Trên
đường đến thăm người chị họ là bà Elisabeth, Đức Maria hân hoan vui
mừng vì Mẹ cảm nhận được tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho
mình. Mẹ đang dự tính sẽ kể cho người chị họ điều mới xảy ra do cuộc
viếng thăm của Sứ thần Gabrien, thì Bà Elisabeth đã biết hết điều Đức
Maria định kể! Vì thế, lời chào của bà Elisabeth làm cho niềm vui nơi
Trinh Nữ thêm tràn đầy.
Trong kinh Ca ngợi (Magnificat), Đức Maria nhắc tới lòng thương xót của Chúa ba lần. Mỗi lần mang một chiều kích khác nhau:
–
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48)
–
“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (câu 50)
–
“Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham” (câu 55).
Qua
lời vinh tụng của Đức Maria, chúng ta thấy lòng thương xót của Chúa
thật lớn lao, vĩ đại. Mẹ đã ba lần nhắc tới lòng thương xót của Chúa.
Sau mỗi lần tuyên dương lòng thương xót của Chúa, đều có lời giải thích
đi kèm để quảng diễn ý tưởng được nêu:
–
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” cho nên “từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
–
“Đời
nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”, vì vậy mà
phường lòng trí kêu căng bị dẹp tan; người quyền thế bị hạ bệ; người
nghèo được đầy dư và người giàu trở thành tay trắng”.
–
“Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham” cho nên Người độ trì dân Israel và con cháu Ông đến muôn đời.
Chúng
ta hãy cùng với Đức Mẹ khám phá những chiều kích khác nhau của lòng
thương xót của Chúa, được diễn tả trong lời kinh tuyệt diệu này:
1- Lòng thương xót của Chúa đối với cá nhân mỗi người
Đức
Maria được tràn đầy niềm vui, khi nghe lời người chị họ chúc phúc: “Em
thật có phúc, vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói
với em” (câu 45). Chính trong tâm tình hân hoan đến mức xuất thần đó mà
Đức Maria ca lên bài tán dương Thiên Chúa. Mẹ ca tụng Chúa bằng cả con
người: linh hồn, thần trí và thân xác. Đó là ba yếu tố cấu thành con
người trọn vẹn theo quan niệm của truyền thống Thánh Kinh, như sau này
Thánh Phaolô viết: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh
hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em
được gìn giữ vẹn toàn…” (1 Tx 5,23). Đức Maria đã ca tụng Chúa vì Mẹ
được Chúa yêu thương cách riêng. Lời tán dương trên đây của Đức Mẹ có
thể được dịch nguyên ngữ như sau: “Vì Người đã cúi mình xuống trên nữ tớ
hèn mọn của Người – Il s’est penché sur son humble servante”. Cử chỉ
“cúi mình xuống” là ân huệ của một người bậc trên ưu ái đến người ở bậc
thấp hơn mình. Thiên Chúa đã “cúi mình xuống” để gặp gỡ con người và
nâng họ lên cao. Mầu nhiệm Nhập thể đã diễn tả điều đó. Đức Giêsu là
Thiên Chúa cao cả, đã hóa thành xác thịt, đã mang lấy thân phận con
người. Nhờ mầu nhiệm nhập thể mà con người được nâng lên bậc thần thánh.
Chúng ta thấy rõ điều này khi suy niệm mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời.
Người lên trời đem theo một nhân loại được cứu chuộc. Người cho phép con
người được thần linh hóa, được trở nên con Thiên Chúa và được hứa hạnh
phúc đời đời. Chúa yêu từng người trong chúng ta. Lòng thương xót của
Chúa không phải là một khái niệm mông lung, mờ nhạt, nhưng được thực thi
cụ thể nơi mỗi con người, vì Chúa là Đấng “ấn định con số các vì sao;
Người đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147,4). Đức Giêsu đã tiếp nối giáo
huấn này của Cựu ước và Người còn cụ thể hơn khi dùng hình ảnh con chim
sẻ, cánh huệ ngoài đồng hay ngay cả sợi tóc trên đầu… để diễn tả tình
thương quan phòng của Thiên Chúa. Đức Maria đã cảm nhận điều đó. Vì Chúa
thương mà Mẹ được mọi người ca tụng là diễm phúc. Đây cũng chính là lời
chào của sứ thần Gabrien khi đến gặp Mẹ để loan báo Con Thiên Chúa nhập
thể làm người. Lời chào ấy hôm nay được lặp đi lặp lại nơi môi miệng
các tín hữu, như tiếp nối lời ca của Mẹ, cùng Mẹ tán dương Thiên Chúa.
Khi
tín thác vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta trở nên những người có
phúc. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người
đã nói với em”. Chúng ta có phúc vì chúng ta tín thác vào Chúa, tin
rằng Người sẽ thực hiện nơi chúng ta những gì Người đã hứa. Thiên Chúa
hứa cho chúng ta hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta mến Chúa yêu người.
Chúng ta tin điều ấy, như Mẹ Maria đã tin, và đức tin đem lại cho Mẹ
niềm vui.
2- Lòng thương xót của Chúa đối với mọi thế hệ
Thiên
Chúa yêu thương mọi người và Người muốn cho họ hết thảy được cứu rỗi.
Tình yêu thương được thể hiện qua công trình sáng tạo. Người yêu thương
mọi tạo vật. Người yêu thương con người một cách đặc biệt, đến nỗi Người
muốn để lại dấu ấn của Người nơi khuôn mặt con người. Khi tạo dựng con
người giống hình ảnh Người, Người muốn sau này, hễ ai nhìn thấy con
người thì một cách nào đó họ nhận ra Chúa, vì họ giống Chúa, và vì Chúa
giống họ. Ý muốn làm nên một vật gì giống mình xuất phát từ tình yêu
thương và tin tưởng. Đức Maria đã cảm nhận tính phổ quát của ơn cứu độ.
Bất cứ ai thành tâm yêu mến Chúa đều có thể được Người cứu thoát và bênh
vực. Người là vị thẩm phán công tâm, dẹp tan phường gian ác, nâng cao
người khiêm nhường. Đánh đuổi người giàu có, đỡ nâng kẻ nghèo hèn… những
hình ảnh đó cho chúng ta thấy một quan niệm rất phổ biến trong truyền
thống Thánh Kinh về Thiên Chúa: Người luôn đứng về phía người nghèo,
người bị áp bức bất công, người cô thân cô thế và mồ côi góa bụa. Sau
này, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa không chỉ thể hiện qua sự
quan tâm, săn sóc, mà Thiên Chúa còn trở nên đồng hình đồng dạng với
những người đau khổ bất hạnh trong cuộc đời. Nếu từ ban đầu Thiên Chúa
đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, thì sau này Con Thiên Chúa
đã thực hiện sự “nên giống” ấy một cách kỳ diệu: Chúa đồng hóa với người
nghèo, đến nỗi ai giúp người nghèo là giúp Chúa (x. Mt 25).
Trong
tâm tình hân hoan, Mẹ Maria đã nhìn thấy một nhân loại được Chúa yêu
thương. Mẹ đã đại diện cho cả nhân loại và vũ trụ để tán dương Chúa. Khi
xác tín Thiên Chúa yêu thương mọi người, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông
và chia sẻ với anh chị em mình hơn. Bởi lẽ mọi người đều là đối tượng
của tình yêu Thiên Chúa. Để được Chúa yêu thương, chúng ta cần phải thực
thi tình mến đối với anh chị em mình. Điều này được quảng diễn qua dụ
ngôn người mắc nợ không biết thương xót. Ông chủ đã lên án con người cạn
tình này: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta,
thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta
đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). Yêu mến tha nhân là một trong
những điều kiện cần thiết để đón nhận tình yêu Thiên Chúa.
3- Lòng thương xót của Chúa đối với dân riêng của Người
Thiên
Chúa đã chọn Ông Abraham để từ ông xuất phát một dân tộc mới. Người đã
trường kỳ và kiên nhẫn để dân riêng của Người được hình thành. Chúa đã
hứa cho ông Abraham một đất để định cư. Người cũng hứa sẽ làm cho dòng
dõi ông đông như sao trên trời, như cát bãi biển. Abraham đã tin vào
Chúa. Chúa đã giữ lời hứa với Ông. Dân Do Thái tự hào vì họ là dân riêng
của Chúa. Trải qua bao thế hệ, họ vẫn luôn xác tín rằng Chúa bao bọc
che chở dân của Người. Họ cũng tin rằng chính tự dân tộc của họ mà Đấng
Thiên Sai sẽ xuất hiện.
Khi
vang lời tán dương ca ngợi Chúa, Đức Maria nhìn lại suốt bề dày lịch sử
dân tộc mình. Lịch sử ấy ghi khắc quyền năng của Thiên Chúa và sự yếu
đuối của con người. Lịch sử ấy cũng ghi lại những bất trung của con
người và lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa. Thấy được lòng bao dung
của Chúa thể hiện trong suốt bề dày lịch sử dân tộc, Đức Maria đã lớn
tiếng ca ngợi: “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ
Abraham”. Vâng, Mẹ thấy rõ nay đã đến thời Chúa thực hiện lời hứa của
Người từ ban đầu của lịch sử, khi đôi lứa đầu tiên đã bất tuân lệnh
truyền của Người. Mẹ cũng như nghe thấy bên tai lời tuyên án năm xưa
Chúa dành cho con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa
dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi,
và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Mẹ thấy rõ thời của tối tăm và tội
lỗi đã hết, nhường chỗ cho kỷ nguyên ánh sáng sắp khởi đầu. Mẹ vinh dự
được cộng tác với Thiên Chúa để Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” bước vào
trần gian. Mẹ vui mừng, vì thời của lời hứa đã đến. Chúa luôn trung
thành. Người thực hiện điều Người đã hứa, dù cho lòng người luôn bội tín
bất trung.
Giáo
Hội của Chúa chính là dân Israel mới. Nhờ bí tích Thánh tẩy, chúng ta
được tháp nhập vào dòng giống Abraham và là những người thừa kế lời hứa.
Chúng ta là những “con cháu” của Abraham. Sống giữa thế gian còn biết
bao tăm tối lọc lừa, Giáo Hội là Ánh sáng cho muôn dân, là con tàu đưa
nhân loại vượt biển cả, về bến bờ hạnh phúc và an bình. Nhìn lại những
bước thăng trầm của lịch sử Giáo Hội, chúng ta cùng với Đức Maria tán
dương ca ngợi Chúa: “Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ
Abraham và cho con cháu đến muôn đời”.
Ngay
từ rất sớm, Giáo Hội đã nhận lời kinh ca ngợi của Đức Maria như lời
kinh của chính mình. Vì thế, Thánh ca Tin Mừng này được đọc trong các
giờ Kinh Chiều, khi một ngày vừa kết thúc. Đây cũng là lúc chúng ta nhìn
lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho chúng ta trong một ngày. Và,
trước nhan Thiên Chúa, “là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình
và hết sức khoan nhân” (Tv 103,8), chúng ta cùng hát lên: “Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa…”.
Xin cho chúng ta biết cùng với Đức Maria, ngợi khen Thiên Chúa bằng cả cuộc đời.
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, 2012
+Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: WHĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét