Posted on fx.hongan on Tháng Mười Một 14, 2012
Giới Thiệu
Văn hóa ăn sâu vào
tất cả các chiều kích của cuộc sống con người, đồng thời, là nền tảng cho sự
hiện hữu và phát triển của con người. Một mặt, văn hóa chi phối các hành động
và tương giao của con người trong môi trường tự nhiên, lịch sử, và xã hội. Mặt
khác, văn hóa lại được xây dựng bởi con người thông qua quá trình tiếp nhận,
trao đổi, và lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Do các đặc tính phức tạp
của văn hóa, một câu trả lời thích đáng cho câu hỏi ‘văn hóa là gì?’ luôn nằm
ngoài khả năng tổng hợp và khái quát của ngôn ngữ. Trong thực tế, người ta
thường mô tả văn hóa trong biểu hiện cụ thể của nó hơn là tìm cách định nghĩa
nó.
Để có được cái
nhìn rõ nét hơn về văn hóa và những biểu hiện của nó đối với cuộc sống con
người, trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu, đánh giá, và khai triển theo
các tiêu đề sau: (1) Hiểu Biết Văn Hóa, (2) Biểu Hiện của Văn Hóa, (3) Con
Người và Văn Hóa, và (4) Tính Liên Tục và Phát Triển của Văn Hóa.
1. Hiểu
Biết Văn Hóa
Thuật ngữ ‘văn
hóa’, trong tiếng La Tinh, dẫn xuất từ cultus (sự gieo trồng). Thuật
ngữ ‘văn hóa’ dần được sử dụng với nghĩa rộng hơn, chẳng hạn, sự tinh tế, tao
nhã, và lịch sự của con người. Theo nghĩa nguyên thủy của nó, văn hóa liên quan
đến cá nhân hơn là tập thể.[1] Mỗi người phải học biết các khái niệm, tập tục, thói quen,
cách cư xử, và chủ đích nhằm làm cho mình ngày càng được hoàn thiện hơn. Văn
hóa định hướng các cá nhân tham dự vào xã hội bằng cách, trước tiên, xây dựng
đời sống nội tại của riêng mình.[2] Văn hóa đóng vai trò ươm trồng, trau dồi, và nuôi dưỡng cá
nhân trong đời sống xã hội lẫn tri thức. Trong thời hiện đại, thuật ngữ ‘văn
hóa’ bao hàm nhiều nghĩa khác nữa. Văn hóa được diễn tả qua tính đa dạng của
các lĩnh vực khác nhau trong đời sống con người, chẳng hạn, niềm tin, ngôn ngữ,
nghệ thuật, trang phục, và thiết bị kỹ thuật.[3] Ở tầm mức lớn hơn, văn hóa được diễn tả qua các thể chế, tổ
chức, cấu trúc, gia đình, nhóm, cộng đoàn, quốc gia, và quốc tế.[4]
Thật khó để xác
lập một định nghĩa hợp lí và thuyết phục hàm chứa các biểu hiện, bản sắc, và
đặc tính văn hóa.[5] Raymond Williams cho rằng “điều khó khăn về ý tưởng văn hóa là
chúng ta liên tục bị thúc bách phải mở rộng nó, cho đến lúc nó trở nên tương
đồng với toàn bộ đời sống chúng ta.”[6] Các định nghĩa văn hóa có xu hướng dán ‘nhãn văn hóa’ cho từng
lĩnh vực phổ biến trong xã hội loài người, như văn hóa giới trẻ, văn hóa tầng
lớp lao động, văn hóa tầng lớp trung lưu, văn hóa đồng quê, văn hóa thành thị,
văn hóa tri thức… Không đâu người ta có thể tìm ra được một định nghĩa tổng quát
về văn hóa.[7] Khái niệm văn hóa nhiều lúc rất mập mờ, trừu tượng, và người
ta dùng nó cách vô thưởng vô phạt.[8] Ở đây chúng ta xem xét và đánh giá bốn ‘định nghĩa văn hóa’
được xem là nổi bật nhất.
a. Vào cuối thể kỷ
XIX, do nhu cầu cần có một định nghĩa văn hóa chính thức, nhà nhân
chủng học người Anh, ông Edward Burnett Tylor, trong đoạn văn mở đầu cuốn sách Văn
Hóa Sơ Khai (1871), đã đưa ra định nghĩa như sau:
[Văn hóa là] tổng
thể phức tạp bao gồm kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, luân lí, luật pháp, tập
tục và những khả năng cùng thói quen khác mà người ta tiếp nhận được trong xã
hội mà mình là thành viên.[9]
Định nghĩa của
Tylor nghiêng về tính ổn định và liên tục của văn hóa. Theo đó, văn hóa là
những gì con người trải nghiệm và đạt được trong cuộc sống thông qua những hành
động ngoại tại của mình trong môi trường lịch sử xã hội. Mối tương quan giữa
con người và văn hóa theo một chiều, nghĩa là, từ con người tới văn hóa. Nói
cách khác, con người là chủ thể tiếp nhận văn hóa, còn văn hóa được
nhìn nhận như đối tượng được con người hấp thu. Theo nghĩa này, văn
hóa hoàn toàn phụ thuộc vào con người và được lưu truyền từ người này tới người
khác, từ xã hội này tới xã hội kia, và từ thế hệ này tới thế hệ kế tiếp. Chúng
ta có thể nhận ra rằng cách hiểu của Tylor về văn hóa là chưa đầy đủ, bởi lẽ
không nêu bật được sự thật rằng con người cũng là đối tượng của văn
hóa, con người lệ thuộc văn hóa cùng những biến đổi không ngừng của nó. Văn hóa
‘bao phủ’ và ‘hướng dẫn’ con người theo những đặc tính của nó.[10]
b. Người ta cho
rằng đến khoảng giữa thế kỷ XX đã có hàng trăm khái niệm hoặc định nghĩa về văn
hóa.[11] Trong thập niên 50 của thế kỷ XX, Alfred Kroeber và Clyde
Kluckhohn đã nỗ lực đưa ra định nghĩa mang tính tổng hợp về văn hóa như sau:
Văn hóa bao hàm
các mô hình, rõ ràng hoặc tiềm ẩn, của hành vi và cho hành vi đạt được và lưu
chuyển thông qua các biểu tượng, tạo nên nét đặc trưng của các nhóm người, bao
gồm sự hiện thân của họ trong những gì họ làm ra; cốt lõi thiết yếu của văn hóa
bao gồm các ý tưởng truyền thống (i.e., có được thông qua lịch sử) và đặc biệt
là các giá trị kèm theo; một mặt, các hệ thống văn hóa được xem như các sản
phẩm của hành động, mặt khác, các hệ thống văn hóa được xem như là các yếu tố
định hướng cho hành động tiếp theo.[12]
Có thể nói rằng
cách hiểu của Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn về văn hóa như trên còn khá mơ
hồ, rời rạc.[13] Tuy nhiên, trong một nghĩa nào đó, cách hiểu này diễn tả được
đặc tính của văn hóa hơn là cách hiểu do Tylor đưa ra, bởi vì cách hiểu này xem
biểu tượng là thành phần cốt yếu diễn tả văn hóa. Theo đó, văn hóa ‘khẳng định
mình’ và ‘diễn tả mình’ trong xã hội loài người như là thực tại ít lệ thuộc vào
kiến thức, ý định, hay hành động của con người.[14] Qua các biểu tượng, các giá trị văn hóa được thể hiện cách đa
dạng, thoát khỏi sự kiểm soát và điều chỉnh khắt khe của con người.[15] Cách hiểu này cho phép chúng ta tiếp cận văn hóa và dẫn chúng
ta tới nhận thức sâu xa hơn rằng con người và văn hóa tương quan mật thiết với
nhau.
c. Định nghĩa văn
hóa được Clifford Geertz đưa ra năm 1973 là:
Văn hóa biểu thị
tiến trình luân chuyển trong lịch sử mô hình các ý nghĩa được thể hiện qua các
biểu tượng, một hệ thống các nhận thức thừa kế được diễn tả qua các hình thái
biểu tượng, nhờ đó con người giao tiếp, duy trì, và xây dựng kiến thức cũng như
các quan điểm của mình đối với cuộc sống.[16]
So với Kroeber và
Kluckhohn, cách hiểu văn hóa của Geertz mang tính tổng hợp cao hơn khi cho rằng
các ý nghĩa của văn hóa được diễn tả qua các hình thái biểu tượng hay mô hình
cần thiết để con người qui chiếu các hành động, tư tưởng, và các ứng xử của
mình. Cách hiểu của Geertz về văn hóa cho phép chúng ta suy luận rằng văn hóa
luôn ‘dồi dào’ và ‘thâm sâu’ hơn những gì được thể hiện. Văn hóa là thực tại
vượt trên khả năng nắm bắt trọn vẹn của con người. Tương tự như thế, Mathew Arnold
cho rằng “một nền văn hóa đang hiện diện luôn có phần chưa được biết đến, chưa
được nhận ra. Việc hình thành một cộng đồng luôn là một tiến trình khám phá,
bởi vì ý thức không thể có trước tạo dựng, và không có công thức nào cho kinh
nghiệm chưa nếm trải.”[17] Văn hóa đóng vai trò trung gian giữa con người với nhau, cũng
như giữa con người và thế giới tự nhiên trong tiến trình lịch sử. Chúng ta có
thể hiểu cách nôm na rằng văn hóa vừa hiện thực vừa tiềm ẩn, vừa thuộc về kinh
nghiệm, vừa siêu vượt kinh nghiệm.[18]
Cách thức để con
người tiếp cận văn hóa là thông qua các giá trị và ý nghĩa thể hiện nơi các
biểu tượng. Nhờ các biểu tượng, con người có thể tiếp cận và phân biệt các thực
tại khác nhau trong môi trường xã hội để xây dựng cuộc sống riêng của mình cũng
như cuộc sống chung của toàn thể cộng đồng. Ý thức tầm quan trọng của biểu
tượng trong việc tích lũy kiến thức và kinh nghiệm, Paul Ricoer quả quyết rằng
“biểu tượng làm thăng tiến tư duy, còn tư duy luôn luôn trở về với biểu tượng
và được thông báo bởi biểu tượng.”[19] Qua các biểu tượng, văn hóa tham dự vào tất cả các khía cạnh
khác nhau của xã hội loài người và đóng vai trò như kim chỉ nam cho tất cả hành
động, thái độ, và cách ứng xử của con người. Geertz nói về ‘biểu tượng’ như
sau:
Một mặt, biểu
tượng có tác dụng giúp con người nhận diện điều gì đó…. Mặt khác, biểu tượng có
tác dụng cho bất cứ đối tượng, hành động, biến cố, đặc tính, hoặc tương quan,
trong đó, biểu tượng đóng vai trò như một phương tiện chuyển tải ý niệm.[20]
d. Chúng ta cùng
xem xét một cách hiểu chuyên biệt về văn hóa theo quan điểm của Giáo Hội Công
Giáo. Cách hiểu này được Công Đồng Vatican II (1962-1965) đề cập đến trong Hiến
Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes (1965),
như sau:
Theo nghĩa tổng
quát, chữ ‘văn hóa’ chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát
triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái
đất bằng tri thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng
như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục
và định chế; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của
mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp
cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn.[21]
Theo cách hiểu của
Gaudium et Spes, văn hóa được xem như sẵn có và được lưu truyền nhằm
thăng tiến đời sống con người qua các thế hệ, không những về phương diện vật
chất mà còn nhiều phương diện khác nữa, đặc biệt là phương diện tâm linh. Văn
hóa theo cách hiểu của Gaudium et Spes nặng tính nhân bản, tính xã
hội, và tính thừa kế. Văn hóa được xem như thực tại cần thiết cho con người
nhằm làm phong phú đời sống của từng cá nhân và toàn thể gia đình nhân loại,
nhằm làm cho con người sống xứng với nhân phẩm của mình hơn. Gaudium et
Spes nhấn mạnh rằng văn hóa được diễn tả trong những lĩnh vực chuyên biệt
trong các ngành khoa học xã hội, lịch sử, và tâm lý. Văn hóa được hiểu trong
viễn cảnh lan rộng và phát triển tới tầm mức hoàn vũ. Văn hóa trở thành nền tảng
cho suy tư và hành động của con người trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa, đồng thời là tiền đề cho sự hiệp nhất của loài người tiến bộ.[22]
Ở trên, chúng ta
đã xem xét và đánh giá khái quát ‘định nghĩa văn hóa’ theo quan điểm của một số
học giả đã dày công nghiên cứu chủ đề này. Chúng ta cũng đã tìm hiểu sơ bộ cách
hiểu văn hóa theo quan điểm của Công Đồng Vatican II trong Gaudium et Spes.
Giờ đây, chúng ta điểm qua hai khái niệm gần với khái niệm ‘văn hóa’, đó là
‘phong tục’ và ‘văn minh’.
Đúng là ‘phong
tục’ và ‘văn minh’ gắn liền với văn hóa. Tuy nhiên, chúng không tương đồng với
văn hóa. Trong điều kiện tốt nhất, chúng có thể được xem là ‘hoa trái’ của văn
hóa mà thôi. ‘Phong tục’ và ‘văn minh’ liên quan đến cách thức con người tổ
chức cuộc sống trong những điều kiện nhất định và mang tính bề ngoài nhiều hơn,
trong khi văn hóa đượm tính nhân học, được thể hiện qua ý nghĩa, biểu tượng, và
giá trị truyền thống. ‘Phong tục’ chỉ thói quen, cách sử dụng và kiểu ứng xử
đặc trưng của cá nhân hay tập thể. ‘Văn minh’ đề cao các giá trị vật chất kỹ
thuật, nghệ thuật, văn học, và khoa học. Nói đến ‘văn minh’ là nói đến cấp độ
phát triển xã hội, phát triển cộng đồng trong những thời kỳ nhất định. ‘Văn
hóa’ mang tính bao hàm hơn ‘phong tục’ và ‘văn minh’. Văn hóa vừa biểu thị ý
nghĩa, giá trị vật chất lẫn tinh thần, vừa biểu thị ‘căn tính’ của một ‘cộng
đồng’ được hình thành qua chặng đường lịch sử lâu dài và liên hệ sâu sắc đến
các đặc tính dân tộc học.[23]
Những hiểu biết về
văn hóa trên đây dẫn chúng ta tới kết luận rằng văn hóa là nền tảng cho sự tồn
tại, tiếp tục, và phát triển của loài người. Văn hóa bao gồm tập hợp các biểu
tượng, quy phạm, lễ nghi, và huyền thoại. Chúng đóng vai trò định hướng con
người trong tư duy, hành động, cảm nhận, và hiểu biết.[24] Văn hóa gắn liền với lịch sử và luôn năng động trong dòng
lịch sử. Các yếu tố văn hóa thường bền vững hơn so với các yếu tố thuộc phong
tục, văn minh, hay các yếu tố mang tính lịch sử, chính trị và xã hội khác.[25] Hơn nữa, các yếu tố văn hóa thực có luôn phong phú hơn các
yếu tố văn hóa được tiếp nhận, diễn đạt, và lưu truyền trong xã hội. Do đó,
điều cần thiết là duy trì và phát triển các đặc tính văn hóa đang hiện diện,
đồng thời, không ngừng khám phá và bảo toàn những đặc tính văn hóa đã từng hiện
diện trong lịch sử nhân loại.
2. Biểu
Hiện của Văn Hóa
Như đã đề cập ở
trên, văn hóa biểu hiện qua các môi trường khác nhau và không nơi nào trong đời
sống con người lại không có ‘sự hiện diện’ của văn hóa. Trong phần này, chúng
ta sẽ quan tâm bốn biểu hiện chính yếu của văn hóa: (a) Văn hóa và môi trường
tự nhiên, (b) Văn hóa và tri thức con người, (c) Văn hóa và đời sống cá nhân,
và (d) Văn hóa và đời sống cộng đồng.
a. Văn hóa và
môi trường tự nhiên: Văn hóa được
diễn tả trong mối liên hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Thông thường,
con người tận dụng những yếu tố có lợi từ môi trường tự nhiên để mưu ích cho
bản thân cũng như cộng đồng và loại trừ những yếu tố bất lợi. Trong khoảng thời
gian dài của lịch sử nhân loại, con người không quan tâm nhiều đến những tác
động của mình đối với môi trường tự nhiên. Những thập niên gần đây, hầu hết các
quốc gia đều ý thức hơn những tác động tiêu cực của việc khai thác môi trường
tự nhiên cách bất cẩn và sự ảnh hưởng của việc khai thác đó lên đời sống quốc
gia mình cũng như gia đình nhân loại. Càng ngày con người càng ý thức sự cần
thiết phải bảo vệ và nuôi dưỡng môi trường tự nhiên.[26] Đặc biệt, họ ý thức rằng bảo vệ môi trường tự nhiên là bảo vệ
chính mình, xét cả trên bình diện cá nhân lẫn tập thể.[27]
Việc khai thác và
bảo vệ môi trường tự nhiên phụ thuộc vào nền tảng văn hóa của những người sống
trong môi trường đó.[28] Thông thường người ta cho rằng những người sống trong những
nước văn minh hơn thì ý thức hơn về việc khai thác và bảo vệ môi trường tự
nhiên. Trong thực tế, không nhất thiết phải như vậy. Chẳng hạn, những người
sống trong những nước với trình độ kỹ thuật cao có thể cho rằng họ ít lệ thuộc
vào môi trường tự nhiên và rằng họ có thể tự xoay xở để thăng tiến bản thân và
cộng đồng cho dù ‘trời mưa hay nắng’. Hậu quả là họ có thể tàn phá môi trường
tự nhiên một cách không thương tiếc vì các mục đích khác nhau (i.e., con người
làm chủ thiên nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa…).
Những người sống
trong các nước với trình độ kỹ thuật thấp hơn thì cho rằng tương quan giữa họ
và môi trường tự nhiên là tương quan hữu cơ, thân thiện. Có những sắc tộc xem
môi trường tự nhiên như là môi trường của hồn thiêng, môi trường của thần
thánh, môi trường quyết định sinh mệnh của sắc tộc mình. Từ đó, họ tỏ lòng kính
cẩn và ý thức hơn về việc khai thác và bảo vệ môi trường tự
nhiên. Như thế, chúng ta có thể kết luận rằng ý thức về việc khai thác và bảo
vệ môi trường tự nhiên không nhất thiết tỷ lệ thuận với trình độ văn minh khoa
học kỹ thuật.
b. Văn hóa và
tri thức con người: Văn hóa được
biểu lộ trong việc tích lũy kiến thức của con người trong xã hội. Con người có
kiến thức và kinh nghiệm về môi trường xung quanh hệ tại quá trình tiếp cận của
họ với các đặc tính của môi trường đó.[29] Mỗi người, mỗi cộng đồng đều có những cách thức thừa kế, giao
tiếp, và lưu truyền khác nhau về kiến thức và kinh nghiệm của các thế hệ trước.
Hơn nữa, sự hiểu biết của con người về chính mình và môi trường xung quanh
không đồng nhất. Sự hiểu biết này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời gian,
không gian, cùng các yếu tố khác trong xã hội mà họ sinh sống.
Việc tích lũy kiến
thức và đem kiến thức áp dụng vào những trường hợp cụ thể cũng rất đa dạng, tùy
theo nền văn hóa. Chẳng hạn, để chữa trị một bệnh nhân, các bác sĩ theo phương
pháp Tây Y có thể cho bệnh nhân này những thứ thuốc đã được tinh chế cẩn thận
với tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt, trong khi đó, các bác sĩ theo phương pháp
Đông Y có thể cho bệnh nhân uống một số dược liệu chưa qua tinh chế hoặc châm
cứu một số huyệt nào đó. Ngoài ra, các bác sĩ theo phương pháp Đông Y có thể
cho bệnh nhân những lời khuyên thiết thực về chế độ ăn uống nhằm mang lại sự
cân bằng Âm – Dương (Yin – Yang) trong cơ thể, để bệnh nhân
khỏe lại.[30] Quan niệm này khởi đi từ triết lý Đông Phương rằng bệnh tật
con người phát sinh do rối loạn Âm – Dương (Âm thịnh dương
suy hoặc Dương thịnh Âm suy). Sự cân bằng Âm – Dương trong
thức ăn mà người bệnh hấp thụ và đồng hóa sẽ dẫn đến sự cân bằng Âm – Dương
trong cơ thể người bệnh, cũng như sự cân bằng Âm – Dương giữa cơ
thể người bệnh với vũ trụ. Kết quả điều trị có thể giống nhau, nghĩa là bệnh
nhân được hồi phục sức khỏe. Tuy nhiên, sự hiểu biết của các bác sĩ theo phương
pháp Tây Y và các bác sỹ theo phương pháp Đông Y là khác nhau do bối cảnh văn
hóa của họ [khác nhau]. Các bác sĩ theo phương pháp Tây Y tập trung nhiều hơn
vào dược liệu tinh chế, khoa học kỹ thuật, trong khí các bác sĩ theo phương pháp
Đông Y tập trung nhiều hơn vào kinh nghiệm, truyền thống.
c. Văn hóa và
đời sống cá nhân: Văn hóa được biểu
lộ qua đời sống con người trên bình diện cá nhân. Sự biểu lộ văn hóa được hiểu
theo những giá trị và nguyên tắc riêng của nó.[31] Sự biểu lộ này được thiết lập và phát triển tùy theo sự tiếp
nhận, giao tiếp và đóng góp của từng người. Cá nhân tham gia vào văn hóa theo
khả năng nhận thức, điều kiện sinh học, và các yếu tố khác của chính mình.[32] Văn hóa vừa tham dự vào đời sống cá nhân, vừa trở thành ‘qui
chuẩn’ cho sự phát triển của cá nhân đó trong các tương quan nội tại của chính
mình cũng như giữa mình và thế giới bên ngoài.[33] Geertz cho rằng “trở thành người là trở thành cá nhân, và
chúng ta trở thành cá nhân dưới sự hướng dẫn của các mô hình văn hóa, qua lịch
sử tạo nên các hệ thống ý nghĩa mà chúng ta đưa ra kiểu mẫu, trật tự, điểm qui
chiếu, và phương hướng cho cuộc sống chúng ta.”[34]
Người ta thường
nhìn nhận văn hóa trên phương diện cộng đồng hơn là phương diện cá nhân. Có
nghĩa rằng văn hóa trước hết không thuộc về một ai đó, nhưng thuộc về một tập
thể, chẳng hạn, sắc tộc, bộ lạc, hay quốc gia.[35] Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thấy rằng các cá nhân
trong sắc tộc bộ lạc, hay quốc gia đều đóng góp cách cụ thể vào sự hình thành
văn hóa tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.[36] Xét trong cùng một cộng đoàn, chúng ta có kinh nghiệm rằng sự
diễn tả văn hóa của cộng đoàn đó nơi mỗi cá nhân cũng rất đa dạng.
Các cá nhân không
tiếp nhận di sản văn hóa của cộng đồng mình một cách đều nhau, cũng không đóng
góp vào di sản văn hóa của cộng đồng mình một cách như nhau. Ary A. Crollius
cho rằng theo nghĩa ‘xã hội cá thể’, tính đa dạng văn hóa bắt nguồn từ sự hữu
hạn và khác biệt nơi mỗi cá nhân.[37] Mỗi người tạo cho mình lối sống khác với những người khác
trong cùng một cộng đồng.[38] Chẳng hạn, do sự đa dạng trong việc tiếp cận và tích lũy các
yếu tố văn hóa, mỗi người trong cộng đồng đều có quan điểm riêng của mình về
niềm tin, tập quán, tự do, hay nghệ thuật. Quan điểm của mỗi người về môi
trường tự nhiên và xã hội cũng khác biệt nhau. Nói tóm lại, mỗi người tiếp cận,
trao đổi, và hành xử với thế giới xung quanh theo những kinh nghiệm văn hóa cụ
thể mà mình tích lũy được.
d. Văn hóa và
đời sống cộng đồng: Văn hóa được
biểu hiện chính yếu qua đời sống cộng đồng, đời sống tập thể. Như đã đề cập ở
trên, nói đến một nền văn hóa, trước tiên, là nói đến chiều kích cộng đồng của
nền văn hóa đó. Người ta có lý khi cho rằng văn hóa là ‘sản phẩm tập thể’ trước
khi là ‘sản phẩm cá nhân’. Văn hóa ‘len lỏi’ vào tất cả ngõ ngách của đời sống
cộng đồng và trở thành ‘bầu khí’ cho cá nhân ‘hít thở’. Trong phạm vi lớn, cộng
đồng mà văn hóa ảnh hưởng có thể là quốc gia, châu lục, hay quốc tế. Trong phạm
vi hẹp hơn, cộng đồng mà văn hóa ảnh hưởng có thể là gia đình, làng xóm, hay
phố phường.
Mỗi cấp độ cộng
đồng đều có những đặc tính văn hóa riêng. Chẳng hạn, văn hóa gia đình có những
đặc tính phân biệt với văn hóa thôn làng, thành thị, và quốc gia. Các đặc tính
văn hóa gia đình trong một thôn làng không chỉ đơn thuần là một phần của văn
hóa thuộc thôn làng đó. Những đặc tính văn hóa gia đình góp phần định hình văn
hóa thôn làng. Tương tự như thế, văn hóa thôn làng không chỉ đơn thuần là tổng
hợp các đặc tính văn hóa gia đình có mặt trong thôn làng đó.[39] Chúng ta có thể liệt kê hàng loạt sự khác biệt về sự biểu
hiện của văn hóa trong đời sống cộng đồng. Sự biểu hiện này luôn phức tạp, bởi
lẽ mỗi cấp độ văn hóa trong đời sống cộng đồng tham dự vào các cấp độ văn hóa
khác trong khi vẫn có những yếu tố đặc trưng của mình.
Người ta có thể
phân loại văn hóa liên quan đến đời sống cộng đồng theo nhiều cách khác nhau,
chẳng hạn, người ta có thể phân loại văn hóa theo môi trường tự nhiên (thời
tiết, khí hậu, thế giới động vật, thực vật ở môi trường đó), theo vị trí địa lý
(văn hóa miền, văn hóa quốc gia, văn hóa châu lục), theo niềm tin tôn giáo (văn
hóa Kitô Giáo, văn hóa Hồi Giáo, văn hóa Phật Giáo…). Tuy nhiên, những cách
phân loại này rất mơ hồ, sự gần gũi hay xa cách về mặt địa lý không dẫn tới sự
gần gũi hay xa cách về mặt văn hóa.[40] Chẳng hạn, khoảng cách địa lý giữa Anh và Mỹ rất xa, nhưng
hai nước này khá gần nhau về văn hóa, trong khi khoảng cách địa lý giữa
Philipines và Malaysia rất gần, nhưng hai nước này khác nhau khá nhiều về văn
hóa. Chúng ta có thể giải thích sự khác biệt này do yếu tố tôn giáo: Mỹ và Anh
chịu ảnh hưởng của văn hóa Kitô Giáo, trong khi Philipines và Malaysia chịu ảnh
hưởng của hai tôn giáo khác nhau, Kitô Giáo (Philipines) và Hồi Giáo
(Malaysia).
Người ta cũng có
thể phân loại văn hóa liên quan đến đời sống cộng đồng theo cách bao quát hơn,
chẳng hạn, văn hóa Tây Phương và văn hóa Đông Phương. Cách phân loại này cũng
rất mơ hồ, bởi vì, trong quá khứ, người Âu Châu phân chia thế giới làm hai phần
đơn giản, Tây và Đông. Họ xem mình như là xuất phát điểm để phân chia. Tây
Phương là nơi họ sinh sống, Đông Phương là phần còn lại, bao gồm Á Châu và Phi
Châu. Với thời gian, do quá trình liên lạc, trao đổi giữa các dân tộc trên thế
giới, người ta có thể nhận ra văn hóa Tây Phương ở Đông Phương và ngược lại.
Với tiến trình toàn cầu hóa mau lẹ như hiện nay, người ta nhìn thấy hừng đông
của một nền văn hóa chung cho toàn thể nhân loại (global culture).[41] Điều mà ai cũng mong muốn là nền văn hóa chung này, trong khi
tạo điều kiện thuận tiện cho sự thăng tiến của các thành viên trong gia đình
nhân loại về mọi mặt, sẽ không là nguyên nhân triệt tiêu các nền văn hóa truyền
thống cùng với các đặc tính ưu việt của chúng đã hình thành, tồn tại, và phát
triển qua hàng ngàn năm lịch sử.
3. Con
Người và Văn Hóa
a. Con Người
Định Dạng Văn Hóa
Đâu là điểm khác
biệt căn bản giữa loài người và các sinh vật khác? Có nhiều câu trả lời cho câu
hỏi này, tuy nhiên, một trong những câu trả lời đúng đắn nhất đó là văn hóa.
Con người là hữu thể văn hóa. Geertz cho rằng con người là sinh vật
‘bị treo’ trên những lớp mạng do mình dệt nên, trong đó, văn hóa là quan trọng
nhất. Việc tìm hiểu con người không đơn thuần chỉ dựa vào bằng chứng khoa học
thực nghiệm, mà đúng hơn, tiếp cận và đào sâu các biểu tượng, ý nghĩa, và giá
trị vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống họ.[42] Nhận thức rằng con người là hữu thể văn hóa đòi hỏi chúng ta
phải tìm hiểu cách kỹ lưỡng hơn mối tương quan mật thiết giữa con người và văn
hóa.
Chính con người là
tác giả của văn hóa. Trong Gaudium et Spes của Công Đồng Vatican II
(1962-1965), chúng ta đọc thấy rằng “càng ngày càng có nhiều người, nam cũng
như nữ, thuộc bất cứ tập thể hay quốc gia nào, ý thức được chính họ và những
người xây dựng và sáng tạo văn hóa của cộng đoàn mình.”[43] Tất cả các khái niệm và biểu hiện của văn hóa được đề cập ở
trên cho thấy rằng văn hóa lệ thuộc con người. Văn hóa là ‘sản phẩm’ đặc biệt
nhất của con người, đồng thời, văn hóa là yếu tố chính yếu diễn tả sự khác biệt
căn bản giữa con người và các sinh vật khác.
Một số loài động
vật có thể nhận biết và thực hiện một số cử chỉ xem ra thông minh nhờ quá trình
tiến hóa hoặc được tập luyện. Tuy nhiên, những cử chỉ và việc thực hiện đó
không thể được coi là ‘sản phẩm văn hóa của loài vật’ mà là sản phẩm của bản
năng tự nhiên.[44] Chẳng hạn, một số loài khỉ, vượn hay đười ươi có thể phô diễn
những màn xiếc theo mệnh lệnh con người. Tuy nhiên, những cử chỉ này chỉ lặp đi
lặp lại một cách máy móc, thiếu tính sáng tạo. Đặc biệt, những cử chỉ này không
thể trở thành gia sản chung cho các cá thể khác trong cùng nhóm, cũng không thể
lưu truyền cho các thế hệ tiếp theo. Nói cách cụ thể hơn, loài vật không có ‘ký
ức văn hóa truyền thống’, cũng không thể tiếp nhận, trao đổi, phát triển, và
lưu truyền ‘ký ức văn hóa truyền thống’ qua các thế hệ.
Văn hóa loài người
được lưu truyền qua nhiều cách khác nhau, đặc biệt, như đã đề cập ở trên, qua
thế giới các biểu tượng. Có những biểu tượng được gán cho những ý nghĩa cụ thể
và được sử dụng rộng rãi trong nền văn hóa. Dần dần, những biểu tượng này được
xem là yếu tố đặc trưng của nền văn hóa đó. Giữa biểu tượng và tính hữu dụng
của nó có tương quan mật thiết với nhau.[45] Chẳng hạn, bằng việc quan sát những bức tranh cổ xưa hay
thiết bị thô sơ của con người thời trước, các nhà khảo cổ học có thể nhận ra
nền văn hóa của họ và sự phát triển của nền văn hóa đó theo thời gian. Trên các
bức tường trong các lăng mộ của các Pharaô Ai Cập có những cảnh tượng săn bắn
hái lượm. Những cảnh tượng này diễn tả niềm tin của người Ai Cập thời đó rằng
có một hình thức sống nào đó sau cuộc sống đời này. Các kim tự tháp Ai Cập cũng
vậy, chúng ẩn chứa những điều về niềm tin và thực hành mà con người thời đại
hôm nay vẫn không thể nào lý giải hết được.
Sự dịch chuyển từ
tư duy mang tính cá nhân tới tư duy mang tính phổ quát hoặc niềm tin không chỉ
đơn giản là được diễn tả qua các khái niệm mà còn qua các biểu tượng. Những
biểu tượng này có thể là thần thoại và mãi là thế, nhưng cũng có thể là những
thần thoại sau khi đã được gột rửa trong môi trường văn hóa thì trở nên hữu ích
trong việc diễn tả những chân lý tôn giáo cao siêu, chẳng hạn, Trình Thuật Sáng
Thế trong cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh. Sự phát triển và gìn giữ những
đặc tính văn hóa đặc sắc luôn là điều hết sức cần thiết cho mọi hoạt động của
con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể.[46]
Chúng ta nhận thấy
rằng các cá nhân góp một phần quan trọng trong việc hình thành văn hóa nhân
loại. Chẳng hạn, trong những thế kỷ trước Công Nguyên, văn hóa Hy Lạp được
nhiều dân tộc biết tới vì những đóng góp của các nhà triết học vĩ đại như Plato
(427-347 B.C.E.), Aristotle (384-322 B.C.E.), cùng với những đóng góp trong
lĩnh vực toán học (đại số, hình học, và lượng giác) như Pythagoras (582-507 B.C.E.)
và Archimedes (287-212 B.C.E.). Họ là những người tiên phong trong việc đưa ra
những câu hỏi và giải đáp về các vấn đề nhân sinh cũng như những vấn đề khoa
học thực nghiệm khác. Chính sự đóng góp của họ đã làm giàu cho nền văn hóa nơi
họ sinh sống, đồng thời, mở ra những chân trời mới cho những thành tựu tiếp
theo của các thành viên khác trong gia đình nhân loại.
Tại Á Châu, tư
tưởng và giáo huấn của Đức Phật (563-483 B.C.), Khổng Tử (551-479 B.C.), và Lão
Tử (604-531 B.C.) đã ảnh hưởng rất lớn đến các nền văn hóa của hầu hết các quốc
gia trên đại lục này. Cuộc đời những người sáng lập tôn giáo và triết học đó
khác nhau về không gian, thời gian, điều kiện xã hội, nhưng tư tưởng và giáo
huấn của họ lại có nhiều điểm chung. Chẳng hạn, họ đều lưu tâm đến qui luật
nhân quả của các thực tại trong vũ trụ cũng như trong xã hội
loài người. Họ đều khích lệ mọi người biết làm lành lánh dữ và sống hòa hợp với
nhau cũng như với thế giới tự nhiên. Thoạt đầu, tư tưởng và giáo huấn của họ
được xem như các bài học cá nhân dành cho những đồ đệ của mình, dần dần, các đồ
đệ của họ mang những tư tưởng và giáo huấn này đến với nhiều người ở nhiều nơi
khác nhau. Kết quả là những tư tưởng và giáo huấn của họ không chỉ ảnh hưởng
đến các nền văn hóa đương thời mà còn thổi vào nguồn sinh lực mới làm biến đổi
các nền văn hóa đó, đến nỗi các nền văn hóa này được mang những tên mới. Đó là
lý do tại sao người ta thường nói đến nền văn hóa Phật Giáo, nền văn hóa Khổng
Giáo, và nền văn hóa Lão Giáo.
b. Văn Hóa
Định Dạng Con Người
Con người không
chỉ là tác giả của văn hóa, mà còn là đối tượng của văn hóa
nữa, bởi vì họ được văn hóa định dạng trong toàn bộ hành trình của cuộc sống
mình.[47] Tương quan giữa con người và văn hóa không phải là tương quan
một chiều, tức là từ con người tới văn hóa mà còn từ văn hóa tới con người.
Theo đó, con người được ươm trồng và lớn lên trong môi trường
văn hóa. Quan điểm này được Arnold diễn tả cách bóng bẩy, nhưng rất thực tế và
mạch lạc như sau:
Văn hóa nói: “Kìa,
hãy xem những người này, lối sống của họ, thói quen của họ, tính cách của họ,
giọng nói của họ; hãy nhìn họ chăm chú hơn; hãy quan sát cách họ thưởng thức
văn chương, những điều đem đến cho họ sự an bình thư thái, những từ ngữ phát ra
từ miệng họ, những tư tưởng mà họ sở đắc; liệu sự giàu sang nào đáng giá với
điều kiện rằng bởi có nó, người ta trở nên giống như những người này?”[48]
Văn hóa định dạng
con người, hướng dẫn và xây đắp tư tưởng, tâm trạng, cách ứng xử và các đặc
tính khác nhằm phát triển đời sống cá nhân cũng như tập thể, đồng thời chia sẻ
tất cả những gì thuộc thế giới tự nhiên và lịch sử xã hội.[49] Geertz lập luận rằng các dạng thức văn hóa ‘thúc giục’ chúng
ta “không ngừng thay đổi não trạng để chúng ta biết tuân thủ trật tự hiển nhiên
và có ý nghĩa để chúng ta không chỉ cảm nhận trật tự đó mà còn hành động một
cách phù hợp theo trật tự đó.”[50]
Quan sát chu kỳ
kinh tế của một sản phẩm, từ sản xuất, phân phối, đến tiêu thụ, chúng ta có thể
nhận ra rằng tất cả các giai đoạn trong tiến trình này được điều chỉnh bởi dạng
thức văn hóa. Nói cách khác, tiến trình sản xuất, phân phối và tiêu thụ một sản
phẩm nào đó phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa nhất định. Nghĩa là, văn hóa xác
định phương tiện sản xuất, hình thức sản xuất và mối quan hệ giữa phân phối và
tiêu thụ. Chúng ta thử xem xét cách vắn tắt hai giai đoạn của một chu kỳ kinh
tế, giai đoạn sản xuất và giai đoạn phân phối sản phẩm.
Trước hết, trong
giai đoạn sản xuất, câu hỏi được đặt ra là công cụ và phương tiện sản xuất nào
cần được sử dụng? Công cụ và phương tiện sản xuất liên quan đến các yếu tố kỹ
thuật được hình thành trong một nền văn hóa nào đó.[51] Những công cụ và phương tiện này cũng phụ thuộc vào các yếu
tố tự nhiên khác. Chẳng hạn, để cày xới đất đai, người Mỹ hoặc người Úc sử dụng
máy móc hiện đại trong quá trình canh tác, trong khi đó người Việt Nam,
Cam-pu-chia, và Lào xem trâu bò như phương tiện chính yếu để làm việc này. Lý
do sử dụng động vật, như trâu bò trong nông nghiệp có thể được giải thích theo
góc độ kỹ thuật và tự nhiên. Trước tiên, những quốc gia Đông Nam Á này không đủ
khả năng cung cấp máy móc nông nghiệp hiện đại do nền công nghiệp thấp kém.
Tiếp đến, môi trường tự nhiên, địa lý của những nước này thường không phù hợp
cho việc sử dụng máy móc nông nghiệp hiện đại. Ngoài ra, việc sử dụng động vật
trong nông nghiệp có thể có lợi cho sinh thái hơn là việc sử dụng máy móc nông
nghiệp hiện đại. Việc sử dụng các công cụ và phương tiện trong sản xuất diễn tả
hai nền văn hóa, đó là, văn hóa nông nghiệp và văn hóa công nghiệp.
Thứ đến, giai đoạn
phân phối cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các yếu tố văn hóa.[52] Nhiều bằng chứng cho thấy rằng những người sống trong các xã
hội nông nghiệp, đặc biệt là các bộ lạc trong rừng sâu núi thẳm, quan tâm hơn
đến chiều kích cộng đồng trong việc chia sẻ của cải vật chất, trong khi đó
những người sống trong xã hội công nghiệp quan tâm hơn đến chiều kích cá nhân
trong việc chia sẻ của cải vật chất. Quan điểm cộng đồng và cá nhân trong quá
trình phân phối sản phẩm phản ảnh hai nền văn hóa khác nhau, văn hóa nông
nghiệp và văn hóa công nghiệp. Văn hóa nông nghiệp nhìn nhận sản phẩm của con
người thuộc về cộng đồng trước khi thuộc về cá nhân, trong lúc văn hóa công
nghiệp xem sản phẩm của con người thuộc về các cá nhân trước khi thuộc về cộng
đồng.
Chu kì kinh tế của
một sản phẩm như chúng ta vừa xem xét trên chỉ ra rằng văn hóa chi phối mỗi
bước của chu kỳ này. Nói đúng hơn, văn hóa ‘định dạng’ con người để rồi con
người định dạng phương tiện sản xuất, quá trình sản xuất, cách thức phân phối,
và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, văn hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
tiếp nhận, hấp thu, và đồng hóa những yếu tố mới sao cho chu kỳ kinh tế của sản
phẩm ngày càng được cải tiến và phù hợp hơn với những đòi hỏi mới của thời đại.
c. Tính Bền
Vững của Văn Hóa
Văn hóa có tính
bền vững và độc lập cao hơn so với các yếu tố khác trong xã hội loài người.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rẳng các yếu tố văn hóa không dễ bị mai một do ý
muốn và hành động chủ quan của con người. Chẳng hạn, trong những thập niên 70
và 80 của thế kỷ XX, dưới thời Pol Pot tại Cam-pu-chia, giới cầm quyền tàn phá
các chùa chiền, đình làng, hay nhà cộng đồng ở thôn quê, nơi chứa đồ gốm sứ,
thúng, bát, trống đồng ghi lại dấu tích của nền văn hóa nông nghiệp đã tồn tại
hàng ngàn năm. Theo nhìn nhận của giới cầm quyền Pol Pot, những thứ này là sản
phẩm văn hóa của chế độ nông nô, chế độ phong kiến lạc hậu, do đó, cần phải
loại trừ tận gốc rễ nhằm dọn đường cho một nền văn hóa cao hơn trong một chế độ
tốt đẹp hơn do họ gầy dựng.
Không ai phủ nhận
rằng những đồ gốm sứ, thúng, bát, trống đồng tự thân là vô tri vô giác. Tuy
nhiên, những thứ này lại mang ‘hồn’ của xã hội, ‘hồn’ của những người đã tạo
nên chúng. Chúng hiện diện như những thực thể năng động diễn tả lối sống, kinh
nghiệm, và kỹ năng của những người trong quá khứ. Chúng vén mở và lưu truyền
cho hậu thế những thông tin về tư tưởng, cảm xúc, và hành động của những người
đi trước. Chúng vô tri, nhưng không vô tâm, bởi vì, chúng
diễn tả tình yêu và nhân cách sâu nặng của những người biết thể hiện sự vượt
trội của mình trên các thực thể khác trong vũ trụ, đồng thời, biết lưu truyền
cho hậu thế vũ trụ quan và niềm hi vọng trường cửu của mình.
Ngày nay, người
dân Cam-pu-chia đang nỗ lực nhằm sưu tập, tái khám phá, và xây dựng lại những
gì đã bị phá hủy. Đối với người dân Cam-pu-chia hiện tại, những thứ này là một
phần không thể thiếu được, bởi vì chúng diễn tả căn tính, đời sống, và gia sản
tinh thần của cha ông họ. Đến lượt mình, họ có bổn phận bảo tồn, phát triền, và
lưu truyền cho hậu thế.
Chúng ta nhận thức
chắc chắn rằng không thể hiểu rõ một nền văn hóa mà lại không quan tâm đến
những người sống trong nền văn hóa đó. Tương tự như thế, không thể hiểu rõ
những con người mà lại không quan tâm đến nền văn hóa của họ. Sự hiểu biết về
một nền văn hóa sẽ dẫn tới sự hiểu biết những người đang sống trong nền văn hóa
đó và ngược lại. Johann Gottfried Herder nói rằng “bạn phải thâm nhập vào tinh
thần của quốc gia trước khi bạn có thể được chia sẻ phần nào những tư tưởng và
hành động của quốc gia này.”[53]
Trong Đệ Nhị Thế
Chiến (1939-1945), đặc biệt năm 1945, nhiều lính Nhật tự vẫn, bởi vì quân đội
họ bị quân đồng minh đánh bại. Người thì cho đó là hành động bất thường, người
thì cho đó là hành động dại dột. Tuy nhiên, tất cả họ đều nhầm! Để hiểu được
hành động của những lính Nhật này, người ta cần hiểu văn hóa Nhật lúc bấy giờ.
Họ đã tự chọn cái chết hơn là trở thành tù nhân chiến tranh. Văn hóa họ dạy cho
họ rằng ‘chết vinh hơn sống nhục’. Văn hóa họ khuyến khích mọi người đặt danh
dự và nghĩa vụ đối với quốc gia trên cuộc sống và toan tính cá nhân. Binh lính
Nhật chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi tinh thần samurai. Những người thuộc
tầng lớp samurai được đào tạo theo ‘Đường Người Dũng Sĩ’ (the Way of
the Warrior), hình thức rèn luyện nhằm làm cho con người thích nghi với thời
chinh chiến và thể hiện dũng khí của mình ở mức độ cao nhất có thể khi cần
thiết.[54] ‘Đường Người Dũng Sĩ’ cho họ nhận thức rằng họ hành động cho
‘quốc gia vĩ đại’ của chính mình. Theo họ, hi sinh cho vĩ nghiệp thì tốt hơn là
tùng phục quân thù.
Đối với hầu hết
mọi người thuộc các dân tộc trên thế giới, có niềm tin tôn giáo hay không, tự
vẫn trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều được xem như trái với bản chất tự nhiên của
con người. Tự vẫn có ảnh hưởng lớn đến các cá nhân cũng như tập thể. Tuy nhiên,
đối với các binh lính Nhật trong thời chiến, tự vẫn được xem là hành động hi
sinh cao quí nhất của họ cho quê hương đất nước. Tự vẫn để không bị chết vì bom
đạn hay sa vào tay quân thù được xem là biểu hiện ‘cái dũng’ của cá nhân mà
không phải ai cũng có thể làm được. Chính nền văn hóa Nhật thời đó đã ‘trang
bị’ cho các binh lính nhãn quan về cái chết khác biệt so với các nền văn hóa
khác.
Kinh nghiệm lịch
sử nhân loại cho thấy rằng bất cứ so sánh nào về văn hóa cũng đều khập khiễng.
Người ta không thể chỉ dựa vào một số yếu tố văn hóa rồi lập tức đưa ra nhận
định rằng nền văn hóa này cao hơn nền văn hóa kia.[55] Trong thực tế, mỗi nền văn hóa có những yếu tố đặc sắc không
cùng bình diện để đem ra so sánh. Người ta thường ‘sa chước cám dỗ’ là dựa vào
các yếu tố xã hội, kinh tế, kỹ thuật hoặc khoa học để so sánh các nền văn hóa.
Chẳng hạn, người ta dựa vào sự phát triển vượt bậc của nước Mỹ về quân sự, giáo
dục, khoa học kỹ thuật, hoặc mức sống để đưa ra kết luận rằng nền văn hóa Mỹ
cao hơn các nền văn hóa khác trên thế giới.[56] Như đã trình bày ở trên về hai khái niệm ‘văn hóa’ và ‘văn
minh’, nước Mỹ có thể văn minh hơn nhiều nước, nhưng không có gì bảo đảm để nói
rằng nền văn hóa Mỹ tốt hơn các nền văn hóa khác trên thế giới.
Những quan sát và
đánh giá trên đây dẫn chúng ta đến nhận thức tổng quát rằng văn hóa có tính bền
vững cao hơn so với các yếu tố khác trong đời sống con người. William Haviland
cho rằng “về bản chất, văn hóa là hệ thống được kiến tạo nhằm đảm bảo cho sự
tiếp tục tồn tại của một nhóm người.”[57] Không dễ gì loại trừ các yếu tố văn hóa khi nó đã bám rễ sâu
vào tâm thức con người và xã hội. Đặc biệt, khi văn hóa được xem là sự kết nối
giữa danh dự cá nhân và dân tộc, nó trở thành điểm qui chiếu về giá trị và ý
nghĩa tinh thần trong sự tồn tại và phát triển của dân tộc đó.[58] Văn hóa vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi nó xem ra không phù
hợp với tâm trí của số đông người đang sống trong nền văn hóa đó.
4. Tính
Liên Tục và Phát Triển của Văn Hóa
a. Tính Liên
Tục và Không Liên Tục của Văn Hóa
Trong quá trình
phát triển của một nền văn hóa, có sự giao thoa giữa tính liên tục và không
liên tục nền văn hóa đó. Geertz cho rằng “văn hóa chuyển động khá giống với con
bạch tuộc – không phải tất cả cùng một lúc trong sức mạnh tổng thể liên kết
trơn tru của các bộ phận, sự ‘cùng hoạt động’ lớn lao của toàn thể, nhưng là
bởi các chuyển động rời rạc của phần này, rồi phần kia, và đến lượt phần khác
[dẫn tới di chuyển] và đổi hướng.”[59] Chúng ta không thể giải thích một cách đầy đủ tính liên tục
của một nền văn hóa mà lại không quan tâm đến sự gián đoạn, xuống cấp, đổ vỡ,
thậm chí tàn lụi của nền văn hóa đó.
Văn hóa là một
thực tại lịch sử phức hợp và năng động. Do đó, bất cứ tiếp cận hay nghiên cứu
văn hóa nào cũng đều quan tâm đến các đặc tính này. Ẩn chứa trong mỗi nền văn
hóa là quá trình tương giao và luân chuyển các yếu tố làm nên nền văn hóa đó
cũng như các yếu tố có thể làm phương hại nền văn hóa đó. Có những yếu tố thì
hiển nhiên, dễ quan sát, có những yếu tố lại tiềm ẩn. Trong mỗi nền văn hóa đều
ẩn chứa nguyên lý của sự liên tục và không liên tục.[60] Geertz cho rằng “tính không liên tục trong văn hóa cũng như
sự bất ổn trong tổ chức xã hội, thậm chí trong các xã hội có tính ổn định cao,
do ảnh hưởng của nó, là sự thật hiển nhiên như sự ổn định của văn hóa vậy.”[61]
Tính liên tục của
văn hóa là hiển nhiên, bởi vì văn hóa thuộc về thế giới của kẻ sống, trong đó
mọi thứ đều tiếp diễn. Con người cần các yếu tố văn hóa nhằm xây dựng căn tính
mình cũng như tích lũy các yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
mình trong dòng lịch sử. Tính liên tục của văn hóa là điều kiện không thể thiếu
được cho tính liên tục của vô số quan hệ trong môi trường tự nhiên và xã hội.[62]
Văn hóa xuất hiện
trong quá khứ và tiếp tục hiện diện trong hiện tại. Với di sản văn hóa, con
người trong mỗi thế hệ có được ‘bản đồ’ để phát triển ý tưởng, điều khiển các
hành vi, thái độ của mình, của cộng đồng mình sống, nhằm thích nghi hay đối phó
với môi trường chung quanh. Nói cách khác, văn hóa là ‘chỗ dựa’, từ đó con
người tiếp tục với các tương giao cần thiết để xây dựng đời sống của mình.
Trong chừng mực nào đó, văn hóa có khả năng làm chủ tất cả mọi khía cạnh liên
quan đến con người.[63] Nó là tiêu điểm của lối sống, bởi vì văn hóa có khả năng gìn
giữ sự kế thừa lịch sử cũng như có khả năng đồng hóa những yếu tố mới xuất hiện
trong các tương quan của thế giới thụ tạo.[64]
Là thực tại liên tục,
văn hóa có tính ‘trung thành’ và ‘bảo thủ’ cao đối với căn tính của nó trong
dòng lịch sử. Như đã được đề cập ở trên, văn hóa diễn tả chính mình như là thực
tại bền vững giữa những biến động trong thế giới loài người. Con người hướng về
văn hóa như là nguồn mạch chính yếu cho việc thiết lập đời sống tâm linh, tri
thức, và thể lý của mình. Sự học hỏi, hiểu biết, điều chỉnh, thói quen, thái
độ, và hành động của họ được xây dựng trên nền tảng văn hóa.
Văn hóa diễn tả
chính mình như mô thức nắm giữ và truyền đạt những dấu ấn thực nghiệm của quá
khứ nơi cộng đồng hiện tại. Như đã được đề cập ở trên, văn hóa ‘bền hơn’ văn
minh, phong tục. Văn hóa chi phối kỹ thuật, kinh tế, chính trị, giáo dục, và
thể thao. Chẳng hạn, vào tháng Sáu, năm 2002, Giải Túc Cầu Thế Giới được tổ
chức tại Nhật và Nam Hàn. Cơ quan điều hành bóng đá thế giới (FIFA) đã khuyến
cáo chính phủ Nam Hàn là không được giết và ăn thịt chó trong suốt thời gian
diễn ra sự kiện thể thao quốc tế quan trọng bậc nhất này.[65] Tuy nhiên, chính phủ Nam Hàn không tuân theo khuyến cáo của
FIFA. Chính phủ Nam Hàn lập luận rằng chó là động vật giống như các động vật
khác. ‘Thân phận chó’ và ‘thân phận các động vật khác’ là như nhau. Giết và ăn
thịt chó thì tương tự như giết và ăn thịt cừu, bò, dê ở các nước Tây Phương
vậy. Lời khuyến cáo của FIFA nhằm thỏa mãn thiên kiến của những người xem chó
là một trong những loài động vật cưng (pets), những động vật gần gũi và có khả
năng giao tiếp thân thiện với con người! FIFA và chính phủ Nam Hàn đại diện cho
hai nền văn hóa với các đặc tính và quan niệm khác nhau.[66]
Thật không dễ dàng
để đưa ra những đánh giá hợp lí trong trường hợp này. Đối với FIFA, tổ chức
quốc tế đại diện cho những cầu thủ bóng đá và người hâm mộ, những người xem
việc ăn thịt chó là điều kinh tởm. Đối với người dân Nam Hàn, vào những dịp đặc
biệt, như dịp Giải Túc Cầu Thế Giới, việc ăn thịt chó lại là điều cần thiết.
Hơn nữa, việc ăn thịt chó đã trở thành một phần không thể thiếu được trong nền
văn hóa ẩm thực Nam Hàn. Nền văn hóa này xem tất cả động vật đều ‘bình đẳng về
phẩm giá, nghĩa vụ, và trách nhiệm’. Hơn nữa, những người đại diện cho FIFA có
thể không quan tâm đủ đến điều kiện tự nhiên của Nam Hàn, nơi đất chật người
đông, nuôi động vật như bò, cừu, dê để ăn thịt không dễ dàng như nhiều nước
khác trên thế giới với điều kiện tự nhiên ưu đãi.
Những quan sát
trên đây cho thấy rằng, văn hóa có tính ổn định cao. Người ta không thể can
thiệp một cách độc đoán để loại trừ nó hoặc các yếu tố làm nên nó. Văn hóa được
xem như là điểm khởi đầu và điểm hội tụ cho mọi hoạt động của con người, từ
hoạt động tư tưởng, tri thức đến hoạt động thực tiễn, xã hội. Văn hóa là cơ sở
lượng định, đánh giá, và phát triển các mối tương quan trong tiến trình lịch sử
nhân loại.
b. Sự Phát
Triển của Văn Hóa
Văn hóa vừa có
tính ổn định vừa có tính năng động. Tuy nhiên, trong quá khứ, người ta thường
đề cao tính ổn định của văn hóa hơn là tính năng động của nó. Bernard Lonergan
cho rằng “trong quan điểm cũ, văn hóa không được nhận thức theo lối kinh
nghiệm, nhưng theo lối qui chuẩn.”[67] ‘Cái nhìn cũ’ về văn hóa đã khởi sắc cho đến những thập niên
đầu của thế kỷ XX. Theo quan điểm này, “văn hóa đối nghịch với man rợ. Nó tùy
thuộc vào việc hấp thụ và đồng hóa mỹ quan, kĩ năng, lí tưởng, đức hạnh, và tư
tưởng tác động lên ai đó trong môi trường tốt và thông qua chương trình giảng
dạy về khoa học nhân văn. Nó nhấn mạnh đến các giá trị chứ không phải sự kiện.”[68]
Quan điểm xem văn
hóa là thực tại qui chuẩn và bền vững có thể được xem là quan điểm truyền thống
đối lại với quan điểm hiện đại về văn hóa mà Lonergan chỉ ra. Theo Lonergan,
quan điểm hiện đại về văn hóa thiên về tính ‘bất tất’ hoặc lệ thuộc của văn hóa
vào những biến chuyển cụ thể của thời cuộc. Theo quan điểm mới này, không có
nền văn hóa nào mà những giá trị cũng như thực hành của nó là qui chuẩn tuyệt
đối cho các nền văn hóa khác. Như thế, sự phân biệt cổ điển giữa người có văn
hóa và dân man rợ bị bãi bỏ. Quan điểm mới về văn hóa đòi hỏi chúng ta có thái
độ cởi mở, thái độ xây dựng, thậm chí thái độ cung kính đối với tất cả các nền
văn hóa. Quan điểm mới này có thể được xem là tiền đề cho việc đối thoại nghiêm
túc giữa các nền văn hóa. Điều này không có nghĩa rằng người ta phải chấp nhận chủ
nghĩa đa nguyên về văn hóa như là chân lý, nhưng có nghĩa rằng người ta cần chú
ý hơn đến tính khách quan lịch sử và thực hành trong quá trình lượng định các
yếu tố văn hóa mà người ta tiếp cận.[69]
Lý do chính biện
hộ cho quan điểm thiên về tính qui chuẩn và bền vững của văn hóa được cho là
phát xuất từ vũ trụ quan tĩnh về thế giới thụ tạo trong đó mọi sự được xem là
bất biến. Một lí do khác biện hộ cho quan điểm thiên về tính qui chuẩn và bền
vững của văn hóa xuất phát từ ‘chủ nghĩa duy truyền thống’ (traditionalism).
Theo đó, văn hóa là thực tại thiêng liêng của thế hệ trước truyền cho thế hệ
sau, bất cứ thay đổi nào cũng đều được xem là thiếu tôn trọng hoặc xúc phạm. Sự
thay đổi về văn hóa đồng nghĩa với sự thay đổi về căn tính của những người sống
trong văn hóa đó. Xem xét các quan điểm khác nhau về văn hóa, William đi đến
tổng hợp cách chí lý rằng “văn hóa là sản phẩm của các tầng lớp vô công rồi
nghề chuyên tìm cách bảo vệ nó khỏi những gì mới mẻ hoặc nguy hại. Văn hóa là
sự kế thừa của tầng lớp đang lên, ẩn chứa tương lai của nhân loại mới; tầng lớp
này tìm cách giải phóng văn hóa khỏi những gì kìm hãm sự phát triển của nó.”[70]
Mặc dù được xem là
thực tại ổn định bền vững, văn hóa vẫn không ngừng biến đổi. Văn hóa biến đổi
được xem như là kết quả đương nhiên của sự tác động giữa văn hóa và những yếu
tố hay biến đổi hơn trong môi trường tự nhiên, lịch sử, và xã hội.[71] Với lối nói bóng bẩy, Arnold cho rằng “văn hóa có cái nhìn xa
hơn máy móc, văn hóa ghét sự hận thù, văn hóa có tình yêu mãnh liệt, tình yêu
mãnh liệt về sự ngọt ngào và ánh sáng.”[72] Văn hóa luôn nhìn phía trước và sẵn sàng tiếp cận, tích hợp,
đồng hóa những gì tốt lành, đồng thời loại bỏ những gì không phù hợp. Sự biến
đổi trong môi trường tự nhiên, lịch sử, và xã hội có ảnh hưởng đến sự biến đổi
của văn hóa. Chẳng hạn, văn hóa Do Thái tại Palestine ở thời điểm hiện tại có
nhiều khác biệt so với hai nghìn năm trước. Văn hóa của những người Do Thái
sống tại Nga hay các nước Đông Âu có nhiều khác biết so với văn hóa của những
người Do Thái sống tại Mỹ hay Úc. Khoảng cách không gian, thời gian, những
thăng trầm của lịch sử, xã hội hơn hai ngàn năm, sự khác nhau về môi trường địa
lý, dẫn tới những khác biệt của văn hóa Do Thái ở những nơi khác nhau trên thế
giới. Tương tự như thế, văn hóa Hồi Giáo của những người ở Trung Đông hay ở bất
cứ nơi nào khác trên thế giới ở thế kỷ VII hoặc VIII cũng có nhiều khác biệt so
với hiện tại.
Văn hóa thay đổi
như bất kỳ thực tại nào trong vũ trụ. Như đã đề cập ở trên, con người vừa là
chủ thể của văn hóa, vừa là đối tượng của văn hóa. Con người cũng là ‘tác nhân
phát tán văn hóa’ từ thời này sang thời khác, từ nơi này đến nơi nọ, từ xã hội
này sang xã hội kia. Trong tiến trình này, các yếu tố văn hóa có thể bị yếu đi
hoặc mạnh thêm hầu đáp ứng những đòi hỏi mới của thời cuộc. Chẳng hạn, văn hóa
Việt Nam đã thay đổi nhiều khi Lão Giáo, Nho Giáo, và Phật Giáo du nhập vào
Việt Nam, đặc biệt trong bốn thế kỷ đầu Công Nguyên. Những người mang sứ mệnh
tôn giáo tới Việt Nam, đồng thời, cũng mang theo văn hóa của họ. Qua quá trình
thích nghi và phát triển, hiện nay, người ta có thể nhận thấy các đặc tính văn
hóa của Ấn Độ và Trung Quốc trong văn hóa Việt Nam.[73] Tại miền Nam Việt Nam, người ta có thể nhìn thấy nghệ thuật
xây cất được in dấu bởi phong cách Ấn Độ, như đền chùa và lăng tẩm; tại miền
Bắc Việt Nam, người ta có thể nhận thấy phong cách nghệ thuật điêu khắc Trung
Quốc trên các đình làng và nhiều nơi công cộng khác.
Quá trình biến đổi
văn hóa diễn ra do sự tác động qua lại giữa các nền văn hóa. Chúng ta có thể
miêu tả quá trình này như sau: Một nền văn hóa tiếp cận một nền văn hóa khác
theo hai ‘thì’, thì cho và thì nhận. Sự cho và nhận các đặc tính văn hóa diễn
ra cách bình thường nhất đó là không có nền văn hóa nào hoàn toàn chủ động hay
hoàn toàn bị động. Không có nền văn hóa nào chỉ là ‘chủ thể’, tương tự như thế,
không có nền văn hóa nào chỉ là ‘khách thể’. Các nền văn hóa vừa là chủ thể vừa
là khách thể, tuy rằng ‘mức độ’ chủ thể hoặc khách thể trong các thời điểm
không giống nhau. Sự tương tác giữa các nền văn hóa vừa đóng vai trò chủ thể,
vừa đóng vai trò khách thể có tác dụng làm cho chúng biến đổi hình thức trong
tiến trình giao tiếp cũng như trong tiến trình chúng được hấp thụ bởi những
người sống trong đó.
Những quan sát và
đánh giá trên đây dẫn chúng ta tới nhận thức rằng văn hóa là một hệ thống
mở (open system), một hệ thống vừa cho đi, vừa tiếp nhận, một hệ thống đa
dạng, uyển chuyển, có tính thích nghi cao, nhằm điều chỉnh các tương quan của
con người.[74] Văn hóa luôn dành chỗ cho việc tiếp nhận các đặc tính mới nảy
sinh trong các tương quan này. Qua quá trình tiếp nhận những yếu tố mới và đào thải
những yếu tố không phù hợp, văn hóa được xây đắp và thanh lọc bởi những người
sống trong đó. Tất cả mọi người có vai trò tiếp nhận, trao đổi, và lưu truyền
văn hóa trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Quá trình này cứ tiếp tục từ đời nọ
tới đời kia và làm cho văn hóa ngày càng hoàn thiện hơn.
Không có nền văn
hóa nào được gọi là hoàn hảo dù ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử của nó. Sự
phát triển văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực của con người. Do đó, văn
hóa luôn luôn được ‘tái xem xét’, ‘tái tiếp nhận’, và ‘tái lưu truyền’. Trong
một số trường hợp, văn hóa thay hình đổi dạng và mang khuôn mặt mới, bởi vì
những đặc tính căn bản của nó không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, chẳng hạn, sự
thay hình đổi dạng của các nền văn hóa Tây Phương nói chung kể từ ‘Biến Cố Đức
Kitô’ (the Christ-event), biến cố phân chia lịch sử nhân loại thành Cũ và Mới,
trước Công Nguyên và sau Công Nguyên, Cựu Ước và Tân Ước (theo ngôn ngữ của
những người Kitô Giáo). Ngày nay, văn hóa Tây Phương nói chung có thể được xem
là văn hóa Kitô Giáo.[75] Kitô Giáo ảnh hưởng cách sâu đậm đến các nền văn hóa Tây
Phương và tạo ra sự biến đổi lớn về ‘chất’ trong các nền văn hóa này. Chẳng
hạn, ý niệm về bác ái, tự do, nhân quyền, bình đẳng có thể được xem là những
điểm son mà nền văn hóa Kitô Giáo mang lại cho Tây Phương cũng như các dân tộc
khác. Hơn nữa, văn hóa Kitô Giáo đã và đang trở thành cầu nối liên kết giữa các
nền văn hóa trên thế giới.[76]
Kết Luận
Chúng ta đã tìm
hiểu một số định nghĩa điển hình về văn hóa và nhận thức rằng không định nghĩa
nào có khả năng khái quát hóa thực tại văn hóa nhằm làm thỏa mãn tri thức con
người. Điểm chung của các định nghĩa là văn hóa kết tụ và được diễn tả nhờ các
biểu tượng, ý nghĩa, và giá trị nhằm điều chỉnh các tương quan của con người
trong môi trường tự nhiên, lịch sử, và xã hội. Con người và văn hóa ‘định dạng’
nhau. Con người ‘định dạng’ văn hóa theo nghĩa rằng con người là chủ thể của
văn hóa trong việc tiếp nhận, xây dựng, trao đổi, và lưu truyền văn hóa từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa ‘định dạng’ con người theo nghĩa rằng văn hóa
là môi trường cho phép con người xây dựng đời sống cá nhân cũng như tập thể.
Mọi hành động, lời nói, việc làm, kể cả niềm tin của con người phụ thuộc rất
nhiều vào văn hóa.
Văn hóa tồn tại
trong hai trạng thái chính, tiếp tục và phát triển. Trong trạng thái tiếp tục,
văn hóa bền vững và ổn định. Văn hóa được xem là tiêu chuẩn để phân biệt giữa
các chủng tộc, bộ lạc, quốc gia, giai đoạn lịch sử. Trong trạng thái phát triển,
văn hóa năng động và đổi thay. Sự thay đổi văn hóa xảy ra dưới tác động của
những thay đổi về lịch sử xã hội cũng như sự tương tác và trao đổi giữa các nền
văn hóa.[77] Nhờ hai trạng thái tiếp tục và phát triển, văn hóa luôn ‘cũ’
và ‘mới’, mới trong cũ và cũ trong mới. Chính hai trạng thái này tạo điều kiện
cho con người ngày càng phát triển hơn về mọi mặt, đặc biệt, về nhận thức, tư
duy, và chân-thiện-mỹ.
Lm.
Pet. Nguyễn Văn Viên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét