Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XXI TN – năm B

Người đăng: DangTrinh | 24.08.2012
A. BẢN VĂN (Ga 6, 54a. 60-69):
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI
Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: BỎ ĐI HOẶC Ở LẠI
1- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.  
2- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3- Vài điểm chú giải
- Nghe rồi, […]: “Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì  này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế đôi”[1][1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng. 
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được,  nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).  
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người. 
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.  
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể rồi lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình, chúng ta không thật sự tin vào Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên Người mời chúng ta đi vào thế giới của Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn lựa của chúng ta trên nền tảng là lô-gích người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, khi nào chúng ta để cho Thần Khí thúc đẩy, chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định lập trường của mình.
Bài 2. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour: ĐỨC TIN VÀ SỰ TỪ KHƯỚC NƠI CÁC MÔN ĐỆ (cc. 60-71)
Phản ứng:
Nhiều môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60).
Nhiều môn đệ rút lui và không còn đi với Người nữa (c. 66).
Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: Anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai?
Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời.
Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết.
Thầy là Đấng Thánh, vị Thánh của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đáp: Thế mà một người trong anh em lại là quỷ.
Trong tiểu đoạn này xuất hiện những kết quả thảm khốc, từ bài diễn từ của Chúa Giêsu: không phải là những người Do Thái xa rời Chúa Giêsu nữa, mà là các môn đệ chính hiệu; và có đến hai lần, có “nhiều” môn đệ không đi theo Chúa Giêsu nữa. Một cuộc khủng hoảng như thế trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ được cả bốn sách Tin Mừng nhắc đến. Các sách Nhất Lãm đặt cuộc khủng hoảng này vào lúc Phêrô tuyên xưng đức tin ở Xêdarê (Mc 8, 27-33). Trên thực tế cả hai cảnh huống đều có điểm chung với nhau. Gioan, vẫn theo thói quen, trình bày cảnh huống cách thoải mái hơn. Trong khi sử dụng từ “môn đệ”, thánh sử muốn nhắc đến hoàn cảnh khủng hoảng tại cộng đoàn của ông. Tuy nhiên ông cũng tạo điều kiện cho mỗi độc giả, một khi được mời gọi trở thành môn đệ, nên lượng định những yêu sách của đức tin và vị trí trung tâm của Thánh Thể trong thời điểm của Giáo Hội.
Việc nhấn mạnh vào thực Thánh Thể được nhắc đến trong tiểu đoạn 53-59 không nên hiểu theo cách giải thích phù phép của bí tích: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (c. 63). Sự hiệp thông do bí tích có mục tiêu cuối cùng đưa đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
Trong sự thử thách vì lẽ phải khiến nhiều người bỏ đi, Chúa Giêsu yêu cầu những kẻ thân cận nhất của Người thực hiện lại việc lựa chọn của mình ông Simon Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, công bố sự gắn bó của mình bằng đại từ ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? – Cùng với các đồng nghiệp của mình, ông ở lại bởi vì Chúa Giêsu có “những lời đem lại sự sống đời đời”. Nhờ ông, nhóm Mười Hai long trọng tuyên xưng đức tin của mình, qua một tước hiệu chưa được nói đến: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, có nghĩa là Đấng chiếm hữu chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng bài trần thuật lại kết thúc bằng việc nhắc đến kẻ phản bội. Như vậy, chương 6 quan trọng này chấm dứt bằng một báo hiệu bi thảm, để hiểu rằng không bao giờ chiếm hữu được sự trung thành, cũng như sự trung thành có thể ngã nhào trong sự phản bội.
Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời… Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống”. Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
- Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
- Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố “Mười Hai”.
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là “môn đệ”. Nhưng các “môn đệ” này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại. Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về “bánh” của Người, “Bánh đích thực”. Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để “nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người”. Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: “ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn… ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi”. Thực ra chính “đức tin” là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. “Đức tin” khó khăn biết bao! Vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận” để “tin vào một người khác” đó là “tin mà không thấy”, như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”.
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ “Scandahzô” Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn “biết” gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, “nhưng” là một dấn thân trong cuộc sống”. Đức tin là một “thực hành có hiệu quả”. Đức tin là một sự “thúc hối” phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin” thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một “công thức” nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói “Người Kitô hữu là người đi dự lễ”, thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một “quyết định”. Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
2. “Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích”.
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một “mầu nhiệm” khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. “Thần Khí” trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm “thần linh” (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng “hữu thể thần linh của Người”. Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: “Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?”. Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì? Vậy thì “sự sống” của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ. Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng… tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra “ngang qua xác thể” nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn” và chỉ dùng một “chén”. Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn “hình” này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”.
Dường như Chúa nói’: “Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những “môn đệ ra đi” và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn… chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: “Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ”. Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng “không ai có thể thay thế được”. Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó “bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố” (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
Bài 4. Chú giải của Fiches Dominicales: THẦY CÓ NHỮNG LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt
Ở Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau “người Do thái” là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt “nhiều môn đệ” của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?”.
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói với họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”.
Lần này thì quá lắm rồi! Tác giả Tin Mừng viết tiếp: “Từ lúc đó rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”.
- Chính lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang “nhóm mười hai” (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi hoặc ở lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc 9,7-8): “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao? “
2. Và lời tuyên xưng đức tin của Simon Phêrô:
Simon-Phêrô nhân danh “nhóm mười hai” (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
- Thánh Phêrô bắt đầu: “Chúng con biết đi với ai?”. Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ “đi” là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự “rất nhiều môn đệ” bỏ rơi Thầy. Rõ ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, “nhóm mười hai” đã dấn thân theo Thầy.
- Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: “Thầy có…Thầy là”. X. Léon-Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của “Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải: Lời Ngài là “sự sống đời đời”. Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. (“Lecture de Evangile selon Jean”, tập 2, Seuil, tr. 1 88)
Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, nghĩa là Đấng mang trong chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa.
X Léon-dufour đặt câu hỏi: “Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn hữu, khó giải thích. Phêrô không dừng lại một tên nào mà Đức Giêsu đà sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng Thiên sai, Con Người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái… Điều đặc biệt ở đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài”, theo bản dịch Bảy mươi? (xem Tông đồ công vụ 2,27). Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (5, 19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến” (10,6; 17,19). Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa” cao vượt hơn danh hiệu “Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa” mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16, 16″ (Sách đã dẫn, tr. 189)
- Trong cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế giới đang mong đợi không?
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức tin: một cuộc mạo hiểm
(H.Vulliez, “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDE3, tr.141-142)
“Cuộc khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu. Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm não. Đủ rồi! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm xì… Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt giọng một chút? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không thế! Không có một nhượng bộ nào! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin vào chân lý hơn.
Đức Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi Đối với Ngài, trung tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được.
“Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không?” Bỏ đi, không ở lại là một tình huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn đưa ra câu hỏi lấp lửng như thế chất vấn thính giả của mình: “Thế thì khi anh em thấy Con người lên nơi ở trước kia thì sao?”
Nicôđêmô đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải “sinh lại” cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn? ‘Người ta ngừng bước… hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng tai nghe… hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình bị thúc ép.
Tin, chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ. Tin cũng còn là ‘cảm’ Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.
2. Tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến và bước theo Ngài
(J. Guillet. trong “Đức Giêsu trong niềm tin của những môn đệ đầu tiên”, Desclée de Brouwer. 1995, tr.82-84).
“Giữa sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (…) Đó là lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (…)
Chịu ảnh hưởng của Maccô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin: dưới ánh sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu và nhờ đó dẫn Giáo Hội vào con đường cứu rỗi.
Nơi Gioan. với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội dung và phát xuất từ cùng một niềm tin: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không thể tiếp được thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh. Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang bờ bên kia biển hồ Galilê (6, 1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel. Những điểm tương cận đó mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này, Gioan lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng, vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Người trải qua. Theo Môsê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay tự căn bản, tiến trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen tối, vấn đề là nhận ra, nơi con Người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.
3. Trở thành môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.
(Thư Hội Đồng Giám Mục gởi cho người công giáo Nước Pháp, Cerf, tr. 19-21)
“Vào cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay: báo cáo của Hội đồng Giám mục về “trình bày đức tin cho thế giới hôm nay” cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội.
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức tin bị đặt thành vấn đề.
Chính trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân.
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn”.
Bài 5. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học của Gioan?
2. Câu 62 ám chỉ cái gì bí mật?
3. Nếu “xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?
1. Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.
Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về “Giờ”nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?
Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc “từ trời xuống” cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ “Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước” như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:
1. Động từ amabainein “lên” không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai “giương cao” trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
2. Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.
3. “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì” (c 63)
Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: “Xác thịt không ích gì” có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có “thần khí tác sinh”; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: “Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống”. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa “Thịt Ta -Thần Khí”, nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí – xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nhiều môn đồ nói …”
Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều’ hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số “môn đồ” ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là “quỷ sứ” (6,70).
“Lời chi mà sống sượng thế”
Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
“Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai”
Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
“Từ đó”
Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
“Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời”
Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: “Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời” (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.
KẾT LUẬN
Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân “được tập họp” của Thiên Chúa (Ga 7-10).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc tin vào Người, hoặc từ chối không tin.
2. Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối, hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu chỉ Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
3. “Nhưng trong các ngươi, có những kẻ không tin”. Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao công vì “lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời” (6,27), có muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành thật thú nhận: “Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: “Bởi chưng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người. Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi là đã được Cha ban cho”. Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét, những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương quan giữa ta với Người.
4. Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh, thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: “Chúng ta luôn luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này”. Chúng ta đang ở vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.
C. CÁC BÀI CHIA SẺ
Bài 1. BÁNH LỜI CHÚA
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Bài Phúc Âm hôm nay kết thúc Tin Mừng Gioan chương 6 với lời tuyên tín của Thánh Phêrô : chỉ có Chúa Giêsu mới đem lại Lời ban sự sống đời đời.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố : “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời”, lập tức nhiều môn đệ phản ứng: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga 6,60). “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga 6,66). Thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?
Thánh Phêrô trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời“. Phêrô xác tín: Thầy có Lời ban sự sống, nên đã quyết tâm chọn Thầy : bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai ?
Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh – Bánh Thánh Thể và là Lời Ban Sự Sống – Bánh Lời Chúa, lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng nhân loại.
Khi nói đến Lời Chúa, nhiều người nghĩ ngay đến Sách Thánh Kinh. Đối với người Công giáo, Lời Chúa có nhiều ý nghĩa và vượt trên Sách Thánh Kinh.
Cụm từ Lời Chúa có thể được dùng để nói về:
- Lời Hằng Hữu, là Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Lời Thiên Chúa lúc tạo dựng, nhờ Người mà mọi sự hiện hữu được tạo thành.
- Chúa Giêsu, Ngôi Lời làm người và ở cùng chúng ta.
- Thánh Kinh, Lời được Thiên Chúa linh hứng và viết thành văn tự.
- Truyền Thống của Giáo Hội, vang vọng cách trung thực Lời của Thiên Chúa cho mọi thế hệ.
1. Lời Hằng Hữu
Lời Chúa là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa. Tin Mừng Thánh Gioan mở đầu: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1).
Ngôi Lời Hằng Hữu vì Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa. Ngôi Lời chính là Đức Giêsu Kitô. Đây là tâm điểm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất.
2. Lời Tạo Dựng
Sách Sáng thế mở đầu: “Lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Thiên Chúa tạo dựng tất cả mọi sự bằng cách dùng Lời mà phán : “Rồi Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng, và liền có ánh sáng… Rồi Thiên Chúa phán: Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước” (St 1,3a.6a). Mỗi ngày, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán Lời Ngài. Vào ngày thứ sáu : “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26a). Lời được phán ra và người nam người nữ đã hiện hữu theo chính hình ảnh Thiên Chúa.
Sách Sáng thế và Tin Mừng Gioan có một mối liên hệ đặc biệt. Sách Sáng thế mở đầu với một câu chuyện tạo dựng tất cả mọi sự, bắt đầu với ánh sáng. Tin Mừng Thánh Gioan là câu chuyện tái tạo dựng về tinh thần đã được mạc khải và hoàn thành nhờ Đức Giêsu Kitô, ánh sáng thế gian.
Trong Sách Sáng Thế cũng như trong Tin Mừng Gioan, nhờ Lời Tạo Dựng mà muôn vật được tạo thành :“Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành,và không có Người, thì không có gì được tạo thành” (Ga 1,3a). Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa chính là Lời Tạo Dựng.
3. Ngôi Lời làm người
Ngôi Lời Hằng Hữu, Lời Tạo Dựng, nguồn mạch của tất cả những gì hiện hữu, đã làm người và ở giữa chúng ta:“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta.Và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,như vinh quang của Con Một Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý” (Ga 1,14).
Ngôi Lời đã làm người đó là Đức Giêsu Nazareth. Người đã ở giữa nhân loại trong một giai đoạn của lịch sử, ở vùng đất Palestine, làm người Do thái, và sống dưới quyền đô hộ của Đế quốc Rôma. Người đã chết và đã phục sinh.Người luôn ở giữa nhân loại trong Thánh Kinh, trong các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, trong Giáo Hội, trong tha nhân và trong mỗi người chúng ta.
4. Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa
Thánh Kinh là Lời mạc khải của Thiên Chúa. Thánh Kinh là Lời được Thiên Chúa linh hứng. Thánh Kinh là Lời Chúa được các Thánh Sử ghi lại bằng văn tự qua dòng Lịch sử Cứu độ.
Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn. CĐVTC II đã dạy:“Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh” (MK21).
5. Yêu mến, học hỏi và sống Lời Chúa
Lời Chúa là chính Chúa Kitô. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Học hỏi Lời Chúa để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21).
Lời Chúa là Sự Thật, “là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119 ;105). Chúng ta kín múc ánh sáng và sự khôn ngoan từ Lời Chúa để đời mình được chiếu soi và hướng dẫn.
Lời Chúa trở thành niềm vui và hạnh phúc của lòng con” (Gr 15,16). Không có lời nào của loài người có thể đến với con người bằng một sự thâm sâu như Lời Thiên Chúa đến với họ.
Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12).
Lời Chúa có sức sống và quyền năng vô cùng bởi lẽ: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống”.
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc, như kho báu. Ai yêu mến khám phá sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quí, có được kho báu ấy.Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thay đổi cả một cuộc đời. Chẳng hạn như thánh Phanxicô Assidi, câu “Phúc cho những người nghèo khó” đã khiến ngài bỏ hết gia tài của cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo khó nhưng vô cùng hạnh phúc. Thánh Phanxicô Xaviê được đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì”.Thánh nhân từ bỏ tất cả danh vọng thế tục dấn thân truyền giáo và đã đưa về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn.Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng tìm thấy linh đạo “con đường thơ ấu” từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”…
Ngày Chúa Nhật 05/10/2008, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chủ sự Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám Mục Thế giới lần thứ 12 với chủ đề “Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội”. Đức Thánh Cha đã gọi Đức Trinh Nữ Maria là người môn sinh tuyệt hảo của Lời Chúa.
Mẹ Maria là một khuôn mẫu tuyệt vời cho chúng ta trong sứ vụ học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa. Mẹ là người đã đón nhận Lời, đã cưu mang Lời thành xác phàm trong lòng dạ mình. Nhờ đó Mẹ đã sinh Lời cho nhân loại. Quá trình đón nhận, cưu mang, và sinh hạ chính là quá trình mà mỗi Kitô phải đi qua nếu muốn Lời Chúa mang lại hiệu quả cho mình và cho tha nhân. Vì thế, chiêm ngắm Mẹ Maria, học tập với Mẹ và cầu nguyện cùng Mẹ là một trong những cách thế tốt nhất giúp chúng ta chu toàn sứ mạng học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực bổ dưỡng cho người tín hữu. Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng, khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu “hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội“. Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33). Chúa Giêsu vẫn trao cho chúng ta Tấm Bánh là Lời của Người.
Bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa.
Bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa.
Bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải học hỏi, yêu mến và sống Lời Chúa. Nhờ học hỏi Lời Chúa mà mỗi người biết Chúa Giêsu. Nhờ suy niệm và cầu nguyện mà mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Nhờ sống Lời Chúa mà mỗi người yêu mến và bước theo Chúa Giêsu. Đời sống thiêng liêng cốt yếu dựa trên Chúa Giêsu và gắn bó với Người như “Cành nho gắn với thân nho” (Ga 15,5). Học hỏi, gặp gỡ, chiêm ngắm Chúa Giêsu, chúng ta được Lời Chúa biến đổi mỗi ngày. Từ đó dần dần nên giống Chúa Giêsu hơn, được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, có được những tâm tình, thái độ và phản ứng của Chúa Giêsu.
Lời Chúa là tấm bánh thơm ngon cho những ai biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa,chúng ta càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu để cuộc đời mỗi người được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
Bài 2. ĂN CHÚA GIÊSU LÀ ĂN SỰ THÁNH THIỆN TỪ THIÊN CHÚA
P. Trần Đình Phan Tiến
 “Ai ăn Thịt và Uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54a)
Đã đến giai đoạn “nước rút” của diễn từ Bánh trường sinh (Ga 6), Chúa Giêsu tiếp tục xác quyết điều Người nói: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”.
Hai vế cụ thể gắn liền với nhau là đề tài chính yếu để minh chứng Đức Kitô –Giêsu  đến từ Thiên Chúa. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi” vế nầy khẳng định nhân tính của Người,  vì nhân thế mới có thịt và máu, Thiên Chúa không có Thịt và Máu. Vế thứ hai, “thì được sống muôn đời”, vế thứ hai khẳng định thiên tính của Đức Giêsu – Kitô, ngoài Thiên Chúa ra, không ai được sống muôn đời. Như vậy muốn sống muôn đời, thí phải ăn Thịt và uống Máu của Đấng Thiên Chúa làm Người, rõ ràng điều kiện để được sống muôn đời của vế thứ hai là phải thực hiện vế thứ nhất.
Như vậy phần Nhân Tính của Chúa Giêsu là Thần Lương hằng sống cho nhân thế, bởi vì ngoài Thiên Chúa ra KHÔNG CÓ SỰ TRƯỜNG SINH, điều nầy có nghĩa là Chúa Giêsu phải chịu tử nạn, để cứu chuộc nhân thế. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, thì phải tin vào điều nầy, nhưng điều nầy trở nên hiện thực khi và chỉ khi Người phục sinh. Vì vậy khi tuyến bố điều nầy Chúa Giêsu có ý loan báo cuộc Tử nạn của người và đồng thời loan báo mầu nhiệm phục sinh vì Thiên Tính của Người là sự sống vĩnh cửu, vì Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Mặc nhiên sự sống vĩnh cửu chính là sự thánh thiện của Thiên Chúa. Vì rõ ràng: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (c 56), khi nói điều nầy Chúa Giêsu muốn thông ban sự sống Thần Linh cho nhân thế, vì không có lương thực nào không ăn mà sống. Như vậy Thần Linh Sự Sống vĩnh cửu cũng phải được ăn, nên chi Chúa Giêsu cho chúng ta ăn sự sống Thần Linh Của Người là một điều kiện tốt lành vì ăn phần Thân Thể Nhân Tính của Thiên Chúa làm Người là ăn sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thịt Máu của Đấng Cứu Thế há không phải là mầu nhiệm thiêng liêng sao? Nếu là mầu nhiệm thì không thể lý đoán theo nhân thế được. Như vậy ăn Thịt và uống Máu ở đây là sự trao ban đích thực phần nhân tính của Đấng Cứu Thế, là Thiên Chúa làm Người và là sự loan báo mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Người.
Thật vậy, khi muốn kết hiệp với sự sống thì phải ăn sự sống, nhưng Chúa Giêsu chỉ trao ban sự sống của Người cho những kẻ “tin” và điều  nầy sẽ xảy khi Người từ cõi chết sống lại. Khi ấy Người đã trở lại hoàn tòan với Thiên Tính của Thiên Chúa, phần nhân tính  của Người không mất đi ,nhưng ở lại trong một mầu nhiệm khác đó là Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên Thần Lương Đích thực cho nhân thế (kẻ tin). Vì vậy, khi đã hoàn tất sứ mang cao cả, Chúa Giêsu trở về Trời, cả hồn và xác, nhưng Người đã vượt qua không gian và thời gian, Người không lệ thuộc vào nhân tính của Người nữa. Nên chi phần Nhân Tính của Người cũng trở nên một mầu nhiệm siêu phàm để ở cùng nhân thế.
Vì vậy Bí Tích Thánh Thể luôn là Bí Tích dành cho kẻ sống, có nghĩa là con người không  ở trong tình trạng mất ân sũng của Thiên Chúa, không ở trong tình trạng mắc tội trọng, thì mới được đón nhận Bí Tích Thánh Thể. Kẻ chết thân xác cũng như linh hồn, thì không thể đón nhận Bí Tích Thánh Thể được, vì hiệu năng của Bí Tích Thánh Thể là dành cho kẻ sống.
Như vậy:
- Tôn thờ Bí Tích Thánh Thể là tôn thờ sự sống từ Thiên Chúa, tôn thờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa làm Người.
- Sống Bí Tích Thánh Thể là sống tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu thông ban sự sống Thần Linh hiệp nhất từ Thiên Chúa vô hình.
- Tin vào Bí tích Thánh Thể là tin vào sự hiện hữu vô hình của Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế hữu hình, trở nên phàm nhân để ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế.
Lạy Chúa Giêsu! Bí tích thánh Thể là nguồn sống, xin ban cho nhân thế biết đón nhận một cách có hiệu quả như lòng Chúa đã quảng đại trao ban. Amen.
Bài 3. Chúa Giê-su đặt hy vọng nơi chúng ta
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 6:54a,60-69)
Tháng ba vừa rồi tôi có dịp trở lại Thánh Địa. Cũng như hai lần trước, bên bờ hồ Ga-li-lê, tôi nhớ đến những gì đã xảy ra gần hai ngàn năm trước đây khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ. Nhưng đặc biệt tại Ca-phác-na-um, điều cảm động nhất đối với tôi là khung cảnh và câu chuyện được ghi lại trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: Các Tông đồ cũng định bỏ Chúa mà đi vì Người đã tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống đời đời”. Chúa Giê-su hỏi các ông: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Quả là một câu hỏi buồn, nhưng cũng chứa đựng biết bao hy vọng của Chúa Giê-su!
Như chúng ta đã thấy lần trước, phản ứng lại lời tuyên bố “chướng tai” của Chúa Giê-su, những người bỏ đi đầu tiên là dân chúng, rồi đến lượt “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Bây giờ chỉ có Nhóm Mười Hai là còn ở lại với Người. Khả năng họ sẽ bỏ Chúa mà đi cũng không phải là ít. Đứng trước tình trạng bấp bênh này, Chúa Giê-su vẫn không mất đi niềm hy vọng Người đặt nơi các ông. Chúng ta cứ đọc đi đọc lại nhiều lần câu hỏi Người hỏi Nhóm Mười Hai, “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Rồi tưởng tượng ra những nét biểu lộ trên gương mặt của Chúa, là chúng ta đọc được niềm hy vọng của Người hiện lên trong ánh mắt, trong giọng nói và nhất là trong cử chỉ chờ đợi câu trả lời của các Tông đồ.
Nhưng tại sao Chúa Giê-su vẫn nắm chắc được niềm hy vọng vào các Tông đồ? Bởi vì Người rất mực yêu thương các ông. Hễ người ta thực tình yêu thương thì người ta luôn đặt hy vọng nơi người mình yêu thương. Chúng ta có thể nghĩ đến niềm hy vọng của người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” luôn chờ đứa con trở về. Không những kể dụ ngôn ấy, mà Chúa Giê-su còn sống dụ ngôn ấy nữa. Vì yêu thương nên Người hy vọng các ông sẽ đáp lại tình yêu chân thành của Người mà không nỡ bỏ Người trong lúc này. Mặc dù có thể Chúa Giê-su đang ở trong trạng thái chán nản và bắt đầu cảm thấy cô đơn, nhưng nhìn Nhóm Mười Hai, Người tin vào tình yêu của các ông dành cho Người. Do đó, Người hỏi các ông không phải bằng giọng điệu buồn rầu hay hờn dỗi, nhưng bình tĩnh và tràn đầy hy vọng, với cái nhìn thẳng thắn và như đã biết trước câu trả lời. Nếu câu hỏi của Chúa Giê-su đầy tràn ý nghĩa và diễn tả lòng tin tưởng cùng hy vọng Người đặt nơi các Tông đồ thế nào, thì đổi lại, chúng ta nhận thấy câu trả lời của ông Phê-rô thay mặt anh em cũng súc tích và diễn tả một tình yêu và đức tin lớn lao như vậy. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.  Ông Phê-rô sẽ có dịp tuyên xưng đức tin vào Chúa. Nhưng ở đây, ông cũng tuyên xưng tình yêu của ông đối với Chúa, giống như ông sẽ lập lại lời tuyên xưng tình yêu sau khi Chúa sống lại (Gio-an 21:15-19). Lời của tình yêu đích thực bao giờ cũng ngọt ngào, nhưng đầy niềm tin và hy vọng. Những lời ấy vẫn còn vang lên khắp nơi và mọi thời, nhưng cảm nghiệm sẽ dễ dàng nhận biết hơn nếu chúng ta có dịp đứng ngay tại Ca-phác-na-um bên bờ hồ Ga-li-lê.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hôm nay không phải là khung cảnh diễn ra bên bờ hồ Ga-li-lê nữa, mà là ở ngay trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Cũng Chúa Giê-su ấy, cũng tình huống biết bao người trong Giáo Hội bỏ Chúa mà đi và có thể có chúng ta trong số đó, Chúa Giê-su nhìn vào mỗi người chúng ta bằng ánh mắt yêu thương và hy vọng, Người lập lại cùng một câu hỏi: “Cả con nữa, con cũng muốn bỏ đi hay sao?” Nếu chúng ta muốn trả lời giống như ông Phê-rô, thì chúng ta phải thực sự có lòng yêu mến Chúa. Ông Phê-rô và các bạn ông đã yêu Chúa nên đi theo Người. Không những các ông yêu con người của Chúa, mà còn yêu cả những lời Chúa nói hay dạy bảo nữa, những lời họ không thể tìm thấy ở đâu ngoài Chúa Giê-su ra. Từ yêu mến, các ông tiến đến tin vào Người “là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, đức tin của cá nhân các ông chứ không vay mượn.
Chắc chắn Chúa Giê-su thích nghe chúng ta trả lời câu hỏi của Người mỗi ngày, nhất là trong khi chúng ta cầu nguyện!                                                              
Bài 4. Thách thức muôn thuở
AM Trần Bình An
Tại một trại tù ở Phú Yên, Lm Giuse Maria Têrêsa NTT thường được các môn sinh thăm nuôi hàng tháng. Nhưng Ngài chỉ giữ riêng lại chút“thuốc đặc trị”dành cho mục vụcòn toàn bộ quà cáp giao lại một anh tử tế, ngoại đạo cất giữ, để phân chia đồng đều cho mọi người trong phòng.
Bỗng nhiên, điều đó trở thành quy luật bất thành văn trong phòng giam đó. Dù là Kitô hữu hay không, bất cứ ai trong phòng có quà thăm nuôi, cũng đều trao lại một mình anh đó giữ và phân phối.
Trước cơn đói triền miên trong tù, những thực phẩm thăm nuôi trở thành dưỡng chất duy nhất, cứu nguy cho các thân xác héo hon, tiều tụy. Hơn nữa, chúng lại trở nên mối liên kết chặt chẽ những kẻ chung số phận hẩm hiu.
Do vậy trong phòng giam ấy, không hề xảy ra mất mát, tranh giành hay đố kỵ với nhau, mà trái lại tràn đầy tình yêu thương, chia sẻ và đùm bọc lấy nhau. Lương thực ấy, vật chất chóng hư nát ấy, lại dẫn đến tinh thần cao thượng, mối tình yêu thương đồng loại.
Tin Mừng hôm nay, lại nổi bật sự đối đầu giữa vật chất và tinh thần. Giữa thế gian và thần linh. Giữa ý nghĩa nông cạn hời hợt và tinh thần thâm sâu.
1. Vật chất che khuất Thần Khí
Khi giảng dạy trong Hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đã phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời!” (Ga 6, 54A), thì nhiêu môn đệ liền bất mãn: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60). Đúng quá, hiểu theo nghĩa đen thì ai chấp nhận nổi lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Hiểu theo nghĩa vật chất thì làm sao nhìn thấy tinh thần thâm thúy sâu xa?
Các môn đệ đã để ý nghĩa vật chất che khuất đi ý nghĩa cao sang của tình yêu Thiên Chúa, vô tình đối chọi với tuyên bố của Chúa Giêsu, và khước từ Lời Chúa.
2. Thần Khí ban sự sống
Nhận thấy các môn đệ ngộ nhận, Chúa Giê su liền trấn an và giãi bày minh bạch, hầu môn đệ phân biệt cụ thể giữa xác thịt và Thần Khí: “Điều đó, anh  em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh  em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với  anh  em là Thần Khí và là sự sống(Ga 6, 61 -63).
Tuy nhiên, để hiểu và đón nhận được Lời Hằng Sống ấy, con người cần được hồng ân Thiên Chúa trao ban: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6, 65)
3. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Mặc dầu Chúa Giê su cặn kẽ lý giải lời tuyên bố, nhưng một số môn đệ vẫn rời bỏ Người, vì cố chấp, hoặc thất vọng về Người. Họ mong muốn Người là một đại ân nhân, một Mạnh Thường Quân, hay vị đế vương giải phóng họ khỏi kiếp lầm than nô lệ.
Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: Cả anh  em nữa, anh  em cũng muốn bỏ đi hay sao?”Ông Simon Phêrô liền đáp: Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng,  chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6, 67 – 69)
Câu trả lời dứt khoát, đầy xác quyết của Tông đồ Phêrô đã nói lên tất cả niềm hy vọng, niềm cậy trông, niềm phó thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Nếu rời bỏ Chúa, thì chỉ còn con đường duy nhất là theo thế gian, theo ma quỷ và xác thịt, sẽ phải chết đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn biết thân thưa với Chúa, như Thánh Phêrô: “Bỏ Thầy con biết theo ai?” để con phó dâng hoàn toàn vào tay Chúa, dẫn dắt đến Quê Trời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn phù hộ, củng cố đức tin con vững chãi, để không còn nao núng, nghi ngại, mà theo chân Chúa cho đến tận cùng. Amen.
Bài 5. “GIỮ ĐẠO” HAY “SỐNG ĐẠO”?
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay là trích đoạn cuối “Diễn từ tại hội đường Ca-phac-na-um”. Cứ tưởng đến lúc này thì đám thính giả Do thái cũng đã phần nào hiểu ra được Lời dạy của Đức Ki-tô về Bánh Hằng Sống. không ngờ là họ vẫn cứng lòng không tin; nhưng đáng trách nhất là các môn đệ ở liền bên với Thầy, nghe biết bao lời giáo huấn thánh thiện, nhất là chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Thầy làm, chứng tỏ Người đích thị là Thiên Chúa; vậy mà vẫn còn có kẻ chê “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”, để rồi ”Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.” (Ga 6, 60-66). Thấy tình hình như vậy, Đức Ki-tô quay lại hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 67-69).
Tình trạng nêu trên cũng đã từng xảy ra trong Cựu Ước. Đọc trong sách Giô-suê – một trong các sách Lịch sử thuộc trào lưu Đệ nhị luật  – thì thấy kể lại: Khi ông Mô-sê qua đời, thì ông Giô-suê (Phụ tá của Mô-sê) được Đức Chúa trao quyền  bính. Ông Giô-suê đã chỉ huy các bộ lạc vượt qua sông Gio-đan, tiến như vũ bão chiếm lãnh toàn miền đất Thiên Chúa đã chỉ cho ông Mô-sê thấy (Gs, ch. 1-12). Cuối cùng, ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục, rồi nói với họ: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”  Nghe vậy, dân chúng đã khẳng khái đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua.” (Gs 24, 1-2a.15-17.18b).
Sự kiện này nói lên điều gì? Ở Cựu Ước, Thiên Chúa dùng Giô-suê – là một con người, một thụ tạo – hỏi dân chúng để xem thử lòng tin của họ, thì họ đã bày tỏ sự trung thành với đức tin mà họ đã đặt trọn vào Thiên Chúa; nhưng đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Thiên Chúa – Đấng sáng tạo – khi rao giảng Nước Trời đã bị ngay cả những môn đệ của Người bỏ đi, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai ở lại với Người (nhưng trong số đó vẫn “có những kẻ không tin” như Giu-đa It-ca-ri-ốt – Ga 6, 64). Tiêu biểu trong Nhóm Mười Hai là thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin một cách khẳng khái: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Rồi đến lễ Vượt Qua trước ngày khổ nạn của Thầy, khi nghe Thầy nói sẽ chối Thầy, thánh nhân còn khẳng định chắc nịch: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã… Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Không chỉ mình Phê-rô, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 33-35). Ấy thế mà chỉ trong khoảnh khắc, Phê-rô đã chối phăng Thầy không chỉ một mà tới ba lần trong một đêm như Thầy đã tiên báo. Thánh Phê-rô thì như thế, còn các môn đệ khác thì sao? Thật là xót xa khi thấy “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6, 66), “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56). Ôi chao! Nhân tình thế thái là vậy ư?
Giáo Hội tiên khởi như thế đó. Nhưng tới lễ Ngũ Tuần thì mọi sự đã hoàn toàn khác hẳn Tất cả các Tông đồ đều một lòng một dạ “Bỏ Thầy con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống”. Và nhờ lòng tin sắt đá ấy, các Tông đồ đã đem Lời Chúa tới khắp năm châu bốn biển. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chẳng hiểu tỉ lệ những người không “bỏ Thầy” so với đám đông những người được nhận là bạn của Thầy (Ki-tô hữu) còn được là bao? Có thể họ không có ý lìa bỏ Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống, họ không tuân giữ Lời Chúa, thì cũng chẳng khác chi đám người Do thái và một số môn đệ xầm xì “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”; rồi họ bỏ đi một nước vì họ vẫn chưa thật sự tin rằng Người nói những lời chướng tai ấy lại chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Xưa kia, những môn đệ trước khi bỏ Chúa mà đi, đã nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 54b). Ngày nay còn có cả những người vẫn luôn miệng xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, vẫn nói chẳng thua gì Thánh Phê-rô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6, 68-69), nhưng trong lòng thì rỗng tuếch, thậm chí nếu cần vẫn sẵn sàng đạp lên Thánh giá, sẵn sàng quay ngược mũi giáo đâm thẳng vào anh em đồng đạo, như xưa quân dữ đâm vào Trái Tim Chúa Giê-su vậy.
Tôi cũng đã từng viết, vào thời điểm 1975, ở Việt Nam đã có không ít những người (trong đó có cả những người bạn đồng nghiệp dạy học như tôi, những người đồng đạo trong xóm, trong giáo xứ của tôi và thậm chí có cả những chủng sinh Đại Chủng viện, tu sĩ…) vội vàng cất bàn thờ lên gác hoặc một xó xỉnh nào đó rồi chưng ảnh lãnh tụ lên. Chưa hết, còn khai vào lý lịch là “không tôn giáo”, theo “đạo ông bà”. Vấn đề truyền giáo ở VN, nếu đem so sánh sự “thử thách” ở thời điểm 1975 với “giai đoạn thử thách” của lịch sử Giáo Hội VN (dưới những triều đại phong kiến) thì chưa thấm tháp gì. Vậy mà con số những kẻ “cất giấu bàn thờ Chúa, theo đạo ông bà, không tôn giáo…” không chừng còn nhiều hơn con số 130.000 anh hùng tử vì đạo! Thế đấy! Nói đi thì cũng cần phải nói lại. Có thể ngày nay có rất nhiều người “không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa”, không theo chủ nghĩa “vô thần”, nhưng lại là những người “vô thần hiện thực”, nghĩa là sống như không có Thiên Chúa vì thực tế đã không sống theo Lời Chúa dạy. Không thiếu những người “có đạo” mà không “sống đạo”, và cũng chẳng ít người “giữ đạo” sốt sắng (đi lễ, rước lễ hàng ngày), nhưng lại không “hành đạo” trong cuộc sống hàng ngày bằng cách sống Lời Chúa.
Ôi! Lạy Chúa! Con không còn đủ can đảm và tỉnh táo để viết tiếp được nữa, bởi nhìn lại mình, con cũng thấy hằng ngày – cách này hay cách khác – con cũng vẫn cầm giáo đâm vào Trái Tim Chúa; mặc dầu con vẫn biết – biết rất rõ – vẫn rất vững tin rằng “Bỏ Thầy, con biết theo ai?” Vâng, lạy Chúa! “Bỏ Ngài con đi với ai, vì Ngài có Lời ban sự sống. Bỏ Ngài thân con héo hon, đời cô liêu trên chốn dương gian. Bỏ Ngài con đi với ai đường xa lắc tương lai mịt mờ, nào ai dẫn con trên đường dài. Bỏ Ngài con đi với ai?” (TCCĐ “Bỏ Ngài con đi với ai?” – Phaolô Kim). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Xin ban Thần Khí an ủi, soi sáng, thêm sức cho con, để con không chỉ “giữ đạo” mà phải biết “hành đạo”, biết “sống đạo” một cách cụ thể theo đúng Lời Chúa dạy. Amen.
Bài 6. CẦN TIN LỜI CHÚA ĐỂ TIN THÁNH THỂ
LM ĐAN VINH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,54a.60-69
2. Ý CHÍNH
Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi thì Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
3. CHÚ THÍCH
C 54a.60: + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giêsu là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giêsu nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người nhận Đức Giêsu làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giêsu có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1)  và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”: Khi nghe Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, chỉ được dành riêng cho Đức Chúa là chủ tể của sự sống. Luật Mô-sê qui định: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).
C 61-62: + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?: Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận: Một là Đức Giêsu tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?: Đức Giêsu cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), đúng như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
C 63-64): + Thần khí: Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau: Một là gió: Có đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở: Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn: Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24)  nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì!: Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí gọi là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và thân xác ấy trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
C 65-66: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giêsu là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giêsu là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình mà cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được Người ban “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
C 67-69: + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát: Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”:
Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giêsu: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
5. CÂU HỎI: 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa? 2) Môn đệ là những ai và Đức Giêsu có bao nhiêu môn đệ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào? 3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều nào của Đức Giêsu? 4) Đức Giêsu đưa ra bằng chứng nào cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy? 5) Trong Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào? 6) Đức Giêsu đã nói gì về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người? 7) Tại sao Đức Giêsu lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống? 8) Đức Giêsu biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người? 9) Đức Giêsu chó biết đức Tin phát xuất từ đâu? Ta phải làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải? 10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giêsu? 11) Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giêsu tuyển chọn từ Nhóm nào? Nhóm Tông đồ được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giêsu hòi có muốn bỏ đi hay không? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào? 13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giêsu là ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68) :
2. CÂU CHUYỆN: CHỌN TIN THEO CHÚA
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Mô-sê dẫn đi ngang qua sa mạc trong 40 năm và đã đến được bờ sông Giô-đan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Mô-sê trao quyền cho Gio-su-ê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai… Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
3. SUY NIỆM
1) Tự do “tin hay không tin” vào Đức Giêsu
Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng được tự do lựa chọn tin hay không tin vào Đức Giêsu. Trước khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng đều phải công khai tuyên bố từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý trong kinh tin kính như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
2) Cần xác tín vào Đức Giêsu
Trong đời sống thường ngày, cũng như dân Ít-ra-en xưa, các tín hữu chúng ta hôm nay cần khẳng định đức tin qua câu này: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa này đòi chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối tội lỗi.
3) Cần dứt khóat tin theo Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát lập trường trước lời tuyên bố của Đức Giêsu về bí tích Thánh Thể: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống!”. Tông đồ Phê-rô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”.
4) Đức tin dựa trên Lời Chúa
Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin không phải do đã hiểu được bí tích Thánh Thể, nhưng vì đã tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, Đấng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê, đã đi trên mặt biển và phán một lời dẹp yên sóng gió, đã từng xua trừ ma quỷ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân và phục sinh kẻ chết… Chính nhờ lòng tin này mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã chấp nhận tin cả những Lời xem ra khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ  được sống muôn đời”.
5) Cần làm gì để gia tăng đức tin vào bí tích Thánh Thể?
Đây là mầu nhiệm đức tin, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để đạt tới đức tin vào bí tích này, các tín hữu cần làm ba việc như sau:
Một là phải thành tâm lắng nghe Lời Chúa như thánh Phaolô dạy: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Do đó, nếu muốn tin vào bí tích Thánh Thể, ta cần năng nghe Lời Chúa dạy mỗi khi tham dự thánh lễ, dự giờ chầu Thánh Thề hoặc các lớp giáo lý hay các buổi học sống Lời Chúa và sau đó “suy niệm trong lòng” noi gương Đức Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
Hai là phải năng lặp lại lời cầu nguyện của Tông đồ Phê-rô trong Tin mừng hôm nay:  “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Ba là phải noi gương người cha có con bị quỷ ám trong Tin Mừng Mác-cô để cầu xin Đức Giêsu:“Lạy Chúa con tin, nhưng xin hãy trợ giúp lòng tin yếu kém của con” (x Mc 9,24).
4. THẢO LUẬN1) Người ta thường bị khủng hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào? 3) Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác lâu ngày chưa được nhậm lời, con thường nản lòng thất vọng rồi bỏ dự lễ và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa. Con lại chạy theo những lời mách bảo đề đến với các thầy bùa thầy bói, đồng cốt và làm những điều mê tín khác… Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ lo tìm kiếm của ăn phần xác, và dửng dưng những việc phần hồn. Xin giúp con biết “trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau”
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Bài 7. CHÚNG TÔI QUYẾT PHỤNG THỜ ĐỨC CHÚA
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Giữ đạo hay theo Chúa là một chọn lựa. Không phải chỉ chọn lựa một lần khi chịu Phép Rửa Tội mà là chọn lựa mỗi ngày, thậm chí mỗi giờ, mỗi phút.
Chọn lựa giữa Thiên Chúa và các thần khác như ông Giô-suê và dân Ít-ra-en trong sa mạc đã chọn phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã tỏ lòng thương dân và cứu vớt dân ra khỏi cảnh nô lệ.
Chọn lựa là tin vào lời của Chúa Giê-su, dù lời ấy có chói tay, như các Tông đồ trong Phúc Âm đã tiếp tục chọn đi theo Chúa Giê-su, vì Người có những lời đem lại sự sống đời đời.
Còn ngày nay chúng ta chọn ai, chọn gì? Đây là câu hỏi hết sức quan trọng mà mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta phải trả lời Chúa và làm chứng cho thế giới, nhất là cho những người duy vật vô thần sống bên cạnh và chung quanh chúng ta.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIỂN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Gs 24,1-2a.15-17.18b) là tường thuật rất cảm động của sách Giô-suê. Ông Giô-suê là người lãnh đạo dân Ít-ra-en trong hành trình sa mạc tiến về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân riêng Người. Trong cuộc hành trình đầy gian khổ ấy, không phải lúc nào niềm tin vào Thiên Chúa của con dân Ít-ra-en cũng kiên vững. Đã có nhiều lúc họ kêu trách Mô-sê và tiếc nuối những ngày ‘ổn định’ ở Ai-cập. Vì thế mà ông Giô-suê -cũng như ông Mô-sê- phải khôn ngoan hướng dẫn và củng cố lòng tin của dân. Ông đã quy tụ mọi chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem để xác định lập trường của mình và yêu cầu dân xác định lập trường của họ. Và họ đã làm theo gợi ý và nguyện vọng của ông cũng là thánh ý của Thiên Chúa!
Trong trích đoạn này chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát Ít-ra-en ra khỏi cảnh nô lệ và đưa họ vào Đất Hứa bằng quyền năng mạnh mẽ của Người.
3.1.2 Bài đọc 2 (Ep 5,21-32) là những lời khuyên của Thánh Phao-lô đối với các Ki-tô hữu sống đời vợ chồng. Đối với Thánh Phao-lô thì hôn nhân và tình yêu vợ chồng Ki-tô hữu rất cao cả vì là hình ảnh và biểu tượng của Tình Yêu và sự Kết Hiệp của Chúa Giê-su Ki-tô với Hội Thánh.
Trong trích đoạn này chúng ta nhận ra Chúa Giê-su là Đấng đã hiến mình cho Hội Thánh,  yêu thương và chăm sóc Hội Thánh là thân thể Người.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69) có thể được xem là đoạn kết của diễn từ về bánh trong Phúc Âm Thánh Gio-an. Không chỉ dân chúng mà một số môn đệ cũng thấy những lời khẳng định của Chúa Giê-su là “chướng tai” tức khó hiểu và khó chấp nhận. Nhưng Chúa Giê-su không hề nhượng bộ mà từ chối sự thật. Trái lại Người đòi các môn đệ và các tông đồ phải chọn lựa:
* hoặc không chấp nhận, không tin vào lời Người mà rút lui như nhiều môn đệ đã làm;
* hoặc tin vào lời Người mà chấp nhận và tuyên xưng với/như Phêrô:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)    
Sứ điệp của ba bài Sách Thánh hôm nay là: Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến với con người, giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với con người một tương quan yêu thương mật thiết.
Vì thế Thiên Chúa và Chúa Ki-tô đáng được chúng ta thờ phượng và yêu mến, cho dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có nhiều khó khăn, thử thách và cám dỗ như những người Ít-ra-en trong hành trình sa mạc, và cho dù chúng ta phải tin và thực hành những lời “khó nghe” về Thánh Thể (là Thịt Máu Chúa Giê-su), về sự tái sinh, về việc bỏ mình và vác thập giá, về Tám Mối Phúc Thật.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI  SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA (1)
4.1 Sống với Thiên Chúa là có những tâm tình/lời/hành động chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đã thực hiện cuộc “xuất hành” cho dân Ít-ra-en tức đã giải phóng dân Ít-ra-en và mọi dân, mọi người khỏi mọi cảnh nô lệ về chính trị, kinh tế, văn hóa, sắc tộc và sâu thẳm nhất là khỏi tội lỗi và sự khống chế của Xa-tan.
Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là có những tâm tình/lời/hành động chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Chúa là Đấng đã nuôi chúng ta bằng Thánh Thể và bằng Lời.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta quyết chí chọn lựa chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi và nỗ lực hết sức mình để sống theo giáo huấn của Chúa Giê-su Ki-tô.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI
5.1 «Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trên thế giới hôm nay, để ai nấy nhìn nhận và phụng thờ Thiên Chúa là Chúa Tể vũ trụ vạn vật.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! 
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 
5.2 «Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục, cho các linh mục và các tu sĩ cùng toàn thể Hội Thánh, để mọi thành phần Dân Chúa đón nhận Thần Khí và sự sống từ Lời Chúa!
5.3 «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người này kiên trì trong việc đi theo  Chúa Ki-tô là Đấng có lời đem lại sự sống đời đời.
5.2 «Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác!»  Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Ki-tô hữu, nhất là cho các tân tòng, để mọi người kiên vững trong lòng tin mà không chạy theo tà thần hay ngẫu thần là tiền tài, danh vọng, quyền lực và lạc thú.
Bài 8. Bánh Ban Sự Sống
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Ðể sống tình cảm và đời sống gia đình, trong thực tế có nhiều khó khăn. Không giải quyết và lướt thắng được, trái tim con người sẽ luôn bất an và buồn chán. Cuộc đời của họ có thể như xây nhà trên cát, vì con sâu buồn bực, hận thù hay thất vọng ở trong ruột gan họ sẽ đục khoét mọi công trình xây cất do bàn tay và trí óc họ làm ra. Các bài Kinh Thánh đọc trong thánh lễ hôm nay không đề ra hết mọi lời khuyên để giải quyết; nhưng nếu thực hành được những lời đạo đức này có lẽ con người sẽ tìm ra lẽ sống cho cuộc đời nhiều khi khó khăn.
1. Hãy Tin Vào Quá Khứ
Bài sách Yôsua cho chúng ta được chứng kiến cuộc họp mặt cuối cùng giữa nhà lãnh đạo quần chúng và đại biểu con cái nhà Israel. Yôsua bấy giờ đã già. Ông biết giờ chết đã gần. Nhìn vào dân tộc mà ông đã vất vả lãnh đạo đánh chiếm Hứa địa và định cư ở đó, ông không khỏi đau xót và lo lắng. Các chi họ Israel chưa hoàn toàn đoàn kết. Tương quan giữa họ và thổ dân chưa hoàn toàn tốt đẹp. Nhất là yếu tố xây dựng một dân tộc duy nhất là “lòng kính sợ Yavê”, chưa được củng cố vững vàng. Con cái nhà Israel đang còn thích nhìn sang các tượng thần của dân bản xứ và của dân ngoại. Và nếu họ chạy theo các ngẫu tượng này thì thôi, sẽ mất tất cả.
Yôsua nhận thấy nguy cơ thật trầm trọng… Ông cố gắng một lần cuối cùng. Thu góp sức lực của tuổi già lại, ông triệu tập một cuộc họp đông đủ các đại biểu con cái nhà Israel. Ông chọn Sikem làm địa điểm nhóm họp. Ðây là nơi tổ phụ Abraham đã dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6). Yacob và con cái ông đã để lại nhiều kỷ niệm ở chốn này (Kn 33,35). Chính Yôsua trong thời hoạt động nhất cũng chọn Sikem làm nơi tuyên bố luật pháp để đoàn kết các chi họ Israel trong một lý tưởng chung (Yos 8). Nay ông có lý để chọn nơi này làm chỗ tập họp nung nấu lại tình thương yêu ruột thịt.
Có lẽ đây không phải là một cuộc họp cử hành Phụng vụ, mặc dù sách viết: họ đứng chầu trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không nhận thấy sự hiện diện của hàng tư tế. Và sau khi họp bàn xong, họ đã ra về mà không làm một lễ dân nào. Câu viết kia chỉ có nghĩa là họ ý thức đang đứng trước mặt Yavê, đang ở nơi thánh địa của Người, đang làm việc dưới con mắt vô hình của Ðấng Thiên Chúa toàn năng.
Yôsua khai mạc phiên họp bằng cách nhắc lại quá khứ, để tất cả cùng nhờ Thiên Chúa đã hướng dẫn, bảo hộ, săn sóc dân như thế nào. Rồi ông kết luận: “Bây giờ các ngươi không bằng lòng phụng thờ Yavê thì cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là các thần của tổ tiên trước khi họ đặt chân đến xứ này, hoặc là các ngẫu tượng của dân bản xứ mà Yavê đã giúp các ngươi đánh đuổi. Phần ta và cả nhà ta, sẽ phụng thờ Yavê”.
Nói thực ra, sau những lời này, dân không còn chọn lựa nào khác là cùng nhất trí với Yôsua. Họ vừa nớ lại công ơn của Thiên Chúa. Họ thấy rõ nhờ Người mà họ được như ngày hôm nay. Quá khứ của họ được xây dựng nhờ sự hướng dẫn bảo hộ của Người. Toàn dân mủi lòng nghĩ đến sự vô tâm của họ trước đây đối với Yavê… Họ đồng thanh trả lời với Yôsua: “Quái gỡ thay nếu chúng tôi bỏ Yavê để phụng thờ những thần khác… Vậy cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng sẽ phụng thờ Yavê vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi”.
Dĩ nhiên, đọc câu truyện trên đây cho chúng ta nghe hôm nay, phụng vụ chỉ muốn nhắc nhở chúng ta nghĩ lại quá khứ đã ràng buộc chúng ta lại với Thiên Chúa để chúng ta suy nghĩ lại về lòng trung thành của mình đối với Người… Nhưng chẳng có gì cấm chúng ta áp dụng những điều này vào trong đời sống tình cảm và đời sống gia đình của chúng ta. Việc nhớ lại mối tình đầu và những chặng đường đã cùng nhau sát cánh qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi, không có sức giúp chúng ta lướt thắng những trục trặc và khó khăn hiện tại trong tương quan đối với bạn hữu và người thương của mình sao? Nhưng không phải chỉ có quá khứ, còn tương lai nữa. Và điều này chúng ta có thể nhận ra từ bài Tin Mừng Yoan.
2. Hãy Hy Vọng Ở Tương Lai
Ðoạn văn này kết thúc diễn từ của Ðức Yêsu về bánh ban sự sống. Chúng ta hẳn còn nhớ những lời cuối của Người đã nói: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống… ai không ăn và không uống Thịt Máu này sẽ không được sống. Còn ai ăn và uống sẽ lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Ðó là những lời “sống sượng”. Chắc chắn quần chúng đã không chấp nhận. Nhưng lạ kỳ thay: Thánh Yoan không để ý đến phản ứng của quần chúng. Người nhìn vào hàng môn đồ của Ðức Yêsu. Ðây không phải chỉ là nhóm 12. Có nhiều người khác nữa vẫn đi theo Người. Họ đã ở trong đám đông hay ở gần Người trong suốt bài diễn từ. Nhưng tác giả Yoan đã không chú ý đến họ. Nói đúng hơn trong chương 6 của sách Tin Mừng này, ông có lối trình bày kỳ cục. Lúc Ðức Yêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều thì có mặt các môn đệ ở giữa quần chúng (6,1-15); sau đó chỉ nguyên có môn đồ trên thuyền gặp sóng gió (6,15-21). Khi đã vào bờ an toàn và gặp đông đủ quần chúng, họ lại có mặt trong khi Ðức Yêsu giảng (6,22-59). Lúc Người giảng xong, trở lại chỉ còn có mình họ mà thôi (6,60-66). Và lần này sự việc cũng xảy ra một cách buồn thảm như khi gặp sóng gió.
Tại sao tác giả Yoan lại bố cục bài trình bày như vậy?
Phải chăng người muốn nói rằng sứ điệp của Ðức Yêsu gồm cả việc làm và lời nói, tuy diễn ra ở trước mặt toàn dân, nhưng cuối cùng sẽ có ảnh hưởng trên một số ít người, những kẻ thân cận với Người hơn cả, để bó buộc người ta phải lựa chọn và sự lựa chọn này sẽ quyết định tương lai của Tin Mừng ở giữa loài người? Chúng ta cứ nghĩ lại mà xem. Sau khi Ðức Yêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều rồi lẫn trốn lên núi để tránh bị lôi vào phong trào muốn có một vị cứu tinh trần tục, tác giả Yoan đã thuật truyện thuyền các môn đồ gặp biển động và cuồng phong. Có thể nói người đưa sự ngỡ ngàng và thắc mắc của tất cả quần chúng trước thái độ ly kỳ của Ðức Yêsu vào trong tâm hồn các môn đồ để nó tụ lại ở đây và làm sóng, làm gió thử thách đức tin của những kẻ đi theo Chúa. Cũng vậy, sau khi Ðức Yêsu đã nói những lời khó nghe về thịt và máu Người là của ăn và của uống, Yoan đã đem tất cả phản ứng của quần chúng vào trong tâm hồn các môn đồ để làm nổi bật tính cách cam go của cuộc phấn đấu mà đức tin đang gặp phải. Những năm sau Công đồng Vatican II không có một hiện tượng như vậy sao? Cuộc khủng hoảng ở trong dân chúng đã làm mưa to gió lớn trong đời sống tu trì và tông đồ.
Vậy phản ứng của môn đồ thật ra là của tất cả mọi người kết tinh lại để đi đến một thái độ phải dứt khoát trong lựa chọn. Họ lấy làm gai chướng về các lời của Ðức Yêsu. Người thương họ và muốn cứu giúp họ như trong trường hợp thuyền họ gặp sóng gió. Hôm ấy, Người đã hiện ra với họ, tỏ mình ra cho họ và lập tức thuyền họ đã cập bến bình an. Hôm nay lẽ ra họ còn phải nhớ câu truyện ấy. Quá khứ lẽ ra phải củng cố niềm tin của họ. Nhưng dường như không phải như vậy. Ðức Yêsu còn gợi lại hình ảnh trước; nhưng Người còn mạc khải cả tương lai nữa để họ biết chấp nhận hiện tại.
Người nói: “nếu các ngươi trông thấy Con Người lên nơi Ngài đã có trước…?” Những chữ “trông thấy” có thể gợi lên cảnh tượng trên mặt hồ sóng gió lúc Người hiện đến với họ. Nhưng lập tức những chữ ấy đã đưa về tương lai, ám chỉ việc Ðức Yêsu sẽ phục sinh, lên trời và hiện đến trong vinh quang. Người muốn ám chỉ rằng nếu lần thấy Người trong quá khứ đã có thể đem bình an lại cho họ, thì huống nữa là những điều họ sẽ thấy trong tương lai!
Tuy nhiên những lời như vậy chỉ có giá trị cho những tâm hồn có một chút thái độ tin tưởng và phó thác. Chứ đối với những con người xác thịt, chỉ muốn nắm ngay những gì ăn chắc, thì những lời đó không có ảnh hưởng gì cả. Thành ra nhiều môn đồ đã rút lui, không còn đi theo Ðức Yêsu nữa.
Nhìn vào đám 12 còn lại, mà từ nay sẽ trở thành Tông đồ, Ðức Yêsu muốn họ xác định lập trường. Simon Phêrô thay mặt anh em nói lên những lời tỏ rõ niềm tin như các sách Tin Mừng khác đã thuật lại khi các ngài đối thoại ở Cêsarê: Ngài là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Chúng tôi sẽ bỏ Ngài đi theo ai?
Thế là từ nay Ðức Yêsu có một số ít đi theo Người. Còn đại đa số đã rút lui. Người sẽ đi với số ít này lên Núi Sọ dẫn đến vinh quang phục sinh, đang khi đại đa số sẽ dùng tay bọn quá khích và tên môn đồ phản bội để giết Người. Bọn này đã không nhớ lại việc làm và lời nói của Người ở trong quá khứ; và cũng chẳng có tinh thần vươn về tương lai mà nhiều lần Người đã gợi ra cho họ.
Nhiều người nơi chúng ta trong đời sống đối với Chúa và Hội Thánh cũng như đối với tha nhân bạn hữu và các người trong gia đình, không lướt thắng nổi các khó khăn, khủng hoảng, cũng chỉ vì đã hết quý hóa mọi tương quan thắm thiết trong quá khứ, và không có đủ sức mạnh tinh thần để tin tưởng vào tương lai. Nhiều cuộc ly dị hôn nhân đã xảy ra vì vậy. Nhiều sự cộng tác gãy gánh cũng thế. Và tất cả như vậy, cuối cùng, chỉ vì những suy nghĩ về quá khứ và tương lai không đủ mạnh đối với bộ mặt cam go của thực tế trong hiện tại. Lời Chúa hôm nay dùng bài Thánh Thư để giúp đỡ chúng ta về điểm này.
3. Hãy Hiểu Biết Hiện Tại
Thánh Phaolô bắt đầu khuyên tín hữu về các tương giao và tương quan xã hội trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Và trước hết người đề cập tới tương quan phu phụ.
Người không có những lý do cụ thể đặc biệt nào để đề cập vấn đề này đâu. Thư Êphêsô ít có tính cách cụ thể hơn cả, theo nghĩa đã không do hoàn cảnh cụ thể nào thôi thúc tác giả viết ra. Có thể nói nó không phải là thư trao đổi tin tức, hay muốn giải quyết vấn đề gì. Nó là một “luân thư”, mượn hình thức thư từ để trình bày giáo lý.
Ở đây tác giả ca tụng mầu nhiệm cứu thế của Ðức Kitô đã đem đến cho chúng ta một sự sống mới. Ơn của Người phải phát huy ra trong đời sống, và trong các tương quan xã hội, mà gia đình là một môi trường. Tình yêu phu phụ giữ vai trò trọng yếu. Nó cũng phải được thấm nhuần mầu nhiệm Ðức Kitô.
Vậy nhìn tương quan phu phụ trong mầu nhiệm này, thánh Phaolô một đàng không thể quên hình ảnh Yavê là hôn phu của dân Người; và do đó Ðức Kitô là hôn phu của Hội Thánh. Ðàng khác, ở những trang đầu tiên trong bộ Thánh Kinh (Kn 2,24) người ta đọc thấy: “Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và hai chúng sẽ nên một thân xác”. Có lẽ câu Kinh Thánh này đã bị nhiều người lợi dụng và cắt nghĩa không chỉnh. Phaolô đem đọc dưới ánh sáng của mầu nhiệm Ðức Kitô và thấy ngay câu ấy viết về sự mật thiết của Ðức Kitô và Hội Thánh. Cả hai là một đến nỗi không thể rời nhau được nữa.
Nhưng không phải là không có thứ tự. Ðức Kitô đã yêu thương trước và đã phó nộp mình để làm ra Hội Thánh trong sạch không một vết nhơ. Người trở thành đầu của Hội Thánh, có uy quyền trên Hội Thánh, nhưng đó là thứ uy quyền của tình yêu, phục vụ.
Và Phaolô kết luận, chồng hãy cư xử với vợ mình như thế; và vợ hãy đối với chồng mình như Hội Thánh đối với Ðức Kitô.
Chắc chắn đây là những tư tưởng rất cao cả mà Phaolô gọi là mầu nhiệm lớn. Chấp nhận như vậy thì mọi vấn đề cụ thể khác dù có to cũng trở thành nhỏ, có khó cũng trở nên dễ. Bởi vì mọi thực tại trần gian đã được cuốn vào đà thăng tiến của mầu nhiệm Ðức Kitô. Và từ nay người có đức tin Kitô giáo có thể nhờ lòng tin cậy mến để chấp nhận và thăng tiến mọi sự kiện và tương quan ở đời.
Do đó không cần những cái nhìn về quá khứ hay về tương lai cho bằng cần có cái nhìn đức tin về hiện tại, là chúng ta có thể tìm ra lẽ sống tốt đẹp và phong phú ở trong hết mọi hoàn cảnh. Nói đúng hơn, quá khứ và tương lai chỉ cần để xây dựng niềm tin hiện tại. Cũng như giờ đây chúng ta cũng cần biết lịch sử thánh gồm cả quá khư và tương lai để tuyên xưng đức tin trong hiện tại hầu cử hành mầu nhiệm thánh. Chính đức tin hiện tại khiến chúng ta công nhận bánh rượu này sẽ là Thịt Máu Chúa Kitô để ban cho ai lãnh nhận với đức tin được sự sống mới, hầu sống cách mới mẻ mọi thực tại và tương quan ở đời.
Như vậy, chính niềm tin sẽ đánh giá thái độ của chúng ta trong giờ phút này và trong khắp đời sống. Chúng ta hãy sốt sắng xin cho mình được niềm tin ấy trong bản tuyên xưng đức tin đọc bây giờ.
Bài 9. Lời ban sự sống
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời” là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió rồi mất hút trong không gian, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà đem lại sự sống đời đời.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa thực sự là những Lời quyền năng, có sức sáng tạo và mang lại sự sống cho muôn vật muôn loài.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời để tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa tác thành.
Sáng thế ký chương I viết:
Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, … liền có như vậy.”
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…”  Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Sáng Thế 1, 20.24.26)
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng
Khi xuống thế làm người, Chúa Giê-su cũng đã dùng lời quyền năng của Người mà trục xuất ma quỷ ra khỏi những người bị ám hại (Mc 5,8), khiến cho bão tố dữ dội phải lặng yên (Mác cô 4, 39)…
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Chúa Giê-su cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những người đã chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giê-su thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy” (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giê-su cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. Chúa truyền phán: “La-da-rô, hãy ra ngoài!”. Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giê-su có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và lần lượt bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng:“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Gioan 6, 68).
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giê-su tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
Bài 10. BIẾT ĐẾN VỚI AI?
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đức tin là một vấn đề quan trọng trong đời sống của con người. Ai cũng vậy tin hay không tin là quyền tự do của mình. Tuy nhiên, giữa tin và không tin như có một cái gì đó xem ra rất xa nhưng lại cũng rất gần. Do đó, trong cuộc sống, con người có lúc bị giao động giữa tin và không tin. Khủng hoảng xẩy ra khi có vấn đề về đức tin. Lịch sử dân Chúa cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Và Đức Kitô đã đến trần gian, nhân loại, con người đứng trước sự lựa chọn: tin hay không tin vào Ngài. Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào là khủng hoảng về đức tin. Các môn đệ là những người thân cận với Đức Kitô nhưng vẫn bị khủng hoảng về đức tin..
Các môn đệ, những người được Chúa chọn lựa, cất nhắc nhưng khi nghe Đức Kitô nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54 a). Trong số các môn đệ, có những người đã phản ứng: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi” (Ga 6, 60). Các môn đệ đã khó hiểu khi Chúa Giêsu nói về căn tính của mình. Chúa từ trời xuống, chết, sống lại và lại trở về nơi Thiên Chúa Cha. Tất cả những mạc khải ấy, đối với các môn đệ thật khó hiểu nhất là khi Chúa nói về Mình và Máu của Ngài trở thành lương thực nuôi sống mọi người. Vâng, các môn đệ khi nghe những Lời của Chúa còn không thể nào hiểu nổi, huống hồ gì chúng ta: mầu nhiệm nhập thể, đau khổ, sự chết, phục sinh và về trời là những mầu nhiệm cao vời, ngoài sức hiểu biết của con người. Chúng ta phải như các môn đệ khi được Chúa Thánh Thần đến mới biến đổi tất cả và mới làm cho các Ngài, cũng như chúng ta hiểu được mọi sự xem ra bí nhiệm. Các môn đệ đã yêu mến Chúa, vì yêu các Ngài đã chấp nhận và đã hiểu được những mầu nhiệm khôn dò. Chúng ta ngày hôm nay vì yêu và tin Chúa, chúng ta chấp nhận Chúa và hiểu được những điều vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.
Chúa Giêsu theo Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, Ngài đã biết trước ai là kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Ngài… Do đó, Tin Mừng thánh Gioan loan báo khi nghe những lời của Chúa Giêsu đã có nhiều môn đệ rút lui và không đi theo Ngài nữa. Thực tế, đã có nhiều môn đệ đi theo Chúa, học hỏi, ở với Chúa một thời gian, đã tin vào Chúa, nhưng những người này không thể đi tới cùng với Ngài vì họ không chấp nhận được những điều Ngài tiết lộ về tông tích, nguồn gốc, tông tích của Ngài. Các môn đệ này đã không dám phiêu lưu, liều lĩnh hơn nữa bởi vì họ không thể hiểu nổi những lời mạc khải của Chúa. Trở nên môn đệ và trở thành người công giáo chưa chắc đã bảo đảm sự trung thành của mình mãi mãi với Đức Kitô. Muốn trung tín với Chúa, mọi Kitô hữu, mọi môn đệ phải luôn dám dấn thân, phiêu lưu luôn khám phá ra sự mới mẻ của Đức Kitô, trung thành để Ngài dẫn đưa mình vào các mầu nhiệm thâm sâu, khôn dò của Ngài. Chấp nhân yêu và tin Chúa sẽ chấp nhận đi vào sự rủi ro, rất liều lĩnh là để Chúa dẫn mình đi trên suốt cuộc hành trình đức tin. Đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy đã có rất nhiều môn đệ của Chúa đã bỏ Ngài mà đi không bao giờ hẹn ngày trở về và ngay những kẻ ở lại, đã có kẻ phản bội, bán Chúa… Chúa đòi mọi Kitô hữu trung tín…
Một bằng chứng thật cảm động và dễ thương, đó là Phêrô đã đại diện nhóm Mười Hai
bầy tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Các môn đệ và đặc biệt là Phêrô không phải các Ngài đã hiểu được những lời mạc khải của Chúa, nhưng vì các Ngài đã tin và nhận biết Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 69). Quả thực, Phêrô và các bạn đã chứng kiến Thầy nuôi dân bằng phép lạ làm cho cá và bánh hóa nên nhiều. Họ đã sửng sốt, ngạc nhiên và hết sức khâm phục khi thấy Chúa đi trên biển mà tới với họ. Và lẽ dĩ nhiên, họ đã chứng kiến biết bao phép lạ khác mà Tin mừng đã thuật lại cho chúng ta như phép lạ làm cho con bà góa thành Naim được sống lại, phép lạ cho tên đầy tớ của Ông bách quản được khỏi bệnh, và còn biết bao phép lạ lớn lao, tỏ tường khác. Chính vì thế, các môn đệ này đã xin ở lại với Chúa, đã chấp nhận những lời mà những người khác cho là chướng tai v.v…
Trong cuộc sống, có lẽ có những lúc chúng ta cũng bị thử thách, cám dỗ về lòng tin như các môn đệ và chắc có những lúc chúng ta muốn bỏ Chúa, không đi theo Ngài, không muốn ở lại và làm môn đệ Ngài nữa. Khi gặp cám dỗ như thế, chúng ta đừng vấp ngã như một số đông môn đồ xưa, đã đang tâm lìa xa Chúa. Nghĩa là chúng ta đừng dán mắt chỉ chú ý tới những vấn đề đang xảy ra cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Chúa Giêsu. Chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Chúa như thánh Phêrô, Vị tông đồ trưởng đã làm và hãy thưa cùng Chúa:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 68-69).
Bài 11. Vấn đề đức tin
Trầm Thiên Thu
Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Bởi vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi!
Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu:“Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau).
Con người yếu đuối nên dễ thay lòng đổi dạ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác. Ông Giôsuê quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Ítraen và triệu tập các kỳ mục Ítraen, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2).
Ông Giôsuê không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa nên người. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” [Tv 33 (34):2-3]. Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):15].
Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” [Tv 33 (34):16-17]. Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):18]. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” [Tv 33 (34):19-21]. Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy”[Tv 33 (34):21].
Chúng ta càng yếu đuối càng cần có đức tin. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5:21). Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân “dài hơi” giải thích: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô“thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27).
Cũng thế, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất lô-gích, vợ chồng “tuy hai mà một”, nên một qua bí tích Hôn phối. Mà là một thì “người này là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, mà “người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh có lời chép: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5:31). Thánh Phaolô xác định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo hội, và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gằng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình.
Đức tin có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết, và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17&26).
Khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu có nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng “nóng gáy” nên liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Ngài bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin” (Ga 6:61-64).
Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Và Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Ông Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã tin. Thật vậy, ông liền tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và luôn biết tín thác vào Người Con ấy.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin thêm đức tin cho chúng con và xin nâng đỡ chúng con để chúng con can đảm thể hiện đức tin qua từng ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái,… Nhờ đó mà chúng con xứng đáng là môn đệ của Con Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang