài đã phải bỏ vợ và, nhất là, hẳn các ngài đã phải bỏ mặc gần như tất cả các cộng đoàn Kitôhữu chơ vơ không có Thánh Thể.
Tôi muốn nhắc lại ở đây: Độc thân, xét như là một đặc sủng được ban phát nhưng không của Chúa Thánh Thần, là một ân huệ cao quí, nhưng các giới thẩm quyền Giáo Hội phải chọn lựa với đầy đủ cân nhắc và sáng suốt giữa một bên là sự trung thành trọn vẹn với di chúc và lệnh truyền của Đức Giêsu – “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, ... hãy cầm lấy mà uống” – và bên kia là một truyền thống chỉ của con người. Chúng ta không được quên rằng những người lãnh đạo trong Giáo Hội có thể trở thành mồi ngon không chỉ cho dị giáo mà còn có nguy cơ “đánh mất tính chính thống trong thực hành” (heteropraxy). Trong thời gian của Tòa Truy Tà, Giáo Hội đã từng tra tấn tàn bạo và thiêu sống những phụ nữ vô tội mà Giáo Hội cho là phù thủy. Lên án những thực hành kinh khủng ấy của quá khứ mà không tra vấn kỹ lưỡng những gì mình đang làm trong hiện tại, thì đó chỉ là một sự lấp liếm và đánh lận con đen mà thôi.
Độc thân, một đặc sủng cao quí và một chứng tá cho Nước Thiên Chúa, không thể rút giá trị của nó ra từ số lượng, nhưng đúng hơn là từ việc nó được sống một cách đích thực. Độc thân cũng không chủ yếu được hiểu trong chiều kích luật. Trái lại, hơn bất cứ gì khác, độc thân phải được đặt trong viễn tượng lời tuyên bố của Thánh Phao-lô: “Anh em không còn thuộc về Lề Luật nữa, nhưng là thuộc về ân sủng” (Rm 6,14).
Ơn gọi tối thượng của Kitôhữu: nêu chứng tá phi bạo lực
Các ý tưởng của tôi ở đây đã được ghi ra vào ngày hôm sau cuộc tiếp xúc của tôi với một phụ nữ can đảm tại một cuộc đại hội các thành viên của Phong Trào Pax Christi (Hòa Bình Đức Kitô). Chúng tôi đã nói chuyện về ơn gọi cao quí của những người sống chứng tá phi bạo lực vì niềm tin của mình vào Đức Giêsu Người Tôi Tớ Giavê. Câu chuyện riêng của người phụ nữ này đã làm tôi vô cùng cảm kích. Tôi đã từng đề cập đến câu chuyện này trong một chương trước, nhưng thiển nghĩ cũng rất nên nhắc lại ở đây. Chồng chị, một anh bõ nhà thờ, quyết định rằng mình thà chết trong tay chế độ Hitler chứ không tham gia vào cuộc giết hại những người khác trong một cuộc chiến tranh rõ ràng phi nghĩa. Cha sở và giám mục không ủng hộ anh. Trái lại, các vị ấy cố can gián anh với lập luận rằng, để tuân giữ luật, anh phải sẵn sàng gia nhập quân đội. Tuy nhiên, vợ anh hoàn toàn ủng hộ anh, vì chị cùng chia sẻ cách suy nghĩ của anh. Những lá thư mà anh viết cho vợ trong những ngày cuối cùng của đời mình thật vô cùng cảm động và hết sức thách đố đối với tất cả chúng ta là những người tuyên bố rằng mình tin vào tình yêu phi bạo lực của Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa. Trong một lá thư, anh viết:
Em yêu quí,
Không có cách nào chia sớt cho em những khổ đau của anh. Làm sao Đấng Cứu Chuộc chúng ta cảm nhận được nỗi lòng tan nát của Mẹ Người trong cuộc thương khó của Người! Chúa Giêsu và Mẹ Maria đau khổ vì yêu chúng ta. Anh cám ơn Chúa vì Người cho phép anh chịu đau khổ và chịu chết vì yêu Người.
Mahatma Gandhi, khuôn mặt sáng ngời của tinh thần phi bạo lực, đã lập ra những ashrams, những mái nhà để người ta cùng học hỏi và chia sẻ tinh thần phi bạo lực, nhất là theo tinh thần của Các Mối Phúc. Vì thế, há chúng ta không được phép kỳ vọng rằng những con người như Gandhi và Martin Luther King, Jr. đã nhìn cái chết của họ như một dấu ấn cho ơn gọi và sứ mạng của họ sao?
Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có khả năng hủy diệt hành tinh của chúng ta, hoặc ngay lập tức bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử hoặc một cách từ từ bằng sự bào mòn mọi hình thức sự sống xuyên qua những tội cá nhân và tập thể liên tục của chúng ta – qua thái độ vô trách nhiệm đối với môi trường sinh thái. Thế giới đang khẩn thiết cần có những con người như vợ chồng anh bõ nhà thờ nói trên, như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr. và Dorothy Day – tất cả họ đã nghiêm túc đảm nhận ơn gọi của mình. Nếu những cuộc cử hành Thánh Thể của chúng ta không làm tuôn trào năng lực và nhiệt tâm nêu chứng tá triệt để cho công lý, hòa bình và tinh thần phi bạo lực, thì chúng ta phải xót xa kết luận rằng quá nhiều ơn gọi Kitôhữu linh mục và giáo dân của chúng ta chẳng đích thực tí nào.
Tôi cho đây mới 1à mối quan tâm khẩn thiết hơn nhiều so với mối quan tâm về con số linh mục độc thân. Sự quan tâm lo lắng của chúng ta càng gò bó chật hẹp bao nhiêu thì chúng ta càng ít chú ý đến những vấn đề thiết yếu và bao quát bấy nhiêu.
Phụ nữ và chức linh mục
Những biến cố và những tiến trình lịch sử đang diễn ra dồn dập hiện nay được ghi nhận đặc biệt rõ ràng trong liên quan với khuôn mặt mới mẻ và những vai trò xã hội của người phụ nữ. Giáo Hội sẽ thích nghi với những thay đổi này hay là sẽ tà tà chậm rãi lê gót theo sau? Trong thời đại này, cuộc phát triển của phụ nữ là một trắc nghiệm đúng lúc và có tầm quyết định đối với nhiệt tâm làm muối đất của Giáo Hội trong lịch sử nhân loại và đây cũng là một chiều kích quan trọng trong sứ vụ của Giáo Hội.
Một cái nhìn có tính đàn ông trị nhân tạo của Giáo Hội đã gây ra nhiều vấn đề khó khăn. Chỉ cách đây vài thế kỷ, như thể một phép lạ việc Thánh Vincent de Paul cho phép các nữ tu rời khỏi nội cấm để phục vụ các bệnh nhân và các người nghèo mà không bị sự cản trở và can thiệp thô bạo của bản quyền Giáo Hội.
Tại thời điểm cuối thiên niên kỷ thứ hai này, đâu là tình trạng của phụ nữ trong Giáo Hội? Kinh nghiệm của phụ nữ bước đi trước rất xa so với nhãn quan có tính cơ chế hiện nay về Giáo Hội. Đã có hàng trăm, nếu không phải hàng ngàn, nữ thần học gia đầy năng lực – con số này đông đảo hơn cả tất cả các thế kỷ trước đây gộp lại. Tuy nhiên, Vatican vẫn gây nhiều khó khăn cho phụ nữ trong việc đảm nhận các ghế ở những đại học do Giáo Hội Công Giáo đỡ đầu, nhất là nếu họ ủng hộ phong trào nữ quyền và đặt ra những chất vấn và những vấn đề thần học, chưa nói là chất vấn các giáo thuyết của Giáo Hội. Bất chấp tình trạng này, nhiều phụ nữ đã tạo được rất nhiều ảnh hưởng trong việc xâm nhập vào các đại học không bị kiểm soát bởi Rôma – và hơn thế nữa, vào các ngành thần học đại kết.
Nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đang được ủy thác nhiều vai trò mục vụ rất quan trọng và, trong thực tiễn, họ đã chia sẻ nhiều vai trò lãnh đạo trong Giáo Hội. Người ta thấy nhiều phụ nữ giảng tĩnh tâm và chủ tọa các khóa hội thảo ngay cả cho các linh mục – và năng lực của họ được mọi người trân trọng.
Ở bình diện giáo xứ, nhiều phụ nữ là các trợ lý mục vụ – họ đảm nhận những trách nhiệm khác nhau, trong đó gồm cả việc thăm viếng, an ủi và đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Hơn nữa, họ giúp thăng tiến giáo dân qua việc huấn luyện và đào tạo các nhóm mục vụ giáo dân để thi hành sứ vụ đối với các bệnh nhân, một sứ vụ không dừng lại ở chỉ việc thăm viếng tại các bệnh viện. Họ tổ chức và huấn luyện các nhóm giáo dân hoạt động cho công bằng xã hội nhằm mục đích thúc đẩy giáo xứ mở rộng tầm nhìn và dấn thân vào các lãnh vực xã hội đặc biệt có liên hệ tới người nghèo và những người bị áp bức. Nhiều phụ nữ làm việc trong các nhóm học hỏi Thánh Kinh tại các giáo xứ hay tại các gia đình nhằm mục đích đào sâu sự hiểu biết của người giáo dân đối với Thánh Kinh, nhất là xét như một nguồn phát triển linh đạo, và nhằm giúp các giáo dân khám phá ra con đường cụ thể để sống ơn gọi Kitôhữu của mình. Tất cả những điều nói trên đang diễn ra trong các giáo xứ nơi mà người ta đề cao tính cộng tác trong vai trò lãnh đạo mục vụ – nghĩa là nơi mà các mục tử không có cái tôi lớn quá và biết cương quyết đề kháng lại cơn cám dỗ nắm toàn quyền kiểm soát bằng cách từ chối sử dụng quyền hành trên những người khác. Thay vào đó, các mục tử này chia sẻ sức mạnh của Chúa Thánh Thần với những người khác qua việc nhìn nhận, khích lệ và vận dụng năng lực phong phú của những tín hữu đã được đào tạo tốt ngày nay.
Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Hòa Giải không? Nhiều phụ nữ, trong đời sống và trong sứ vụ của mình, vẫn phục vụ như những dấu hiệu bí tích của hòa bình và hòa giải. Phụ nữ được ban cho đặc ân về lòng quảng đại tha thứ, và họ có nhiều thuận lợi lớn lao trong việc quan hệ và tiếp xúc với các bệnh nhân, các người già yếu và những người hấp hối. Thật vậy, không thể kể hết ở đây những ‘thế mạnh’của phụ nữ trong lãnh vực này. Tôi có biết nhiều phụ nữ giàu đặc sủng được giám mục bổ nhiệm làm các tuyên úy bệnh viện. Dĩ nhiên, chúng ta chưa được nhìn thấy một phụ nữ ngồi ở tòa giải tội chờ các hối nhân đến xin xá giải. Thế nhưng, xưa nay vẫn không thiếu những người – cả các bệnh nhân lẫn những người lành mạnh - trong nhu cầu và trong lòng khao khát sám hối và hòa giải –tiếp tục tin tưởng và cởi mở lương tâm của họ với các phụ nữ giàu tấm lòng.
Về vấn đề này, tôi muốn chia sẻ hai ví dụ từ kinh nghiệm riêng của mình. Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, một bệnh viện dành cho các binh sĩ Đức Quốc Xã được thiết lập ở Gars, nơi hiện nay tôi đang sống. Những người lính này vốn là tù nhân chiến tranh của Mỹ. Họ lầm lì cứng cỏi, nhưng một số trong họ cảm thấy nhu cầu cần thố lộ các tội lỗi - và thậm chí các tội ác – trước đây của mình cho một nữ tu đang phụ trách săn sóc họ. Nữ tu này cầu nguyện với họ, và chị hướng dẫn họ mang nỗi khổ sở ấy của mình đến với Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn và phó thác. Tôi không thể không nghĩ rằng tất cả những gì diễn ra ở đây quả thật là một khoảnh khắc bí tích còn thâm sâu hơn cả những trường hợp người ta xưng tội với các linh mục khe khắt nệ luật.
Một ví dụ khác, đó là câu chuyện về một nữ tu cao niên được bổ nhiệm làm tuyên úy tại một bệnh viện. Tại đây, chị được mọi người coi là con người đáng tín nhiệm nhất. Nhiều bệnh nhân tự nguyện cởi mở nỗi lòng với chị và trang trải cho chị nghe những gì mà lương tâm họ cho là trọng tội. Trớ trêu là có một khúc mắc ở đây. Các bệnh nhân kể cho chị biết về một linh mục tại địa phương vốn thường đến bệnh viện này hằng tuần hoặc mỗi tháng hai lần để nghe họ xưng tội – và ông ta luôn hạch sách họ về loại tội và về số lần phạm tội một cách chi li quá đáng. Giờ đây, nếu vị nữ tu tuyên úy này nói với các bệnh nhân rằng họ phải xưng tội với một linh mục – (trong nhiều trường hợp, yêu cầu này thường có nghĩa là phải xưng thú với một người cứng cỏi, khó ưa!) – thì việc xảy ra một phản ứng thất vọng nơi các bệnh nhân của chị sẽ là điều rất bình thường, dễ hiểu. Các bệnh nhân hoặc sẽ giận, từ chối xưng tội, hay tệ hơn, họ sẽ ‘phòng thủ’ và ‘bưng bít’ hơn mỗi khi họ xưng tội với vị linh mục kia.
Vấn đề không nằm ở chỗ: “Một phụ nữ có thể cử hành được nghi thức hòa giải hay không?” Cho tới nay, chưa bao giờ phụ nữ có cơ hội thử làm nghi thức này. Tôi chỉ biết về những gì họ thực sự làm. Họ lắng nghe các bệnh nhân, cầu nguyện với các bệnh nhân, họ ca ngợi lòng quảng đại thứ tha của Thiên Chúa, họ cầu xin Chúa khắc ghi một dấu biết ơn trong cõi lòng các bệnh nhân, để rồi dấu ấn này sẽ giúp các bệnh nhân biết sẵn sàng hơn để thứ tha cho những người xúc phạm đến mình.
Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân không? Cho tới nay việc này cũng không được giao cho họ, nhưng thiển nghĩ thẩm quyền Giáo Hội có thể mạnh dạn trao cho các phụ nữ sứ vụ này. Tôi biết một nữ tu rất ân cần và được mọi người yêu mến, với dầu đã thánh hóa, chị xức cho bệnh nhân nếu được yêu cầu, và đồng thời chị cùng cầu nguyện với họ. Tuy nhiên, chị không dùng những công thức được qui định trong phụng vụ. Như vậy có phải chị đang cử hành bí tích không? Một cách chính thức thì câu trả lời là “không”, nhưng sự hiện diện sốt sắng và việc xức dầu đầy cảm kích của chị có thể đem lại ơn phúc dồi dào hơn là trường hợp một ‘ông cha’vội vã bước vào phòng, xức dầu cho bệnh nhân đúng theo sách nghi thức, rồi vội vã biến đi mất!
Theo giáo huấn “dứt khoát” của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, phụ nữ không bao giờ có thể cử hành Thánh Thể trong tư cách là chủ tọa - hay nói một cách chuyên môn hơn: phụ nữ không bao giờ có thể truyền phép Thánh Thể. Thế nhưng, vị kế nhiệm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rất có thể sẽ cảm thấy mình không bị ràng buộc bởi một lời tuyên bố như thế, nếu vị ấy biết chịu khó lắng nghe hơn không chỉ đối với các nhà thần học có năng lực và đáng tin cậy mà cả đối với cảm thức chung của những tín hữu được nhìn nhận là trưởng thành và có khả năng biện phân.
Đôi khi có người hỏi tôi: “Này, cha giải thích thế nào về sự kiện một linh mục đang mắc tội trọng vẫn có thể truyền phép Thánh Thể cách thành sự, trong khi đó một phụ nữ thánh thiện không bao giờ có thể truyền phép như thế?” Tôi thường trả lời bằng cách đặt một câu hỏi chìa khóa: “Truyền phép Thánh Thể, điều đó có nghĩa là gì? Không phải chúng tôi, các linh mục, là người truyền phép – tức làm cho cái vốn là bánh trở thành sự hiện diện của Đức Kitô. Mầu nhiệm này xảy ra qua epiklesis, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.” Thế tại sao lời cầu nguyện long trọng kêu xin Chúa Thánh Thần “xuống trên những lễ vật này và thánh hóa chúng” lại không được thốt lên từ môi miệng một phụ nữ thánh thiện, trong khi thực tế có những người đàn ông không được nhìn nhận là thánh thiện lắm lại làm được điều đó? Một đàng, tình trạng “tội chất cao như núi” của một linh mục cũng không làm cho khả năng “truyền phép” của anh ta suy suyển đi chút nào - và đàng khác, một phụ nữ, dù thánh thiện đến mấy, cũng không thể có được khả năng nói trên – tôi cảm thấy hình như nhiều người muốn coi hai điều ấy là tất nhiên như nhau. Nói cách khác, tôi tự hỏi: Phải chăng duy chỉ sự kiện người ta là phụ nữ đã là một cản trở không thể vượt qua đối với tính hiệu lực (của việc truyền phép), trong khi tình trạng tội trọng của một người đàn ông thì không liên can gì? Đây là những lấn cấn mà chúng ta không thể hòa hợp một cách thỏa mãn.
Một điều ngày nay nói chung không ai chối cãi, đó là giới thẩm quyền Giáo Hội không thể đưa ra một lý do chính đáng nào để loại trừ phụ nữ ra khỏi tất cả những cuộc thảo luận và những quyết định cốt yếu có liên quan tới nữ giới không kém chi nam giới. Phụ nữ là một nửa năng động của Giáo Hội; trước khi quyết định dứt khoát về chuyện có thể trao những tác vụ nào cho phụ nữ, thì cần phải quan tâm mời họ tham gia một cách tích cực vào trong các tiến trình thảo luận và biểu quyết tập thể. Hồi năm 1994, trong kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về đời sống thánh hiến, một giám mục đã đề nghị rằng phụ nữ nên tham gia vào trong cuộc bầu chọn giáo hoàng! Đó không phải là một đề nghị có ý nghĩa sao?
Về vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ, có đủ tư liệu để cho thấy rằng lập luận truyền thống chống lại việc này không chỉ sai lạc mà còn đáng xấu hổ nữa, chưa nói là nó rất nguy hiểm về mặt thần học. Văn kiện Inter Insigniores (15-10-1976) của triều Giáo Hoàng Phao-lô VI tham chiếu đến nhiều nhà thần học Trung Cổ (thay vì là những nhà thần học hiện đại) như Bonaventura, Duns Scotus và Durandus. Tất cả những tên tuổi ấy đều đã đưa ra cùng những lập luận giống nhau và do đó cùng sai lầm như nhau. Quan điểm của Scotus được thấy là đặc biệt “cạn tàu ráo máng”:
Chức thánh là một cấp bậc cao trọng vượt trên những người khác trong Giáo Hội và dành cho một vai trò ưu việt vốn, một cách nào đó, phải được biểu hiện bởi địa vị và thế giá cao trọng. Nhưng phụ nữ tự bản chất ở trong tình trạng lệ thuộc đối với nam giới, và do đó không thể chiếm một phẩm vị cao trọng trên bất cứ người đàn ông nào ... Nếu phụ nữ có thể nhận chức thánh trong Giáo Hội, họ sẽ có thể đứng đầu và điều khiển, một điều hoàn toàn trái nghịch với tình trạng của họ ... Vì thế, phụ nữ không phải là một thứ có khả năng nhận bí tích này (Scotus, In IV sent. d. 25, Scholion Opus Oxoniense).
Như vậy, chúng ta có thể thấy cách mà mặc cảm tự tôn nam giới dễ dàng tự động chuyển thành mặc cảm tự tôn linh mục. Mặc cảm tự tôn ấy là một sự đối nghịch khủng khiếp với sự thật cốt lõi và khuôn mặt của Đức Kitô Người Tôi Tớ. Chúng ta cũng thấy rõ rằng toàn bộ vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ không thể được giải quyết thỏa đáng bao lâu chức linh mục Công Giáo – trong lý thuyết và thực hành – vẫn còn được hiểu như một bậc sống ‘chức trọng quyền cao’. Một não trạng trọng nam khinh nữ và nặng tính phân chia cấp bậc như thế cũng đồng thời có chiều hướng loại trừ phụ nữ ra khỏi mọi tiến trình bàn bạc và thảo luận quan trọng trong Giáo Hội (x. Dennis Michael Ferrara, “The Ordination of Women: Tradition and Meaning,” Theological Studies 55 [1994], tr. 706-719).
Những điều kiện cần thiết để chủ tọa cuộc cử hành Thánh Thể
Đức Kitô đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể như một quà tặng đặc biệt của tình yêu cho Giáo Hội lữ hành mọi nơi và mọi thời. Tôi cho rằng từ sự thật căn bản này, chúng ta dễ dàng rút ra kết luận rằng bất cứ sự đòi hỏi nào trong thực tế tước đoạt khỏi các cộng đoàn Kitôhữu việc cử hành Thánh Thể đều đặn thì đều là những đòi hỏi không có cơ sở, và do đó cần phải được xét lại.
Đây là một sự thật có tầm rất hệ trọng đối với những ai đang nắm giữ quyền bính. Chúng ta hãy đọc lại tuyên bố của Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo:
Việc cử hành Ngày của Chúa và Hy Lễ Tạ Ơn của Ngài vào ngày Chúa Nhật là trung tâm của đời sống Giáo Hội (2177). Thánh Lễ Chúa Nhật là nền móng và là nguồn lực củng cố của mọi thực hành Kitô giáo. Vì vậy tín hữu có bổn phận phải tham dự Thánh Lễ vào những ngày buộc trừ phi được miễn chước vì một lý do hệ trọng. Những ai cố ý bỏ bổn phận này thì mắc tội trọng (2181).
Trong một thần học luân lý nhắm đến không chỉ những người dưới quyền bính mà còn nhắm đến cách đặc biệt những người nắm quyền bính, thì có thể thấy rõ rằng nếu vì quá nhiều điều kiện nhân tạo làm cản trở không cho nhiều cá nhân và cộng đoàn Kitôhữu đều đặn tham dự Hy Lễ Tạ Ơn thì những vị lãnh đạo Giáo Hội đặt ra cac điều kiện đó sẽ “mắc tội trọng” (xem số 2181 trên). Người ta không thể nói rằng bao nhiêu Thánh Lễ họ bị tước đoạt do các qui định nhân tạo như thế thì chính các nhà hữu trách Giáo Hội cũng mắc bấy nhiêu tội đó sao? Để bắt đầu một cuộc thẩm xét xa hơn, thiển nghĩ nên xuất phát từ những cộng đoàn dùng bữa của Giáo Hội Kitô giáo thời sơ khai.
Linh mục thợ - Xin chân thành cám ơn các bạn!
Không nghi ngờ gì nữa, các linh mục thợ xứng đáng được chúng ta tri ân sâu xa. Họ đã và vẫn đang là những nhà tiên phong dũng cảm trong việc thám hiểm các chân trời mới cho một nhận thức đúng đắn hơn về hội nhập văn hóa và về chức linh mục thừa tác. Nói một cách ẩn dụ, bước nhảy của họ là một bước nhảy vĩ đại qua một vực thẳm vừa sâu vừa rộng. Nhiều linh mục và giám mục nổi tiếng về lòng nhiệt thành mục vụ và về sự sáng suốt đã dám đương đầu với vấn đề nóng bỏng là sự lảng xa của tầng lớp lao động bình dân đối với một Giáo Hội không chỉ rề rà đi sau lịch sử mà đồng thời còn rề rà đi sau Tin Mừng của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nữa. Các linh mục này hiểu rằng xì-căng-đan đã nổi lên khi người ta mất liên lạc với giới lao động, cũng như ngày nay nhiều Kitô hữu sáng suốt đang lo ngại Giáo Hội có thể đánh mất nhiều người trong số các phụ nữ đầy tiềm năng nhất của mình.
Các thông điệp của Giáo Hoàng Lêô XIII và Piô XI về vấn đề xã hội của giai cấp thợ thuyền chắc chắn là những ví dụ về một bước đi đúng hướng; Nhưng chúng không thể lấp đầy cái vực thẳm giữa những thực hành của Giáo Hội và nền văn hóa của giai cấp thợ thuyền. Paul Gauthier, trong tư cách là một trong những linh mục sáng suốt trỗi vượt về mục vụ, đã có đủ dũng cảm và tinh tế để diễn tả điều đó một cách thẳng thắn như sau: “Nước Pháp đã trở thành một xứ truyền giáo.” Tuy nhiên, dù có thiện chí đến mấy đi nữa, các linh mục được sai đến với giới thợ thuyền vẫn mang dấu ấn khác biệt về văn hóa và giai cấp – đó là kiểu thức linh mục theo Triđentinô, được biểu tượng bởi chiếc áo chùng đen. Đa số các linh mục hoàn toàn không thể nhận ra tầm mức của sự khác biệt và sự xa lạ về văn hóa. Ở đây chúng ta không cần phải chứng minh về sự xa lạ của giới thợ thuyền hay của Giáo Hội, vì cả hai đều đã quá sáng tỏ.
Hồng Y Emmanuel Suhard vĩ đại - cùng với các nhà tư vấn và tuyên úy của giới trẻ Công Giáo như Jacques Loew, OP, Henri Godin và Yves Daniel - là những người đã có sáng kiến thực hiện cuốn sách gây xôn xao dư luận: Nước Pháp, Xứ Truyền Giáo? ( tác giả của cuốn sách là hai danh tánh sau cùng nêu trên).
Trong thời gian sửa soạn cho Công Đồng, tôi có dịp tiếp xúc và cộng tác với Jacques Loew và Giám Mục A. Ancel, người vẫn đường đường là một linh mục thợ ngay cả khi đã trở thành giám mục. Tất cả những khuôn mặt ấy đều toát ra tinh thần Tin Mừng một cách tuyệt vời, để lại ấn tượng rất sâu sắc cho tôi.
Chắc độc giả sẵn lòng thứ lỗi cho tôi vì tôi hơi lang bang một chút để nhắc lại câu chuyện mà tôi đã nghe từ Giám Mục Ancel; dù sao câu chuyện cũng rất đặc trưng cho vấn đề ở đây. Số là văn kiện Veterum Sapienta, được thông qua bởi các giới chức già nua trong giáo triều, nêu nghị quyết rằng nhân Công Đồng sắp tới, cần phải cố gắng để duy trì “văn hóa Latinh” và, nhằm mục đích ấy, mọi triết học và thần học sẽ mãi mãi cần phải được giảng dạy bằng tiếng Latinh trên khắp thế giới. Sau khi văn kiện ấy được ban hành, Giám Mục Ancel, thay mặt các giám mục Pháp, đã đến gặp giáo hoàng và thẳng thắn bày tỏ sự phản đối. Giáo Hoàng Gioan XXIII không chút ngạc nhiên. Ngài nói: “Thưa Đức Cha, tôi đón nhận sự phản đối này. Và tôi hiểu tại sao. Nhưng hãy cho phép tôi kể một câu chuyện để giải thích vấn đề này:
Giorgio, một nông dân ở miền núi Bergamo, đến gặp giám mục của mình và xin ngài đặt mình làm linh mục, vì suốt mùa đông dài chẳng linh mục nào có thể đi tới thị trấn bé nhỏ ấy, vì thế mọi người ở đó phải sống không có Thánh Lễ. Giorgio nói: “Thưa Đức Cha, con bảo đảm rằng con có thể làm lễ bằng tiếng Latinh nghiêm chỉnh, mặc dù con không hiểu ất giáp gì về thứ tiếng ấy. Nhưng con cũng có thể phỏng đoán ý nghĩa cách đại khái được.” Vị giám mục rất cảm động, nhưng ngài trả lời anh ta: “Rất tiếc, vì anh là người đã kết hôn, tôi không được phép truyền chức linh mục cho anh.”
Một năm sau, Giorgio lại đến gặp giám mục và thưa: “Margaret, người vợ thánh thiện của con, đã được Chúa gọi về, và con không có ý định cưới vợ lần nữa. Vậy, thưa Đức Cha, con có thể lãnh chức linh mục không ạ?” Giorgio trải qua một cuộc khảo hạch ngắn, và anh tỏ ra rất xuất sắc trong việc nắm hiểu các nghi thức. Thế là anh được phong chức linh mục. Làng anh ai nấy đều phấn khởi.
Sau đó, Giorgio có một chuyến về thành phố vài ngày, cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa. Trong phòng áo, tất cả các linh mục khác đều nói “Prosit!” để chào anh. Giorgio hỏi một cha già xem tiếng chào ấy có nghĩa là gì. Vị linh mục ấy, vốn tính ranh ma, trả lời: “Prosit nghĩa là thằng đểu” . Ngày hôm sau, khi Giorgio lại được chào “Prosit!”, anh nổi khùng lên, đấm thẳng một cú vào mặt kẻ chào mình, và thét lớn: “Ông cũng là một prosit!”
Kể tới đây, Giáo Hoàng Gioan XXIII dừng lại, đăm chiêu, rồi nói với Giám Mục Ancel: “Có lẽ tôi chỉ muốn rằng anh chàng Giorgio ấy cần phải biết từ Latinh Prosit có nghĩa là gì!” Rồi ngài thở dài, thú nhận: “Ôi, tôi hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho tôi vì tôi đã nhân nhượng một điều như thế này đối với giáo triều.”
Sự sùng bái tiếng Latinh như vậy không phải là một biểu tượng của sự lảng xa sao? Cũng vào giai đoạn đó, một hồng y tên tuổi khác đã viết trong tờ Osservatore Romano rằng Rôma sẽ mãi mãi có bổn phận phải khai hóa các dân man di bằng “siêu văn hóa” Latinh. Trong cùng hướng suy nghĩ này, Hồng Y Giuseppe Pizzardo, bấy giờ là người đứng đầu thánh bộ của Tòa Thánh, trong một cố gắng trấn áp phong trào các linh mục thợ, đã đưa ra quan điểm như sau: Việc đứng vào hàng ngũ của tầng lớp lao động lệ thuộc xem ra không xứng đáng với địa vị của một linh mục. Thật lạ! Tại sao vị hồng y ấy không nhận ra rằng việc mình khoác vào người bộ áo đỏ tía diêm dúa ấy và việc mình đê mê với những tước hiệu kệch cỡm kia thì hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc?
Năm 1963, năm đầu tiên triều giáo hoàng của ngài, Giáo Hoàng Phao-lô VI nói chuyện với tôi về vấn đề linh mục thợ, ngài bày tỏ với tôi mối cảm thông và quan tâm mục vụ sâu sắc của ngài. Ngài trao cho tôi một tập hồ sơ dày và yêu cầu tôi đúc kết một nhận định về vấn đề đang rất thời sự này. Quyết định của Giáo Hoàng Phao-lô VI về việc tiếp tục cuộc “thử nghiệm” các linh mục thợ đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của Công Đồng qua văn kiện về “Sứ Vụ Và Đời Sống Linh Mục” (đoạn 8).
Bất chấp mọi khốn đốn và hiểu lầm, cơ chế linh mục thợ đã nhận được sự phê chuẩn cuối cùng – và đây là một dấu hiệu “mở cửa” để đón lấy ngọn gió trong lành. Chúng ta được mở mắt ra để thấy một vấn đề còn rộng lớn hơn – đó là, sự xa cách thăm thẳm được tạo ra bởi nền giáo dục và văn hóa của các linh mục được định hình cách đồng nhất theo kiểu thức chủng viện Triđentinô, nhất là trong sắc thái Rôma, vốn vẫn còn rất phổ biến cho tới Công Đồng Vatican II. Công việc của Giáo Hội xét toàn thể và đặc biệt của các giám mục và linh mục là phải tiếp tục tiến trình hội nhập văn hóa về thần học và sứ vụ, để tôn vinh Đức Giêsu Người Thợ Mộc, Đấng là “Con Người”, là “một người ở giữa chúng ta” và giống chúng ta trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi.
Sự hiện diện của các linh mục thợ gần như trên khắp thế giới ngày nay là một dấu hiệu của hy vọng và của sự thách đố còn tiếp tục đặt ra cho toàn thể Giáo Hội - nhằm xích lại gần Đức Giêsu hơn trong chính lịch sử nhân loại ở đây và bây giờ, cũng như trong mọi nền văn hóa. Câu hỏi căn bản của chúng ta là: “Giáo Hội và thế giới đang cần loại linh mục nào?” Chính mối ưu tư này đã cho tôi sự can đảm và động lực để viết quyển sách nhỏ này.
Trong hoàn cảnh bị thách đố về thể lý
Nhìn lại hoàn cảnh hiện nay của mình, tôi không thể không nghĩ rằng mình là một người tàn tật và bị rất nhiều thách đố về thể lý. Vấn đề thanh quản chỉ là một trong rất nhiều khó khăn khác nữa của tôi. Mở rộng tầm nhìn hơn, hướng nhìn đến Đấng Emmanuel, Ngôi Lời Nhập Thể, và đồng thời nhìn đến đà thay đổi nhanh chóng trong lịch sử thời đại chúng ta, chúng ta có thể thành thực nói rằng tất cả chúng ta đang gặp vướng víu và đang bị làm cho tàn phế trong cả hai phương diện, chúng ta vừa chậm chạp không bắt kịp sự gần gũi của Đức Giêsu đối với dân Người vừa trôi tụt lại phía sau trên con đường tốc hành của lịch sử hiện đại.
Các linh mục chúng ta mang sâu trong mình những vết thương không chỉ mới hình thành trong hiện tại. Trên đôi vai yếu ớt của mình, chúng ta còn phải gánh lấy gánh nặng của lịch sử Giáo Hội. Nếu chúng ta cho phép mình nhận thức được các thương tích lớn lao ấy của mình, nếu chúng ta nhận thức được tình trạng lạc hậu và què quặt của mình trong vô số phương diện, thì rất có thể chính những khiếm khuyết của chúng ta sẽ trở nên nẻo đường ẩn tàng cho chúng ta đón nhận dồi dào ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể trở thành dấu chỉ và biểu hiệu của Người Tôi Tớ tang thương của Thiên Chúa. “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quí mến hết lòng” (Is 42,1). “Bao kẻ sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người” (Is 52,14). “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật; người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn” (Is 53,3).
Những suy niệm này của tôi bật ra khi tôi đọc câu chuyện về một vị mục sư Tin Lành bị tàn phế nặng nề nhưng đã hết lòng quảng đại dấn thân phục vụ cho những kẻ tàn tật thuộc mọi loại và mọi mức độ. Thật chẳng hợp tí nào với qui định của giáo luật cũ của chúng ta rằng không được truyền chức linh mục cho những người bị khiếm khuyết thân thể trầm trọng! Toàn bộ tình hình của chúng ta hiện nay có thể được cải thiện rất nhiều nếu Giáo Hội mời gọi các ơn gọi linh mục từ những con người đau khổ này, đặc biệt để phục vụ cho những anh chị em tàn tật. Đời sống của các linh mục tàn tật sẽ là sự nhắc nhở sống động cho chúng ta về Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
NHỮNG CON VẬT TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY
Trong khi quả thật Giáo Hội đang có những linh mục và giám mục mà Giáo Hội đáng có, thì có một câu hỏi quan trọng là: Phải chăng các linh mục đang có được loại Giáo Hội mà họ đáng có? Một câu hỏi thật gay go! Tất cả chúng ta, từ những Kitôhữu bình dân chất phác nhất cho tới giáo hoàng, đang là những người hưởng dụng bao kho tàng quí báu của lịch sử Giáo Hội, nhưng chúng ta cũng là những kẻ kế thừa các gánh nặng của Giáo Hội để lại nữa - đây là một điểm mà tôi muốn đề cập qua suốt quyển sách này. Lịch sử của chúng ta là một lịch sử nhập nhằng, vì chúng ta cưu mang trong lòng mình nhiều ký ức phấn khởi đan quyện với vô số những dấu ấn của thương tích. Với tất cả những điều đó trong tâm tư mình, tôi muốn nhận định ở đây về các loại linh mục khác nhau trong Giáo Hội chúng ta, nhất là vì câu hỏi căn bản của chúng ta - “Giáo Hội cần loại linh mục nào?” – có quan hệ trực tiếp với loại Giáo Hội mà chúng ta sẽ có.
Con tàu Nô-e: Nguồn cảm hứng cho chức linh mục
Ở đây tôi mạn phép bạn đọc để cố gắng mô tả những loại linh mục khác nhau đang trong hành trình với đoàn dân lữ hành của Thiên Chúa mà chúng ta gọi là Giáo Hội. Nhằm mục đích đó, tôi sẽ sử dụng biểu tượng con tàu Nô-e như con tàu của chúng ta, đặc biệt bởi vì con tàu ấy là hình ảnh báo trước con tàu của ơn cứu độ do Đức Giê-su Kitô đem lại.
Một hôm, Nô-e trở nên chán nản, buồn phiền và trong nước mắt ràn rụa ông đến gặp Chủ của con tàu và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa giam con trong con tàu này với quá nhiều những con vật kinh khủng như thế này – nào là những con khỉ ngu ngốc, nào là những con heo hôi hám, nào là ...?” Ông kể một danh sách dài ngoẵng những thứ tồi tệ. Thiên Chúa lắng nghe đầy thương cảm, rồi Ngài ôn tồn nói: “Này Nô-e thân mến, ngươi đừng quên rằng con tàu này là ơn cứu độ của ngươi ở đây và lúc này. Chúng ta cứu sống những con vật tội nghiệp ấy nữa thì càng hay đấy chứ, phải không?”
Con gà trống: Vừa kiêu hãnh vừa trịch thượng
Một số linh mục dường như chọn con gà trống làm bổn mạng. Họ đứng chễm chệ trên cao, tự ca ngợi vinh quang và quyền lực của mình: “Lạy Chúa, hãy nhìn và hãy lắng nghe con đây! Con là chúa tể trong lãnh địa của con. Vâng, Chúa hãy bảo đám gà mái và gà con ấy biết lắng nghe và vâng lời con, vì ích lợi của chính chúng nó!”
Rất nhiều cám dỗ tồi tệ khiến người ta kiêu ngạo – những cám dỗ này dễ dàng dấy lên trong hàng ngũ giáo sĩ, nhất là những vị có chức tước cao. Tôi tin rằng Thiên Chúa của chúng ta, Đấng vô cùng kiên nhẫn, phải bụm miệng cười và nhân hậu chịu đựng những con gà trống quái đản này. Thật vậy, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn tha thứ cho họ, bởi vì nếu tôi – chỉ là một con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa – mà có thể phì cười vào những trò cao ngạo ấy, trong một số chừng mực nào đó, thì Thiên Chúa còn có thể cười thấm thía hơn biết chừng nào!
Dù sao, cứ nhìn cho kỹ, người ta sẽ thấy rằng cái toát ra từ những linh mục tự mãn không phải là hương thơm thánh đức mà đúng hơn chỉ là mùi tanh hôi. Để tự vệ, các linh mục này có thể không ngần ngại đưa ra những giải thích rất quờ quạng để biện minh cho tính cách tự mãn của mình. Chẳng hạn, chẳng phải họ là những vận động viên khỏe nhất và đã vượt qua những kẻ khác trong cuộc chạy đua tranh giành địa vị đó sao? Chẳng phải rõ ràng là họ rất có tài trong việc cai quản và tổ chức những “sân nuôi gà vịt” của họ đó sao? Họ chẳng xác quyết rằng họ - với quyền Thiên Chúa ban cho và với những chức tước hẳn hoi - mới có sự tinh thông để giảng dạy và cai quản đó sao? Rồi, với tất cả những hào quang đó, họ chẳng bước đi một cách ‘hách xì xằng’ trong những rừng màu sắc, ánh sáng, biểu ngữ ... xứng đáng với địa vị của họ đó sao?
Nhưng câu hỏi lồ lộ nhất vãn còn nguyên đó. Thật sự các vị đó đang làm gì trong con tàu cứu độ này? Không phải do bởi lòng khiêm nhường vô hạn mà Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Kitô, đã nhập thể và hiện thực hóa chương trình cứu độ đó sao? Không phải Thiên Chúa là Đấng đã bác bỏ mọi sự gán ghép chức linh mục với thói trịch thượng kiểu gà trống đó sao? Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đã không cảnh giác tất cả chúng ta qua lời cầu nguyện của Đức Maria, người Nữ Tì khiêm tốn đó sao?: “Ngài đập tan những ai lòng trí kiêu căng. / Ngài hạ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, / và nâng lên những người bé mọn” (Lc 1,52)
Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, vì trên con tàu của Ngài có nhiều linh mục, giám mục, giáo hoàng không khoe khoang hợm hĩnh, bên cạnh những con người thấp hèn, cô thân cô thế của Ngài – đó là những người anawim, những người chú tâm lắng nghe Lời Ngài và thể hiện cuộc sống khiêm nhường của Đức Giêsu Người Thợ Mộc. Trong sự thấp hèn của họ, Ngài đã mạc khải cho họ vinh quang đích thực của Ngài!
Những con chim sơn ca
Một trong những ca sĩ dễ thương và được ngưỡng mộ nhất trong các loài chim, đó là chim sơn ca. Tôi thường lắng nghe tiếng hót trong trẻo của sơn ca vào giờ kinh sáng của mình, mặc dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chú sơn ca nào. Chim sơn ca giúp tôi suy niệm về một khía cạnh đặc biệt nói lên tính đích thực của Kitôhữu và của người linh mục. Thật kỳ lạ, chim sơn ca vừa giấu mình không cho người ta nhìn thấy, vừa tự bộc lộ mình qua tiếng hót rộn rã giữa trời đêm. Dù chúng ta có nghèo khả năng suy tư đến mấy đi nữa, tiếng hót thánh thót của loài chim này cũng có thể nhắc chúng ta nhớ rằng thật quan trọng biết bao việc xây dựng một đời sống linh mục đích thực có sức cuốn hút người ta hướng đến sứ điệp chan hòa niềm vui của Thiên Chúa và ca tụng Ngài, chứ không phải thu hút sự chú ý về phía người sứ giả. Chim sơn ca nhắc chúng ta rằng cái tôi của chúng ta không thể bành trướng và che lấp sứ điệp niềm vui giải phóng của Thiên Chúa hay hoàn toàn làm tắc nghẽn không cho người tín hữu nghe được sứ điệp ấy. Người linh mục đích thực là người linh mục thể hiện bản ngã thực của mình, bằng cách hướng chỉ cho người khác thấy Thiên Chúa – chứ không phải thấy chính mình. Người linh mục đích thực là người sứ giả không bao giờ đứng chình ình cản lối sứ điệp. Đây chính là ý nghĩa cốt yếu của câu châm ngôn I-nhã: Mọi sự để vinh danh Chúa hơn!
Có một kinh nghiệm mà tôi thường ôn lại trong tâm trí mình giúp minh họa rất rõ ơn gọi của loài chim sơn ca. Năm 1950, tôi có dịp giảng tuần đại phúc tại một giáo xứ trong vùng, chị giúp việc cha sở đã kể cho tôi một câu chuyện rất ấn tượng – nhân vì lúc ấy tôi đang sôi nổi khen ngợi mối quan hệ tốt lành giữa vị cha sở cao niên của chị và linh mục phụ tá của ngài. Được biết trước đó chị chưa bao giờ kể câu chuyện này với bất cứ ai, vì cha sở đã bắt chị thề phải giữ kín. Tuy nhiên, chị quyết định kể cho tôi, tin tưởng rằng tôi sẽ không xì nó ra cho mọi người trong giáo xứ biết. Và câu chuyện về chim sơn ca ấy của chúng ta như sau:
Sau khi trải qua 5 năm với tư cách là một sĩ quan quân y trong quân đội hồi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, người linh mục trẻ ấy được bổ nhiệm về làm phụ tá mục vụ ở giáo xứ, và ngay lập tức, chinh phục được trái tim của mọi người. Bực bội về điều này, ông cha sở luôn luôn nhắc cho cha phụ tá mới của mình nhớ rằng ông mới là người trách nhiệm giáo xứ chứ không phải anh ta. Đong đưa giữa lòng ganh tị và sự thán phục, ông cha sở dần dần nhận ra rằng nên chăng mình học hỏi một điều gì đó từ cha phụ tá trong việc phục vụ giáo xứ của mình, một giáo xứ vốn có rất nhiều dân tị nạn nghèo khổ.
Một bữa nọ, cha phụ tá yêu cầu chị giúp việc sắp xếp để đưa chiếc giường ngủ của mình tới cho gia đình nghèo nhất mà ngài vừa ghé thăm. Ngài cũng cấm chị không được nói cho ai biết rằng đó là chiếc giường duy nhất của ngài. Thế rồi, điều xảy ra là có một sự ngộ nhận dần dần được lan truyền giữa các giáo dân trong giáo xứ. Người ta nói với nhau rằng cha sở đã gửi tặng chiếc giường của ngài cho một gia đình nghèo – và ai nấy tỏ niềm trân trọng đối với nghĩa cử ấy của cha sở. Cha sở không thể đính chính gì được cả. Tuy nhiên, ông tìm ra một cách giải quyết khá hay: ông quyết định tặng hai trong số những cái giường thừa không dùng đến của ông cho những người nghèo nhất trong giáo xứ. Kết quả là một mối quan hệ hoàn toàn mới đã được hình thành giữa cha sở và cha phụ tá, và cả giữa cha sở và giáo xứ nữa. Hơn nữa, chị giúp việc còn cho biết thêm rằng câu chuyện này cũng là một bài học hết sức ấn tượng cho bản thân chị.
Tôi tin rằng vị linh mục trẻ ấy có thể sẽ phàn nàn chị giúp việc của mình nếu ngài biết chị ấy đã kể cho tôi nghe câu chuyện, nhưng tôi đã hứa với chị rằng tôi sẽ giữ kín câu chuyện ấy khi tôi còn lưu lại tại giáo xứ. Tuy nhiên, về sau khi đi phục vụ tại nhiều quốc gia khác nhau, tôi đã kể câu chuyện này cho rất nhiều linh mục. Đây cũng là một câu chuyện mà tôi tự ôn lại trong tâm trí mình thường xuyên – vì nó nêu bật một khuôn mặt linh mục khiêm nhường, biết giấu mình đi để người ta có thể thật sự quy hướng về Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Nhà luân lý khắt khe
Không thể đếm được đã bao nhiêu lần tôi được giới thiệu là “một nhà luân lý tên tuổi” mỗi khi tôi được mời nói chuyện với một cử tọa. Ay náy trong lòng, tôi tự hỏi tại sao người ta lại gán cho mình cái tước hiệu sỉ nhục này; vì phần đông người ta hiểu mấy chữ “nhà luân lý” theo một nghĩa rất tiêu cực. Một nhà luân lý là một con người luôn luôn xét đoán và khiển trách người ta. Ông ta luôn luôn cố nhồi nhét cho người ta tất cả những điều luật và những quy định cấm “nghiêm ngặt”, mà không mấy lưu tâm đến những hoàn cảnh có thể cho phép các ngoại lệ. Ông ta dồn cho thiên hạ những nỗi sợ hãi. Thật là kinh khủng! Nếu nền luân lý kỳ quặc ấy là tiêu chuẩn ơn cứu độ của Thiên Chúa, thì hẳn là con tàu Nô-e sẽ nhanh chóng bị bỏ phế, và hỏa ngục sẽ trở thành nhung nhúc dân cư!
Nhà luân lý – theo nghĩa đặc trưng – là người chuyên tâm nhắm kiểm soát hoàn toàn lương tâm người ta, một phần qua việc đòi hỏi người ta xác định chính xác các tội theo thứ loại và theo số lượng. Trong khung cảnh tòa giải tội, vị linh mục thường vô tình biến cuộc gặp gỡ ấy thành một nơi tra khảo và xét nét, chủ yếu bằng những câu hỏi đại loại như: Anh đã phạm tội thủ dâm kinh khủng ấy bao nhiêu lần? Chị đã nuôi dưỡng trong lòng những ý tưởng không trong sạch ấy bao nhiêu lần, và chị hãy nói rõ đó là những ý tưởng không trong sạch thuộc loại nào?...
Rất may, các tín hữu Công Giáo ngày nay đã biết chọn lựa cha giải tội cho mình, và phần đông có thể tìm ra những linh mục biết nhận thức – như Thánh An-phong-sô – rằng vai trò chủ yếu của cha giải tội là trở thành tấm gương phản chiếu khuôn mặt của Thiên Chúa vô cùng thương xót, khuôn mặt của Đức Giêsu Đấng Chữa Trị. Những linh mục này hiểu rằng việc “xét xử” (trong chừng mực mà con người có thể làm) tiên vàn có nghĩa là việc biện phân giữa đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu giả mạo.
Phúc cho những hành khách nào ở trên con tàu Giáo Hội – trong tiếp xúc với các linh mục và các Kitôhữu khác – có thể cảm nghiệm được không chỉ quyền năng giải phóng của Thiên Chúa theo lời Thánh Phao-lô: “Anh em không còn thuộc về Lề Luật, nhưng là thuộc về ân sủng của Thiên Chúa” (Rm 6,14), mà họ còn – nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần – có thể giúp đỡ nhau một cách đầy khích lệ. Hãy cút đi, hỡi các nhà luân lý, và đừng bao giờ quay trở lại bao lâu các người chưa có đủ lòng khiêm tốn thực sự để biết suy ngẫm về sự quảng đại và ân cần thứ tha của Đấng đã sáng tạo nên các người!
Những người lính gác
Làm một lính gác, hay một người bảo vệ, tự nó không phải là cái gì xấu, nếu các linh mục nhận hiểu trách nhiệm của mình là bảo vệ các quyền chính đáng và sự tự do của mọi người, chống lại những xâm phạm bất công. Tuy nhiên, những người bảo vệ đức tin rất dễ tìm thấy sự khoái trá trong quyền lực và trong việc hành sử vai trò kiểm soát, nhất là nếu họ tóm cổ được một kẻ nào đó đang sai quấy. Leo thang tới một mức thái quá, các linh mục như thế sẽ hùng hổ tố cáo người ta dù chỉ do một vi phạm nhỏ nhặt nhất đối với một điều luật ít quan trọng nhất – mà không bao giờ kiểm tra xem chính bản thân điều luật đó có thực sự chính đáng không.
Thật đáng ngạc nhiên để nhận thấy rằng trong Giáo Hội hôm nay, các nhà bảo vệ thường sử dụng quyền cao chức trọng của mình để thi hành sự kiểm soát thái quá trên mọi vấn đề về chính thuyết (orthodoxy), nhất là về những giáo thuyết không được mạc khải - trong khi đó, họ hoàn toàn không có khả năng thuyết phục ngay cả những Kitôhữu nghiêm túc nhất tin rằng những giáo thuyết ấy đến từ Thiên Chúa. Đó là chưa kể đến những sự kiểm soát mà họ áp đặt trên người ta về những vấn đề chẳng có liên quan gì đến chính thuyết cả! Một hệ thống kiểm soát gần như toàn bộ là một hệ thống thoát thai từ sự nghi ngờ, và nó tạo ra một bầu khí không lành mạnh cho các mối quan hệ con người – điều này rõ ràng tương phản với sứ mạng của Giáo Hội là chữa trị chứ không phải xét xử.
Trong một nền văn hóa ngày càng có nhiều khả năng nhồi sọ, nắn ép công luận, nắn ép cả gien của con người, thì câu hỏi nóng bỏng được đặt ra là: Ai kiểm soát những nhà kiểm soát? Thực vậy, những nhà-kiểm-soát-không-được-ai-kiểm-soát có thể ví như một cơn dịch tàn khốc mà chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác.
Trong lịch sử, chúng ta thấy rằng tất cả những chế độ độc tài chuyên chế, như chế độ của Hitler và của Stalin, đã không ngừng đẩy mạnh một hệ thống kiểm soát ngày càng tinh vi hơn. Sau sự sụp đổ của chế độ theo đường lối Stalin ở Đông Đức, người ta phải giật mình khám phá ra rằng vô số người đã bị kiểm soát một cách âm thầm bởi những kẻ khác ngồi trên chóp bu và không bị ai kiểm soát – và rồi đến lượt mình, chính những người bị kiểm soát này đã trở thành những người kiểm soát. Điều đáng ghi nhận nữa là nhiều nhà kiểm soát như thế là những con người vốn có nhiều tiếng tăm! Ngay cả những tù nhân trong các trại tập trung cũng sẽ được đãi ngộ tốt hơn nếu họ nhận công việc kiểm soát và tố cáo các bạn tù của mình. Rốt cục, hầu như mọi người đều trở thành tù nhân của chính mình cách này hay cách khác do bởi hệ thống kiểm soát có tính thanh trừng, lừa gạt và phản phé ấy.
Giáo Hội, ở mọi cấp, phải ghê tởm và xa lánh một hệ thống kiểm soát như thế. Thay vào đó, chúng ta hy vọng rằng Giáo Hội sẽ chọn con đường “khoan nhượng lẫn nhau về lương tâm” – nghĩa là trong thực tiễn Giáo Hội sẽ tích cực hậu thuẫn một công luận lành mạnh đồng thời thúc đẩy sự đối thoại trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
Giới thẩm quyền trong Giáo Hội không bao giờ được phép nhân nhượng trước cám dỗ a dua chấp nhận những xu hướng thoát thai từ các ý thức hệ kinh khủng mà chúng ta đã kinh nghiệm trong thế kỷ này. Trong tư cách là người hướng dẫn người ta đến với chân lý và ánh sáng, Giáo Hội phải luôn luôn cảnh giác để chống lại những khẩu hiệu hồ đồ và rỗng tuếch kiểu như: “Hitler muôn năm! Hitler luôn luôn đúng!”
Hơn nữa, một Giáo Hội đảm nhận sứ mạng thể hiện công lý và sự khiêm nhường của Đức Kitô cũng cần phải thận trọng phòng tránh những ý thức hệ sai lầm và thiên lệch quá mức của chính mình nữa. Trong tiến trình này, mọi linh mục – dù là giáo hoàng, hồng y, giám mục, cha sở hay phụ tá mục vụ – đều có thể đóng góp rất nhiều cho Giáo Hội bằng cách biết đưa ra cũng như biết đón nhận những sự phê bình có tính xây dựng, xét như một phương thế để nhận thức sâu hơn về chân lý. Trong thời đại này, lịch sử đặc biệt nhắc chúng ta về ý nghĩa và giá trị của việc thực thi nhân đức phê bình – qua việc suy tư thần học và chia sẻ kinh nghiệm. Nhân đức này giả thiết rằng tất cả chúng ta, ở bất cứ vị trí nào trong Giáo Hội, cũng đón nhận và cống hiến cho nhau sự phê bình trong tinh thần xây dựng.
Việc tiếp nhận nhãn quan của Công Đồng Vatican II có thể là một kinh nghiệm giải phóng lớn lao và là một cơ hội tuyệt vời cho chúng ta tiến xa hơn trong nỗ lực đại kết – nhất là kể từ khi Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở đường cho chúng ta qua việc ngài đột phá cách ngoạn mục vào cuộc đối thoại chân thành và cởi mở.
Sự nhấn mạnh của Công Đồng về việc thúc đẩy tính tập đoàn và về việc phát triển các cơ cấu phân nhánh (subsidiary) cần phải vượt thắng trên các khuynh hướng tập quyền, chuyên chế và o ép. Não trạng “cha chú” và việc hành sử kiểm soát thái quá cần phải bị vạch mặt rõ để mọi người thấy rằng nó là một kẻ thù của sự tự do và của năng lực sáng tạo mà Đức Kitô đã đem lại cho tất cả mọi người chúng ta.
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để đo lường tính đích thực của một ơn gọi linh mục, đó là sự cắm rễ sâu xa trong tinh thần phi bạo lực và sự thể hiện tinh thần này trong thực tiễn. Trước Vatican II, tại một số nơi trong Giáo Hội, có tồn tại một thứ thần học luân lý đặt nền trên sự khống chế (để trang bị cho các nhà kiểm soát khác nhau) – và thứ thần học này đã sản sinh ra cả loạt những linh-mục-nhà-bảo-vệ rất tiêu cực. Trong khi tôi hy vọng não trạng khống chế ấy, vì lợi ích của Giáo Hội, sẽ lụi tàn đi, thì tôi vẫn nghĩ rằng cần nêu ra ở đây ít nhất hai ví dụ về thứ não trạng này như một cảnh tỉnh cho những ai còn có xu hướng tơ tưởng đến nó.
Sau khi từ Nga trở về vào năm 1945, tôi giảng tĩnh tâm Mùa Vọng tại một giáo xứ. Theo lời đề nghị của tất cả các nhà thừa sai, tôi đã mời mọi người, không trừ ai, đến lãnh Bí Tích Hòa Giải hoặc đến để trao đổi – vì theo lòng thương xót vô hạn của Đức Kitô, mọi người đều được mời gọi lãnh nhận ơn bình an của bí tích này. Nhiều người, gồm cả những người li dị và tái hôn, đã can đảm hưởng ứng lời mời ấy của tôi. Thế nhưng, cha sở của giáo xứ đã không giấu giếm sự bực bội đối với tôi; ông bảo là ông rất “quan tâm đến kỷ luật Giáo Hội”. Bữa nọ, cha sở không chỉ từ chối không cho một phụ nữ rước lễ mà ông còn quát mắng chị cách thậm tệ trước mặt các tín hữu khác.
Tại bữa cơm tối, không dằn được sự bức xúc, ông đã thẳng thắn chỉ trích tôi: “Anh đã giải tội cho những người đang sống trong tình trạng rối” (rõ ràng cha sở ám chỉ những người đã li dị và tái hôn). Đúng lúc ấy, chồng của người phụ nữ nói trên bước vào và cho cha sở biết rằng vợ của anh ta không phải là một người li dị. Anh chồng này yêu cầu cha sở phải thanh minh lại chuyện này và phải xin cộng đoàn giáo xứ tha thứ. Tối hôm ấy, cha sở đã nói lên lời xin lỗi cả với tôi! Điều kỳ diệu nhất là chính kinh nghiệm choáng váng này đã trở thành một kinh nghiệm hết sức ích lợi cho chính vị cha sở ấy.
Rồi, trong Mùa Chay, tôi phụ trách “ngồi tòa” suốt ba ngày tại một giáo xứ khác, nơi mà tôi nhận ra rằng rất ít người chọn xưng tội với cha sở. Và một sự việc xảy ra đã giúp tôi hiểu tại sao. Hôm ấy, đang bước vào tòa giải tội, tôi trông thấy cha sở bạt tai một phụ nữ. Liền sau đó, người phụ nữ này đến gặp tôi và than thở rằng chị chẳng làm gì nên tội ngoại trừ việc chị nghiêng qua nhắn một câu ngắn cho một phụ nữ khác ngồi bên cạnh trong nhà thờ. Trong nhận thức của mình, vị cha sở này tự cảm thấy ông là một linh mục nhiệt thành, chu toàn mọi bổn phận. Trong lương tâm, hẳn ông không có gì áy náy – nhưng vấn đề vẫn còn đó: Lương tâm của ông là loại lương tâm nào? Rõ ràng là quan điểm của vị cha sở này về vai trò canh gác (để bảo vệ kỷ luật của Giáo Hội) đã phát xuất từ một lương tâm được hướng dẫn cách sai lạc.
Hỡi các linh-mục-nhà-canh-gác tội nghiệp! Có lẽ các anh đã đơn sơ hấp thụ một loại giáo huấn và kỷ luật luân lý vừa bệnh hoạn vừa là mầm rắc gieo bệnh hoạn. Xin các anh đừng để cho hàng ngàn khoản luật và khoản cấm đoán nhân tạo dựa trên một hệ thống cứng ngắt giam hãm các anh! Trong đáy tâm hồn mình, các anh há không cảm thấy xấu hổ về tình trạng nô lệ dưới ách luật của mình sao? Tình trạng nô lệ này nhiễm vào các anh, rồi qua các anh, những người khác cũng bị nhiễm độc; còn đâu nữa sự tự do của con cái Thiên Chúa! Nếu các anh nhìn kỹ trong các tín hữu – mà các anh cho là bọn thất học và dốt nát – các anh sẽ gặp thấy rất nhiều nhà chữa trị tuyệt vời, nhiều chứng nhân của niềm vui và niềm an bình nội tâm. Các anh hãy đến gặp họ, vì chắc chắn họ có thể giúp ích nhiều cho các anh đấy!
Rất may là con số các linh mục khắt khe thái quá đang có chiều hướng giảm dần, nhưng vẫn còn khá nhiều nhà cực đoan trẻ tiếp tục xuất hiện – đó là những linh mục có thái độ cực đoan bảo thủ, vì họ đã được dạy để tin vào luật lệ và kỷ luật - cơ hồ như đó là những giá trị tối thượng của chức linh mục và của sứ vụ của họ vậy.
Đối với các linh-mục-nhà-canh-gác, được khống chế bởi những luật lệ và qui định, thì sự độc thân không phải là một kinh nghiệm tự do trong mức độ mà nó được hiểu như một phần của “cơ cấu luật thánh”. Vì vậy, các linh mục này không cảm nếm được kinh nghiệm chan hòa niềm vui của đặc sủng độc thân.
Nhiều linh mục khắt khe và nệ luật là những con người nói chung tốt lành và thành tâm, nhưng do bị hướng dẫn sai lạc nên đã có nhận thức không đúng đắn về thế nào là một nhà bảo vệ chân lý. Lẽ ra họ có thể đắc lực hơn rất nhiều nếu như họ sẵn lòng hơn để được dẫn dắt bởi Đức Kitô để đi vào trong miền đất hứa của năng lực sáng tạo và của tính đích thực, thay vì cố bám chặt vào những lan can luật lệ vốn bảo đảm cho họ một thứ cảm giác ổn định giả tạo mà thôi!
Như tôi đã từng đề cập, trong chúng ta có nhiều bạn trẻ thiết tha phục vụ Thiên Chúa trong chức linh mục nhưng không dám dứt khoát dấn thân – không chỉ vì họ sợ sẽ tới lúc nhận ra mình không thể sống đời độc thân, mà còn vì họ sợ sẽ bị khai trừ khỏi hàng linh mục một cách nhục nhã. Tôi đã phải bao lần ứa nước mắt với các linh mục vốn đã thành tâm dấn thân và vốn giàu các khả năng nhân bản, nhưng bị dồn tới đường cùng bởi các nhà bảo vệ luật cứng cỏi của Giáo Hội. Những kinh nghiệm thuộc loại này trở thành một phản chứng tá đối với niềm vui của đời sống độc thân.
Tuy nhiên, tôi vẫn không hoàn toàn tẩy chay vai trò người canh gác của chức linh mục thừa tác. Chỉ mong rằng vai trò này được nhận hiểu trong ý thức rộng hơn về “một người giữa chúng ta”. Nếu các linh-mục-nhà-canh-gác hành động một cách hoàn toàn phi bạo lực, họ có thể trở thành những nhà tiên phong của một nền văn hóa phi bạo lực. Những người cảnh sát mẫu mực và phi vũ trang làm công việc bảo vệ tự do và trật tự cộng cộng – đó chắc chắn là một bước đột phá tuyệt vời về văn hóa.
Những kẻ nệ nghi thức
Trong con tàu của ơn cứu độ, con số những nhà nệ nghi thức luôn bối rối và luôn gây bối rối cho kẻ khác cũng đã giảm dần. Cách đây khoảng năm mươi năm, tinh thần nệ nghi thức là một trong những đại dịch trong Giáo Hội. Không phải là họa hiếm việc người ta nhìn thấy – chẳng hạn - những linh mục quá lo lắng về vấn đề thành sự hay không thành sự của bí tích, phải vã mồ hôi mỗi khi đọc lời truyền phép. Ngay cả những linh mục giàu năng lực và được đặt vào những chức vụ quan trọng cũng bị hoang mang do nỗi nghi ngờ về chức thánh của mình. Họ tự hỏi lúc mình được truyền chức, mình có đã đồng thời chạm vào chén thánh, đĩa thánh và bánh thánh hay không (bởi theo luật, nếu không vậy thì việc truyền chức ấy không thành sự!)? May là Giáo Hoàng Piô XII đã chấm dứt bi hài kịch này bằng việc chính thức tuyên bố rằng đó không phải là một điều kiện cho hiệu lực của việc truyền chức.
Tinh thần nệ nghi thức trong bất cứ dạng nào cũng có thể trở thành một chứng bệnh vừa tự mãn về mình vừa xem thường kẻ khác. Việc xét nét chi li, ngay cả trong những qui định nghi thức nhỏ nhặt nhất, có thể trở thành một thứ lô cốt an toàn đối với những linh mục cắm rễ trong thái độ khư khư vâng lời tối mặt. Trong viễn ảnh đó, ta thấy các nhà nệ nghi thức dễ dàng trở thành những con chó canh cửa hung dữ. Xin dẫn ở đây một ví dụ. Hồi đó, là một linh mục trẻ Dòng Chúa Cứu Thế đang lưu lại tại một trong những cơ sở của dòng, tôi hỏi vị bề trên xem liệu mình có thể làm lễ trước khi mình ra đi vào sáng ngày mai hay không. Vị bề trên trả lời một cách đầy ẩn ý: “Nếu anh dám!” Sau Thánh Lễ, khi tôi đang gấp rút sửa soạn ra đi cho kịp chuyến tàu, một đàn anh trong nhà chặn tôi lại và nói: “Này, Bernard! Anh đã phạm hai sai sót về phụng vụ, và chúng tôi ở đây rất kiêng kỵ điều đó.” Sau khi nghe giải thích về hai điểm ấy, tôi nói với anh rằng chẳng có luật Giáo Hội nào đề cập đến những điều mà anh quan tâm cả. Để trả lời tôi, anh trưng ra một thủ bản được viết bởi một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, trong đó có đề cập rõ vấn đề mà anh ta đang khiếu nại. Rồi anh kết luận: “Chúng ta phải tuyệt đối giữ luật, vì sự hiệp nhất của chúng ta!”
Cho dù những trường hợp nệ nghi thức quá quắt và những sự kiểm soát đầy ác ý đã giảm thiểu rất nhiều, song chủ nghĩa nệ nghi thức vẫn còn tồn tại giữa chúng ta. Ngay cả giữa những vị lãnh đạo trong Giáo Hội, tinh thần này vẫn còn là một cản trở nghiêm trọng đối với việc hội nhập văn hóa và đối với tính thanh thoát trong phụng vụ.
Luật độc thân hiện nay, ít nhất một phần nào, không đang góp phần xúi quẩy cho não trạng về sự trong sạch của nghi thức vốn gây phương hại đến mệnh lệnh quan trọng của Chúa - “Tất cả anh em, hãy làm việc này để nhớ đến Thầy!” – đó sao? Nói cách khác, luật nhân tạo về độc thân có thể trở thành một cản trở đối với quyền cử hành Thánh Thể của người tín hữu, một quyền được chính Chúa bảo hộ.
Kẻ nhút nhát
Thật đáng thương cho các bạn! Ai đã thiến hoạn các bạn và tước khỏi các bạn mọi năng lực sáng tạo, mọi sự dũng cảm và nhiệt tình? Hàng bao thế kỷ, Giáo Hội ở Rôma đã thiến hoạn các chàng trai trẻ nhằm mục đích giữ lại âm giọng cao của họ, vì phụ nữ không được phép hát trong nhà thờ. Thật là một thực hành kinh khủng tự bản thân nó; thứ nữa, lý do của thực hành ấy cũng hết sức sai lầm. Tôi cho đây chỉ là một ví dụ về việc tước đoạt khỏi các linh mục năng lực sáng tạo và sự thẳng thắn.
Những linh mục nhút nhát há đã không được Thiên Chúa ban cho - cũng như mọi người khác – một tinh thần can đảm và một lòng trung thực đó sao? Người linh mục nhút nhát là một người đã không may hấp thu một não trạng đầy tính áp đặt và đe dọa về quyền lực. Thay vì vạch mặt loại quyền lực này để thấy rõ bản chất của nó, các linh mục nhút nhát – xuất phát từ một cảm thức khiêm tốn sai lầm – lại hành hạ kẻ khác, và trong tiến trình đó làm ách tắc những khả năng phát triển sự vững mạnh nội tâm nơi chính mình.
Việc vượt qua tính nhút nhát đòi phải có một sự đánh giá trung thực và một sự huy động những tiềm năng nội tâm, nhất là sự khôi phục tính mềm mỏng bẩm sinh. Trong quá trình này, các linh mục và các thừa tác viên giáo dân có thể được chữa trị và được giải phóng khỏi sự áp chế chính mình – một sự chữa trị có thể đem lại cho họ khả năng chữa trị kẻ khác nữa. Thận trọng sáng suốt là nhân đức giúp phòng tránh cho các linh mục khỏi làm nhiễm độc kẻ khác do việc áp đặt cho họ cảm thức và thực hành sai lầm của mình về thái độ lụy phục một cách nô lệ.
Này bạn nhút nhát, hãy để cho Tin Mừng âm vang trong cõi lòng bạn, và hãy để cho dầu hoan lạc thấm vào mọi lỗ chân lông của bạn để giải phóng bạn! Hãy cho phép mình đón nhận sự dũng cảm và sức mạnh của Đấng Bảo Trợ, và bạn sẽ sinh hoa trái dồi dào! Hãy thành khẩn cầu xin Chúa Thánh Thần đổ tràn cho bạn đặc sủng can đảm và niềm vui, nhờ đó bạn có thể an ủi và khích lệ kẻ khác! Hãy nỗ lực đào sâu nhận thức của bạn về Paraklesis của Thánh Kinh, vì chính Chúa Thánh Thần là Đấng Bào Chữa cho bạn trước Đấng Sáng Tạo! Chính năng lực giải phóng của Chúa Thánh Thần – nếu được bạn sẵn sàng đón nhận – sẽ giải phóng bạn khỏi sự rụt rè và nhút nhát, sẽ đem lại cho bạn tràn trề niềm vui và đổ đầy trong bạn ngọn lửa tự do, quà tặng quí báu của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần dũng cảm và sáng tạo của Đức Kitô, Vị Ngôn Sứ và là Người Tôi Tớ Giavê, sẽ đem lại cho bạn tinh thần phi bạo lực, sự tự do, lòng tin tưởng và nghị lực trong tâm hồn.
Kẻ bi quan
Những người bi quan thâm căn cố đế có thể được ví với những sinh vật xem ra gây phiền toái nhất trên con tàu Nô-e. Họ trút toàn những sự quấy rầy trên kẻ khác. Một số trong họ là “những ngôn sứ của thời cuối cùng”, thường xuyên quấy nhiễu thiên hạ, như Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nhắc đến hồi đầu Công Đồng. Thật không may cho chúng ta, những kẻ bi quan ghê gớm ấy vẫn còn khả năng tác động một cách tiêu cực cho bầu khí Giáo Hội.
Nhiều khi loanh quanh Vatican tôi bắt gặp những linh mục với khuôn mặt nhăn nhó cách thảm hại, trong những bộ áo thụng đen viền sọc tía, tôi thường tự hỏi không biết có cách nào để làm cho những khuôn mặt ấy tươi tắn lại không. Trong Giáo Hội không có chỗ nào có thể giúp trị liệu cho những con người ấy sao? Hay, ít nhất, không có chỗ nào để những con người ấy lánh mặt đi cho tới khi – nhờ ơn Chúa – họ vượt qua được tính cách bi quan của họ và không gây lây nhiễm cho kẻ khác sao?
Trong chính ơn gọi của mình, người linh mục là dấu chỉ và là chứng tá của niềm vui cứu độ. Linh mục được mời gọi trở thành một bài ca ngợi khen, một nguồn phấn khích và hy vọng, ngay cả dù anh ta thuộc loại tính cách sầu muộn. Nếu có được những điều kiện thích hợp, có lẽ những người sầu muộn bẩm sinh có thể trở thành những Kitôhữu chiêm niệm sâu sắc – một số thậm chí có thể nhận được những kinh nghiệm thần nhiệm.
Tuy nhiên, những linh mục khác đã hình thành một thái độ bi quan do bởi áp lực quá tải của công việc và của những trách nhiệm vượt quá khả năng đáp ứng của mình, nhất là những người nằm trong các môi trường quá nhấn mạnh đến tính hiệu năng và sự thành công. Do các xu hướng tự nhiên của mình, những người bi quan có thể dễ dàng trở thành bị chán nản do bởi những môi trường căng thẳng và những cơ cấu thiếu lành mạnh. Nếu họ có cơ hội sống và làm việc trong một môi trường vui vẻ, bình an, thì họ có thể trở thành những nguồn an bình và khích lệ cho nhiều người khác. Còn trong những hoàn cảnh éo le nhất, rượu nồng trong tính cách riêng của họ dễ dàng hóa thành giấm chua. Và đây quả là một bi kịch!
Con chồn hôi là biểu tượng của những người bi quan trầm kha. Tướng dạng của nó cũng được mắt, nhưng nó là một nỗi kinh hoàng cho ai ở gần, đặc biệt khi nó cảm thấy bị đe dọa! Lần nọ khi đang có mặt ở Mỹ, tôi ghé thăm Martin, em trai mình. Nhà của Martin thật xinh xắn, nhưng bị bao vây bởi một mùi hôi rất khó chịu. Chú ấy kể: “Em trông thấy một con chồn hôi ngoài vườn và, thật không may, em đã cố xua đuổi nó. Bị đe dọa, nó tiết ra thứ mùi hôi ngào ngạt lì lợm như thế đấy. Bây giờ em phải chờ mùa mưa đến, may ra cái mùi khủng khiếp này mới được gột rửa đi.”
Nếu chồn hôi biết cầu nguyện, có lẽ nó sẽ thưa: “Lạy Chúa là Chúa của mọi tạo vật, gồm cả con nữa. Tướng mạo con cũng khá đẹp đẽ, nhưng chẳng ai thích nổi con. Lạy Chúa, tại sao Chúa ban cho con thứ mùi này, một vũ khí tự vệ quá lợi hại đến nỗi khi thoáng ngửi ấy mùi của con, mọi người đều chạy tránh xa và con phải lủi thủi một mình? Lạy Chúa, con sẽ cần phải trải qua cuộc khủng hoảng nào về căn tính, để có thể tống khứ được thứ mùi này?”
Bạn là người bi quan? Biết đâu đó, khi đọc lời nguyện này của chồn hôi, bạn chợt nhận hiểu chính mình đầy đủ hơn, và bạn sẽ bắt tay vào một cuộc đổi thay chính mình.
Anh hề
Mới đây, tôi đọc thấy trên báo chí câu chuyện về những nhóm hài thường xuyên ghé đến giúp vui miễn phí tại khoa nhi của các bệnh viện. Những nghệ sĩ hài này, với khả năng trời cho, là nguồn vui tuyệt vời của các em. Các bác sĩ nói rằng các trò hài hước có tác dụng tích cực cho tiến trình trị liệu, nhất là đối với những bệnh nhân mắc chứng căng thẳng thần kinh. Tôi có quen biết một anh hề rất dễ thương. Anh là cha của ba đứa trẻ, và có thể dễ dàng nhận một ghế giáo sư đại học. Thế nhưng, anh chọn công việc của một nghệ sĩ hài, và anh gieo tiếng cười khắp mọi nơi. Tôi thấy rõ ràng từ nơi anh toát ra một cái nhìn lạc quan đối với cuộc đời. Tôi cho hình ảnh người nghệ sĩ hài là một hình ảnh rất gần gũi với ơn gọi linh mục. Phải chăng những con người hài hước như anh bạn ấy của tôi – với tâm hồn rất mực dễ thương – không thể được Giáo Hội sai đi để làm mục tử cho những nghệ sĩ hài khác, cho các gia đình, cho các bạn bè, và nhất là cho những người ốm đau ủ dột và đang cần đến dầu hoan lạc?
Đã có thời các vị vua khôn ngoan thuê những anh hề giúp vui cho triều đình. Những anh chàng ngớ ngẩn một cách tinh tế này được trao cho đặc quyền được nói bất cứ gì mình thích, một cách khôi hài và thường đồng thời một cách trào lộng, nhằm mục đích vạch ra những cái dở và những chiều hướng nguy hiểm trong triều đình. Như vậy, nhà vua cho thấy ông hiểu được ý nghĩa của sự tín nhiệm trước, một sự tín nhiệm rốt cục đem lại ích lợi cho ông. Nhìn thoạt qua, trò hề có vẻ chỉ là trò hề thuần túy, nhưng ẩn bên dưới thường có một sứ điệp đầy ý nghĩa. Những tuồng “táo bạo” nhất của các anh hề trong hoàng cung thường nhằm mục đích trách cứ hay cảnh giác nhà vua và quần thần về những tiêu cực và sai sót, một sự đóng góp rất có giá trị cho sự ổn định của triều đại, nếu nhà vua biết khôn ngoan sẵn sàng lắng nghe.
Về một phương diện nào đó, trò hề có thể là một cách phản kháng lại những sai trái; và về một phương diện khác, nó có thể loan báo Tin Mừng rằng tình hình có thể thay đổi để nên tốt hơn, miễn là chúng ta đủ khôn ngoan, như vị vua kia, biết mở tai nghe và mở mắt nhìn. Tôi tin rằng không chỉ một mình tôi nghĩ đến nhu cầu phải có một số anh hề thật “độc” ở Vatican và ở nhiều nơi khác. Họ sẽ góp phần lớn để biến những nơi đó thành hấp dẫn hơn, lành mạnh hơn và có tính xây dựng hơn. Những anh hề thanh nhã, thâm thúy xứng đáng được chúng ta biết ơn sâu xa, vì họ không chỉ giúp chúng ta cười mà họ còn giúp chúng ta nhận thức về mình một cách nghiêm túc. Tôi cho rằng một Giáo Hội không trân trọng tiếng cười và không đánh giá cao một cảm thức hài hước thâm sâu thì quả là một Giáo Hội không nghiêm túc – theo ý nghĩa đích thực của hai tiếng “nghiêm túc”.
Người nhạc sĩ
Trên con tàu Nô-e, chúng ta được nhắc nhớ rằng Thiên Chúa đã thương yêu cứu sống hàng ngàn loài chim chóc và những côn trùng biết bay; chúng không chỉ đóng góp vào hệ sinh thái mà sự sống chúng ta cần đến, nhưng còn giúp chúng ta vui tươi với những khúc nhạc của chúng, giúp chúng ta biết cách thông truyền cho nhau niềm vui cuộc sống.
Trong cuộc sống mình, nên chăng các linh mục trở thành những nhạc sĩ tấu lên những khúc ca và giúp người khác hát lên lời ngợi ca Thiên Chúa? Nói rộng hơn, nên chăng tất cả chúng ta là những Kitôhữu cùng tấu vang những khúc nhạc mừng Đấng Tác Thành mọi sự hòa điệu? Việc chúng ta diễn tả niềm vui ra bên ngoài và việc chia sẻ niềm vui trong Chúa sẽ có tác dụng khích lệ lẫn nhau một cách diệu kỳ. Cả trái đất này cần phải biết lên lời ca vang tận trời cao những bài ca yêu thương như một lời đáp trả tình yêu muôn trùng cao cả của Thiên Chúa. Tin Mừng và tất cả tạo vật tự chúng là những bài ca tình yêu kiều diễm, là niềm vui bất tuyệt cho chúng ta.
Đã có thời, vì đặc biệt nhấn mạnh đến việc xướng hát của linh mục trong phụng vụ, chỉ những người được đào tạo tốt về mặt này mới được truyền chức linh mục. Rất may, tôi không rơi vào cái thời như thế – nếu không, chắc hẳn tôi đã gặp không ít rắc rối. Dù sao, trong tình trạng mất tiếng nói của mình hiện nay, tôi vẫn rất yêu âm nhạc. Âm nhạc của Beethoven, Mozart, Handel và Bach đem lại cho tôi những nguồn cảm hứng sâu xa, vì những tác phẩm ấy – cũng như âm nhạc chuyên biệt phụng vụ ngày nay – vừa là kết tinh vừa là sự diễn tả trái tim sáng tạo của Thiên Chúa. Âm nhạc là tin mừng và là lời cầu nguyện trác tuyệt luôn luôn có sức nâng tâm hồn tôi bay bổng.
Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: Trong toàn bộ cuộc sống của mình, các linh mục cần phải trở thành những bài ca ngợi khen đích thực, mời gọi mọi người dâng lời ca ngợi bất tận lên Thiên Chúa. Dù gặp phải cảnh ngộ nào trong cuộc sống, chúng ta vẫn có hàng ngàn lý do để vui mừng ca tụng và tạ ơn Ngài.
Nhà chữa trị
Trong nhiều tôn giáo, nhất là những tôn giáo sơ khai, tư tế cũng đồng thời là thầy thuốc, dù đó là nam hay nữ. Sự thánh thiện rút ý nghĩa của nó ra từ sự lành mạnh, và như vậy hai từ ngữ trên có quan hệ hỗ tương mật thiết với nhau. Một cách vô song, Đức Giê-su Kitô vừa là Đấng Mạc Khải vừa là Nhà Chữa Trị – là Người Tôn Thờ hoàn hảo của Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ và Nhà Chữa Trị duy nhất của mọi người và mọi tạo vật.
Nhờ chính sự hiện diện của Ngài, nhờ tình yêu và lòng nhân hậu tuyệt đỉnh của Ngài, nhờ sự tín nhiệm và niềm hy vọng đầy sức cảm kích thể hiện trong các mối quan hệ của Ngài, Đức Giêsu phát tỏa ra và thông truyền sự lành mạnh hiểu trong mọi ý nghĩa của từ ngữ này. Ngài chữa trị bằng một cách thế mà những kẻ được chữa trị sẽ dâng lời ca ngợi Thiên Chúa và – đến lượt mình – họ mang niềm hy vọng tới cho người khác. Trong toàn thể con người mình và một cách vô điều kiện, Đức Giêsu là Tin Mừng sống động của sự chữa trị.
Trong khi không phải mọi linh mục đều phải trở thành những nhà tâm lý trị liệu chuyên nghiệp hoặc trở thành những bác sĩ y khoa, thì các ngài vẫn cần phải có một sự thấu hiểu sâu xa về những yếu tố làm nên sự lành mạnh toàn vẹn của con người, cũng như phải nhận hiểu những gì có sức hỗ trợ cho các mối quan hệ lành mạnh.
Các nhà thần học luân lý có bổn phận kiểm tra mọi quan điểm và giáo huấn luân lý để xem chúng có giúp thăng tiến sức khỏe, sự lành mạnh và sự chữa trị hay không, trong khi vẫn luôn trung thành phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa. Cũng thế, các chuyên viên giáo luật được ủy thác sứ mạng kiểm tra việc xây dựng bộ giáo luật để xem nó có thăng tiến các cơ cấu và các mối quan hệ lành mạnh có sức chữa trị hay không. Hơn nữa, các nhà giáo luật có trách nhiệm cảnh báo đề phòng việc sử dụng luật theo chiều hướng gây ra sự mất lòng tin lẫn nhau, gây ra những mặc cảm tự tôn và các hệ quả tiêu cực khác.
Trong việc chọn lựa các ứng viên có tiềm năng cho chức linh mục, cần phải dành quan tâm thích đáng đến sự lành mạnh tâm lý nói chung và đến khả năng của ứng viên trong việc khai mở và dưỡng nuôi những mối quan hệ tín nhiệm nhau giữa người với người. Điều quan trọng là các linh mục và chủng sinh phải đầy tràn niềm vui trong Chúa và có một tâm hồn lạc quan, thể hiện nơi tình yêu đối với mọi người. Đây là những nhà chữa trị đích thực, dù không phải lúc nào họ cũng cho thấy rõ ràng điều này trong sứ vụ của họ.
Người ngôn sứ
Các linh mục tốt lành không một cách tự động có đặc sủng giải mã các biến cố tương lai, nhưng là trong mối hiệp nhất với các tín hữu, chắc chắn họ phải học để biết cách diễn dịch những “dấu chỉ của thời đại”. Điều này có thể được thực hiện qua việc không ngừng tập chú trước hết đến những dấu hiệu đầy khích lệ về sự hiện diện của Thiên Chúa và, trong mức độ thích đáng, qua việc chú trọng đến các dấu chỉ có tính báo động. Những ai chủ yếu chú ý tới những lộn xộn trục trặc sẽ có nguy cơ biến thành “những ngôn sứ của thời cuối cùng” – đối nghịch hoàn toàn với bổn phận của người linh mục là rao giảng tin mừng của Đức Kitô Cứu Độ.
Con người ngôn sứ có một nhãn quan toàn diện, họ không bị lún vào những chi tiết nhỏ. Họ là những con người biện phân các biến cố hiện tại, bày tỏ niềm biết ơn đối với những tốt đẹp của quá khứ, và đảm nhận trách nhiệm về tương lai. Trước hết, những con người ngôn sứ ở giữa chúng ta là những con người hoàn toàn sẵn sàng để nắm bắt các cơ hội mới (những khoảnh khắc kairos) đem lại niềm hy vọng tươi sáng hơn cho con người. Con người ngôn sứ không bao giờ dung túng mối kết hợp ma quỉ của “nếu’ và “nhưng”. Chính sự qui phục sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa sẽ trao cho người ngôn sứ sự sáng suốt đặc biệt để nhận định những gì đang xảy ra ở đây và bây giờ và để biết rõ phải làm gì. Người ngôn sứ chia sẻ nhãn quan lành mạnh của mình cho người khác và tác động người khác bằng năng lực sáng tạo của mình.
Các ngôn sứ qua mọi thời đại đã lay động lương tâm tập thể và cá nhân của chúng ta và vạch rõ những cám dỗ tinh vi và giấu ẩn. Tuy nhiên, đặc sủng vén mở những gì xấu xa và nguy hiểm chỉ có được dồi dào trong mức độ mà nó cắm rễ trong sự đón nhận với lòng biết ơn về tất cả những điều tốt lành được ban cho chúng ta, đặc sủng này cũng có thể được nhân lên bởi chính chúng ta.
Hối nhân thánh thiện
Trên con tàu của ơn cứu độ, Phê-rô được vây quanh bởi những hối nhân thánh thiện mà ông kính phục sâu sắc. Nhiều người đã sa ngã không nghiêm trọng như ông, và chính Phê-rô hẳn cũng nhìn nhận rằng họ vượt qua ông cả về lòng khiêm nhường lẫn về thái độ ăn năn thống hối.
Karl Rahner nói rằng Giáo Hội thánh thiện trong mức độ mà Giáo Hội là một hối nhân thánh thiện. Điều này cũng áp dụng cho các linh mục. Nếu chúng ta tự cho mình là công chính và tự mãn về những thành tích của mình, chúng ta vẫn còn đứng trên đỉnh đống phân cao ngạo, và tiếng gà gáy cho Phê-rô – trước khi ông sám hối – cũng gáy cho cả chúng ta nữa.
Con số ngày càng tăng các linh mục sa ngã về đức khiết tịnh ngày nay đã gây cho Giáo Hội nhiều khổ sở và – trong nhiều trường hợp – đã tạo ra gương xấu cho các tín hữu cũng như cho những người không tin. Chẳng hạn, việc dư luận tố cáo ầm ĩ về những xì căng đan tình dục với trẻ em ngày hôm nay không chỉ làm tổn thương đến các nạn nhân bị lạm dụng, vốn rất đông đảo, mà còn làm tổn thương đến các linh mục tốt phải bị điều tra nhũng nhiễu. Tuy nhiên, tôi muốn khích lệ các linh mục đã lỡ sa ngã về đức khiết tịnh, dù sa ngã trong trường hợp nào đi nữa, hãy nhìn ngắm và bắt chước mẫu gương của các hối nhân thánh thiện. Đồng thời, chúng ta đừng bao giờ quên rằng dù tội lỗi về khiết tịnh có kinh khủng đến mấy, thì vẫn có nhiều dạng sa ngã khác - không kém trầm trọng hơn và không kém tàn phá hơn - cần được chúng ta ý thức và hoán cải không ngừng trong cả đời mình.
Vào thời mà luật buộc tất cả các linh mục địa phận phải tĩnh tâm ít nhất hai năm một lần, một linh mục đã đến gặp tôi và tâm sự: “Thưa cha, việc xưng tội còn có ý nghĩa gì cho con nữa, khi mà con biết rằng tình trạng của mình đã hoàn toàn hết hy vọng rồi? Con đã phạm hình như hết mọi thứ tội liên quan đến Điều Răn Thứ Sáu!” Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi tốt đẹp và cặn kẽ với nhau. Tôi kết luận rằng nếu ước mơ của anh ta không gì hơn là trở thành một kẻ giữ luật một cách xoàng xoàng như bao kẻ xoàng xoàng khác, thì tôi không có mấy hy vọng đặt nơi anh. Đàng khác, tôi nói: “Anh còn một chọn lựa khác nữa: Anh có thể trở thành một vị thánh!” Anh ta rất đỗi ngạc nhiên, và trong ràn rụa nước mắt, anh trả lời tôi: “Thưa cha, với ơn Chúa giúp, con sẽ cố gắng!” Trong nhiều năm, anh vẫn giữ liên lạc với tôi – và kỳ thực, nhờ ơn Chúa, anh đã triệt để đổi đời. Thỉnh thoảng, anh viết cho tôi những giòng này: “Vâng, thưa cha, mọi sự đang diễn tiến tốt đẹp cho con, bao lâu con còn can đảm sống đời sống của một hối nhân thánh thiện.” Và dĩ nhiên, trong các cuộc trao đổi giữa chúng tôi, chúng tôi thường đề cập đến những cách thế mà trong đời sống hằng ngày mình có thể chứng tỏ rằng mình là một hối nhân thánh thiện. Nhiều năm sau nữa, anh bạn linh mục ấy khẩn thiết nói với tôi: “Cha nên kể lại sự thật đầy thách đố đã biến đổi đời con này cho tất cả những ai trong hoàn cảnh tương tự.” Và, bạn đọc thân mến, tôi đã kể cho bạn đấy.
Một lần khác, tôi ghé thăm một linh mục vừa bị kết án hai năm tù về tội khai man trước tòa. Số là anh ta đã thề mà chối tội dụ dỗ và lạm dụng tình dục một đứa trẻ. Tôi trao cho anh sứ điệp hy vọng: “Anh hãy quyết định đi! Anh có thể nên thánh đấy. Song, sẽ chẳng thể có chút hy vọng nào cho anh, nếu anh chỉ nhắm làm một con người tà tà loại thường.” Trong thời gian chấp hành án tù, với lòng khiêm tốn và tốt bụng của mình, anh đã thật sự trở thành một tông đồ cho các bạn tù của anh. Về sau, anh được cử đi làm mục vụ ở nước ngoài, và vị giám mục của giáo phận đó – vốn nắm hiểu tất cả những gì đã xảy ra – đã trao cho anh một cơ hội khác. Nhiều năm sau nữa, tôi có dịp gặp một số tín hữu thuộc giáo xứ anh. Không biết gì về quá khứ của cha sở mình, họ trầm trồ rằng cha sở của họ là một mục tử thánh thiện, một mục tử khiêm nhường và có đời sống cầu nguyện thâm sâu, một mục tử sống đời sống giản dị đơn sơ tận cùng.
Tôi nghĩ đến tất cả những linh mục được xem là hoàn toàn gãy đổ trước con mắt của nhiều người. Sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa vẫn luôn luôn có sẵn cho các linh mục ấy, nếu họ biết tích cực đón nhận Ngài và quyết tâm phấn đấu để trở thành một hối nhân thánh thiện. Nếu họ có thể thành thật dứt khoát chọn lựa sự đổi đời, và nếu – trong tiến trình đó – họ được giúp đỡ bởi một người bạn đầy quan tâm khích lệ, họ hoàn toàn có thể thành công. Hơn nữa, trong cuộc phấn đấu để hoàn thiện bản thân, họ chuyển tải cho tất cả chúng ta chân lý thâm sâu rằng Giáo Hội chỉ thánh thiện trong mức độ các phần tử trong Giáo Hội là những hối nhân thánh thiện.
Tôi cũng nghĩ đến các linh mục khác – những linh mục mà chính niềm quyết tâm muốn phấn đấu trở thành một hối nhân thánh thiện đã dẫn họ tới chỗ khiêm tốn quyết định trở về bậc sống giáo dân. Chỉ có Chúa mới biết rõ về vô số “cựu linh mục” đã trở thành những mẫu gương sống động tuyệt vời qua lòng khiêm nhường và nhiệt tâm của họ.
NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ CỦA ĐỨC CHÚA!
Tôi kết thúc quyển sách này bằng cách qui hướng tất cả sự chú ý của mình về Đức Maria – đây hoàn toàn không phải chỉ là chuyện cảm tính hay chuyện điểm tô cho có màu mè đạo đức. Một cách độc đáo, Đức Maria đứng bên cạnh Đức Kitô, Người Tôi Tớ Giavê. Đáp lại lời Thiên Chúa đề nghị, Maria đã thưa: “Này tôi đây, là nữ tì của Đức Chúa” (Lc 1,38). Lời ấy không cho thấy rằng Maria (mà Giáo Hội gọi là “Đức Trinh Nữ”) đã nhận hiểu sâu sắc về vai trò hiện diện của mình bên cạnh Đức Giêsu trong ánh sáng của bốn Bài Ca Người Tôi Tớ đó sao?
Maria: Nữ Tì của Thiên Chúa và mẫu gương của con người linh mục
Cùng với Giu-se, phải chăng chúng ta không thể giả định rằng Maria đã rót vào lòng con trẻ chính những Bài Ca Người Tôi Tớ trong truyền thống Do Thái của mình – những Bài Ca đã nuôi dưỡng đức tin của Maria một cách sâu sắc? Niềm hy vọng nơi Maria hoàn toàn tương phản với niềm hy vọng của các thượng tế Do Thái, những người bắt hụt sứ điệp đích thực của Thánh Kinh và đã ngưỡng vọng một Mêsia quyền uy vung gươm lấp lóa. Đức tin của Maria là đức tin của những người anawim, những con người bé nhỏ thấp hèn trong It-ra-en. Với niềm hy vọng không lay chuyển, họ không ngừng cầu xin Người Tôi Tớ khiêm nhường và phi bạo lực đến giải phóng họ. Niềm hy vọng thẳm sâu ấy âm vang trong họ qua những lời đầy cảm kích của Ngôn Sứ Isaia Đệ Nhị. Maria là Nữ Tì được đặc tuyển cho con trai mình, Đức Giêsu, Đấng là hiện thân trọn vẹn niềm hy vọng của những người anawim.
Maria, trong tư cách là Nữ Tì khiêm tốn của Giavê (như ngài tự mô tả chính mình trong khoảnh khắc quyết định), là con người đi vào sâu thẳm nhất trong mầu nhiệm và trong sứ mạng của Đức Kitô - một mầu nhiệm được vén mở ngay từ đầu trong biến cố phép rửa của Ngài ở sông Gio-đan, được mang tới chỗ hoàn tất trong phép rửa bằng máu của Ngài trên Thập Giá, và cuối cùng được đóng ấn bằng cuộc Phục Sinh.
Có lẽ ở đây cần phải nhắc qua giáo thuyết truyền thống vốn quả quyết rằng nghi thức truyền chức linh mục in một dấu ấn không thể xóa được trong linh hồn của người linh mục – một giáo thuyết (mà tôi nói thêm rằng) không hề liên quan gì với những quan niệm pháp thuật và cũng không được hiểu theo nghĩa đen. Từ quan điểm của Maria, chúng ta có thể thực sự nói rằng Maria là hình ảnh phản chiếu cách hiện lộ của con mình, được đóng dấu và niêm ấn bởi ơn gọi trở thành người Nữ Tì của Chúa. Chính bởi quyền năng Chúa Thánh Thần mà Maria được “rửa” và được thánh hiến để phục vụ cho “Người Tôi Tớ Vô Song Của Đức Chúa”, trong tư cách là người nữ tì đau khổ và phi bạo lực để tôn vinh Thiên Chúa, để phục vụ cho ơn cứu độ của loài người và của mọi tạo vật. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Maria là một người tham dự chính yếu vào cuộc chiến thắng cánh chung đập tan tinh thần cao ngạo và bạo lực. Nếu cách giải thích của tôi về đặc tính không thể xóa nhòa của chức linh mục – như cũng được mạc khải trong vai trò của Đức Maria - là đúng, thì tôi hy vọng rằng cách giải thích này có thể trở nên một động lực mạnh mẽ và một viễn tượng thiết yếu cho đời sống linh mục, một cách hoàn toàn cụ thể.
Vai trò của Đức Maria trong đời sống Giáo Hội được kết tinh nơi sự hiện diện trung kiên của ngài với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn và cái chết Thập Giá. Chúng ta ca ngợi Đức Maria bởi vì Thiên Chúa “đã nhìn đến phận hèn nữ tì của Chúa / ... Thiên Chúa đã xô người quyền thế xuống khỏi ngai vàng / và nâng lên những người bé mọn” (Lc 1, 48-52). Bài kinh Magnificat, lời cầu nguyện bất hủ của những người anawim, không chỉ là một lời tiên tri tuyệt vời được thốt lên từ môi miệng Đức Maria. Đúng hơn, chính Maria là Bài Kinh Magnificat nhập thể. Cả cuộc sống mình, Maria hiện diện với Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê, trong tất cả những khoảnh khắc ý nghĩa nhất của cuộc sống Người Tôi Tớ này.
Ở đây, tưởng nên quay trở lại với các tiêu chuẩn mà Phê-rô đưa ra để tuyển chọn một tông đồ: Đó là một người “đã đi với chúng ta suốt quãng thời gian mà Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta, bắt đầu từ phép rửa của ông Gioan, cho đến khi Ngài được đưa lên khỏi chúng ta .... để người ấy cùng với chúng ta làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa” (Cv 1,21-22). Hơn tất cả các tông đồ của thuở ấy và hơn tất cả các Kitôhữu nhiệt thành trong mọi thời đại, Maria hoàn toàn đáp ứng những tiêu chuẩn về sự hiện diện của người tông đồ - qua việc sinh hạ Đức Giêsu trong khó nghèo, dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ, chia sẻ với Đức Giêsu cuộc trốn thoát sang Ai cập, nuôi dạy Đức Giêsu cho đến tuổi trưởng thành, và cuối cùng đứng bên Thập Giá Đức Giêsu cùng với Gioan, người tông đồ duy nhất khác hiện diện. Đức Giêsu đã trao phó hai người cho nhau.
Tại sao Thánh Kinh không nói gì về những cuộc hiện ra của Đức Kitô Phục Sinh với Maria, Mẹ Ngài? Tôi cho rằng sự giải thích sau đây có thể thuyết phục: Tất cả các trình thuật Tin Mừng về những cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh đều tập chú chủ yếu đến viễn tượng giúp cho các môn đệ Đức Giêsu dần dần vượt qua nỗi thất vọng và nghi ngờ. Maria, đàng khác, đã được đặc ân đi vào trực tiếp trong đức tin đối với cuộc Phục Sinh vinh quang của Đức Giêsu – trên cơ sở mối hiệp thông độc đáo trong tinh thần của Maria với Người Tôi Tớ Giavê.
Trong văn kiện Marialis Cultus nổi tiếng của mình, chính Giáo Hoàng Phao-lô VI đã hướng Thánh Mẫu học và lòng tôn sùng Đức Maria theo chiều nhận thức Thánh Kinh như trên. Bài kinh Magnificat là một trong những lời cầu nguyện vô song của một thần học giải phóng đích thực. Nếu chúng ta, những linh mục, nhận biết và yêu mến Đức Maria, Nữ Vương các ngôn sứ và các tông đồ, Đấng đứng gần sát nhất với Người Tôi Tớ Giavê, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhảy được một bước dài trong việc nhận thức và sống tốt hơn ơn gọi của mình.
Lời nguyện đúc kết  
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
năm mươi sáu năm qua,
Chúa đã cho phép con làm sứ vụ của mình
với hàng ngàn anh em trong chức linh mục,
bằng việc giảng dạy, tư vấn, khích lệ, và an ủi họ.
Cùng với nhau, chúng con đã học và – con hy vọng rằng -
sẽ còn tiếp tục học
để biết khiêm nhường
và can đảm theo Chúa, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê,
để biết kính trọng và phục vụ mọi thành viên đoàn dân tư tế của Chúa trên thế giới này.
X in hãy đổ đầy trong chúng con đức tin,
niềm vui, hy vọng và tình yêu nồng cháy!
Xin hãy đào sâu trong chúng con
khả năng nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn
– Chúa là Người Tôi Tớ phi bạo lực,
là Con Đường Hòa Bình,
là Đấng An Ủi của những ai sầu muộn và thất vọng!
Bằng sức mạnh của Thánh Thần,
xin hãy giúp chúng con nhận hiểu hơn
và thăng tiến hơn nữa các đại lộ hòa bình,
Xin giúp mỗi người trong chúng con
quyết tâm trở thành –
trước hết – những đầy tớ trung tín của Lời Chúa,
những thừa tác viên vui tươi và khiêm tốn
để phục vụ tất cả mọi người
mà Chúa ủy thác cho chúng con.
X in Chúa chúc lành cho giáo hoàng
và các giám mục của chúng con,
cho tất cả những ai đang nắm quyền bính trong Giáo Hội,
để các vị sống tốt hơn
và thúc đẩy một cách sáng tạo hơn
sự hiệp nhất trong khác biệt.
Xin ban nghị lực cho tất cả chúng con,
để chúng con có thể trở thành
những chứng nhân đích thực và thánh thiện
cho Chân Lý của Chúa,
và trở thành những khí cụ hữu hiệu
trong công cuộc thăng tiến sự hiệp nhất các Kitôhữu,
thăng tiến mối liên đới giữa mọi người –
vì ơn cứu độ của toàn thế giới. Amen.
Hậu chú
Bản văn của sách này đã được viết trước khi Vatican tuyên bố rằng việc không chấp nhận phụ nữ vào chức linh mục thừa tác phải được coi như một chân lý bất khả ngộ. Tôi nghĩ rằng cho tới nay, bạn đọc cũng đã nhận ra vấn đề không hẳn như vậy. Những phản ứng trên khắp thế giới, nội trong phạm vi Kitô giáo, có thể cho thấy rõ điều này.
Sự phê phán rộng rãi đối với việc sử dụng phạm trù “bất khả ngộ” tựu trung dựa vào hai lý do sau đây:
1. Cách thức công bố “bất khả ngộ” trong vụ này không đáp ứng những điều kiện bắt buộc cho một giáo thuyết bất khả ngộ của giáo hoàng, như đã được ấn định bởi Công Đồng Vatican I (Pastor aeternus), nghĩa là, mọi tuyên bố bất khả ngộ phải được chuẩn bị trước bằng một cuộc thẩm tra niềm xác tín của mọi tín hữu, và khi thẩm tra như vậy, “mọi phương tiện mà Chúa Quan Phòng ban cho phải được vận dụng.” Hơn nữa, sự tuyên bố bất khả ngộ phải được chứng minh là đặt nền trên Thánh Kinh và trên truyền thống cổ sơ nhất của Giáo Hội.
2. Phần đông các nhà thần học và nhất là các học giả Thánh Kinh đều đồng ý rằng trong Thánh Kinh không thể tìm thấy chứng cứ thuyết phục nào cho việc tích cực ngăn chặn phụ nữ khỏi chức linh mục. Chứng cứ rằng Đức Giêsu “đã không truyền chức cho phụ nữ” là một chứng cứ ngớ ngẩn, vì Thánh Kinh cũng đâu có nói gì về việc “truyền chức” cho nam giới. Đức Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, ủy trao cho toàn thể các tín hữu như một quà tặng tối thượng, một mệnh lệnh và một di chúc: “Hết thảy các con hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy!” Cũng rất cần ghi nhận rằng Đức Giêsu đã chọn các phụ nữ để làm chứng nhân và sứ giả loan báo về cuộc Phục Sinh của Người.
Trong bản văn quyển sách của tôi, tôi đã tránh không ủng hộ hay phản đối việc truyền chức linh mục cho phụ nữ. Tôi muốn để độc giả tự rút ra kết luận dựa vào các dữ kiện của Thánh Kinh và từ “các dấu chỉ của thời đại”. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc độc giả rằng Giáo Hoàng Gioan XXIII không chỉ khẩn thiết kêu gọi chúng ta ý thức các dấu chỉ của thời đại mà ngài còn vạch rõ rằng vai trò ngày càng quan trọng của phụ nữ trong xã hội, trong văn hóa, và trong Giáo Hội là một trong những dấu chỉ nổi bật nhất của thời đại chúng ta.
Tôi nghĩ rằng chúng ta nên thảo luận một cách tử tế và nhã nhặn về vấn đề nóng bỏng này, với những luận cứ có cơ sở đàng hoàng, và với khiếu hài hước nữa.
BERNARD HARING
ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ
Cha Bernard Haring, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, là một nhà thần học luân lý lừng danh và là tác giả của hơn tám mươi quyển sách. Luật Của Đức Kitô (The Law of Christ) (1954), một bộ sách nhiều tập, và Tự Do Và Trung Thành Trong Đức Kito (Free and Faithful in Christ) (1978,1980) là hai trong số những tác phẩm chính yếu nhất của ngài.
Ngài sinh ngày 10-11-1912, là con áp út trong 12 người con của một gia đình người Đức mộ đạo. Cuộc đời đầy biến cố của Cha Haring đã đi qua các giai đoạn khốc liệt của lịch sử. Tuổi ấu thời, ngài chứng kiến những tàn phá của Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất. Rồi sau đó, những năm tháng trưởng thành của ngài trùng với sự xuất hiện của Hitler và Chủ Nghĩa Quốc xã.
Là một linh mục trẻ, ngài bị động viên vào ngành quân y. Ngài phục vụ cho quân đội và cho thường dân ở Pháp, Ba lan và Nga - cả trong tư cách là lính cứu thương lẫn trong tư cách một linh mục. Trong cuộc rút quân của quân đội Đức khỏi Stalingrad, Cha Haring đã thuyết phục các đồng đội ngài buông vũ khí và theo ngài để bảo toàn sinh mạng; ngài được cứu khỏi một trại tù binh ở Nga – nhờ sự giúp đỡ của cả một giáo xứ Ba lan.
Sau chiến tranh, Cha Haring trở về Đức, ở đó, ngài hoàn thành học trình tiến sĩ vào năm 1947, và trở thành một giáo sư thần học luân lý ở Gars am Inn. Trong thời gian này, ngài cũng phục vụ cho những người dân Âu Châu tị nạn trong tư cách là một mục tử lưu động.
Sau đó Cha Haring được bổ nhiệm giảng dạy thần học luân lý tại Rôma và tham gia vào công việc chuẩn bị Công Đồng Vatican II – ngài cũng tham gia cả trong tiến trình chính thức của Công Đồng nữa.
Vào thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, Cha Haring phải đương đầu với không chỉ một cuộc điều tra đầy phiền phức về các tác phẩm của ngài – do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin tiến hành – mà ngài còn phải vật lộn dằng dai và sống dở chết dở với căn bệnh ung thư cuống họng. Do chứng bệnh này, ngài mất tiếng nói và phải bập bẹ tập nói lại.
Cha Haring qua đời ngày 3 tháng 7 năm 1998

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang