Posted on fx.hongan on Tháng Mười Một 28, 2012
Các bài suy niệm & chú giải Tin
Mừng
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM C
Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx
3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36
MỤC LỤC
1.
Dọn dẹp bàn ghế
2.
Hãy nhìn đường
3.
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
5.
Tỉnh thức
6.
Đứng thẳng và ngẩng đầu
7.
Trước ngày gặp gỡ
8.
Suy niệm của McCarthy
9.
Tỉnh thức đợi chờ
10.
Ngày đại hoạ
11.
Ngày tận thế
12.
Tỉnh thức và cầu nguyện – R. Veritas
13.
Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas
14.
Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc
15.
Cuộc sống tỉnh thức – André Sève
16.
Đứng lên
17.
Suy niệm của JKN
18.
Suy niệm của Lm. Mark Link
19.
Hãy nhìn đường – Gm. Arthur Tonne
20.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
21.
Chú giải của Noel Quesson
22. Chú giải của Fiches
Dominicales
1. Dọn dẹp bàn ghế
Đêm
15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải
một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng.
Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước
đến nay.
Cách đây vài
năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi
có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm,
thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?
Thoạt nghe câu hỏi
này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì
người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh
hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài
báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi
chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu,
đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế,
nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những
việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng
còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc
sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?
Bởi đó, qua đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè
chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu
nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để
chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều
lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ,
vào giờ các con không biết.
Và đây cũng
chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn
tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng
ta cũng chính là một Mùa Vọng.
Ước chi trong
giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa,
sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui
mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người
con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp
lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để
bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa,
này con xin đến để thực thi ý Chúa.
2. Hãy nhìn đường
Ít năm trước
đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi
ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây
nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã
trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.
Đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức
luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi
chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.
Đó không phải chỉ
là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho
những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói:
Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.
Để lái một chiếc
xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng
đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp,
các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.
Qui luật này
cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh
chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi,
cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.
Cuộc sống giống
như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một
trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.
Trong đời sống
thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá
ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi,
Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào
nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.
Trước hết, Ngài
ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh
thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn
bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng
hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày
xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.
Với con mắt đức
tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến
và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của
nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài
qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.
Và sau cùng, với
con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong
đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc
đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết
vào ngày tận cùng của trời và đất.
Thế nhưng, chúng
ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng
thăm bản thân chúng ta hay không?
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
TỈNH
THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI
Thật ngạc nhiên.
Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ
sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay
lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn
cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng,
Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi
khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn
chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán
xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời
chúng ta.
Hướng dẫn
thứ nhất: Có hai thế
giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn
vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự
nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh
mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất
là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu:
thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn
thứ hai: Chúa làm chủ
lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi
thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc
Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của
thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có
thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau
tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế
giới tuyệt đối.
Hướng dẫn
thứ ba: Ta tự quyết
định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ
bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều
đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy
tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị
chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không
“chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh
thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những
giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn
lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn
đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì
tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi
cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế
giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác
thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi
vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu
nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới
đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có
tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện,
ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ
gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta
sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh
phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy đến cứu con. Amen.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1) Chúa đã đến rồi
sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2) Chúa làm chủ
lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3) Ta phải làm
gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4) Tỉnh thức
nghĩa là gì?
5) Tại sao phải
cầu nguyện?
4. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
(Trích trong
Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Nhiều kitô hữu
tưởng Phục Sinh là dấu chấm hết của Kitô giáo. Thật ra Kitô giáo vẫn đang hy vọng
và chờ đợi một biến cố hết sức quan trọng: biến cố Chúa trở lại trong vinh
quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Biến cố này hoàn
tất lịch sử nhân loại và hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.
Bao lâu Chúa
Kitô chưa trở lại người kitô hữu còn phải chờ. Chờ đợi làm nên cuộc sống kitô hữu,
cuộc sống Giáo Hội.
Những kitô hữu
thời sơ khai đã nôn nao chờ đợi. Họ ngỡ rằng chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ trở lại.
Nhưng dần dần người ta nhận ra rằng cần phải chờ đợi một cách tích cực, cần phải
chuẩn bị thế giới này đón tiếp Chúa khi Ngài đến, để Ngày Chúa quang lâm thực sự
là ngày hội vui của cả địa cầu và cả vũ trụ. Mà ngày Chúa đến vẫn là một bất ngờ
như mọi lần.
Ngài đã chào đời
bất ngờ như một trẻ thơ quấn tã. Ngài đã sống bất ngờ như một bác thợ mộc vô
danh. Ngài đã chết bất ngờ như một kẻ bị đóng đinh vì gây rối. Ngài đã sống lại
bất ngờ, hiện ra với hai môn đệ về Emmau. Ngài sẽ trở lại bất ngờ…
Tỉnh thức chờ đợi
là thái độ sống của Mùa Vọng.
Tỉnh thức là sẵn
sàng đón Chúa với đèn sáng trong tay. Tỉnh thức là trung tín chu toàn cả những
điều bé nhỏ. Tỉnh thức là tích cực đầu tư những nén bạc Chúa trao. Tỉnh thức đi
đôi với cầu nguyện.
Thế giới hôm nay
có nhiều thứ gây ngủ mê.
Cuộc sống quá
khó khăn hay quá tiện nghi dễ dãi đều làm chúng ta đánh mất thái độ tỉnh thức
chờ đợi.
Chúa đã đến âm
thầm, Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Chúa đang đến nhẹ
nhàng trong thế giới, trong từng người, từng tập thể. Cần tập nghe tiếng bước
chân của Chúa…
Mùa vọng là thời
gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa mới là người chờ ta trước, từ
lâu, vì ta không nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài.
Ước gì chúng ta
dám can đảm và thành thật nài xin: Marana tha! Lạy Chúa, xin hãy đến.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Theo ý bạn, con
người hôm nay có dễ tỉnh thức không? Cái gì đang làm cho giới trẻ trở nên mê ngủ
(ma túy, rượu chè, bạo lực, tình dục…?
Bạn dự tính sống
mùa Vọng như thế nào? Bạn sẽ giúp gì cho những bạn khác sống mùa Vọng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Con thường thấy
mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò
chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của
tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết
bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn
xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm
việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội
hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
Những sa mạc ngắn
ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu
mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.
5. Tỉnh thức
Có một bà
già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền hỏi
bác tài công:
- Chúng ta
có thể dừng lại được không?
Bác tài công
trả lời ngay:
- Được chứ,
chúng tôi có chiếc thắng điện mà.
Bà già chưa
lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:
- Nhưng nếu
chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?
Bác tài công
vui vẻ trả lời:
- Được chứ,
chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.
Bà già liền
nói:
- Lỡ chiếc
thắng tay cũng không ăn thì sao?
Bác tài công
vẫn không mất kiên nhẫn:
- Chúng tôi
còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.
Bà già vẫn
không an tâm, nên hỏi:
- Nếu cả chiếc
thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?
Bác tài công
tỏ vẻ bực bội:
- Nếu chiếc
thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên thiên
đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.
Thực vậy, qua đoạn
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi ngày qua đi
là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào đó, chúng ta
sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu mỗi người
chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?
Trong ngày trọng
đại ấy, Chúa Kitô sẽ lại đến như một tia chớp lóe lên từ đông sang tây, hay như
một kẻ trộm viếng thăm vào ngày chúng ta không ngờ, vào giớ chúng ta không biết.
Liệu chúng ta có ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng hay không?
Nhiều người
trong chúng ta vốn thường nghĩ:
- Tôi không có
thời giờ để lo việc linh hồn, bởi vì tôi bận rộn quá nhiều công việc phải làm.
Nếu nghĩ và sống
như vậy, họ sẽ có cả một khoảng thời gian đời đời để hối tiếc cho việc đã không
làm này. Nhưng bấy giời thì đã quá muộn. Nước đến chân rồi mới nhảy, thì nhảy
làm sao cho kịp.
Chúng ta không
biết việc phán xét ấy xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng:Lúc
bấy giờ Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta xem có mang hình ảnh của Ngài trong tâm
hồn hay không? Nếu linh hồn chúng ta ở trong tình trạng ơn thánh, thì hình ảnh
của Ngài sẽ tỏa sáng, bằng không, Ngài sẽ nói:
- Ta không biết
các ngươi từ đâu mà đến.
Có một câu
chuyện kể lại như sau:
Một linh hồn
kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng đưa tay
ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:
- Lạy Chúa,
con đấy ạ.
Bỗng một tiếp
đáp lại: – Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên đàng.
Trở lại trần
gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong thời
gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi:
– Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?
Ngày kia,
linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: – Ai đó?
Linh hồn ấy
đã thưa lên: – Chúa đấy.
Lập tức có
tiếng vọng lại: – Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy phần
thưởng của ngươi.
Mỗi người chúng
ta đều phải chết. Đó là là sự thật thứ nhất. Rồi sau đó, mỗi người chúng ta đều
bị phán xét. Đó là sự thật thứ hai. Trót cả cuộc đời, chúng ta phải hướng tới
hai sự thật ấy.
Vậy chúng ta đã
sẵn sàng cho cuộc phân xử định mệnh này hay chưa? Nếu như chúng ta chưa sẵn
sàng, nếu như chúng ta còn vướng mắc quá nhiều những món nợ đối với Chúa và đối
với anh em, nếu như chúng ta còn chồng chất tội lỗi, thì ngay từ hôm nay, chúng
ta hay thanh toan cho xong bằng tâm tình sám hối của bí tích giải tội, để rồi
chúng ta không còn phải lo lắng khi phải tính sổ cuộc đời với Chúa.
6. Đứng thẳng và ngẩng đầu
(Trích trong
Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Cuộc sống con
người đầy những bất ngờ. Có những điều tôi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra, thậm
chí tin chắc sẽ không thể xảy ra được, vậy mà thực tế chúng lại xảy ra. Có những
bất ngờ thú vị làm tôi ngất ngây. Có những bất ngờ đớn đau làm tôi hụt hẫng.
Lắm người đi coi
bói để biết trước tương lai, hầu mong tránh được những bất ngờ bi thảm.
Người kitô hữu
tin rằng vũ trụ sẽ có ngày cùng tận, lịch sử sẽ kết thúc bằng biến cố Đức Kitô
quang lâm. Nhưng khi nào chuyện đó xảy ra, chẳng ai biết được. Nó giống như tấm
lưới bất thần chụp xuống trên tất cả dân cư trên mặt đất.
Thiên Chúa có tàn
nhẫn không khi cứ thích cái bất ngờ, khi cứ để cho con người sống trong thấp thỏm?
Thật ra cái bất ngờ chỉ đáng sợ khi Ngài đến mà đèn chúng ta đã cạn dầu, và những
nén bạc Ngài giao vẫn còn bị chôn giấu. Nếu chúng ta luôn thanh thoát, sẵn
sàng, thì việc Ngài đến sẽ là một bất ngờ thú vị.
Chúng ta dễ bị
ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim chúng ta dễ bị trì trệ, nặng nề,
vì ăn nhậu say sưa, vì nuông chiều thân xác, hay vì quá lo lắng cho cuộc sống
hiện tại.
Cả những lo lắng
chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa, và làm ta đánh mất khả năng dừng lại.
Chúng ta bị chìm
ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống mà quên tìm lẽ sống.
Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy những điều kinh khủng những xáo trộn sâu xa trong vũ trụ vào ngày
Chúa đến.
Chúng ta không
nên hiểu mọi hình ảnh ấy theo nghĩa đen.
Điều quan trọng
hơn là những xáo trộn nơi lòng người: lo lắng hoang mang sợ hãi đến hồn xiêu
phác lạc… khi Đức Giêsu ngự đến uy nghi như vị Thẩm Phán.
Nhiều người sẽ
khiếp sợ rụng rời trước nhan Ngài, nhưng đối với những ai đã tỉnh thức, cầu
nguyện, thì đây lại là giây phút được mong đợi từ lâu Đấng họ chỉ thấy trong
lòng tin, nay được diện đối diện.
Đây là cuộc hạnh
ngộ giữa những người yêu nhau. Chúa nhận ra tôi, tôi nhận ra Chúa, và tôi hiểu
rằng chẳng gì có thể chia lìa được chúng tôi.
Tư thế của người
biết mình sắp được giải phóng là tư thế đứng, đứng thẳng, đứng vững, đầu ngẩng
cao, lòng tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng trước chiến thắng dứt khoát
và trọn vẹn của Vua Giêsu.
Mùa Vọng nhắc ta
lần đến đầu tiên của Con Chúa, và nhắc ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài.
Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Xin cho tôi luôn đứng thẳng,
cao đầu ra đón Ngài, chẳng chịu bỏ lỡ một lần cùng Ngài gặp gỡ.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Cuộc sống được
đan bằng những bất ngờ. Mỗi ngày là một bất ngờ, nên mỗi ngày có hương vị
riêng. Bạn nghĩ gì về những người mê bói toán? Bạn có thích biết trước mọi chuyện
tương lai của bạn không?
Nếu ngày mai tận
thế thì hôm nay bạn sẽ làm những việc gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con nhìn
thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng
lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những
người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống
động nơi vị linh mục nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để
chia sẻ lời Chúa.
Chúa hiện diện
nơi Giáo hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con thấy
Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp
Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám
phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy
Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ
bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.
7. Trước ngày gặp gỡ
(Trích trong
‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm hôm
nay liên quan trực tiếp đến sự quang lâm của Con Người, chấm dứt vòng thịnh suy
của thời gian và thiết lập Ngày Quang Vinh của Chúa (Chúa Nhật là biểu tượng, đồng
thời là tiền diễn Ngày đó). Chọn bản văn này cho thời kỳ chuẩn bị lễ Giáng
Sinh, Giáo Hội muốn lưu ý chúng ta đến sự kiện Chúa Giáng Sinh mở màn cho một lịch
sử sẽ kết thúc trong huy hoàng rực rỡ, như chúng ta có thể đoán trước. Sự Chúa
sinh ra, thời thơ ấu của Chúa đưa đến kết quả là tôn vinh tính loài người trong
Chúa. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử ấy có xen lẫn những thảm kịch của tự
do. Những kẻ được tham gia tôn vinh Đức Kitô là những kẻ đã cẩn mật canh thức,
vì thế giữ vững được lòng trung thành. Họ chiến đấu chống sự dữ, vì sự dữ là thất
bại của tự do.
Như vậy, Đức
Kitô làm nổi bật khía cạnh cá nhân của một biến cố chung, là sự tận cùng thế giới
chúng ta đang sống. Ngày nay, nhiều người muốn tổ chức thế giới như thể xem thế
giới là bất diệt. Họ cũng cho rằng không cá nhân nào khỏi chết, tuy nhiên nhân
loại gồm những cá nhân chìm biến trong đó thì bất diệt. Đức Giêsu nói: Thế giới
trong hình thái hiện nay sẽ qua đi. Mỗi người tin, trong cuộc đời hiện tại, phải
canh thức và cầu nguyện vì chính cá nhân mình chịu trách nhiệm về số phận vĩnh
cửu của mình.
Đối với mỗi người,
ngày giờ chết sẽ đến bất chợt, dù có dự đoán. Cũng vậy, đối với nhân loại, ngày
tận thế sẽ đến vào lúc không ngờ. Chúng ta tự hỏi, mình có trong số những kẻ
trông thấy ngày tận thế không? Chúng ta làm sao biết được? Dẫu thế nào đi nữa,
chúng ta biết chắc chúng ta sẽ chết. Chúng ta phải chuẩn bị kỹ cuộc gặp gỡ
riêng với Chúa, như thể ngày mai sẽ tận thế. Điều quan trọng là lúc gặp Chúa
chúng ta có thể đứng thẳng trước Con Người, cách rất khiêm nhượng đơn sơ, hy vọng
được Chúa đón nhận vì mình đã hết lòng ăn ở hiếu thảo, không bị Chúa xét phạt.
8. Suy niệm của McCarthy
Suy
Niệm 1. NÉT XANH TƯƠI NƠI NHỮNG KẺ THEO CHÚA
Có một câu
chuyện (của John Shea, trong cuốn ‘Giai thoại về những cái chuông’) kể lại rằng
khi Thiên Chúa dựng nên các cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ.
Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào
sẽ có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn rằng các ngươi phải thức tỉnh
và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm”.
Những thân
cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc
quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức
không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn
quá dễ dàng nữa, và vừa trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ.
Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi
ngủ lăn ra. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong
đêm thứ tư, lại có thêm vài thân cây nữa ngủ gục. Đến đêm thứ bảy, những thân
cây duy nhất còn tỉnh thức chỉ là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây
linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế mà thôi.
Thiên Chúa
kêu lên: “Sức chịu đựng của các ngươi tuyệt vời thật! Các ngươi sẽ được ban cho
một ân huệ là giữ được mầu sắc xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những
kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc,
thì các cây cối anh chị em của các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những
cành cây của các ngươi”.
Kể từ đó, tất
cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong những
khi cây thường xanh thì vẫn còn tỉnh thức. Câu chuyện này minh họa lại hai chủ đề chính của Mùa Vọng:
Sự tỉnh thức giữa cảnh ngủ mê, và sự xanh tươi giữa nơi cằn cỗi.
Nơi những cây
thường xanh, chúng ta ghi nhận được một sự thách đố mang tích cách lịch sử,
nhưng kiên quyết. Thế giới chung quanh có thể ngủ mê hoặc cằn cỗi, nhưng những
thân cây này vẫn tiếp tục mang lại lời chứng. Chúng vẫn kiên trì, không phải do
sự xác quyết của bản thân chúng, mà nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng chỉ
ra cho chúng ta thấy rằng, trong tư cách là người Kitô hữu, vai trò của chúng
ta phải là gì. Đó là phải tỉnh thức giữa những kẻ ngủ mê, phải xanh tươi giữa
những kẻ cằn cỗi. Để làm chứng cho Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương giữa cảnh
hận thù, bình an giữa nơi xung đột, và sáng sủa giữa chốn tối tăm.
Trong xã hội của
chúng ta, có những người đặc biệt cần phải tỉnh thức. Chúng ta nghĩ đến những
người đang đảm nhận các công việc mang rất nhiều trách nhiệm, chẳng hạn như các
phi công, tài xế (có biết bao tai nạn gây ra do những người ngủ gục trong khi
đang cầm lái), các y tá trực đêm, các bậc cha mẹ đang có con cái đau yếu, những
người làm công tác bảo vệ an toàn…
Nhưng tất cả chúng
ta đều được kêu gọi phải tỉnh thức theo nghĩa rộng. Nói cách khác, chúng ta sẽ
bị lỡ làng rất nhiều. Có nhiều người ngủ mê trong suốt cuộc sống của họ. Họ có
tai, nhưng không biết lắng nghe, có mắt, nhưng không nhìn thấy. Tất cả chúng ta
đều cần phải tỉnh thức, bởi vì cuộc sống thật quý giá. Nhưng cuộc sống của người
Kitô hữu là đáng quý nhất. Chúng ta không chỉ được thúc giục phải “tỉnh thức”,
mà còn phải cảnh giác nữa.
Chúa đòi hỏi
chúng ta, những kẻ đi theo Người, phải luôn tỉnh thức, phải trở thành những môn
đệ đầy cảnh giác, đầy tin tưởng, phải là những kẻ đi theo Người luôn xanh tươi
mãi mãi. Chúng ta là những chứng nhân của Người trong thế giới này. Không phải
là quá đáng, khi tuyên bố rằng chúng ta phải thận trọng quan sát khắp cả thế giới.
Chúng ta phải làm chứng cho sự sống và niềm hy vọng giữa cảnh đổ vỡ, biến động
và chết chóc.
Khi làm chứng
cho chân lý, công bằng, yêu thương và an bình, là chúng ta đang làm chứng cho Đức
Giêsu. Cách thế làm chứng cho chân lý phải là sống trọn vẹn cho chân lý. Cách
thế làm chứng cho lẽ công bằng là phải hành động một cách công bằng. Cách thế
làm chứng cho tình yêu thương là phải có những hành động đầy yêu thương. Và
cách thế làm chứng cho hòa bình là phải sống trong sự bình an đối với người
khác.
Nói tóm lại, cách
thế có hiệu quả nhất để làm chứng cho Đức Giêsu là phải sống một đời sống Kitô
hữu đích thực. Chúng ta cần có sức mạnh, để duy trì được sự kiên định và lòng
tin. Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện.
Suy Niệm
2. CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN
Chúng ta đang sống
trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên
cách đây hơn 2000 năm tại Bêlem. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Kitô sẽ đến lần thứ
hai trong vinh quang vào thời sau hết. Trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tìm
thấy Đức Kitô ở đâu?
Lần kia, có
một sinh viên người Do Thái rất đứng đắn, anh có một ao ước cháy bỏng được nhìn
thấy ngôn sứ Êlia, thế là anh khẩn khoản xin cha anh chỉ cho thấy ngài. Người
cha trả lời: “Nếu con không ngừng hết lòng nghiên cứu kinh Tôra, cha hứa với
con rằng con sẽ xứng đáng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia”.
Trong vài tuần,
người con trai nhiệt thành chuyên chú vào việc học hỏi của mình, bằng cách miệt
mài vào những cuốn sách thánh cả ngày lẫn đêm. Thế rồi anh đến gặp cha và nói:
“Con đã làm điều mà cha dặn bảo, nhưng ngôn sứ Êlia vẫn không tự bộc lộ bản
thân ngài cho con”.
Người cha trả
lời: “Con đừng nản lòng như vậy. Nếu con xứng đáng, thì chắc chắn ngài sẽ tự bộc
lộ về chính ngài cho con”.
Một đêm kia,
con trai ông đang ngồi tại bàn của mình, thì một người nghèo khổ đi tới. Người
này lấm đầy bụi đường và quần áo rách tả tơi. Với gương mặt thô nhám, trên chiếc
lưng còng mang một cái túi nặng nề, người đó sắp sửa đặt cái túi xuống, thì anh
ta tức giận nói với ông “Đừng làm như vậy. Thế ông nghĩ chỗ này là một cái quán
trọ à?”.
Người khách
vãng lai khẩn khoản “Tôi quá mệt. Xin cho tôi nghỉ ở đây một lát, rồi tôi sẽ đi
tìm chỗ trọ”.
“Không. Ông
không thể ở lại đây được. Cha tôi không cho phép những kẻ lang thang được đến
và ở lại đây, với cái túi lấm đầy bụi bặm của họ”.
Thế là kẻ xa
lạ thở dài, đỡ cái túi lên vai của mình và ra đi. Khoảng một giờ sau, người cha
đến. Ông hỏi “Vậy con đã nhìn thấy ngôn sứ Êlia chưa?”.
Anh con trai
đáp “Dạ chưa, con chưa hề nhìn thấy ngài”.
Người cha hỏi
“Thế hôm nay không có người nào đến đây à!”
Anh con trai
đáp: “Dạ không ạ. Vừa mới đây, có một kẻ lang thang mang một cái túi nặng đi tới
đây”.
“Vậy con có
tiếp đón họ không?”
“Dạ không ạ!”
“Tại sao con
không chịu đón tiếp người này? Con không biết rằng đó chính là ngôn sứ Êlia
sao? Cha e rằng quá muộn mất rồi”.
Kể từ ngày
hôm đó, anh con trai tự bắt buộc mình phải đón tiếp kẻ xa lạ, bất kể người đó
trông như thế nào, hoặc tình trạng cuộc sống của họ ra sao. Và khi làm như vậy,
anh tin tưởng rằng mình đang thực sự đón tiếp ngôn sứ Êlia.
Chúng ta có thể
tìm thấy Đức Kitô và phục vụ Người trong người đồng loại của chúng ta, đặc biệt
nơi những người nghèo khổ và thiếu thốn. Nhưng chúng ta còn có một công việc
khác nữa, nghĩa là làm cho Đức Kitô trở nên “hữu hình” đối với những kẻ đang
hoài nghi và không có niềm tin. Chúng ta là những chứng nhân của Đức Kitô trên
thế giới.
Cách làm chứng
lôi cuốn nhất đối với thế giới chính là sự quan tâm đến mọi người, và sống bác
ái đối với người nghèo khổ, yếu đuối và đau khổ. Lòng quảng đại bên dưới thái độ
này, và những hành động này chứng tỏ sự tương phản đối với thói ích kỷ. Chắc chắn
điều đó đưa đến những câu hỏi dẫn đến Thiên Chúa và Tin Mừng. Lời cam kết đem lại
hòa bình, công chính và quyền lợi cho con người chính là một cách làm chứng cho
Tin Mừng.
Trong khi mỗi
người đều có một phần đóng góp, thì điều quan trọng nhất chính là chứng tá của
cộng đồng Kitô hữu. Với tư cách là một thân thể, các Kitô hữu phải làm chứng
cho thế giới về Đức Kitô, qua tình yêu của họ đối với nhau, qua niềm hy vọng và
niềm vui mà họ phản ánh ra.
9. Tỉnh thức đợi chờ
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ít năm trước
đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế,
anh lại xe buýt trên 1.500.000km không gây tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao
anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”.
Bài Tin Mừng hôm
nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: “Hãy tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng
nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”, “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Hãy ngẩng đầu
lên”, “Hãy nhìn cho kỹ”. Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những
điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Tỉnh thức để chờ
đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống
những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa
Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh
quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi
Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày
nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng
vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta
không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta
còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại
sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến
biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
Đoạn Tin Mừng
này gồm hai phần rõ rệt: Phần thứ nhất là những hiện tượng lạ lùng trong
vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy
không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn Khải huyền. Khó mà giải thích cho được
sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi
lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây
là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người
và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người
rất mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng
đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thuỷ biến
thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm
đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại
trong cảnh hỗn mang nguyên thuỷ. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để
tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”.
Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự tự do Thiên
Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, huỷ diệt một
trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó
Dân Chúa được hạnh phúc.
Ngày ấy, Con Người
hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày
kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu
độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa
Giêsu ở phần thứ hai.
Hãy tỉnh
thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng
ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải
lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ,
nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế
nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén
say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời,
khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ,
hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội.
Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh
Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện
trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được
ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại,
ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
Cách đây mấy
năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho
anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ
của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36
tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự
thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước
đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm
nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói
quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến,
tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá
ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà
giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Anh chị em thân
mến,
Một thoáng nhìn
về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica
thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về
trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của
Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm,
khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta
trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống thực sự
chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể
yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng
là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được
phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết
nào.
Cụ thể hơn mà
nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết
cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến
lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để
ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp
tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống
buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất,
trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng,
kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời
luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
10. Ngày đại hoạ
Ngày chung cuộc
sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và
ngày thế mạt.
1. Ngày
tàn của Giêrusalem
Khi nào thành phố
bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ
suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng
sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực
cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi
gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện
về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và
sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải
là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của
Giêrusalem.
2. Ngày
tàn của thế giới
Bất thần ngày
tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng
rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người
sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ
thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng
của mình. Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù
nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những
người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải
thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu
lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các
Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là
sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp
vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền
tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải
nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh
chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin
vui Chúa quang lâm.
3. Dấu
chỉ.
Không có dấu gì
báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức
Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn.
Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có
điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao
mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống
một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.
Tuy nhiên cũng
còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là
một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một
cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái
giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của
lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ
của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình.
Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề
tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước
từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn.
Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc,
là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý
do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ
trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với
nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của
Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ
nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn
từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời,
người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để
cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế
nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ,
còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến
nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi
tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân
chúng’.
11. Ngày tận thế
Đoạn Tin mừng
hôm nay mô tả về ngày tận thế. Sự mô tả này thường làm cho chúng ta lo âu và sợ
hãi, để rồi chúng ta thầm mong:
- Ước chi chúng
ta đừng sống cho tới ngày ấy.
Tuy nhiên, để
thoát khỏi lý đoán công thẳng của ngày ấy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta hãy
suy gẫm và thực thi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, vì ngày mai rất có thể là
đã muộn. Lời khuyên nhủ ấy như thế này:
- Giờ đã đến,
hãy tỉnh thức, hãy chổi dạy để Đức Kitô soi chiếu.
Phải chăng là
chúng ta đang ngủ mê? Đúng thế, đời sống đã được ổn định và chúng ta không muốn
một ai đến quấy phá. Thế nhưng, Đức Kitô lại chính là Đấng đã đến để quấy phá
chúng ta.
Thực vậy, chúng
ta có những thói hư tật xấu, nhưng lại không muốn ai đá động tới. Chúng ta có
những quan niệm, những ý tưởng sai quấy, nhưng lại không muốn ai phê bình chỉ
trích. Vì thế mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những kẻ tầm thường, nếu không muốn
nói là những kẻ xấu xa.
Tôi đọc thấy
trong một cuốn sách lời kết án sau đây:
- Kitô hữu là những
kẻ ngủ mê, những kẻ nọa lực. Họ ngại dấn thân, họ ngại đổi thay và không đủ sức
hoán cải cuộc đời mình cũng như cuộc đời người khác.
Chính vì thế,
chúng ta phải chổi dạy, phải lên đường, phải ra khỏi tình trạng nọa lực và bất
toại ấy. Thời gian sẽ trôi qua mau hơn chúng ta tưởng, để rồi vào giây phút cuối
cùng, chúng ta phải bẽ bàng nhận ra rằng:
- Đôi bàn tay
chúng ta thì trống trơn, không một chút công nghiệp và cuộc đời chúng ta chẳng
để lại một dấu vết gì cả.
Ngày hôm nay, lời
kêu gọi khẩn cấp, lời báo động SOS được gửi đến chúng ta:
- Hãy từ bỏ những
công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Công việc của
tăm tối, đó chính là rượu chè, cờ bạc, trai gái… nếu chúng ta chạy theo bóng
đêm, sống buông thả cho những bê tha như thế, chúng ta sẽ trở thành những kẻ
thù nghịch với Đức Kitô, vì như lời thánh Phaolô cũng đã nói:
- Ai thuộc về Đức
Kitô thì đóng đinh thân xác mình vào thập giá.
Thế nhưng, có những
người đạo đức và thiện chí đã nhủ thầm:
- Tôi không mắc
phải thói hư này. Tôi không vướng vào tật xấu kia. Tôi yêu thích sự nghèo khó.
Tôi mến chuộng đức trong sạch…
Nghĩ như vậy rồi
họ cảm thấy thanh thản và không cần phải cố tắng thêm nữa. Tuy nhiên, nếu hồi
tâm xét mình cho kỹ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu khuyết điểm vì
con người chúng thì bất toàn, bản thân chúng ta thì yếu đuối. Thánh nhân còn
sai lỗi mỗi ngày tới bảy lần, huống nữa là chúng ta. Nào là những sai lỗi về lời
nói, về đức công bằng. Nào là những hành động bác ái mình đã không thực hiện và
những bổn phận đã quên sót. Nào là những tư tưởng không mấy trong sạch mình đã
chiều theo.
Chính vì thế, một
lần nữa chúng ta hãy khắc ghi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô:
- Hãy từ bỏ những
công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Thánh Gioan
Chrysostome đã chú giải thêm:
- Với vũ khí của
ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời.
Tuy nhiên, muốn
được như vậy, chúng ta phải kiên trì chiến đấu, không mệt mỏi, không chán nản,
không tuyệt vọng vì sống chính là bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi,
thì lập tức sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Dưới sự điều động
và hướng dẫn của Đức Kitô, chúng ta hãy can đảm chiến đấu, kiên trì loại trừ tội
lỗi, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng.
12. Tỉnh thức và cầu nguyện – R. Veritas
(Trích trong
‘Mỗi ngày một tin vui’)
Nhìn vào những
biến cố đổi thay, những xung đột, những cuộc chiến đẫm máu, những tranh đấu đầy
bạo lực xảy ra nơi này, nơi kia trên thế giới, mỗi người chúng ta có thể tự hỏi:Thế
giới này đang tiến về đâu? Con người đamh mong muốn điều gì cho mình?
Có thể có nhiều
câu trả lời khác nhau và tùy theo câu trả lời này mà mỗi người chúng ta quyết định
cho cuộc sống của mình. Nếu bảo rằng, thế giới đang tiến tới sự giàu sang vật
chất, càng nhiều càng tốt thì cuộc đời chúng ta phải chăng là để tìm kiếm tiền
bạc bằng mọi phương tiện trong tầm tay và cả ngoài tầm tay bằng việc gian lận,
hối lộ, mánh mung.
Nếu bảo rằng, thế
giới này đang tiến về cùng Thiên Chúa và nước của Ngài, nước công bằng và tình
thương, nước của hòa bình và tình liên đới thì mỗi người chúng ta phải cố gắng
làm sao để canh tân đời sống của mình theo những lời dạy của Chúa. Mỗi người
chúng ta trước sau gì cũng phải đặt ra cho mình câu hỏi và quyết định cuộc sống
của mình dựa theo câu trả lời; câu hỏi đó là:Tôi có còn tin vào Thiên Chúa, Đấng
ban ơn cứu độ và hướng dẫn đời tôi và lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn, tôi
có còn tin hay không? Hay tôi tin vào một quyền năng, một thần tượng nào khác?
Trong lịch sử
nhân loại đã có những bộ óc tài ba tin tưởng vào một điều gì khác ngoài Thiên
Chúa, và bộ óc tài ba đó đã tạo ra những hệ thống tư tưởng, những ý thức hệ để
xây dựng cuộc sống và xã hội con người, nhưng những ý thức hệ, những hệ thống
này đã thất bại trước mặt chúng ta. Ngoài Thiên Chúa hay đối nghịch với Thiên
Chúa, con người không thể xây dựng hạnh phúc cho cuộc đời mình và cũng không thể
xây dựng một xã hội xứng đáng với phẩm giá của con người.
Cử hành thánh lễ
Chúa nhật I Mùa vọng, chúng ta nói lên câu trả lời của mình, nói lên quyết định
của mình. Câu trả lời của chúng ta là tin vào Thiên Chúa, vào Đấng cứu rỗi nhân
loại. Ngài đã đến trong lịch sử nhân loại và đã mạc khải cho con người sự thật
cứu rỗi qua việc Ngài đã thực hiện ơn cứu rỗi qua cái chết và sống lại của
Ngài. Ngài đã đến, nhưng hằng ngày Ngài còn đang đến và sẽ đến trong vinh quang
vào cuối cùng lịch sử của nhân loại. Ngài là khởi đầu và là cùng đích mọi sự,
chúng ta đang hành trình tiến về Ngài. Đó là câu trả lời của niềm tin và niềm
tin này cần được thực hiện trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần quyết định trở
về với Thiên Chúa, canh tân đời sống mình, sẵn sàng đón nhận Chúa đến bất cứ
khi nào Ngài muốn.
Vào những giây
phút đầu tiên của năm Phụng vụ mới, chúng ta được mời gọi nhìn đến đích điểm
sau cùng của cuộc đời là Chúa Giêsu Kitô ở cuối chân trời lịch sử, ở điểm kết
thúc cuộc đời chúng ta trên trần gian này. Chúng ta được mời gọi nhìn vào Ngài
đang đến và chắc chắn sẽ đến vào lúc chúng ta không ngờ. Nhưng không phải chỉ
nhìn vào Ngài rồi án binh bất động, thụ động cam lòng chờ mà thôi, nhưng vừa
nhìn đến đích điểm là Chúa đang đến với chúng ta, vừa chuẩn bị xem xét lại cuộc
sống hiện tại của mình, tương quan giữa ta và Chúa hiện đang như thế nào?
Chắc chắn chúng
ta đã nghe biết và thực hành Lời Chúa dạy: “Tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng việc
chúng ta cầu nguyện đó đã có tác dụng như thế nào trong đời sống chúng ta?
Chúng ta có trở nên gần gũi, thân thiện với Chúa Giêsu như người bạn thân yêu
nhất của mình, đến độ chúng ta không còn lo sợ khi phải đối diện với Chúa và có
thể nói:“Lạy Chúa, xin hãy đến, con vui mừng được gặp Chúa diện đối diện. Chúa
là người bạn mà con từ lâu mong ước được gặp”. Chúng ta có thể nói như vậy hay
chưa? Hay là chúng ta còn cần phải thực tập nhiều hơn nữa điều Chúa nhắc trong
đoạn Tin Mừng hôm nay:“Tỉnh thức và cầu nguyện nhiều hơn nữa, thật lòng hơn nữa,
đừng giam mình trong cảnh đời hưởng thụ vật chất đến độ quên Chúa”.
Chúng ta cần dốc
lòng thực hiện điều mà thánh Phaolô đã nhắc nhở cho cộng đoàn tín hữu
Thessalônica là bền vững trên con đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước
mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến:“Anh
em thân mến! Tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này là anh em được
chúng tôi dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống
như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa”.
Chúng ta đang tỉnh
thức và cầu nguyện, nhưng chưa đủ, còn phải gia tăng sự tỉnh thức để đừng bị
ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa. Chúng ta cần kiên
trì và gia tăng đời sống cầu nguyện nhiều hơn nữa, để Chúa Giêsu trở thành người
bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không còn lo sợ trước ngày Chúa
đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ.
Lạy Chúa
Giêsu, người bạn thân thiết nhất của con. Xin hãy thương giúp con duy trì tình
thân mỗi ngày một khắng khít hơn với Chúa, để lời cuối cùng, con có thể thưa
cùng Chúa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến. Con vui mừng được nhìn thấy Chúa, diện đối
diện”. Chỉ như thế, ơn cứu rỗi mà Chúa đã đến để thực hiện cho mỗi người chúng
con trên thập giá sẽ làm cho chúng con không uổng phí vô ích.
Lạy Chúa
Thánh Thần, xin Ngài hướng dẫn chúng con canh tân đời sống đức tin, đức cậy và
đức mến. Xin Ngài giúp chúng con được hiểu biết những sự thật Chúa Giêsu đã mạc
khải mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn, để được trưởng thành trong tình yêu
Chúa và trong đức tin.
13. Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas
(Trích trong
‘Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày’)
Vào năm 1987,
người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: “After day” kể lại tình cảnh của ít người
dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom
nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định
dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục
trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau
khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng
xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn
và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh
giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới
văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với
hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc Chúa
nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ
ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc
sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri
Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của
Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng
Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới
loài người. Trong “những ngày đó” hay “vào thời đó” là kiểu nói Kinh Thánh dùng
để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với
nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm
và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự
sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có
ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh
phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc
hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở
về quê cha đất tổ.
Tuy nhiên, lời sấm
trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì
nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp
nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó
và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ
rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm
khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời
điểm cứu độ đó hay không?
“Mầm giống sự
công chính” là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc
nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc
Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm
tươi tốt. Tên gọi “Mầm giống sự công chính” diễn tả khí thế hành động của Thiên
Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ
đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo
hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ
Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào
giữa lòng lịch sử nhân loại.
Mặc dầu nhân loại
tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế,
Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người.
Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó,
Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.
Trong ngôn ngữ
Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao
ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị,
kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu
độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày
Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận
diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống
theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.
Qua văn bản các
hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca
ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của
thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm
tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống
tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời.
Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến
đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải
tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán
nản thất vọng.
“Con Người” là
tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư
cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung,
Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ,
qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua
lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ
trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện
và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống
và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu
soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của
cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng
nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và
không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận
chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một
mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng
của niềm hy vọng.
Trong thư thứ nhất
gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun
trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn
sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp
lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình
yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu
thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại
trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên
Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong
tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính
con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Ngoài ra, cần phải
luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng
cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức
là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu
sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha
nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao
nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu
bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên
Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội
loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu
nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ
Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết
vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và
hữu hiệu.
14. Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc
(Trích trong
‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuộc
chiến khốc liệt giữa Pháp và Đức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một
thương binh vốn là sĩ quan người Đức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ
cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan
tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ
tu Dòng Nử Tử Bác Ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh
nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người
Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành
này.
Chị nữ tu vẫn
dịu dàng nói: – “Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về
với Chúa”.
Viên sĩ quan
mỉa mai: – “Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi!”
Chỉ nữ tu vẫn
kiên nhẫn thuyết phục: -“Thú thực với ông, đã mười sáu năm nay, các chị em
trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa”.
Viên sĩ quan
ngạc nhiên: -“Mười sáu năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc phải
là ân nhân của nhà Dòng?”
Chị nữ tu trả
lời: -“Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Đức.
Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu
nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng
và quyền lực. Đã mười sáu năm qua, tôi và cả nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho
anh”.
Người sĩ
quan gặng hỏi: -“Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?”
Chị nữ tu vô
cùng ngạc nhiên: -“Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?”
Đến đây thì
viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận: -“Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles,
con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người
mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt mười sáu năm qua.
Có nhiều người sống
như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có
nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan
lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.
Họ bị chìm ngập
trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống
thật.
Họ bị cuốn hút bởi
đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan
trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con
người không thiếu những bất ngờ.
Có những bất ngờ
thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ
bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại
lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối
cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như
“chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc. 21, 35). Giữa
hai lần ấy, có biết bao lần Người bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người
chúng ta.
Mùa Vọng
là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta
luôn “tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc. 21, 36), luôn sẵn sàng và thanh
thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không
phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc. 21, 25),
chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc. 21, 26), nhưng
sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc. 21, 28), vì chúng ta sắp được
lãnh ơn cứu độ.
Lạy Đức Kitô,
ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa; nhưng xáo trộn
kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng
con biết “tỉnh thức và cầu nguyện”, để tâm hồn luôn sẵn sàng và
thanh thoát, hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh
ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen.
15. Cuộc sống tỉnh thức – André Sève
Mở đầu mùa Vọng,
chúng ta nghe những mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đứng dậy!” “Hãy ngẩng đầu
lên!” “Hãy cảnh giác!” “Hãy tỉnh thức!” “Hãy cầu nguyện!”.
Chúng ta có thể
nói đây là một sự giật mình tỉnh thức. Loại bỏ hình ảnh các Kitô hữu tiến bước
uể oải hoặc sợ sệt trong cuộc sống. Họ bước đi đầu ngẩng cao, hướng về một thế
giới kỳ diệu: “Các ngươi sẽ thấy Con Người đến trong quyền năng và vinh quang”.
Chắc chắn, đối với
những Kitô hữu, cuộc sống cũng khó khăn như đối với những người khác, cũng vẫn
có những trộn lẫn hy vọng và thất vọng, những lúc vui vẻ và những lúc chán chường.
Sự khác biệt to lớn đó là chúng ta biết rằng tất cả những điều đó có một ý
nghĩa toàn bộ mặc dầu trong chi tiết, những điều đó có vẻ đen tối. Chúng ta biết
chúng ta đến từ đâu và chúng ta đi đâu: được sinh ra từ tình yêu, chúng ta sống
dưới cái nhìn của tình yêu và chúng ta đi về tình yêu. Đôi khi người ta nói với
chúng ta: “Đức tin của bạn có thay đổi được gì không?”. Tất cả! Như mặt trời vậy.
Chúng ta sống cũng những điều như thế, nhưng trong ánh sáng. “Ai đi theo Ta, kẻ
ấy không bước đi trong bóng tối”, Chúa Giêsu nói như thế.
Chúng ta bước đi
trong ánh mặt trời của lần Chúa Kitô đến đầu tiên: Giáng Sinh. Và chúng ta tiến
bước về ánh sáng của lần Ngài đến cuối cùng: Ngày Quang Lâm. Giữa hai lần này,
chúng ta mở rộng cuộc sống và thế giới hết cỡ cho điều bí ẩn hơn, tiệm tiến
hơn: đến được những ý tưởng của Chúa Kitô, sức mạnh yêu thương và niềm tin
không lay chuyển vào Chúa Cha.
Cũng sống trong
ánh sáng, đứng vững trong tình yêu và niềm tin, đó là sự tỉnh thức Kitô: “Hãy tỉnh
thức!”. Gần đây, những kỹ thuật tỉnh thức của Đông phương lan truyền tại Tây
phương: hít thở nhiều hơn, chú ý nhiều đến điều chúng ta đang làm, “hiện diện ở
đó”, tự do, thư giãn, cởi mở, sẵn sàng để sống tối đa vào mọi giây phút. Tại
sao không lấy đó làm một lời mời gọi người Kitô hữu tỉnh thức? Đây là ước muốn
sống đức tin của chúng ta một cách triệt để.
Chúng ta có thể
mô tả cuộc sống tỉnh thức này hay không? Mỗi buổi sáng là một sự gặp lại Chúa
Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Qua việc đọc một đoạn ngắn, một kinh ngắn hoặc
một kinh nguyện dài hơn, chúng ta lại quyết định chú ý đến Chúa, đến nhiệm vụ,
đến những người mà chúng ta sắp sửa gặp. Nhưng sẽ phải không ngừng coi chừng sự
“nặng nề chậm chạp của con tim chúng ta”. Chúa Giêsu nói thẳng: Anh em phải đề
phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.
Ngài cũng chỉ
cho chúng ta biết phải lấy ý chí tỉnh thức ở đâu: “Hãy cầu nguyện!”. Những người
xao lãng mệnh lệnh này ngày hôm nay phải để cho lời cảnh cáo nặng nề cuối cùng
này lọt tai: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi
mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
16. Đứng lên
Cùng với Chúa nhật
thứ I Mùa vọng, hôm nay chúng ta cử hành ngày đầu năm phụng vụ. Thánh lễ này mời
gọi chúng ta lại hướng về Thiên Chúa như hướng về Đấng đang đến, tức là hy vọng,
chờ mong và nhận ra Ngài đến ở chúng ta. Vì mùa vọng là những ngày mong đợi
Ngài đến.
Để đánh dấu ngày
đầu năm phụng vụ, có lẽ phải nhìn lại một chút chu kỳ phụng vụ, để rồi chúng ta
lại quay về Đấng mà chúng ta dám hy vọng và khẳng định rằng Ngài đang đến.
Nhưng việc Chúa đến và niềm hy vọng Chúa đến nằm trong một chuyển động liên tục,
chuyển động của đức tin. Quả thật làm sao chúng ta có thể hy vọng hoặc nhận ra
ai đó đang đến nếu chúng ta không tin nơi người ấy, nếu chúng ta không biết người
ấy?
Để nhấn mạnh vị
trí của mùa vọng trong chuyển động của đức tin, bản văn Tin Mừng hôm nay được
chọn không phải ở đầu nhưng ở cuối Tin mừng thánh luca. Bởi vì chúng ta không
chỉ đợi chờ ngày Giáng sinh của Đấng Cứu thế – đã xảy ra từ hơn 2000 năm nay,
nhưng còn chờ đợi việc Ngài trở lại trong vinh quang, việc này cuối cùng sẽ cho
chúng ta nhìn thấy thế giới trong ánh sáng hoàn toàn, “đứng lên trước mặt Con
Người”. Vì vấn đề là chúng ta có thể đứng lên trước mặt Chúa Giêsu, vì chính
Ngài sẽ đứng trước mặt chúng ta. Kỳ thực, như toàn bộ Tin mừng và đức tin Kitô
khẳng định, Ngài đã đứng đó với chúng ta rồi.
Vậy sống mùa vọng
không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện
của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt
trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu
lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống mùa
vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta,
không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay
hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa
và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và xung quanh chúng ta. Điều
này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần
thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu
lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ
ý nghĩa và sự tháchthức của những dấu lạ đó hoặc tầm thường hóa chúng ta vì ta
đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước
và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là
như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến dâng mạng sống mình để cho thế giới được sống.
Mặc dầu danh từ
mùa vọng gần với “mạo hiểm” hơn là “chờ đợi” nhưng chúng ta thường đồng hóa mùa
vọng với chờ đợi. Tôi nghĩ chúng ta cần phải sống mùa vọng như một cuộc mạo hiểm,
cuộc mạo hiểm mà Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta, từ việc Chúa Giêsu ra đời
vào ngày Giáng sinh, đến việc Giáo Hội sinh ra ngày lễ ngũ tuần. Cuộc mạo hiểm
này, được Tin mừng và toàn bộ Thánh Kinh làm chứng, nhắc nhở chúng ta phải sống,
chứ không chỉ chờ đợi mà thôi. Thí dụ chúng ta hãy nghĩ đến những gì đã xảy ra
cho chúng ta khi chờ một cú điện thoại của người thân và chúng ta phải thất vọng
vì nó không đến. Lúc đó chúng ta đâm ra chán nản vì sự trễ nải hoặc thờ ơ của
người kia mà càng lúc chúng ta càng bị lệ thuộc.
Đôi khi chúng ta
lại chẳng chờ mong Thiên Chúa như một kinh nghiệm lệ thuộc đó ư? Chỉ mong sao
cho Đấng sẽ cứu chúng ta, sẽ phán xét và chỉnh đốn thế giới đến mau cho rồi!
Nói cách khác, mong sao cho đấng sẽ sống thay chúng ta cuộc mạo hiểm của đời sống
của chúng ta đến mau cho rồi, trong lúc cuộc mạo hiểm đó là của chúng ta dù được
sống cùng với Thiên Chúa đi nữa! Tôi nghĩ rằng chúng ta phải cùng với Chúa sống
mùa vọng, sống cuộc mạo hiểm hoặc việc Chúa đến phán xét và chỉnh đốn thế giới
chúng ta. Đó cũng là việc hoán cải mà mùa vọng mời gọi chúng ta làm.
Lúc đó chúng ta
có thể nhận ra vinh quang của đấng mà chúng ta tuyên xưng là Chúa của chúng ta.
Lúc đó chúng ta có thể nói cùng với vị ngôn sứ:“Chúa là sự công chính của chúng
ta”, và có thể đứng trước mặt Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống tình yêu của Ngài…
trong lúc chúng ta chờ mong Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống cuộc mạo hiểm làm người
của chúng ta dưới dấu hiệu tình yêu của Ngài, bất chấp mọi nguy hiểm và khó
khăn.
17. Suy niệm của JKN
Chúa đến
để khai mạc một kỷ nguyên mới: một trời mới, đất mới
Câu hỏi
gợi ý:
1. Nếu biết
trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn
có làm gì khác lạ hơn bình thường không? Tại sao?
2. Tỉnh thức
nghĩa là là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức.
3. Để tỉnh thức
theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm những gì?
Suy tư gợi
ý:
1. Nếu
tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì …
Chúng ta thử xét
một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào
khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến «thăm» nhà ta tuần
này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán
kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày
không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám
con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? – Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc
chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật
gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng
đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết
ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của
cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của
ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo
lắng canh giữ?
2. Cách sống
hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu
của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian
là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ
trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại,
và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta
chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa
nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm
Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng
hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm
an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái
chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối
với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an
toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: «Khi người ta nói: “Bình an biết bao,
yên ổn biết bao!” thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống» (1Tx 5,3). Cái chết
đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào,
cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện
quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế
nào?
Số phận của
chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống
vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là «hình ảnh của Thiên
Chúa» cũng là «con cái Thiên Chúa», thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một
môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương.
Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường
lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ
phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách
Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: «Cây tốt
thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu» (Mt 7,17). Tương tự như một người
luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt
thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí
vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy
hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng
biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho
mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng,
buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của
Chúa
Đối với mỗi cá
nhân, Ngày của Chúa – hay ngày Chúa đến – chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần
thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của
mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả
mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài
sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi
chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp,
mọi giai cấp, mọi tập thể… Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn
hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí
mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất
cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ… Trước mọi sự được
tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính
hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của
mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp
lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là
ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải
oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt
đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày
u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ
gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến
đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là
đau khổ muôn đời.
4. Thái độ
tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến
như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời
đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc
nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là
ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức
là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với
ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta
quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người
nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý
thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới
lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa
là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo
nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình
là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa,
nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh
thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần
mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho
tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về
ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về
những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta
thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là
mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình
phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng
bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng
thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị
bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó
chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm
tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể
trở nên «mê ngủ», mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui
trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực… đến nỗi chẳng những
quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng
trước bất công…), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu
khống, gây bất công, thù oán, giết người…) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta
say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở
thích…), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ,
đọc kinh, cầu nguyện…) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải
làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp
lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ
việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối
với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn
luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha
nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra
có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc
nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam
mê làm tông đồ, đam mê làm ăn… có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm
đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng
xóm… Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh
phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
18. Suy niệm của Lm. Mark Link
CHẾT
ĐẾN NƠI MÀ VẪN LO DỌN DẸP SAO?
“Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện chờ Chúa đến với chúng ta”
Đêm
15.04.1912, tàu TITANIC đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng vào một
tảng băng, con tàu lâm nguy và bị đắm, hơn 1.500 người thiệt mạng. Đó là một
trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử từ trước tới nay.
Cách đây vài
năm, có một tạp chí đã nhắc lại thảm hoạ này và nêu ra cho độc giả một câu hỏi
nghe lạ tai mang đầy tính châm biếm: “Lúc tàu TITANIC đang chìm, nếu chúng ta
có mặt ở đó, liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu không?”
Thoạt tiên ai
cũng tự nhủ: “Câu hỏi này mới khôi hài làm sao!”, vì ngay lúc còi hụ báo tàu
đang chìm thì người có tâm trí bình thường; ai mà lo đi thu xếp bàn ghế? Người
có chút tỉnh táo thì ai lại có thể phớt lờ tiếng kêu la của đám người sắp chết
đuối, để mải mê lo dọn dẹp bàn ghế!”
Tuy nhiên, cứ tiếp
tục đọc bài báo đó, chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên câu hỏi kỳ
quặc trên, để rồi đột nhiên chúng ta sẽ tự hỏi chính mình “Khi chiếc tàu đang
chìm xuống như thế, biết đâu chừng mình lại tiếp tục dọn dẹp bàn ghế? Chẳng hạn
như mình vẫn cứ mải mê lo những chuyện vật chất đời này đến nỗi bỏ bê cả những việc
thiêng liêng đạo đức của mình? Hay mình cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chả còn đầu
óc để chú ý đến cùng đích cuộc sống là gì nữa? Hay mình đã quá đắm mình trong
cuộc sống đến nỗi quên mất lý do tại sao Chúa đã trao ban cuộc sống ấy cho
mình?
“Khi chiếc tàu
đang chìm, liệu chúng ta có mải mê lo thu xếp đồ đạc trên tàu mà quên mất mình
sắp chết đến nơi chăng?” Câu hỏi đó trùng hợp một cách lạ lùng với câu hỏi mà
Giáo Hội muốn nêu ra cho chúng ta trong Mùa Vọng này. Cả ba bài đọc trong Thánh
Lễ hôm nay đều kêu gọi chúng ta tự vấn “Liệu chúng ta có tiếp tục mải mê thu xếp
đồ đạc mà quên mất nguy hiểm là chiếc tàu đang chìm không? Chúng ta có quá bận
rộn với cuộc sống này đến nỗi quên rằng mục đích cuộc sống này là để chuẩn bị
cho cuộc sống mai sau không?” Quả thế, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh
cáo chúng ta: “Các con đừng bê tha chè chén say sưa hay quá lo lắng sự đời”,
nghĩa là Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện chờ Chúa đến. Chủ đề
này được lập đi lập lại trong Phúc âm dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn ở một đoạn
Phúc âm khác, Chúa Giêsu nói: “Hãy coi chừng; hãy tỉnh táo: các con không biết
được ngày giờ nào Con Người sẽ đến, vào giấc tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào
buổi sáng… điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó
là Hãy tỉnh thức” (Mc. 33, 35-36).
Như vậy rõ ràng
Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Tôi xin đưa ra một
ví dụ cụ thể để minh hoạ điều Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài bảo chúng ta hãy tỉnh
thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Cách đây mấy
năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh
cho anh, ông bác sĩ riêng của anh đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết:
“Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm: chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc
giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ, may ra mới có thể cứu sống anh được”. Về
sau, chàng tài tử ấy đã thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học
được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được. Tôi
khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu
nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến tôi cảm nhận được
kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám ra rằng nhờ những lời
tâm sự, nói chuyện hàng ngày với Đức Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng
xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Phúc cho ai nói
lên được lời này khi Chúa đến: “Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh
thức cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện, đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong chúa nhật thứ nhất
Mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức cầu nguyện để khi Chúa Giêsu đến,
Ngài sẽ nói với chúng ta:
“Hãy đến đây, hỡi
các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được
gặp lại các con”.
Tôi xin kết thúc
bài giảng hôm nay bằng lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường
dành cho dân da đỏ tên là Red Cloud (Hồng Vân) miền Pine Ridge tiểu bang South
Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm
nay là Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện:
“Kính lạy Thần
Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng
Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng
nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khấn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước
đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn màu tím,
cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy
bén nghe lời Ngài nói
Xin cho con ơn
khôn ngoan để hiểu thấu những lời giáo huấn của Ngài, mà để con chế ngự kẻ thù
hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn
sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay và khi cuộc
đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi diện
kiến Ngài. Amen.”
19. Hãy nhìn đường – Gm. Arthur Tonne
Ít năm trước
đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc. Trong 23 năm,
anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi làm
sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”
Bài Tin mừng hôm
nay cho một lời khuyên tương tự “Hãy tỉnh thức luôn”. Đức Giêsu dùng nhiều kiểu
nói: “Hãy coi chừng”. “Hãy để ý” “Hãy ngẩng đầu lên”. Đó không phải chỉ là lời
khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là qui luật an toàn cho đời sống
thường ngày nữa, chúng ta cũng thường nói: “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Ngẩng
đầu lên”, “Nhìn cho kỹ”.
Để lái một chiếc
xe hay một chiếc xe buýt, chúng ta “phải nhìn đường”, một lực sỹ thể thao cần
phải lẹ mắt anh phải sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ, anh phải
theo dõi trái banh.
Muốn đạt kết quả
trong trường. Người học sinh phải nhìn thầy, cô giáo, các em phải chăm chú, lắng
nghe, phải theo dõi những gì đang diễn tiến, phải lắng nghe những thầy cô giảng.
Qui luật này
cũng áp dụng cho công việc thường ngày của chúng ta nữa; một bà mẹ canh chừng
con nhỏ, để ý đến cái nồi, cái chảo trên bếp, bà cũng phải chăm chú và cảnh
giác.
“Ngước đầu lên”
được áp dụng đặc biệt trong phụng tự công chung của gia đình Thiên Chúa- nhất
là trong Mùa vọng này. Chúng ta phải tỉnh thức trong thánh lễ, không phải chỉ tỉnh
thân xác mà thôi, nhưng thức tỉnh cả tâm trí và linh hồn. “Hãy nhìn đường” có
thể đổi là “Hãy nhìn bàn thờ”. Hãy theo dõi những lời cầu nguyện và những câu đối
đáp. Hãy mở miệng ca hát. Hãy cố gắng nắm lấy ý nghĩa những gì bạn đọc, bạn
hát. Hiểu ý nghĩa của từng lời, từng chữ.
“Hãy ngẩng đầu
lên”. Hãy nhìn của Lễ Thánh, nhìn chén Máu Thánh châu báu. Chúng ta đang tiến đến
cùng Chúa Kitô trong lúc này. Ít phút nữa chúng ta sẽ gặp Ngài trong Giáng sinh
của thánh lễ. Ít tuần nữa chúng ta sẽ mừng Ngài trong giáng sinh của Belem. Ít
năm nữa, chúng ta sẽ ở với Ngài trong giáng sinh vô tận trên thiên đàng. Hãy
chuẩn bị cho cả ba lễ giáng sinh đó. Nhìn đường, nhìn bàn thờ.
Ý tưởng này lặp
đi lặp lại trong bài đáp ca hôm nay: “Ôi lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của
Chúa”
Xin dạy bảo con
lối bước của Chúa… xin hướng dẫn con trong chân lý của Chúa… Chúa chỉ cho con
đường lối.. Chúa hướng dẫn người khiêm nhường.. Mọi nẻo đường của Chúa thì thiện
hảo và vững bền.
Cuộc sống hàng
ngày cũng giống như lái một chiếc xe, nhất là chiếc xe buýt, chúng ta có trách
nhiệm thiêng liêng với tha nhân. Chúng ta cần một người chỉ đường và hướng dẫn.
Qua lời cầu nguyện
và việc dâng Thánh Lễ, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta tỉnh thức, xin Người giúp
chúng ta tránh khỏi những gì làm chúng ta vấp ngã. Tránh khỏi những gì làm thiệt
hại cho những người chúng ta chịu trách nhiệm. Xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đón
nhận Người đến trong Thánh Lễ, người đến trong Lễ Giáng Sinh và Người đến trong
uy quyền và vinh quang trong phút cuối cuộc hành trình của chúng ta. Amen.
20. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Diễn
từ về “Cuộc trường chinh của việc giải phóng”
Và sẽ có
những điềm lạ trên mặt trời…
Lần này đó là những
biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều đáng chú ý
là liên từ “và”: Chúa Kitô đi từ thời của dân ngoại đối với thành Giêrusalem đến
những biến động trong vũ trụ và không xác định chiều dài của thời gian giữa sự
tàn phá thành vào năm 70 với thời Tận cùng. Như thế, ngài mặc cho sự giày xéo
thành bởi các dân ngoại (c. 24) một màu sắc cánh chung. Đã hai nghìn năm rồi từ
ngày xảy ra biến cố ấy!
Những điềm lạ
nói đây nghiêm trọng hơn những điềm lạ ở câu 11: chúng sẽ đồng thời xảy ra trên
mặt trời, mặt trăng và các vì sao và sẽ gieo rắc lo âu sợ hãi cho toàn thể dân
cư trên mặt đất. Trật tự vũ trụ sẽ chao đảo như thể trở về với cái hỗn mang
nguyên thuỷ ghi dấu thời tận cùng của lịch sử. Các biến cố này đi liền trước
ngày quang lâm của Con Người, ngày đó được nhắc đến một cách ngắn gọn chứ không
được mô tả. Trong khi ngày đó là đích điểm của toàn thể lịch sử nhân loại, thì
tầm quan trọng của nó lại quá nhỏ trong bài diễn từ mà trọng tâm lại nằm ở chỗ
khác.
Lúc ấy, Chúa
Giêsu mới đưa ra một lời diễn giải giúp khám phá ý nghĩa của diễn từ (cc.
28-32); Ngài nối kết các biến cố Ngài vừa nói ở trên với các câu hỏi ban đầu về
ngày giờ và dấu chỉ (xc.7). Một ý tưởng trung tâm (c.28) được minh hoạ nhờ một
dụ ngôn (cc.29-30) và nhờ lời giải thích dụ ngôn ấy (c.31).
Trước hết là dấu
chỉ. Những sự vật sinh sản (cây đâm chồi nẩy lộc, trong dụ ngôn) cho phép các
tín hữu suy diễn về sự gần kề của ngày giải thoát vĩnh viễn (mùa hè gần đến,
trong dụ ngôn; và Triều Đại Thiên Chúa gần đến, trong lời giải thích). Nếu các
sự việc này quy chiếu về các biến động trong vũ trụ xảy ra trước ngày quang lâm
của Con Người, thì chỉ có thế hệ tín hữu cuối cùng mới bị liên hệ bởi sự gần kề
của ơn cứu độ vĩnh viễn. Và nếu Chúa Giêsu chỉ đưa ra việc trời đất rung chuyển
như là dấu chỉ và không đưa ra những điềm báo về sự sụp đổ của thần thánh, Ngài
không mặc khải gì mà lại đã không được nói đến trong các bản văn Cựu Ước liên
quan tới Ngày của Chúa (x. Is 13,10; Hg 2,6). Trong thực tế, dấu chỉ nằm nơi những
biến cố lịch sử xảy ra trước ngày Giêrusalem bị tàn phá (xc.20). Về lệnh truyền
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đặc biệt thích hợp cho các kẻ bị bách
hai (xc. 12tt); “Ngài không nói với các Kitô hữu vô danh sẽ còn sống vào lúc
quang lâm cho bằng, một cách cụ thể hơn, với các người đương thời của tác giả
Tin Mừng” (V.Fusco) và, qua họ, với tất cả các Kitô hữu sau này sẽ nghe hoặc sẽ
đọc Tin Mừng thứ ba. Các thành viên trong Giáo Hội của Luca –rồi chúng ta hôm
nay- phải sống trong sự xác tín rằng việc giải thoát họ thực sự đang tới, rằng
nó đã gần rồi. Như lời Tông đồ Phaolô: “Hiện này, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng
ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo… Ngày gần đến” (Rm 13,11-12).
Câu 32 trả lời một
cách long trọng cho câu hỏi về ngày giờ: Mọi điều ấy sẽ xảy ra trong khi thế hệ
này –đa số những người đương thời với Chúa Giêsu Nagiaret- vẫn còn sống. Từ ngữ
“mọi điều” bao gồm toàn bô các biến cố tương lai đã được loan báo, kể và nhất
là biến cố quan trọng nhất” (V.Fusco). việc quang lâm, nghĩa là những dấu chỉ
là việc Con Người ngự đến, Luca không ngại ngần chi khi lấy lại lời truyền thống
này mà không thêm bớt gì, ông cũng đã làm như thế ở 9,27 với lời liên hệ đến những
kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa, mạch văn cho phép
quy chiếu về biến cố hiển dung, rồi về thời gian lý tưởng giữa biến cố Phục
Sinh và Thăng Thiên. Câu 32 còn đi xa hơn: thế hệ đã chứng kiến biến cố Đền Thờ
bị phá huỷ cũng phải biết đến ngày quang lâm. Việc quang lâm của Chúa Kitô vinh
hiển bao trùm cuộc sống mọi tín hữu và không thể là biến cố thuộc về một tương
lai xa xôi.
Để kết luận lời
tiên tri của mình, Chúa Giêsu xác nhận thế giá và tính cách chắc chắn của lời hứa
trước đây, cũng như của toàn bộ diễn từ cánh chung (c.33): chúng vững bền hơn
vũ trụ (x.16). Nói thế rồi, Ngài đồng hoá lời của Ngài với lời Thiên Chúa mà Is
55,10-11 đã nhắc đến hiệu quả.
Diễn từ kết thúc
bằng một lời huấn dụ tỉnh thức và cầu nguyện (cc. 34-35). Những chỉ thị đã được
đưa ra cho các môn đệ rất rõ ràng: lời cảnh giác phải đề phòng khỏi các lo lắng,
trong phần giải thích dụ ngôn hạt giống (8,14) và giáo huấn về thái độ thích hợp
đối với của cải vật chất (12,22tt), cảnh cáo chống lại việc say sưa, trong dụ
ngôn người quản lý trung thành (12,45-46). Về điểm này, tình trạng mà Giáo Hội
của Luca phải đương đầu không khác gì tình trạng ở các cộng đoàn của Phaolô.
Các chỉ thị được đưa ra ở 1Tx 5,4-8 –với cơ nguy, như ở đây, là ngày Phán xét đến
bất thình lình đối với các tín hữu- và ở Rm 13,11-13 rất giống nhau. Sự ngủ mê
đe doạ các cộng đoàn, bởi vì, trong Luca cũng như trong các thư của thánh Tông
đồ, vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy chỗi dậy.
Hai tảng đá ngầm
đối nghịch nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau, đang rình rập Giáo Hội: niềm hy
vọng bồn chồn về ngày trở lại gần kề của Chúa Kitô (2Tx 2,1-3) và sự vỡ mộng,
cơn cám dỗ buông trôi mọi hy vọng vào tương lai (x. 2Pr 3,4). “Càng nóng lòng
trông đợi vào ngày quang lâm, càng đắng cay vì nỗi thất vọng” (Fusco); và các ảo
tưởng là điều nguy hiểm cho đức tin. Rõ ràng đó là mối nguy thứ hai mà Luca sợ
cho Giáo Hội của mình –cũng là mối nguy đe doạ các cộng đoàn Công giáo Tây
phương chúng ta vào cuối thế kỷ XX này- và Luca phản ứng chống lại mối nguy ấy.
Từ đó, ta thấy sự kiện Chúa Kitô nói tiên tri, tuy có phân biệt, nhưng không
hoàn toàn tách rời việc Giêrusalem bị tàn phá khỏi ngày quang lâm. Cũng do đó,
mà đã có những xác quyết: từ cuộc tàn phá này, sự giải thoát các tín hữu đang gần
kề; mỗi tín hữu trong Giáo Hội của Luca –và mỗi người trong chúng ta- phải sống
trong mọi lúc thế nào hầu có thể có sức mạnh… mà đứng vững trước Con Người.
21. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, bắt đầu
năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm
của Đức Giêsu.
Ngay từ Chúa nhật
đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng
là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến”: Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng
sinh… Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích… Ngài sẽ đến vào Ngày
cánh chung.
Đức Giêsu nói với
các môn đệ biến cố Người quang lâm:
“Sẽ có những
điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng
hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét….”.
Ở đây chúng ta
tiếp cận với lối văn “khải huyền”. Loại văn chương này xuất hiện tại Israel,
hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh
thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ:
dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc
ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều
khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó,
trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất
bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử.
Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được
thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với
những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.
Theo kiểu nói
truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất,
biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để “tạo dựng” một thế giới mới. Ta có
thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những
hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói
lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ “từ trời
rơi xuống”, “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa”, là cách nói nhằm diễn tả
Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ
đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và
quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện
nay vẫn còn ăn khách. Nếu “chủ dân”, các “goim”, tôn thờ các tinh tú như các thần
linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ
có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời
sẽ rớt xuống… không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!
Chính Luca cũng
không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật
thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng,
nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch
sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế
giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của
Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái
dương mới.
Muôn dân
sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống
địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.
Hơn thánh Máccô
trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca
nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là
nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người
thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có
khuynh hướng xóa bỏ “thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng
ta không thích “biến cố”, nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được.
“Điều gì sẽ xảy ra?”. Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.
Do đó, mới có những
khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì “xảy đến”,
không gì “thay đổi” cả.
Vì thế, toàn bộ
Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, “biến cố” là cuộc “thần hiện” của
Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức
Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến
cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt… tuy nhiên, cũng là “dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ
“đến trên mây trời” ‘ Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy
Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng
không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương
tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô
nhiễm lan tràn… nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên
này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những “ngôn sứ tuyên sấm
giáng họa” trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?
Bấy giờ
thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
Đức Giêsu không
khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những “biến cố” gây xáo trộn,
không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác… chỉ báo trước
một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh
rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức
Giêsu sử dụng “thị kiến của Đa-ni-en” (Đn 7,18-14)… nhưng thay đổi hoàn toàn.
Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của
Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử.
“Con người” tượng trưng cho “dân thánh của Đấng Tối Cao”, sẽ đến “từ trên đám
mây trời”. Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu,
Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết
rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện “trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ
thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên
thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy
vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng
Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực
sự đã trở nên “điểm xuất phát” của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một
cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.
Khi những
biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên…
Vậy Khải Huyền
(trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là “mạc khải”), đúng là một sứ điệp hy vọng.
Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc
Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ “đứng thẳng”
của các tín hữu. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc… thì anh em hãy ngẩng đầu
lên”. Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ
ngôn khá đặc sắc: “cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp” (Lc 21,29-30).
Vì anh em
sắp được cứu chuộc…
Đối với nhiều
người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu
trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết,
chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi “biến cố” đều mang
tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín
thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định
trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh… mầu nhiệm chết đi để được sống!
Từ “Cứu chuộc” rất
thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 – Rm 3,24-8,23 – Cl 1,14)
nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của
Phaolô mà! Từ “Cứu chuộc” được dịch từ “Redemptio” của Latinh. Nhưng nếu để ý đến
từ gốc của tiếng Hy Lạp “apolutrosi”, người ta thường dịch là “giải thoát”. Như
thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh
em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!”.
Vậy anh
em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự
đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.
Sau những lời
khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh
giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng.
Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng,
vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.
“Oi dân của Ta,
ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá
nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều
hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá
nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở
lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi” (Ch. Singer).
Nên đề ra một
chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là
thời gian “cõi lòng nhẹ nhõm hơn”. Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái
quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho
nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.
Ngày ấy như một
chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức
và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước
mặt Con Người.
Tôi đừng để mình
bị “chộp bắt” bất thần, như con thú sa lưới. Hãy “tỉnh thức”, luôn sẵn sàng,
luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ “xảy đến”, không thể đặt ta nằm
trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người
“đứng thẳng” trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng
ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng
đó, là một thứ “canh phòng”, chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi
người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến
không? Bạn có rình chờ những “dấu chỉ” loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê’! Mỗi
khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, “cho tới khi Chúa đến”.
Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
SỐNG
TRONG MỘT THẾ GIỚI MAU QUA
HÃY
TIN RẰNG MỘT THẾ GIỚI MỚI ĐANG ĐẾN
* VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Qua lời
lẽ kinh hoàng của lối văn Khải Huyền…
Bài Phúc Âm hôm
nay giống như trích đoạn song hành trong Phúc Am Máccô mà ta đọc vào Chúa nhật
33 thường niên năm B. Trước vẻ đẹp hùng vĩ và tráng lệ của Đền Thờ Giêrusalem,
các môn đệ không ngớt lời trầm trồ khen ngợi và muốn Thầy mình cùng chia sẻ lòng
thán phục, thì Đức Giêsu lại nhân cơ hội này nói lên một bài dài về con đường dẫn
đến cuộc giải thoát.
Lời lẽ của bài
diễn từ có thể gây kinh hoàng cho con người thời nay, nhưng lại rất quen thuộc
với những người sống cùng thời với Đức Giêsu. Đó là lối văn bàng bạc trong từng
trang Kinh Thánh mà người ta thường sử dụng để củng cố lòng tin của các tín hữu
trong những giờ phút gian truân khốn khó: lối văn “Khải Huyền” muốn “vén bức
màn” (đó là nghĩa của từ “apocalypse” = mạc khải) để hé mở cho ta thấy rằng mặc
dầu sự thể bên ngoài có trắc trở thế nào, thì Thiên Chúa vẫn đang âm thầm hoạt
động ngay trong hoàn cảnh đó. Việc mô tả quá quen trong lối văn chương này – “mặt
trời ra tối tăm”, “mặt trăng không còn chiếu sáng”, “các vì sao từ trời rơi xuống”,
“các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… chỉ là một cách loan báo cuộc chiến thắng
cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.
Thể văn của bài
diễn từ và ngay cả từ “Khải Huyền” đều là điều kỳ bí đối với độc giả thời nay –
Hugues Cousin nhìn nhận: từ “Khải Huyền” do từ Hy Lạp apocalypsis có nghĩa là
“vén màn” cho thấy điều bí mật ẩn khuất bên trong. Tại sao “vén màn” những biến
cố liên quan tới Cánh Chung, những biến cố đi theo liền sự sụp đổ của thế giới
cũ – thế giới của chúng ta để hướng tới thế giới mới?
Câu trả lời có
cơ sở, đó là một niềm xác tín sâu xa trong Kinh Thánh rằng lịch sử các dân tộc
không phải vô nghĩa, bới lẽ Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ấy tới một cùng đích được
sửa soạn chu đáo. “Người sẽ cư ngụ cùng mới họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính
Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không
còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất” (Kh 21,3-4). Đó chính là cuộc giải phóng chung cuộc vĩnh viễn của
lịch sử nhân loại”
2. … là
Tin Vui loan báo việc Chúa quang lâm.
Chính trong bối
cảnh một vũ trụ đổi mới, không còn một chướng ngại nào mà Đức Giêsu trong Luca
cũng như trong Máccô, loan báo Tin Vui xuất hiện Vương quốc hòa bình và công
chính của Người vào lúc thời gian kết thúc. Ở đây Người coi mình như nhân vật kỳ
bí của sách Đanien (bài đọc 1, Chúa nhật trước) là “Con Người” ngự giá mây trời
mà đến cho đất trời cùng mở hội giao duyên.
Nhưng trong ngày
ấy, kẻ sinh ra từ thế giới mới sẽ là người tuyệt vời, chính người ấy đang hình
thành, “đang tiên đến gần”. Thế nên người có lòng tin phải “đứng thẳng và ngẩng
đầu lên”. Lệnh Chúa mà thánh sử truyền lại không phải chỉ được gởi đến cho những
Kitô hữu vô danh nào đó còn đang sống vào lúc Đức Giêsu trở lại; thánh sử cũng
gởi đến cho các Kitô hữu thời ngài, đang là đối tượng của những cuộc đàn áp khủng
khiếp đầu tiên, sau khi đã ngao ngán chứng kiến cảnh đổ nát của Đền thờ
Giêrusalem; sau cùng, thông qua những tín hữu kia, “ngài gởi đến cho mọi kẻ có
lòng tin mà sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Những giáo hữu của
giáo đoàn thánh Luca – rồi (chúng ta hôm nay – đều phải sống với niềm tin chắc
chắn rằng (công cuộc giải phóng họ thực sự dang tiến hành, đang gần kề” (H.
Cousin, sđd, trg 282).
3. Đòi hỏi
người tín hữu phải luôn tỉnh thức.
Được phấn khởi
vì Tin vui về một Thế giới mới sẽ tỏ hiện vào lúc tận cùng thời gian và ngay từ
lúc này không những hình thành trong giòng lịch sử của đời ta, người môn đệ Đức
Kitô sẽ không được phép ngủ mê hay sống tiêu cực mà phải “tỉnh thức”, phải “cầu
nguyện luôn” để có thể “đứng thẳng” (tâm tình kinh nguyện phụng vụ ngày Chúa nhật
phục sinh) vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang đem lại sự giải thoát dứt
khoát và toàn vẹn.
H. Cousin kết luận:
“Người ta sẽ có thể hiểu rằng chương 21 của Tin Mừng Luca không nhắm mô tả cho
độc giả thấy trước diễn tiến của lịch sử cho bằng muốn thổi cho họ một luồng
sinh khí đề họ sống hiên ngang giữa những cơn thử thách, nhắc nhở họ rằng giây
phút hiện tại thực sự mang một giá trị tích cực: chính lúc này đây Chúa đang vẫy
tay mời gọi ta đấy. Một bài diễn từ với ý nghĩa như thế vượt quá cả ý hướng của
khải huyền vốn phủ nhận lịch sử, đem đến một niềm hy vọng mang tính cánh chung
đòi hỏi người tín hữu phải sống tích cực với giây phút hiện tại “ở đây và lúc
này”. Bởi lẽ, chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn của đời thường
là mầu nhiệm gặp gỡ với Đấng sẽ đến, được thực hiện. Một niềm hy vọng như thế
không làm suy giảm tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn
còn giúp kiện toàn nhờ vào những dộng cơ mới” (Vatican II, sđd. trg 278)
BÀI
ĐỌC THÊM
1. “Anh
em hãy ngẩng đầu lên”
Phải có những biến
cố hãi hùng, để ta tin rằng: Chúa đang có mặt ở đó chăng? Để cho con người quay
trở về với Chúa, có phải cần đến những tai ương làm sớn tóc gáy mọi người chăng?
Có những giáo phái thích chủ trương phải có những tai họa như thế để thuyết phục
người ta tin rằng “Có Chúa”. Phải chăng cũng có những tín hữu muốn nghĩ rằng vì
người ta sợ hãi nên mới tin, hoặc vì con người bỏ quên Chúa, nên người mới
giáng xuống những tai họa để trừng phạt họ đấy sao?
Thế ra Thiên
Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa hay trả thù. Thế ra Người chỉ nhằm gây tai
họa cốt để cho người ta khám phá ra Người sao?
Đức Giêsu mượn
những hình ảnh ghê rợn kia trong một loại văn chương của thời đại Người là lối
văn “Khải Huyền”, không phải để loan báo sự tận cùng, sự chấm dứt mọi sự, nhưng
là để loan báo cho mọi người biết một Tin Vui là Đấng Cứu độ đang đến. Đồng thời,
để mời gọi mọi người đứng sẵn ở cửa, tỉnh thức và sẵn sàng đón tiếp Người. Còn
Người thì lúc nào cũng vẫn đến. Khi mầm của hạt giống làm nứt vỏ hạt, người ta
không nói là hạt chết, mà là sống. Khi những mảnh lá non hay những cánh hoa chọc
thủng phần ngoài của nụ hay chồi, không ai nói đó là một sự xé rách, hay phá hoại,
nhưng là vẻ đẹp.
Nào, vậy thì mời
bạn hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Hãy nhìn đi, hãy chiêm ngưỡng đi? Chúa
đang đến đây nè”.
2. “Tận
thế sẽ là bó hoa kết dâng cuối cùng”
(G. Boucher,
trong “Le ciel sur terre”)
“Giờ phút kinh
hoàng đã điểm. Người ta sẽ thấy núi phun lửa ầm ầm nhả ra những dung nham nóng
chảy, trái đất nứt nẻ, biển cả gào thét, gió xoáy điên cuồng, nhà nhà sụp đổ.
Người ta sẽ thấy đất trời rung chuyển, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn
chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống.. Tắt một lời đó là quang cảnh báo
trước ngày tận thế. Và toàn thể nhân loại đều phải phập phồng lo sợ cho cái giờ
phút hãi hùng ấy.
Tiếp theo những
hiện tượng kinh khủng của trời đất, thì này đây bừng lên một cảnh tượng thật là
thanh bình và hoành tráng khi con người xuất hiện. Giống như xưa giữa cơn phong
ba bão táp, thì giờ đây một con người cũng đứng lên ra tay uy quyền dẹp yên
sóng gió.
Cái bề ngoài từng
là chết chóc, tai họa lại đang báo trước cảnh thanh bình và hoàn tất mỹ mãn.
Núp ẩn trong nhà
ư? Độn thổ ư? Sống mà sợ hãi ư? Không đây sẽ là ngày để ta đứng thẳng dậy, tiến
bước, mắt ngước lên, đầu ngẩng cao. Đây sẽ là khúc nhạo dạo đầu chào mừng một
thế giới mới bước vào vô biên.
Đó sẽ là nơi “cư
ngụ” vĩnh viễn, là nhân loại đã hoàn thành.
Như vỏ trứng tự
nứt nẻ để gà con nở ra thế nào, thì trời đất đại dương cũng sẽ tự vỡ ra như vậy
để cho Con Người xuất hiện, và nhân loại mới cũng cùng xuất hiện với Con Người.
Trong cảnh hỗn
mang này, thực ra Chúa chỉ muốn đưa ra cho ta một lời mời gọi này mà thôi: hãy
chế ngự nỗi sợ hãi để niềm tin được thảnh thơi. Hãy sống những thực tại của con
người như là những giai đoạn dẫn đưa ta vào thời ân sủng và vinh quang. Hãy lấy
đức khôn ngoan mà phân định điều gì xảy đến với con người, giữa các dân tộc, và
ngay trung tâm các yếu tố của thế giới.
Và rồi hãy để
cho đời sống và lịch sử của ta mở ra, hướng đến nguyện cầu. Nghĩa là hãy nhận
ra và tìm gặp được, ngay trong những giây phứt quay cuồng của cuộc sống, sự hiện
diện ân cần và thân thương của Chúa Cha, lời Chúa Con mời gọi ta hướng dẫn những
biến cố theo chiều hướng đi lên và hoàn bị, sự nhạy bén đối với Chúa Thánh Thần,
Đấng hằng khơi gợi lên từ muôn dân trên mặt đất, những con người luôn ấp ủ niềm
hy vọng mà không sợ hãi.
Một khi Thiên
Chúa làm cho lịch sử kết thúc như vậy rồi, thì một người sẽ xuất hiện trong quyền
lực và vinh quang. Bấy giờ nhân loại sẽ đứng thẳng lên, ngỡ ngàng phát hiện ra
rằng dẫu sao mình cũng đã dự phần làm cho thế giới nên hoàn bị.
3. Nhận
ra sự hiện diện của Chúa.
Dáng vẻ bên
ngoài có thể che khuất thực tại. Vẻ đẹp của đá hoa cương và tòa nhà có thể khiến
khách tham quan chỉ chú ý đến vẻ lộng lẫy kia mà không nhận ra cái gì là quan
trọng.
Đền đài hay Đấng
ngự trong đền đài, cái nào quan trọng? Nếu việc loan báo sự kết liễu Đền thờ
Giêrusalem có gợi được sự quan tâm, thì phải chăng cũng chỉ là để cho người ta
chăm chú đến cái cốt lõi, sự Hiện diện? Cái kết thúc không được làm cho ta quên
đi cái Hiện tại, cũng như cái hiện tại mau qua kia không được gây trở ngại cho
việc chiêm ngưỡng Đấng chẳng hề qua đi. Hãy đón nhận những gì được ban cho ta
lúc này, chứ đừng thả mồi bắt bóng. Vậy phải đợi xảy ra những biến cố kinh
hoàng như chiến tranh, động đất, địch tễ và chết đói. Phải đón chờ sự sợ hãi và
kẻ loan báo nỗi hãi hùng kia rồi mới lắng nghe tiếng đang nói đang mời gọi ta
hôm nay chăng? Chính không phải cái giờ phút ấy, cũng chẳng phải những tiếng
nói tiên báo tương lai kia mà ta phải chờ đợi. Điều quan trọng hơn cả vẫn chính
là tiếng đang nói hôm nay, chỉ một tiếng nói đó mới nói thật rằng “Chính Ta
đây” hoặc “Ta đây”. Chỉ ngày hôm nay, chứ không phải ngày mai, “giờ khắc ấy đã
đến gần” rồi. Còn ai nữa đâu mà chờ đi theo?”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét