Tin Mừng: Mt 10,
17-22
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ
sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các
con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và
cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng
lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải
nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các
con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha
mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen
ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”.
MỤC LỤC
___________________________________________________________
1. Không thuộc về thế gian
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,
lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực
hình để nên giống Đức Kitô.” Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua
Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức
tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu
xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ
đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị
bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.
Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của
trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi
sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. “Như
Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian” (Ga
17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.
Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân… Ngài đã yêu mến và sống tận tình
cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô
hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người
Kitô hữu trọn vẹn.
“Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không
thuộc về thế gian” (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của
xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn
trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng
góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không
được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai
trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu
dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh
vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời
bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách
làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy
chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái…
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong
lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền
hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có
lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm
sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có
cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội
chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế
gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ
là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một
linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ
sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng
con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng
sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì
xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa.
Amen.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái
chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của
người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử
đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng
ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong
những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống
làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải
sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt
cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử
đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa
duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề
ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải
biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt
Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp
hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta
dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các
ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng
ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường,
có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết
những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng
ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở
thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta
trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn
toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự
thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng
ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối
lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không
màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có
quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn
trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo
đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng
bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình
yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần
tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón
nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó
khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá,
bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà
không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng
đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm
chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên
thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình
thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái
nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo
vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh
Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu
muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
3. Để làm chứng cho vua
quan – Mt 10, 17-22
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống
từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua
quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài
phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của
Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba
Ngôi. “Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em” để tuyên xưng
niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của
Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: “Không có
tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự
sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi
yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát,
thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu
tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là
mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không. Có
người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn
Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị
thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ
bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ
đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây
phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua
thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những
mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những
Vườn Dầu trong ngục thất…
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua
thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công
Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào
chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có
kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám
sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh
hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu
đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết
can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên
Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất
quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ
có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có
lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người
khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống
theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người
giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của
mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy
sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay.
Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ
bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu
quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng
cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống
của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của
một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một
cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi
lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác,
người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao
giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm
vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có
thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết
thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng
ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều
vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống
vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình
không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ
không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường
hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn
giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như
không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn
có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình.
Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo
khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải
chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và
Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài
là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ
phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều
đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là
những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ
cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu
là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết
vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và
Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị
thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên
đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là
tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị
chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết
không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính
nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên
hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một
lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy
hay không?
5. Con đường hạt lúa –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ga 12,
20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại
đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu
nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ
một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh
lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm
cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái
chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây,
các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có
lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang
này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ
đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc
Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một
tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một
chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người
nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn
chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả
các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ
sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy
có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua
chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để
tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi
ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ,
anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại
đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là
lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải
trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù.
Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay
vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết
án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống,
đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt
nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn
người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm
nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt
giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát,
và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời
Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời
Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã
chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên
Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con
đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng
một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của
ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả
vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử
thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú
ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi
gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của
cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại
trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt
Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
6. Chứng nhân tình yêu –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100
ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu
ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi
không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán
ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như
toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không
gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu
thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ.
Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn
tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa
tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền
tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên
các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống
vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma
Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của
vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những
người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ.
Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian
nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho
dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ
tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp
lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến
dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không
phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích
cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình
yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống
trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu
hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống
nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống
nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô
biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia
đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con
cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính
gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình.
Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là
không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa
nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là
tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho
kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó.
Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó
(Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình
yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có
thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc
tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo
Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có
lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho
quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen
7. Suy niệm của ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
SỐNG
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện
mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người
Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những
vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các
Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong
Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những
chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục
đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu
thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu
muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn
trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong
xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài
không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu
mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận
phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để
minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện,
Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn.
Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho
đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi
đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong
huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các
Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh
dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như
các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời
vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một
cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ
giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không
ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày
càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng
lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm
được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa
đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày
người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác.
Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt
hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua
quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài
lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta
phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy
những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng
phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền
đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn
có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương
cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối
lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những
giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người
Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc
phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi
nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động
cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền
dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt
bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt.
Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những
hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các
Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong
những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là
một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng
không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân
cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã
anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp
chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho
Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
8. Chúa Thánh Thần sẽ soi
sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10,
17-22)
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ
về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại
này. “Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho
biết phải nói gì”. Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ,
bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của
thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý
do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
“Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận
biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian
thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế
gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian
ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: “Tôi tớ không trọng hơn chủ”.
Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con”.
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia
sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức
mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của
Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa,
sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau
cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc
bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng
bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó
khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy
can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch
cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng
ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi “đừng sợ” đến ba lần:
- “Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có
gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật”.
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả
một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ
và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất,
nhưng không thể nào giết được linh hồn”.
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa
muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh
hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con
người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ
vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc
mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng
hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao”.
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng
vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc,
người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
“Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy
cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời”. Đó là những lời dạy
của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị
cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa,
đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón
nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công
nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở
thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có
và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ
chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy
làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng
ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã
lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến
trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã
phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ
thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong
khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người
đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải
chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy
tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau
cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn
cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam
cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống
Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ
thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm
năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải
di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng
Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó,
có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm
sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín
hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững
chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta
còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội
lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào
để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử
đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và
thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm
ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi
nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành
động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì
bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết
quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải
một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ
có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu
chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn
xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén
cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ
vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như
phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự
sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng
cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa
rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành
động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu
thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức
tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử
đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực
hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên
xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi
phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng
giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha
ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo,
chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn
tình bác ái yêu thương của chúng ta.
10. Suy niệm của Lm. Phạm
Thanh Liêm
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử
đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn
mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng
của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào
Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm
chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa
đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ
hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải
chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép
ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh
khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai.
Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham
sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự
do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm
đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm
những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái
độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người
chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng
chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người
thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc,
giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc
cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của
Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai
mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có
dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không
bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động
hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi
tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta
vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là
Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài
cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng
ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên
Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai
giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì
chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính
Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ
quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi
vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và
ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi,
tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các
thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”.
Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi
chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai
muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu,
là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho
tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn
chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành
vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống
mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm
năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành
vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan,
anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình
yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người
thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là
tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội
Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh
tử đạo Việt Nam!
11. Anh em làm chứng cho
Thầy
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong
thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị
Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một
người mẹ hiền gương mẫu. “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ
và xưng tội rước lễ.” Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng
lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà
Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi
qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc
quan lạ lùng: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì
Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ
ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một
người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà
thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì
trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống
vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn
định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những
chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn
mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại
êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua
bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức
tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy
sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức
làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ
giải trí vui chơi…)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách
làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm
tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám
sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy
sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi
sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài
đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can
trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì
ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng
tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê
hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
12. Sống đạo và chết vì
đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục
địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị
xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh.
Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình
ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn
lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự
thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không
phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng
ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại
quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được
thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là
“Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có
phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính
mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên
danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự
phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà
cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo
Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả
trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước
hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự
sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng
theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi
người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ
chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị
tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với
Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu
Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù
ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở
thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như
những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người
yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại
chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói
khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của
mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù
nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách
tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ
quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm
quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái
chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn
Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc,
vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không
chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo
chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi
của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì
mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng
tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống
đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
13. Tử đạo, một chọn lựa
của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể
Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là
một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình
dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục
sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại
Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ
sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S”
thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác
đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr”
có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn
sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc
chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng
là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi
vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng
ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời
sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống
gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã
làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết
đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm
chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết
liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng
ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó,
thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau
cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản
này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn:
hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do
thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước
mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ
vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ
thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời,
còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn
lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết
định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá
hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như
không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có
người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã
có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn
Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của
ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua
quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh
gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì
gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa
này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ
của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê
Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”.
Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai
Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên
quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập
giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này
đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp
bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những
chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ
không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh
nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và
cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần
được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng
anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta
đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn
phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha,
còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và
hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên
ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là
đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ.
Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn
lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay,
lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn
lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi
đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng
minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi
chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không
kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ
phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ
ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh
đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại
Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức
thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ
cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ
Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
14. Các thánh Tử Đạo Việt
Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những
con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường
nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ
giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của
mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà
bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi
quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm
chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống.
Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng,
gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng
sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất,
mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ
bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai
mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng
cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con
uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã
can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương
đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi
đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết,
tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy
kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài
vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức
được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ
đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái
gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi.
Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của
các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm
sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống
còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống
như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí
chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị
buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng
thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều
người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu
Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua
sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no
thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui
chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke
ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh
Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta,
bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống
không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng
cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử
Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin
và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có
đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin
ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau
khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi
vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung
thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng
muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các
thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là
tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ
Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được
mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân
nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị
hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có
gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như
sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời
mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các
bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng
khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn
sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử
tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử
đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để
kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các
ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh
cửu.
15. Người chứng thứ nhất –
Ga 12,24-26
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà
không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú
Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc
lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán
lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán
lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người
mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo
lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu
và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo
toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào
ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương
gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không.
Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên
sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn
Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông
nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết,
thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung
quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ
được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở
và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng,
thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt
và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi
phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa.
Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm
trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu
chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa
khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông
để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật,
còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết
đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo
“Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta
nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở
thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ
điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn.
Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các
quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ
trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn.
Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống
của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì
Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị
tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, –
thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của
Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có
những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức
tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và
trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117
Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo
tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục
dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước
đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi
cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối
cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị
chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm
1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai
nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được
tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính
mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ
lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng
ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một
ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến
Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài
như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa
mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân
thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa
Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá
ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh
Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô
để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử
Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống
đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại
tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị
đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo
ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái
lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng
chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua
bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức
tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma,
tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh,
gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số
tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị
bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm
khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức
tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì
được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm
tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của
mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít
là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ
nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông
chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các
trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực
hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận
chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình
như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau
một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra
thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy,
các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ
được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may
lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang,
sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ,
chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình
hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng
vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có
những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất
thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong
một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị
chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau
khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các
ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống
trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với
thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng
tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết
một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một
việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô
hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống
mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng
đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác
nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của
mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai
còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm
chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã
nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác
chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta
nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng
cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã
chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng
ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá.
Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh
dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho
ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai
cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng
cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho
Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và
truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm
rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những
việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình
thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh
tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không?
Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng
Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa
có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn,
quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những
người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban
ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm
tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một
cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt
nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên
báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua
đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau
cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện,
trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông
đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong
máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ
và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày
hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn,
Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ,
từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin
mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc
thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải
những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ
bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới
triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự
Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu
trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình.
Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những
chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên
hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42
giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù
ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và
tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám
mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là
đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã
chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của
mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo
được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi
những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức
Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách
là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một
phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau,
mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có
thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng
tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi
lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một
đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không
rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của
đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc.
Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và
tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là
hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu
là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế
gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh
xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng
ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng
ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết
đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những
giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ
vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho
nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục
sinh.
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính
chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho
mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo
Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là
từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả
một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi
ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn
chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có
trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp
và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc
tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn.
Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày
19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên
bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn
kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người
Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong
hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa
lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân
xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như
chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc
đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các
ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là
kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo
chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng
lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin.
Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình.
Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai
còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
hay “Uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được
thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát
triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những
dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to
lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu
cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết
ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết
của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời
sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh
liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa.
Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức
mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là
một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn
với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài
cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các
ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần
gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua,
chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội.
Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can
đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham
danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng
vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những
khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu
sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng,
các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian,
thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu
trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những
kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho
mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật.
Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống
tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa
hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy
sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc
biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không
dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời
nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm
chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết
phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo
chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu
thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét