Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi – năm B

A. BẢN VĂN (Mt 28,16-20):
16 Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
 
B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI
Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: SỨ MẠNG PHỔ QUÁT
1- Ngữ cảnh
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:
a) Sứ điệp tích cực
Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:
- bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.
- bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.
Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.
b) Sứ điệp tiêu cực 
Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do-thái.
Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do-thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do-thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do-thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do-thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);
2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):
a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).           
3- Vài điểm chú giải
- Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.
- Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” ( 10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).
Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.
- ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ) khẳng định rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác. 
- Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18;  các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).
- Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.
- Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).
Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ,  từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỉ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền (exousia) đã được Thiên Chúa ban.
- hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từ mathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).
- nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.
- Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọng idou egơ luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.
- Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras (tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ. Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).
4- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)
Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu  đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).      
Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).
Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).
Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo McMt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.   
Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.
 “Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).
Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ  (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này.  Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc 24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.
* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)
Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.
Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất. 
Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị  bây giờ và cho đến tận thế.
Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.  
Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.
Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo một cộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi ki-tô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của ki-tô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).
Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoàn Mt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do-thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do-thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện một cộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).
Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.
Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn qui về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).
Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.
Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ  “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Yhwh truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).
Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).
Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong  khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.
Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa là giúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ.  Đấng Kyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.
+ Kết luận
Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh 19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.
Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.
5- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm
Không dễ gì mà tiếp cận với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Đây là một trong những đại lễ dường như ở hơi xa đời sống chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn nhớ những bài học giáo lý khi còn bé bảo rằng Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm trọn vẹn đời sống chúng ta; và ý tưởng này vẫn cung cấp sức mạnh và sự tin tưởng cho chúng ta và nhắc chúng ta nhớ rằng đây là một thực tại sống động. Các bài Lời Chúa hôm nay có góp phần làm sáng tỏ mầu nhiệm này. Trong bài đọc thứ nhất, Môsê đã mời gọi dân chúng: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa”. Nếu tôi đi ngược lại thời gian cho đến “những thời xa xưa”, tôi cũng sẽ sống lại kinh nghiệm của dân Israel: tôi ghi nhận sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa, Đấng đã chọn lựa tôi từ thuở đời đời, rồi vẫn hiện diện trong cuộc sống thường ngày tầm thương của tôi, tỏ mình ra qua những dấu chỉ, nâng đỡ tôi trong các thử thách, bung mở các việc kỳ diệu ra trong thế giới.
2. Ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng
Khi đó, ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng, có nghĩa là trước tiên ý thức rằng lịch sử chúng ta có gốc rễ rất xa, từ bao đời vẫn ở trong tay Thiên Chúa, Ngài vẫn dẫn dắt cuộc sống chúng ta, vì trung thành với lời đã hứa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc lại rằng vị Thiên Chúa này, Đấng ban sự sống, đã thổi Thần Khí của Ngài vào chúng ta, để nhờ Thần Khí, Ngài giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và nỗi sợ hãi, và làm cho chúng ta thành conc ái Ngài, khiến chúng ta có thể gọi Ngài là Cha. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, khi đó, cũng có nghĩa là ý thức về ân huệ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho ta, để cho Ngài dẫn dắt và biến đổi đời sống chúng ta, sống kinh nghiệm tự do nội tâm, một kinh nghiệm phát sinh từ cảm nhận chúng ta được yêu thương như là những người con và là kinh nghiệm mạnh hơn mọi nỗi sợ hãi, mọi đau khổ.
3. Đức Giêsu Phục Sinh sai phái các tông đồ
Cuối cùng, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ, truyền họ ra đi và tiếp nối công trình của Người nhân danh Ba Ngôi vị thần linh, bảo đảm với họ rằng Người sẽ hiện diện với họ mọi ngày cho đến tận thế. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, cuối cùng, có nghĩa là có cặp mắt có khả năng nhận ra Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, ngay tại những nơi của đời sống mà Người cho ta làm điểm hẹn, và ra đi trong Thánh Thần, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho mỗi người, để làm cho mọi người sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa.
Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh.
“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh.
Tuy nhiên, các bản văn Kinh Thánh để lộ ra vài tiên cảm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: tầm quan trọng được ban cho Thần Khí Thiên Chúa, ngôi vị hóa dần dần của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan, nhất là trong những tác phẩm muộn thời.
Ngôi Lời Nhập Thể mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần và sự hiệp nhất của hai Ngôi Vị này với Chúa Con trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn tràn liên tục, một sự đổi trao thường hằng. Vì thế, bản tính của Thiên Chúa là sự trao ban không ngừng nghỉ. Chính nhờ tình yêu tự hiến của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần mà sự trao ban này giúp nhân loại được dự phần  vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như vậy, mặc khải Một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị là một dữ kiện đặc biệt của Ki-tô giáo, phân biệt với hai tôn giáo độc thần khác: Do thái giáo và Hồi giáo. Vào ngày lễ Chúa Ba Ngôi này, ba bài đọc lần lượt nêu bật Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đnl 4: 32-34, 39-40
Bài đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, ca ngợi sự cao vời khôn ví của Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất, siêu việt và hoàn vũ. Đây là dung mạo của Chúa Cha.
Rm 8: 14-17
Trong bài đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô cho thấy tác động biến đổi của Chúa Thánh Thần trên cuộc sống của người Ki-tô hữu.
Mt 28: 16-20
Bài đọc III là phần kết thúc Tin Mừng Mát-thêu: Chúa Con Phục Sinh công bố mình là Chúa Tể hoàn vũ, căn nguyên ơn cứu độ cho muôn dân muôn nước và thường hằng phù trợ Giáo Hội của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 32-40)
Bài đọc I được trích từ sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi là sách Đệ Nhị Luật, hay đơn giản là sách “Luật Thứ Hai”. Tuy nhiên, sách không lập lại Luật được diễn tả trong các sách trước đó (sách Xuất Hành, sách Dân Số, sách Lê-vi); sách này đánh dấu những phát triển mới để thích ứng luật vào hoàn cảnh của một dân đang định cư và thậm chí đã an cư lập nghiệp đến nỗi có nguy cơ quên ơn gọi của mình.
“Luật Thứ Hai” này, được hư cấu trên môi miệng của ông Mô-sê, muốn nói lên rằng nó chỉ là khai triển luật của ông Mô-sê. Ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa, nhưng thật ra đây là những thế hệ sau này được mời gọi trung thành với Đức Chúa của mình.
Sách Đệ Nhị Luật có chủ ý nhấn mạnh trên những nền tảng lịch sử và thần học của Luật. Đoạn trích mà chúng ta đọc hôm nay thật là có ý nghĩa về phương diện này. 
1. Nền tảng lịch sử của Luật (4: 32-34):
Bản văn rất nổi tiếng, được soạn thảo theo văn phong đầy cảm xúc, ca ngợi việc Chúa chọn dân Ít-ra-en với cung giọng nồng nàn. Việc tuyển chọn này đem lại ý nghĩa cho những đòi hỏi của Luật.
Sự kiện vài ngàn người thoát khỏi kiếp sống nô lệ bên đất Ai-cập xem ra chẳng có nghĩa lý gì trong lịch sử chung của thế giới; nhưng thật ra, đây là một biến cố độc nhất vô nhị: Thiên Chúa can thiệp minh nhiên đầu tiên vào lịch sử thánh kể từ ngày khai thiên lập địa đến nay, vì Thiên Chúa đã chọn cho mình một dân giữa muôn dân: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?”.
Lúc đó, bằng những ám chỉ, tác giả gợi lên những diễn biến của lịch sử đầy kinh ngạc này. Trước hết, tác giả nhắc nhớ biến cố chủ chốt: Thiên Chúa đã tỏ mình ra trên núi Xi-nai; mọi người đều được nghe tiếng Ngài mà không phải chết.
Chúng ta lưu ý trong diễn từ này, ông Mô-sê không nói lên kinh nghiệm của riêng mình nhưng kinh nghiệm của dân chúng về Thiên Chúa. Quả thật, đó là một viễn cảnh rất hiển nhiên trong sách Đệ Nhị Luật: dân Ít-ra-en được xem như một cá thể, một chủ thể duy nhất, đồng nhất với chính mình qua muôn thế hệ.
Tiếp đó, người kể chuyện còn đi ngược dòng thời gian lên đến cuộc ra đi khỏi đất Ai-cập: “Hoặc có vị thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dùng cách tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đỡm, như Đức Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” Chúng ta có thể nói Thiên Chúa đã “bứng” dân Do thái khỏi đất Ai-cập để làm thành dân riêng của Ngài.
- “đã dùng bao thử thách” ám chỉ đến những gian truân vất vả trong sa mạc: đói khát, mệt mõi, lang bạc rày đây mai đó, vân vân
- “dấu lạ, điềm thiêng”: nào là nước phun vọt ra từ tảng đá, bánh man-na rơi xuống từ trời, chim cút rơi trên mặt đất, vân vân.
- “chinh chiến”: tác giả dành một chỗ lớn cho những cuộc chiến; ông vừa mới kể dong dài cuộc chinh phục đầy gian khổ ở bên kia sông Gio-đan; ông bày tỏ lý tưởng quốc gia chinh chiến, mà ông biết làm cho nó đồng hiện diện với lời dạy về một tôn giáo nội tâm.
- “đã dùng cánh tay mạnh mẽ uy quyền”: đây là kiểu nói “như nhân”, kiểu nói này diễn tả vừa tính chất siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng hoàn toàn khác, vừa tính cách rất mực gần gũi của Ngài: Đấng làm cho mình trở nên gần gũi với nhân loại hơn, trở nên sống động với dân Ngài hơn. Đây cũng là cách thức nhấn mạnh sự bất lực và tính bất tất của các thần linh ngoại giáo.
Sau cùng, tác giả ngược dòng thời gian xa hơn nữa khi ám chỉ đến những chiến công gây kinh hoàng mà Thiên Chúa đã làm tại Ai-cập, nghĩa là những tai ương giáng xuống trên dân Ai-cập để buộc Pha-ra-ô phải để cho dân Do thái ra đi.
Sau khi Thiên Chúa đã bày tỏ biết bao ân cần của Ngài đối với dân, làm thế nào dân Chúa chọn có thể lại bất trung với Ngài được chứ?
2. Nền tảng thần học của Lề Luật (4: 39-40)
“Hôm nay đây, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này”. Những lời này hình thành nên lời khuyên bảo đạo lý đầu tiên tiêu biểu trong toàn bộ sách này. Tôn giáo mà sách Đệ Nhị Luật dạy không quy chiếu đến việc tuân giữ Lề Luật chi li, nhưng kêu gọi đến những tư thế sẳn sàng nội tâm và tình yêu đối với Thiên Chúa.
Vị Thiên Chúa này, hiện diện trong lịch sử, chính là Đấng Sáng Tạo, Ngài ngự trị “trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có Thiên Chúa nào khác”.
Lời nhắc nhở đến “Độc Thần giáo tuyệt đối” chắc chắn là cần thiết vào lúc này. Một phần sách Đệ Nhị Luật xem ra đã được các thầy Lê-vi thuộc vương quốc miền Bắc soạn thảo kể từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, vào thời kỳ bội giáo của vương quốc này; nhưng rồi vào thế kỷ tiếp sau đó, vương quốc miền Nam, đến phiên mình, phạm tội thờ ngẫu tượng. Lời khẳng định về Thiên Chúa chân thật, duy nhất và siêu việt, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đòi hỏi phải vâng phục và yêu mến Ngài, chính là lời nhắc nhở thần học căn bản, đối mặt với những việc cúng tế đa thần giáo của dân Ca-na-an.
“Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành”. Từ “hôm nay” của sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh giá trị thường hằng của những huấn lệnh Thiên Chúa. Tuân hành chúng là nguồn phúc lộc ở dưới thế này: “hạnh phúc và trường thọ”. Vào thời này, trong Kinh Thánh chưa có những viễn cảnh về những ân thưởng bên kia nấm mồ.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 14-17)
Thánh Phao-lô viết thư này từ Cô-rin-tô, vào mùa xuân 57-58, để chuẩn bị cho cuộc hành trình đến Rô-ma. Tuy nhiên, dự định đã không thành vì thánh nhân bị bắt vào mùa xuân năm sau ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong cảnh giam cầm mà thánh nhân bị giải đến thủ đô của Đế Quốc vào đầu năm 61.
Trong những thư của thánh Phao-lô, thư gởi các tín hữu Rô-ma là thư dài nhất và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Sau bức tranh ảm đạm về nhân loại bị giam hãm trong tội lỗi, thánh nhân phác họa một bức tranh đầy an ủi về việc nhân loại được tái sinh và sống theo Thần Khí. Đây là chủ đề của chương 8 này.
1. Ơn nghĩa tử:
Thánh nhân ngỏ lời với những người chịu phép rửa, nhờ phép rửa, họ trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh nhân khích lệ họ sống cho xứng đáng với phẩm chất này và mời gọi họ sống cuộc sống nội tâm, một cuộc sống cho phép họ lắng nghe Thần Khí, vì Thần Khí sở hữu quyền năng biến đổi.
Như vậy, Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử chứ không trở thành nô lệ. Vào thời đại này, sự sánh ví này rất hùng hồn. Người nô lệ là người không có quyền lợi gì, không sở hữu bất cứ điều gì, sống trong nsợ hãi ông chủ của mình. Chỉ có người con mới có thể ngỏ lời với cha mình “Cha ơi!” trọn một tấm lòng yêu thương và tin tưởng.
2. Đồng thừa kế với Đức Ki tô
Người con chẳng những chắc chắn hưởng được lòng yêu thương trìu mến của cha mình, mà còn có quyền thừa kế nữa. Người Ki-tô hữu là con cái của Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, Con Một của Thiên Chúa; và với Đức Ki-tô, họ trở nên đồng thừa tự những thiện hảo của Nước Trời. Một viễn cảnh như thế thì trái với pháp lý Do thái, nhưng hợp với luật Hy-lạp và Rô-ma, người con nuôi được hưởng quyền thừa kế như người con ruột. Như vậy, thánh nhân nhấn mạnh ơn ban nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần.
Nhưng nếu ơn nghĩa tử này làm cho người Ki tô hữu nên anh chị em của Đức Ki-tô, thì nó lôi kéo họ vào trong những gian truân và cái chết của Ngài, trước khi cho họ được dự phần vào vinh quang của Ngài. Thánh nhân không làm dịu đi sứ điệp của mình.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Chính trên hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ này mà sách Tin Mừng Mát-thêu kết thúc: trên một ngọn núi thuộc miền Ga-li-lê, Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho nhóm Mười Một, họ phủ phục dưới chân Ngài. Ngài mặc khải quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài và truyền lệnh cho họ loan báo Tin Mừng cho khắp thiên hạ, bằng cách đảm bảo với họ ơn phù trợ của Ngài.
Thánh Mát-thêu không tường thuật bất cứ lần hiện ra nào của Đức Giê-su với nhóm Mười Một này sau khi Ngài sống lại ngoại trừ lần hiện ra này, bởi vì thánh ký tập trung chứng từ về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những lời căn dặn sau cùng của Ngài vào cuộc gặp gỡ duy nhất này. Như vậy, biến cố này mang lấy một chiều kích đặc biệt.
1. Miền Ga-li-lê.
Sự kiện xảy ra ở miền Ga-li-lê. Chính ở đó mà Đức Giê-su đã ba lần hẹn gặp các Tông Đồ của Ngài. Lần thứ nhất, Ngài đã báo trước việc thánh Phê-rô sẽ chối Ngài và các ông sẽ vấp ngã vì Ngài: “Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (26: 32). Lần thứ hai vào buổi sáng Phục Sinh, sứ thần đã nói với các người phụ nữ: “Các bà…mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (29: 7). Lần thứ ba, Đức Giê-su đã lập lại cùng một sứ điệp: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (28: 10). Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê này, trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Thánh Mát-thêu không thích thành đô Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, vì thế thánh ký dành cho miền Ga-li-lê sứ điệp tối thượng của Đức Giê-su.
Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, ngọn núi nào chẳng quan trọng gì: ngọn núi chỉ là biểu tượng. Không phải lời dạy về các mối phúc được vang lên trên núi sao?
2. Họ phủ phục
“Khi thấy Người, các ông phủ phục, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”.
Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh sóng đôi với những hoạt cảnh mà ở đó thánh Mác-cô và thánh Lu-ca mô tả những hoài nghi như thế: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em ngờ vực…” (Lc 24: 36).
Đức Giê-su tiến lại gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi đã trấn an họ, Ngài cho họ dự phần vào vinh quang của Ngài và trao phó cho họ sứ mạng tối hậu của Ngài.
3. “Thầy đã được trao quyền trên trời dưới đất”
Quyền thống trị hoàn vũ này đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo về một nhân vật mầu nhiệm với tược vị “Con Người” rồi: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
Tiếp đó, Đức Giê-su trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Đây là một trong những ghi chú về Thiên Chúa Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu. Quả thật, phép rửa của Chúa Giê-su đã bày tỏ Ba Ngôi Thiên Chúa: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 16-17).
Chính ở dưới dấu hiệu Ba Ngôi Thiên Chúa này mà phép rửa Ki-tô giáo được ban cho. Biểu thức mà thánh Mát-thêu trích dẫn là biểu thức Phép Rửa được Giáo Hội dùng rất sớm. Trong chứng liệu rất cổ xưa thuộc cuối thế kỷ thứ nhất, sách “Didaché” (hay “Đạo lý của Mười Hai Tông Đồ”), sưu tập giáo lý và phụng vụ, chúng ta gặp thấy những hàng này: “Khi phép rửa bởi việc dìm mình vào trong nước không thể, phải rửa trong nước thông thường bằng cách đổ nước ba lần trên đầu nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Didaché 7, 3). Biểu thức Ba Ngôi của thánh Mát-thêu càng quý hơn nữa nếu chúng ta so sánh với biểu thức của thánh Phao-lô: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 3; Gl 3: 27), hoặc “Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí” (1Cr 12: 13), hay với sách Công Vụ: “Họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su” (Cv 8: 16; 19: 5).
4. “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”
Chúng ta nên lưu ý rằng trong diễn từ này Đức Giê-su nói theo cùng uy quyền và hầu như với cùng những ngôn từ như Đức Chúa của sách Đệ Nhị Luật mà ông Mô-sê nhắc lại sự cao vời khôn ví của Ngài và truyền đạt sứ điệp của Ngài: “Trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Thiên Chúa nào khác. Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành…”.
5. “Còn Thầy, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Ở đây, Chúa Giê-su không nói như một lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em”, nhưng như một lời khẳng định: “Thầy ở cùng anh em”. Đây là một lời khẳng định tuyệt vời nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử mà dân Ít-ra-en đã được hình thành và được phù trợ. Đó cũng lời khẳng định hình thành nên dân Thiên Chúa mới, tức Giáo Hội, được đảm bảo bởi sự phù trợ của Đức Ki-tô mọi ngày cho đến tận thế.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng, thánh ký, rất nhạy bén trước chiều kích phổ quát của ơn cứu độ, hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh mênh mông về cuộc hoán cải của muôn dân.

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: Mười một môn đệ đi tới miền Galilê

Riêng câu này cũng đủ nói cho chúng ta biết “Giáo Hội là ai”. Đó là Hội Thánh của những quốc gia ngoại giáo. Những môn đệ được chính Chúa Giêsu mời gọi rời bỏ Giêrusalem (Mt 28,7), cho đến lúc bấy giờ vẫn là trung tâm địa lý của Đức Tin, nơi Thiên Chúa hiện diện. Theo Thánh Matthêu, không có sự hiện ra “chính thức” với các tông đồ tại Giêrusalem. Chúa trao phó sứ mạng cho các phụ nữ một cách riêng tư, Người triệu tập các tông đồ đến “miền Galilê của chư quốc”, một tỉnh có nhiều dân tứ xứ vãng lai – Hội thánh bắt đầu tại Galilê, vùng này thay thế cho Giêrusalem và trở thành trung tâm phát triển của cộng đoàn mới. Trong những chương đầu, Matthêu cho thấy tính cách bí nhiệm của các “Đạo sĩ phương Đông”, họ đến từ những vùng ngoại giáo, sấp mình thờ lạy Giêsu Hài Nhi, trong khi đó, Giêrusalem lại không đón tiếp Người.
Phải chăng tôi có quan niệm như thế về Giáo Hội?
Một Giáo Hội mở rộng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới, chứ không đóng kín trong những bức tường.
Đến những ngọn núi Chúa Giêsu đã hẹn với các ông
Chữ “Eklésia”(Giáo Hội) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tập họp những người được triệu tập”. Kitô hữu là những người được Đức Giêsu Phục Sinh triệu tập. Mỗi Chúa Nhật khi đến với Bí tích Thánh Thể, tôi có ý thức rằng, không phải tôi có sáng kiến này, mà Đức Giêsu đã triệu tập tôi. Tôi đáp lại lời mời trước tiên, đức tin của tôi không phải là một mớ kiến thức, mà là sự đáp trảvới đấng đã kêu gọi tôi “trên núi”.
Trong Tin Mừng của Matthêu, người ta không bao giờ nói núi đó là núi nào. Nhưng trái lại, phải chăng là tình cờ, núi là địa điểm tốt nhất cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Chính ở trên “núi cao”, Đức Giêsu đã tuyên bố diễn văn khai mạc tức là “Bài giảng trên núi”(Mt 5,1–8,1). Người cũng đã cầu nguyện, hoá bánh ra nhiều và biến hình trước mặt các tông đồ của người ở trên núi cao.
Tôi để biểu tượng này in sâu trong tôi.
Tôi để cho Đức Giêsu triệu tập tôi trên núi cao.
Tôi chấp nhận mở rộng nhãn giới của tôi. Phong cảnh Đức Giêsu mời gọi tôi thật hùng vĩ.
Người ta thoải mái hít thở không khí ở trên đỉnh cao.
Khi thấy Người các ông sụp lạy
Đó là cử điệu Phụng vụ mà những người trẻ sẽ thực hiện lại, và dân chúng phương Đông thường làm một cách tự phát: Nằm dài trên mặt đất hay ít nhất là cúi rạp, trán chạm đất. Đây là cử chỉ tôn thờ long trọng. Cử điệu cao quí nhất mà con người có thể làm hiện được. Trong tin mừng Thánh Matthêu, sự sụp lạy này cũng được các tông đồ thực hiện trong chiếc thuyền, khi thuyền đã được cứu khỏi cơn phong ba bão táp (Mt 14, 33). Đó cũng là cử điệu của ba nhà Đạo sĩ ngoại giáo (2,11), của người bệnh phong (8,12), và của một phụ nữ Canaan, một người ngoại đạo khác (15,25).
Tôi có bao giờ thờ lạy như thế không? Nghĩa là thầm lặng suy niệm về sự oai nghi của đấng đang ở trước mặt tôi chăng?
Nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần
Giáo Hội dâng lễ tế để tôn thờ Thiên Chúa vẫn còn là một Giáo Hội của những người tội lỗi. Đức tin của những con người. Đức tin của những tông đồ đầu tiên (cũng như đức tin của chúng ta) vẫn còn là một đức tin pha trộn hoài nghi và nước đôi, đó là một đức tin còn đang di hành. Giáo hội đón tiếp Đức Giêsu vẫn là một Giáo Hội của những người “yếu đức tin” (Mt 14,31), bị hư mất một người, chỉ còn 11 trong số 12 người đã được chọn. Đức Giêsu không ngạc nhiên về điều này. Người đến gần họ như ngày người đã biến hình (Mt 17,7). Lạy Chúa xin hãy đến. Xin Chúa hãy đến gần hơn. “Maranatha”. Lạy Chúa xin thương xót chúng con và tất cả những người đã không tuyên xưng Đức tin một cách hoàn toàn và rõ ràng. Xin Chúa thương xót biết bao bạn trẻ, biết bao con người thời nay “không đạt đến đức tin”. Xin Chúa thương xót con, vì đôi khi đức tin của con cũng hoài nghi.
Người nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi đến muôn dân và kết nạp môn đệ… Dậy họ tuân giữ những điều răn… Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời của Đức Giêsu phục sinh nói trên đây oai nghi biết bao!
Sau cuộc sống khiêm nhường thành Nagiarét, giờ đây sự thật đã tỏ lộ. Bên ngoài, đây có vẻ như là tramg cuối của một câu truyện, giai đoạn kết thúc của cuộc sống một con người, nhưng thực ra đây là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong các thời đại, không thể giải thích được bằng những tiêu chuẩn bình thường của lịch sử.
Chúng ta nên lưu ý đến tầm quan trọng của tất cả tĩnh từ “tất cả, toàn thể” đã được lập lại tới bốn lần. Nhắc lại bốn lần từ “toàn thể”, nhắc lại bốn lần từ “trọn vẹn” là để biểu lộ hành động của Đức Giêsu. Đó là tính trọn vẹn – toàn diện trong hành động của Thiên Chúa, Đấng đã chấp nhận thân xác trong toàn diện hành động của con người, theo suốt dòng thời gian trôi chảy! Nên đọc lại tư tưởng của Cha Teihard de Chardin. Dưới đây là là một trích đoạn: “xét về mặt vật lý, Đức Kitô là Đấng choán phủ tất cả: Không có một yếu tố nào trong vũ trụ, vào bất cứ một giây phút nào của trần gian, chuyển hành mà lại không di chuyển, và không bao giờ được vận hành ngoài tầm hướng dẫn của Người cả. Không gian và thời gian đã ngập đầy sự hiện diện của Người. Cũng xét về mặt thể lý, Đức Kitô là Đấng “tiêu thụ” tất cả: trọn vẹn vũ trụ chỉ được hoàn tất trong một tổng hợp cuối cùng, mà ở đó có một ý thức siêu việt sẽ biểu lộ trên mọi yếu tố phức tạp cho dù đã được cấu tạo một cách tuyệt vời. Mọi con người sẽ hội tụ và cùng kết nối lại với nhau trong Người. Chính Đức Kitô sẽ tạo cho toàn bộ công trình vật chất và tinh thần độ bền vững mãi.
Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha chỉ là “Cha”, vì Người quên mình hoàn toàn, để chuyển trọn vẹn sang Ngôi Con. Chúa Con chỉ là “Con” vì Người quên mình để trọn vẹn “tự hiến dâng” cho Chúa Cha – Chúa Thánh Thần sẽ không là gì cả nếu Người không phải là tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, Thiên Chúa là Tình yêu.
Chương trình lớn lao của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã giao cho các tông đồ, cho Giáo Hội, nhằm “nhận dìm” (đấy là nghĩa chữ Hy Lạp baptizô) nhân loại trong tương quan tình yêu liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Dấu” rửa tội đúng là dấu Thánh Giá; đó là “cuộc sống cho tha nhân”. Chúng ta được rửa tội nhân danh tình yêu. Chúng ta được “nhận dìm” trong nguồn tình yêu đó – Đấy là “chương trình” của Giáo Hội.
Đôi khi người ta tự hỏi Đức Giêsu đã muốn sáng lập Giáo Hội nào? Chắc chắn, Đức Kitô đã không nghĩ đến nước Vatican, đến các vị Giám mục đội mão, đến những văn phòng hành chánh, những kiến trúc tôn giáo hay những nghi lễ trọng thể của Giáo Hội, giống như những triều đình vua chúa ngày xưa.
Nói điều này để chúng ta đừng đóng khung Giáo Hội sống động trong những bộ mặt trần thế mà Giáo Hội đã có trong một số thời đại. Điều Đức Kitô muốn đó là “Tập hợp tất cả mọi người trong tình yêu” – Chúa là tình yêu – Chúa là cộng đồng những người thương yêu nhau tronh hiệp nhất của Chúa Thánh Thần – phải tìm điều cốt yếu của Giáo hội trong bản tính của Chúa Ba Ngôi.
Những người thấy tôi sốt sắng, tôi được “nhận dìm”, “được rửa tội” trong Chúa Ba Ngôi tình yêu, những người quan sát những nhóm mà tôi đang sống: Gia đình, nhóm làm việc với tôi, họ có thể cảm thấy “tôi đã được rửa tội nhân danh ai”?
Anh em hãy dạy bảo họ giữ những điều Thầy đã dạy cho anh em.
Đức Giêsu đã truyền dạy những điều răn nào? Đó là giới răn tình thương. “Người ta sẽ nhận các con là môn đệ của Thầy, ở điều này, nếu các con yêu thương nhau”. Không phải cứ được rửa tội là đủ – phải tỏ ra là “môn đệ” của Đức Giêsu bằng mọi hành động trong cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, giáo lý không phải là một bài phải học mà là một tập luyện sống “theo tình thương”
Và đây; Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời hứa “Thầy ở cùng” trên đây rất mạnh nghĩa. Cũng như trong Tin Mừng Thánh Gioan, ta đoán nhận ra trong lời phát biểu đó, cung cách của “Giavê”trong Cựu ước. Hơn nữa, theo lối hành văn của người Sêmít, ở đây ta nhận thấy, để kết thúc Tin mừng của mình, Matthêu đã lập lại tư tưởng đã đề cập ở đầu sách: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi báo tin cho Thánh Giuse (Mt 1,23), Thiên sứ đã nói con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel, vậy mà Thánh Giuse đã đặt tên Chúa là Giêsu: Nhưng trong dòng cuối của Tin Mừng, Thánh Matthêu đã giải thích bí mật này: Đức Giêsu Phục sinh, chính là “Chúa ở cùng chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa”.

Bài 4. Chú giải của Fiches Dominicales: HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA, VÀ CHÚA CON, VÀ CHÚA THÁNH THẦN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu
Đây là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra.
Thực vậy, trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về “Emmanuel”, “Thiên Chúa với ta” (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào Đức Kitô và họ sấp mình thờ lạy người”.
Trong đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuật lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ: “Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền giáo cho “tất cả các dân tộc”, và người long trọng tuyên bố với họ: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
J. Radermakers chú giải: “Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đọan mở đầu; đó là một bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời gian và không gian” (Au fil de l’évangile selon saint Matthieu, lnstitut d’etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).
2. Một đoạn kết dưới hình thức mở ra
Sau phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ không phải ở Giêrusalem, thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là “Galilê” bị khinh miệt, “nơi qui tụ các dân”. (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới dân ngoại.
“Cũng thế Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức tin, để lên đường đi tới “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa là Giáo Hội cho trần gian”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức Giêsu sẽ định rõ sau này” (“Cahiers-evangile” số 9, trang 6).
Nơi mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là “ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa.
Claude Tassin chú thích: “Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời ngọn núi biến hình nơi vinh quang Con Người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa” (Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303).
- Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng kính trọng mang màu sắc tôn giáo và phụng vụ như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và Maria, mẹ Người (2,2-8.1 1), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25).
Tuy thờ lạy nhưng họ vẫn còn “hoài nghi’, niềm hoài nghi, theo Jean Radermakers, “là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động”.
- Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần và các môn đệ sấp mình thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển được tôn vinh, được trao quyền tối thượng xét xử toàn thế giới (Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền này trở thành hiện thực.
Những lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn trong sứ mệnh của người; một sứ mệnh từ nay Người tiếp tục Giáo Hội.
+ “Hãy đi…! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các “chiên lạc nhà Israel”. Từ nay, Người phá huỷ biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh người” (Mt 12, 18 -21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn kết, Tin Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát ấy cho Giáo Hội của Người.
Claude Tassin nhận xét: “Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không phân biệt. Vì Đức Giêsu có “mọi quyền năng”, nên mọi người được mời gọi đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì? Các môn đệ hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; nhũng ai cảm thấy giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi cuộc đời mình. Hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác, “dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn” của Đức Giêsu gồm tóm trong luật duy nhất: tình yêu” (O.C., trang 304).
+ “Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha: và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng đoàn những người, nhờ bí tích rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ đâm rễ sâu vào một gắn bó chung “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Tạp chí “Célébrer” số 269 nói: .”Công thức nhân danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân ước. Những bản văn khác nói về phép rửa “nhân danh Đức Giêsu” hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần”. Tuy không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh Matthêu phụ trách. Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa:
+ “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J. Radermakers nhận xét: “Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí tích Rửa tội và về phương diện nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý không gì khác hơn là Tin Mừng biến thành hành động” (Sđd, trang 365).
+ “Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn ở đoạn kết Tin Mừng, Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tên người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.
J. Potel kết luận: “Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội ở mọi nơi, cho đến tận cùng thời gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: khi có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, Thầy sẽ ờ giữa họ, (Mt 18,20). Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian” (“Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, Centúrion, 1994, trang 516).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội
(Mgr. L.Daloz, “Nước Thiên Chúa đã đến gần”, Centurion-duculot, tr. 385).
Hình thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: “Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội. Không có ba yếu tố đó sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa: nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua: “Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với ta”.
2. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho ta biết Người ở “với ta”
(Báo Fêtes et Saisons số 496, “Ba Ngôi Thánh”, trang 31).
Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người sáng tạo, hay đúng hơn từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu nhiệm như thế – Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế giới mà người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên Chúa Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế. Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô vàn khác biệt và siêu việt dường nào.
Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết Người ở “với ta”. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa ta trần gian. Như cuộc đời Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần gian và với anh em ta; hình ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.
3. Được mời gọi đến khám phá Thiên Chúa hàng sống và chân thật
(Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf trang 50-52).
Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng ta. Nếu ta có đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người, cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống được yêu như những người con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con riêng của Người.
Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con” (Rm 8,22), nhưng vẫn “giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát” (Rm 8,20-21).
Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời, qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải thoát khỏi sự dừ và sự chết (x. Rm 8, 22-23) .
Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu đó .
Đứng trước mạc khải về chiều sâu của Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức nhưng yếu tố cơ bản của kinh “Credo” là không đủ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Người, nhận biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô.
Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều cần đến Giáo Hội nhu cầu nơi để đọc chăm lo bú mớm, nơi cảm nghĩ đức tin bén rễ. Thực vậy, Giáo Hội không ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không chỉ là một nhóm các bạn hữu Đức Kitô hoặc hiệp hội nhưng người tưởng nhớ đến Người.
Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là “bí tích trong Đức Kitô. Nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium 1).
Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với họ.

Bài 5. Chú giải mục vụ của Claude Tassin: CHÚA GIÊSU GẶP GỠ VÀ SAI PHÁI CÁC MÔN ĐỆ NGÀI

Các phụ nữ đã chuyển giao hoàn thành xong sứ điệp bởi vì hiện giờ các môn đệ đang tụ họp cho cuộc gặp gỡ tối hậu đầy trang trọng. Chúng ta hãy cố gắng hiểu cho được tình cảnh của Matthêu khi ông đặt bút soạn thảo chương kết này. Các truyền thống mà Matthêu cậy dựa đều phù hợp với nhau về sự kiện Đức Giêsu đã hiện ra ở Galilê; tuy nhiên không một truyền thống nào đã bảo tồn các trình thuật về những cuộc hiện ra ở Galilê này. Bỏ qua một bên mọi tưởng tượng, tác giả Phúc Âm phải xây dựng sứ điệp mình dựa trên các mô hình Kinh Thánh về việc soạn thảo (a) và trên các chất liệu được Giáo Hội ông nhận biết (b).
1) Ở đây Matthêu sử dụng nhiều mô hình, tuy nhiên lược đồ nền tảng là lược đồ các sắc chỉ vương triều được xây dựng như sau:
Ta đã nhận lãnh quyền hành như thế.
Vậy Ta truyền…
Như vậy các lời nói của Đấng Phục Sinh được soạn lại như sau:
a) “Mọi quyền hành đã được ban cho Ta” (c.18)
b) Vậy, các con hãy đi… (c.19-20a)
Sự lựa chọn này không phải là ngẫu nhiên: Kinh Thánh Hy Bá Lai mà tác giả Phúc Âm sử dụng đã kết thúc chính xác (2Sb 36,23) bằng một sắc chỉ vương triều giống thế, sắc chỉ của vua Cyrus. Hình bóng của Đấng Mêsia trong truyền thống Do thái thời xưa (x. Is 45,1). Như thế, Matthêu đã mở đầu tác phẩm của mình bằng cách nói về “Sách Sáng Thế” (1,1) và kết thúc bằng lời ám chỉ đến câu cuối cùng trong Cựu Ước: Lịch sử Chúa Giêsu hoàn tất tất cả lịch sử Thánh Kinh.
2) Về mặt chất liệu, hầu như ở mỗi lời trong 5 câu này, đều thấy có can dự đến một bản mục lục gồm những chủ đề lớn được Matthêu khơi động dọc suốt Phúc Âm của ông. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong một Giáo Hội đầy sợ hãi, nơi mà các thành viên gốc Do Thái vẫn còn nghĩ rằng phải tập trung chú tâm mình “các con chiên lạc nhà Israel”, có thể là các Kitô hữu khác, dày dạn hơn, tự nuôi sống mình bằng khẩu hiệu này “kêu gọi dân ngoại (bất cứ ai) trở thành môn đệ; tháp nhập họ (ngay cả nhóm người của Gioan Tẩy Giả) bằng phép Rửa tội Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chia sẻ cho họ tất cả những gì Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta” (c. 19-20). Đây chính là chương trình của Giáo Hội! Trong đoạn kết, Nhân Danh Chúa Kitô, Matthêu đã đưa ra lý do bênh vực cho sự bảo trợ chí nguyện này và hun đúc lại lòng can đảm của những kẻ đang co rúm lại. Tuy nhiên, để kết thúc, cần phải nhớ lại chính bản văn của tác giả Phúc Âm, bản văn ấy còn sung mãn hơn cả những nỗ lực làm sáng tỏ này.
Các câu 16-17 cung cấp bức khung những lời cuối cùng của Đấng Phục Sinh. Như Luca thì hẳn đã diễn tả rằng nhóm tông đồ bây giờ là nhóm Mười Một (tông đồ). Đang khi đó, trung thành với chính mình, Matthêu lại nói đến mười một môn đệ: vào lúc được Chúa sai phái, họ vẫn luôn luôn là các “học trò”, đây quả là một ý tưởng quan trọng đối với các khái niệm thừa sai của tác giả Phúc Âm.
Galilê biểu tượng thế giới dân ngoại, mặc lấy trọn vẹn ý nghĩa của nó qua việc Chúa sai phái các môn đệ đi toàn thế giới, điều này sắp sửa dội vang. Tuy nhiên, chính xác hơn cuộc gặp gỡ đã xảy ra ở “trên núi”. Tựa như một chuỗi nối tiếp quyện vào nhau, người ta thấy lại ngọn núi nơi trước đây ma quỷ đã phô bày cho Chúa Giêsu mọi vương quốc của trái đất, ngọn núi “Bát Phúc” nơi Chúa Giêsu đã công bố Hiến Chương Nước Trời và ngọn núi “biến hình” nơi vinh quang của Con Người từng toả sáng, và trên tất cả những thứ đó là bóng hình ngọn núi Nêbô (Đnl 34) nơi Môsê nói lời vĩnh biệt khi dân tộc ông sắp bước vào miền đất hứa.
Quang cảnh cuối cùng trước đây các môn đệ để lại là quang cảnh họ bỏ trốn chạy (26,56); còn giờ đây họ đang phủ phục trước Chúa Giêsu; “Tuy nhiên, vài người vẫn còn hồ nghi” nên vẫn chưa thực hiện được hành trình đức tin dẫn họ đến niềm vui không pha tạp (x. 28,8). Mô hình ngờ vực là một yếu tố truyền thống thường thấy trong các trình thuật Chúa Phục Sinh hiện ra, yếu tố này lẽ ra buộc Đấng Phục Sinh phải giúp các môn đệ nhận ra Ngài cũng như Ngài phải trấn an họ, tuy nhiên ở đây Chúa Giêsu đã không hề làm như thế. Ngày xưa Ngài đã từng nói với Phêrô “Hỡi kẻ kém lòng tin, tại sao ngươi lại nghi ngờ?” (14,31). Đức tin vẫn mãi mãi đòi ta phải liều và chính trong ‘hành động’ thừa sai (c.19-20) các môn đệ mới có thể chiến thắng nổi những ngờ vực của họ.
Ở câu 18, người ta nhớ lại vào cuối Kinh Thánh Hy Bá Lai, vua Cyrus đã tuyên bố: “Chúa là Thiên Chúa, Ngài đã ban cho tôi tất cả vương quốc trên mặt đất” (2Sb 36,23). Và lớn lao hơn chính quyền năng trên trời được thông ban cho Con Người mầu nhiệm trong sách Daniel: “Người được Thiên Chúa ban cho mọi quyền hành… mọi dân tộc sẽ phụng sự Người… quyền hành muôn thuở” (Dn 7,14). Ở đây không hề thấy một quang cảnh hùng vĩ, tuy nhiên qua bức tranh cuộc phán xét cuối cùng (25,31) được gợi lại Chúa Giêsu quả quyết rằng kể từ nay Thiên Chúa đã trao ban cho Ngài vương quyền hoàn vũ này.
“Vậy” (c.19) “các ngươi hãy đi chiêu mộ môn đồ từ mọi dân tộc”. Chúa Giêsu không nhấn mạnh đến từ “Đi” cũng không nhấn mạnh đến sứ mệnh chinh phục mặt địa lý mà nhấn mạnh đến việc mở lòng đón nhận tất cả mọi nhóm người không phân biệt. Bởi vì Chúa Giêsu nắm trọn quyền hành, cho nên mọi người đều được mời gọi sống dưới quyền hành của Người. Đối với Matthêu, sứ mệnh là gì? Là các môn đệ đi chiêu mộ kẻ khác trở thành môn đệ, là mọi người nam cũng như nữ sau khi cảm nghiệm rằng lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc hiện sinh của họ sẽ đem chia sẻ kinh nghiệm đó với kẻ khác “dạy cho họ giữ tất cả mọi huấn lệnh của Chúa Giêsu” được tóm gọn lại trong chỉ một lề luật yêu thương.
Tuy nhiên sứ mệnh đó không phải là sự triển khai một ý thức hệ, dù rằng cao đẹp mấy đi nữa. Nó không ngừng đòi hỏi phải tạo ra một cộng đoàn, gồm những người; qua nghi thức Rửa Tội, muốn ghim chặt mối dây liên đới với nhau trong một tuỳ thuộc chung: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (c.19). Đây là công thức mầu nhiệm Ba Ngôi duy nhất trong Tân Ước nói về phép Rửa Tội “Nhân danh Chúa Giêsu” hay “Trong Thánh Linh”. Danh xưng Ba Ngôi ở câu 19 chắc chắn phát xuất từ Phụng Vụ Thánh Tẩy đang thịnh hành trong Giáo Hội của Matthêu. Tác giả Phúc Âm sẵn sàng chấp nhận danh xưng này và qua đó ông đưa độc giả mình về lại với tất cả những gì họ đã học biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh suốt những trang Phúc Âm của ông.
Trong một cách thức nào đó, Đấng Phục Sinh đã kết luận như sau: “Các ngươi còn ngờ vực”, vậy hãy liều thân đi phục vụ mọi người. Khi thấy họ quay về với đức tin bấy giờ các ngươi sẽ khám phá rằng thực sự “mọi quyền hành đã được ban cho Ta” và nhất là các ngươi sẽ khám phá ra rằng chính Ta, Ta luôn ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế (c.20). Suốt dòng lịch sử, Đấng Phục Sinh vẫn luôn mãi là Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23): Như thế phần đầu và phần cuối Phúc Âm đã phúc đáp cho nhau, ngoài ra dòng Phúc Âm đầu tiên (1,1) ghi nhận: “Các nguồn gốc”; sự khởi nguyên còn dòng Phúc Âm cuối cùng nhắc đến “Thế mạt” (28,20): Bản thân Chúa Giêsu thâu tóm toàn lịch sử nhân loại; Tuy nhiên kể từ “ngày đầu tiên trong tuần” (28,1) tức buổi sáng Phục Sinh, lịch sử này đã tháp nhập vào đó sự dấn thân và chứng ngôn của Kitô hữu.

C. CÁC BÀI CHIA SẺ
Bài 1. Ba Ngôi đều chỉ hành động cho ta và chỉ muốn yêu ta
Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Chúa nhật trước, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay, chúng ta mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Liên lạc, tương quan giữa hai ngày lễ có thể tìm thấy ngay trong bài đọc II hôm nay. Thánh Phaolô quả quyết: chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử và trong tinh thần ấy chúng ta kêu lên rằng Abba, lạy Cha. Vì chính Thánh Thần làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Như vậy theo thánh Phaolô, chính Thánh Thần khi ngự xuống lòng ta, đốt lửa mến Chúa lên trong lòng ta khiến ta tự nhiên gọi Thiên Chúa là Cha. Rồi trong một đoạn thư khác, thánh Phaolô lại viết: cũng như trong con người chúng ta, chỉ có một tinh thần chúng ta mới hiểu biết được những sự thâm sâu ở trong mình; thì cũng vậy, chỉ có Thánh Thần mới hiểu biết được mầu nhiệm sâu xa nơi Thiên Chúa. Thế mà Thánh Thần đã hiện xuống trên chúng ta, hành động nơi tâm hồn chúng ta, nên sau lê Chúa Thánh Thần Hiện xuống, chúng ta mừng lễ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi thật là phải lẽ. Chính Chúa Yêsu cũng đã tuyên bố: khi Thánh Thần đến Người sẽ dạy dỗ chúng ta tất cả sự thật và nhắc nhở, soi sáng để chúng ta hiểu lại mọi điều Chúa Yêsu đã nói với chúng ta. Thế mà sứ mạng giáng trần của Chúa Yêsu cũng là mạc khải danh Chúa Cha cho loài người, tức là làm cho loài người hiểu biết về Thiên Chúa. Do đó sau Chúa nhật lãnh nhận Thánh Thần, hôm nay chúng ta được hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để mến yêu nhiều hơn và được hạnh phúc.
Như hôm lễ Hiện xuống, chúng ta đã thấy sau khi nhận được Thánh Thần, các tông đồ trở nên sốt mến, nói lên những lời ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa. Ðó là các tác động đầu tiên của ơn Thánh Thần. Không phải vô lý mà Người đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống. Lửa vừa soi sáng vừa sưởi nóng. Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết Chúa và sốt sắng yêu mến Chúa. Người là tình yêu. Tình yêu tràn ngập lòng ai sẽ làm cho người đó kêu lên những lời ân ái. Mà lời ân ái chúng ta tự nhiên kêu lên Thiên Chúa khi hiểu tình thương của Người là “Abba, lạy Cha”.
Thiên Chúa thật là Cha chúng ta và là Cha của mọi tạo vật. Chính Người đã dựng nên trời đất và sinh ra tất cả mọi loài. Người yêu thương loài người hơn hết, nên đã dựng nên họ sau hết mọi loài, để vừa sinh ra con người đã có đủ mọi sự cần dùng. Người còn yêu thương ta đến nỗi đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người và sinh ra loài người có nam có nữ để ngay từ đầu con người đã biết sống bằng tình thương. Sách thánh còn kể Thiên Chúa dựng nên địa đàng cho Adong Evà. Và nếu chúng ta biết nhìn thì sông kia núi nọ chim trời cá nước, tất cả đều nói lên sự phong phú hùng vĩ tươi đẹp của thiên nhiên, chứng tỏ khả năng tạo dựng sinh sản kỳ diệu của Ðấng hóa công. Ai nhìn thấy giang san gấm vóc và các cảnh núi non hùng vĩ mà không gọi trời là Cha?
Nhưng Thánh Thần ở trong lòng ta không phải chỉ muốn kêu lên chữ “Cha” tự nhiên ấy… Người cũng đã ở trong lòng và nơi môi miệng Môsê để ông còn nhắc đi nhắc lại trong bài đọc I hôm nay: Thiên Chúa là Cha của dân. Người đã coi dân như con cái, không phải chỉ giải phóng dân khỏi ách đô hộ, ban đất chảy sữa và mật cho dân, nhưng nhất là làm cho dân những kỳ công mà ai nhìn vào cũng thấy ngay. Người cưng dân như cha như mẹ. Có lần Người tuyên bố rõ hơn: Người đã ghi tên dân vào lòng bàn tay đến nỗi dù có người mẹ nào quên được con cái thì Người cũng chẳng bao giờ quên dân. Môsê bảo người Dothái đừng bao giờ quên điều đó. Hạnh phúc cho họ nếu họ luôn luôn nhớ rằng, không những Chúa là Cha của họ vì đã sinh ra họ, nhưng nhất là vì Chúa đã chọn họ giữa muôn ngàn dân để yêu chiều họ như con cưng trìu mến.
Người Kitô hữu còn có lý do sâu xa hơn nữa để kính thờ Thiên Chúa là Cha. Bởi vì sang thời Tân Ước Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi sai Con Một yêu quý Người xuống thế để làm cho tất cả những ai tin vào Con yêu quý Người, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Cha. Mà quả vậy, từ ngày tin Chúa Yêsu, chúng ta đã được cầu xin Thiên Chúa rằng: lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúa Yêsu đã sát nhập chúng ta vào trong cơ thể Người, để ở trong Người, chúng ta được xưng Cha – con với Thiên Chúa. Việc xưng hô này sâu xa khác hẳn khi lương dân gọi trời là Cha và khi người Dothái kêu Ðức Yavê là Cha. Chúng ta kêu Thiên Chúa là Cha khi chúng ta ở trong cơ thể Ðức Kitô là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Như lời Thánh Thư hôm nay nói: chúng ta là con Chúa một cách đặc biệt, nên chúng ta là người thừa tự tất cả những gì mà Thiên Chúa có và đã làm ra, như con cái trong nhà sẽ được lãnh nhận tất cả gia sản mà cha mẹ đã tạo dựng. Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất. Thiên Chúa đã làm những kỳ công trong lịch sử. Tất cả bây giờ thành sản nghiệp của chúng ta vì chúng ta đã là con cái Chúa trong Ðức Yêsu cứu thế.
Như vậy, ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay trước hết chúng ta hãy thờ lạy, kính yêu cảm tạ Thiên Chúa Cha. Người thật là Cha vì hằng nuôi dưỡng chúng ta và nhất là vì Người không ngừng ban ơn nghĩa tử để chúng ta được làm con Người ở trong Ðức Kitô. Và chúng ta chỉ có thể hiểu được tình Cha của Người khi nhìn vào tương quan giữa Người với Ðức Kitô.
Phúc Âm cho ta thấy Ðức Kitô không phải chỉ là một nhà tiên tri xuất chúng, một vị sáng lập ra một tôn giáo mới. Từ khi đầu thai tới khi vượt qua về trời, để gửi Thánh Thần xuống, tất cả cuộc đời của Người nói lên Người chỉ là Chúa Con lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa Cha. Chính Người đã nói: Người không có gì riêng cả. Mọi sự ở nơi Người, cho đến sự sống và sự chết, giáo lý cũng như việc làm hết thảy đều của Chúa Cha ban cho và trao cho. Thấy Chúa Cha sống làm sao, Người làm y hệt như vậy, đến nỗi Người nói với Philipphê: “Ai thấy Thầy cũng thấy Cha Thầy”, vì thật ra Người chỉ là hình ảnh Chúa Cha. Người với Chúa Cha là một. Người xuống trần gian đâu có phải để làm việc riêng. Ý của Chúa Cha là lương thực nuôi dưỡng Người hằng ngày và Người chỉ sống để mạc khải Danh Chúa Cha, để hoàn tất mọi điều Chúa Cha đã viết về Người. Cuối cùng Người đã phải chết nhục nhã khổ sở cũng chỉ vì Người dám quyết mình với Chúa Cha là một. Người với Chúa Cha là một, bởi vì giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị ấy, tương quan mật thiết sâu xa duy nhất đến nỗi ai thấy Chúa Con cũng như thấy Chúa Cha, vì Chúa Con không tự mình có gì cả nhưng Chúa Cha đã ban tất cả những cái gì Chúa Cha có cho Chúa Con. Thành ra chúng ta chỉ thật sự được làm con cái Thiên Chúa nếu chúng ta được ở trong cơ thể Chúa Con. Và đó là điều chúng ta đã được từ ngày rửa tội. Và mỗi khi đến với Mình Thánh, chúng ta lại được đồng hóa hơn với Chúa Con, để khi hợp nhất với Chúa Con, chúng ta được thật là con cái Chúa Cha.
Và như vậy để làm gì?
Như thánh Phaolô đã nói trong bài thư hôm nay, để chúng ta được đồng thừa tự với Ðức Kitô. Và muốn biết Ðức Kitô đã được thừa tự gì, chúng ta hãy xem ngày Người sống lại và lên trời. Người đã được đầy Thánh Thần đến nỗi thân thể của Người đã trở nên sáng láng vinh quang y như vinh quang của Thiên Chúa Cha. Và Người đã sai Thánh Thần đó xuống cho các môn đệ trong ngày Hiện xuống. Chúng ta chỉ cần nhìn vào đó mà hiểu biết Chúa Thánh Thần – Người vô hình nhưng hành động mãnh liệt. Người hành động như Chúa Cha vì Chúa Cha sinh ra muôn vật thế nào, bây giờ Người đổi mới vũ trụ như vậy. Tất cả đã được tạo dựng lại trong ngày Người hiện xuống. Người cũng hoàn thành công việc của Chúa Con vì tất cả những gì Chúa Con muốn làm cho trần gian, bây giờ Người củng cố, đẩy mạnh và hoàn tất. Người với Chúa Cha và Chúa Con cũng chỉ là một. Và cả ba đều hành động theo một mục tiêu duy nhất: làm cho tất cả con cái loài người cùng toàn thể vũ trụ được chia sẻ sự sống đời đời và hạnh phúc bất tận của chính các Người là Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngày lễ Chúa Ba Ngôi muốn chúng ta suy niệm chương trình cứu độ đầy tình thương đó. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không được viết trong sách toán, nhưng trong sách Thánh là sách mạc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Câu tóm tắt sách Thánh, cô đọng mọi mạc khải đã được Phúc Âm hôm nay gợi lên khi viết: chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, để hiến dâng họ cho Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, từ nay chúng ta hãy quý dấu Thánh giá, hãy làm dấu đó để hiến dâng mình đi vào sự sống phúc lộc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và mỗi lần muốn hiểu thêm về mầu nhiệm này, đọc tất cả sách Thánh một lúc không được, nhưng nếu cứ ngẫm suy mọi điều trong kinh Tin Kính, chúng ta sẽ lần lượt hiểu rõ tình thương của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, khiến chúng ta sẽ thấy đời thật ý nghĩa. Tôi mời anh chị em đứng lên sốt sắng đọc kinh ấy, để hiểu thêm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, để thấy rõ ràng Ba Ngôi đều chỉ hành động cho ta và chỉ muốn yêu ta.
Bài 2. NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Bài ca nhập lễ viết: “Chúc tụng Thiên Chúa, là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta”. Người công giáo khi vì dấu Thánh Giá, họ tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi. Dấu Thánh Giá là biểu hiệu con người thuộc về Thiên Chúa. Bởi vì, qua dấu Thánh Giá người môn đệ Chúa công khai xưng mình thuộc về Đức Kitô.
Để biết được Thiên Chúa, chúng ta phải ở trong cung lòng của Ngài. Đức Kitô vén mở mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cho nhân loại. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất có ba Ngôi Vị: Cha, Con và Thánh Thần. Ba ngôi khác nhau nhưng chỉ là một Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã có lần nói với môn đệ của Ngài: “Ai biết Ta là biết Cha”. Hoặc “Ta và Cha là một” (Ga 14, 10). “Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta “ (Ga 16, 15). “Mọi sự của Cha có đều là của Ta” (Ga 16, 15). Ba Ngôi đều khăng khít gắn bó, hiệp nhất và duy nhất trong Thiên Chúa. Do đó, Ba Ngôi Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa và Thiên Chúa đưa con người hiệp thông với chính Ngài.
Chúng ta khi làm dấu Thánh Giá là diễn tả chúng ta tôn vinh và kính mến thờ lạy Thánh Giá Chúa Giêsu. Ông Tertulien đã viết một câu thật chí lý, để mãi cho đời: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu Thánh Giá”. Đầu mỗi thánh lễ, vị Chủ Tế thường chào cộng đoàn như sau: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Kinh tiền tụng ngày Lễ Chúa Ba Ngôi viết: “Cùng với Con Một Cha và Chúa Thánh Thần, Cha là Thiên Chúa duy nhất, là Chúa Tể duy nhất, không phải trong một ngôi đơn độc nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể. Nhờ mặc khải Cha ban, chúng con tin Cha là Đấng vinh hiển và chúng con cũng tin như thế về Con Cha và Chúa Thánh Thần. Và khi tuyên xưng Cha là Thiên Chúa chân thật và hằng hữu, chúng con tôn thờ Ba Ngôi, tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau”.
Người Kitô hữu sống mầu nhiệm Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là sống trong tình yêu vì: “Ai ở trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4, 16).
Chúng ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi bằng lời cầu nguyện với tâm tình con thảo: “Lạy Cha, xin cho nước Cha trị đến!”. Chúng ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi bằng kinh nghiệm tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương em”. Chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi bằng lòng can đảm, hiên ngang theo sự linh ứng của Chúa Thánh Thần.
Hằng ngày, chúng ta làm dấu Thánh Giá khi đi ngủ, khi thức dậy, khi đi lễ, khi đọc kinh, khi ăn v.v… Đây là biểu lộ dấu ấn tình yêu chúng ta tuyên xưng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều ghi ấn tượng mạnh mẽ là khi Linh mục nâng cao Mình và Máu Chúa, Ngài đọc “Chính nhờ Ngài, hiệp Ngài mà mọi vinh dự và vinh quang đều thuộc về Chúa trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần”.
Người Kitô hữu được dìm vào nước nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhưng Chúa kêu mời mọi Kitô hữu làm phép rửa cho muôn dân. Đây là sứ mạng cao cả chúng ta phải thực hiện trong suốt cả đời sống ở trần thế này.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai Con Một là Lời chân lý và sai Thánh Thần, Đấng thánh hóa muôn loài đến trần gian để mặc khải cho chúng con biết mầu nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng đức tin chân thật là nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa Ba Ngôi).
Bài 3. Hiệp nhất trong yêu thương
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Từ ngày cắp sách vào lớp một, mỗi học sinh đều được học bài toán: 1+1+1 = 3 và nếu làm đúng như vậy thì lúc nào cũng được điểm tối đa. Trái lại, nếu có em nào làm phép tính: 1 + 1 + 1 = 1 thì sẽ bị cô giáo cho điểm O và bị phê là ngu xuẩn.
Thế nhưng trong một gia đình đầm ấm yêu thương thì 1 + 1 + 1 không còn là 3, mà chỉ là 1.
Hiệp thông trong gia đình
Trước đây, anh Bắc ở Hà-nội, chị Nam ở Sai-gòn, hai người ở hai phương trời cách biệt. Anh và chị là hai “ngôi vị” hoàn toàn xa lạ.
Về sau, hai người cùng vào làm trong cùng một công ty nên có nhiều cơ hội gặp gỡ và đôi bên cảm thấy ý hợp tâm đầu. Tình yêu của anh chị lớn lên từng ngày và với thời gian, anh chị yêu thương nhau sâu đậm đến nỗi người nầy không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng người kia.
Do tình yêu thúc đẩy, anh chị tiến đến hôn nhân. Lúc nầy hơn bao giờ hết, anh chị cảm thấy mình hoàn toàn thuộc về nhau: cùng chung một tổ ấm, chung một tình yêu, chung niềm vui nỗi buồn, chung một ước mơ và một niềm hy vọng… Họ không còn là hai mà là một đúng như nhà thơ Tản Đà nhận định: “Mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai.”
Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận rằng họ chỉ còn là một mà thôi: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mat-thêu 19, 5-6)
Rồi tình yêu của anh chị đơm bông kết trái: một đứa con yêu quý chào đời!
Giờ đây tuy trong nhà có ba người hay ba “ngôi” (=ba vị), nhưng tình yêu thương thắm thiết đã nối kết cả ba nên một. Họ cảm thấy hoàn toàn thuộc về nhau. Họ cảm thấy mình không còn là ba nhưng chỉ là một: hạnh phúc của người nầy cũng là hạnh phúc của người kia; khổ đau của mỗi người cũng là nỗi đau chung của cả gia đình.
Mặt khác, tình yêu và mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với nhau: khi càng yêu thương nhau hơn thì mức độ hiệp thông càng bền chặt hơn và ngược lại, khi ghét bỏ nhau, người ta cảm thấy hoàn toàn xa cách dù sống chung dưới một mái nhà. Lúc ấy, vợ, chồng và con cái trong nhà không còn là một mà là ba.
Như thế tình yêu là phép mầu nối kết nhiều người nên một. Những người yêu thương nhau được liên kết nên một với nhau nhưng vẫn không đánh mất bản ngã của mình.
Hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa 
Hình ảnh một gia đình đầm ấm yêu thương hiệp nhất thường được Giáo Hội sử dụng để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở các tín hữu rằng: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (số 6)
Khi nhìn vào một gia đình có “ngôi cha”, “ngôi mẹ” và “ngôi con” hiệp thông với nhau cách mật thiết, chúng ta hiểu được phần nào sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vì tình yêu giữa Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần mênh mông như đại dương, trong khi tình yêu của các ngôi vị trong gia đình chỉ bằng giọt nước; và vì mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với mức độ yêu thương, nên sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là vô cùng mật thiết so với sự hiệp thông còn quá mong manh giữa các thành viên trong gia đình.
Chúa Giê-su mời gọi sống hiệp thông theo mô hình Ba Ngôi
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giê-su muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và hôm nay, Chúa Giê-su hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Người cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu nầy được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con cảm nhận rằng bí quyết để được hạnh phúc tuyệt vời là cùng nhau sống yêu thương gắn bó nên một như Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình và cộng đoàn sẵn sàng xoá bỏ những bất hoà chia rẽ để tiến tới đời sống yêu thương hiệp nhất theo mô hình Ba Ngôi.
Xin cho tình yêu của Ba Ngôi liên kết chúng con nên một, để đời sống gia đình và cộng đoàn chúng con trở thành hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bài 4. Nhân danh Chúa Ba Ngôi
Trầm Thiên Thu
Tam giác cân có mọi thứ bằng nhau: Ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, ba đường trung tuyến bằng nhau. Thiên Chúa Ba Ngôi cũng vậy, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém. Một mà Ba, và Ba mà Một. Một Chúa mà Ba Ngôi, gọi là Tam Vị Nhất Thể, nói theo Việt ngữ bình dân là ba-trong-một. Điều này hoàn toàn vượt ngoài tầm hiểu biết của loài người. Những người không có niềm tin tôn giáo thì chắc hẳn không thể chấp nhận theo lý luận của con người.
Chuyện kể rằng Thánh Augustinô là người giỏi giang, thông minh xuất chúng, suy nghĩ và lý luận về Chúa Ba Ngôi mà không thể hiểu thấu. Thánh Augustinô gặp một em bé ngồi múc nước biển đổ vào cái hang, thấy lạ nên ngài hỏi: “Cháu làm gì thế?”. Em bé trả lời: “Cháu tát nước biển”. Thánh Augustinô nói: “Làm sao cháu tát cạn được biển?”. Đứa bé vô tư nói: “Việc cháu làm đây còn dễ hơn việc ông đang suy nghĩ”. Thánh Augustinô giật mình và tỉnh ngộ!
Thiên Chúa nói qua ông Mô-sê: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: Có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Ðnl 4:32-34).
Những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời. Ông Mô-sê kết luận: “Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. Anh em phải giữ các thánh chỉmệnh lệnh của Ngài, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em” (Ðnl 4:39-40). Những lời giản dị và rõ ràng, thật dễ hiểu.
Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa. Tác giả Thánh vịnh xác định: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Thiên Chúa là Đấng chí minh và chí thiện nên “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:5). Thiên Chúa là Đấng toàn năng: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Ngài ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33:6 & 9). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19). Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài và phải tín thác vào Ngài bằng cách thân thưa: “Tâm hồn chúng con đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), và luôn cầu khẩn: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Khi Tông đồ Phi-líp-phê thắc mắc về Chúa Cha (Ngôi Nhất), Chúa Giêsu (Ngôi Hai) nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Tình yêu của Cha và Con nhiệm xuất Chúa Thánh Thần (Ngôi Ba). Thấy và biết Ngôi Hai là thấy và biết Ngôi Cha, cũng là thấy và biết Ngôi Ba vậy. Theo “cách chia” của chúng ta: Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu độ, và Chúa Thánh Thần Đấng thánh hóa. Đó là cách nói để cho loài người dễ hiểu theo trí tuệ phàm tục mà thôi. Ba là Một thì không có chuyện tách rời như vậy.
Chúa Thánh Thần là Gió (Khí), Lửa và Nước. Ngài luôn hoạt động tích cực trong mỗi chúng ta, trong từng biến cố cuộc đời.
Thánh Phaolô nói: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Thật nguy hiểm nếu thiếu Chúa Thánh Thần: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15).
Phúc thay cho chúng ta vì chúng ta đã được Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần (Thần Khí, Thánh Linh), vì thế “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:16). Những tội-nhân-chúng-ta lại được tha thứ và được phục hồi nguyên trạng quyền làm con cái Thiên Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Ngài, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài” (Rm 8:17). Quá kỳ diệu! Chúng ta không thể nào hiểu thấu.
Những tội-nhân-đáng-chết như chúng ta, tức là tử tội, mà lại được Lòng Thương Xót của Chúa cho thừa kế với Đức Kitô, được làm tiểu đệ của Đại Huynh Giêsu. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được? Đúng là Đại Hồng Phúc đối với chúng ta.
Tuy nhiên, con người luôn yếu đuối và hoài nghi, dù đã tận mắt chứng kiến. Thánh sử Mátthêu kể: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28:16-17). Ngay cả những môn đệ thân cận, tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, thế mà vẫn có “mấy ông hoài nghi”. Chúa Giêsu chắc buồn lắm. Nhưng Ngài hiểu chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình. Ngài đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:18-20a).
Đó là sứ vụ không của riêng ai, phải hoàn hành động theo cương vị mình. Sứ vụ này cũng đã được Giáo hội đề cập trong Giáo huấn Xã hội Công giáo (chương II). Sứ vụ thì phải… mệt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự cảnh giác cao độ, làm gì thì cũng phải thực sự nhân danh Chúa Ba Ngôi chứ đừng nhân danh bất kỳ thứ gì khác, nguy hiểm nhất là làm để “sáng danh chính mình”. Người Pháp có câu nói hay: “Đừng vì kính mến Chúa mà chà đạp người khác”.
Thực hiện sứ vụ nào cũng mệt, thế nhưng Thiên Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ, vì chính Chúa Giêsu đã có lời hứa đặc biệt: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Chúa, không có Ngài thì chúng con chẳng làm được gì, chỉ là đồ vô tích sự. Vì thế, xin luôn soi sáng, hướng dẫn, đồng hành và tăng lực can đảm để chúng con sẵn sàng hành động nhân danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

Bài 5. Thiên Chúa đo lường trái tim chúng ta
Lm Hữu Độ

Chuyện kể rằng: một hôm có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt anh nằm nghỉ dưới gốc cây đa cổ thụ, nhìn lên thấy cành lá rườm rà, song qủa đa nhỏ xíu. Anh thầm nghĩ, sao cây thì khổng lồ mà trái nhỏ xíu vậy tôi mà là Ông Trời thì tôi cho trái nó to như trái bí và lá nó to như lá chuối như thế mới cân xứng. Đúng là Ông Trời thiếu khôn ngoan, không biết tính toán gì cả. Thế rồi anh ngủ đi lúc nào không hay. Đang ngủ say thì một cơn gió lớn thổi mạnh làm một qủa đa rớt vào mặt anh ta. Anh giật mình thức dậy vừa xoa mặt vừa nghĩ: May quá, nếu trái đa lớn bằng trái bí thì mặt mình đã dập ra như cái bánh bao rồi. Qủa là Ông Trời khôn ngoan, biết lo liệu hơn là mình nghĩ.
Thiên Chúa sáng tạo mọi sự hài hòa và có tính toán của Chúa. Nhìn vào chính thân thể mình, chúng ta thấy là cả một công trình vừa tỉ mỉ vừa tài khéo không có đầu óc phàm nhân nào hiểu thấu. Thí dụ như chỉ trong một square inch da của chúng ta mà thôi thì trong đó có chứa tới 19 triệu tế bào của da, 60 sợi lông, 90 tuyến mỡ, 19 feet mạch máu, 625 tuyến mồ hôi và 19,000 tế bào cảm giác.
Sách Giáo Lý Công Giáo số 292 cho chúng ta biết Sáng Tạo là công cuộc của Chúa Ba Ngôi, “Được ám chỉ trong Cựu Ước, được mạc khải trong Tân Ước, hành động sáng tạo của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là một và không thể tách rời hành động sáng tạo của Chúa Cha… Sáng tạo là công cuộc chung của Ba Ngôi Thiên Chúa.”
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm vượt trên mọi trí khôn thụ tạo. Mầu nhiệm này là mầu nhiệm trung tâm của Đức Tin và của sinh hoạt Kitô giáo. Nếu dùng đầu óc để tìm hiểu mầu nhiệm này thì chắc chắn chúng ta thất vọng. Nhưng may mắn chúng ta có Trái Tim để cảm nghiệm được một phần nào không phải cái “lý lẽ” của mầu nhiệm nhưng thứ “tình yêu” bao la mà Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta. Nghĩa là vì yêu thương mà Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên chúng ta, vì yêu thương mà sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc nhưng hy sinh Người Con duy nhất của Ngài để cứu chuộc chúng ta, rồi cũng vì yêu thương mà Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta, tức là Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Con nơi mỗi người cho tới khi thành đạt là được hưởng Nước Trời.
Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên khi đo lường con người thì Chúa đo ở Trái Tim chứ không ở Cái Đầu. Có nghĩa là Chúa đo mức độ chúng ta mến Chúa và yêu anh chị em chứ không đo mức độ chúng ta hiểu biết khoa học nhiều hay thông suốt nhiều ngôn ngữ.
Cứ trở lại Phúc Âm chúng ta thấy rõ điều đó: để định đoạt số phận đời đời của mỗi người thì Chúa hỏi chúng ta có làm hay không làm cho những anh chị em nghèo đói, trần truồng, lao tù, đau yếu? Để xác định chúng ta được tha nhiều hay ít thì Chúa cũng đo ở tình yêu, “Chị này được tha nhiều bời vì chị yêu mến nhiều.” Để giao trách nhiệm liên quan đến người khác thì Chúa đo lường ở tình yêu, “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này hay không?… hãy chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy.” Để xác định chúng ta là môn đệ Chúa hay không thì Chúa cũng dựa vào tình yêu, “Các con cứ yêu mến nhau để thiên hạ nhìn thấy mà biết các con là môn đệ Thầy.” Như vậy “đồng phục” của người Công Giáo là Đức Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày nào đó con người sẽ trở về nguồn gốc của mình là tro bụi. Tất cả những hành trang chúng ta gom góp và nâng niu như: kiến thức, sức khỏe, sắc đẹp, thông minh, tài khéo.. . khi chạm tới quan tài đều biến thành con số không. Chỉ có một thứ hành trang duy nhất chúng ta có thể mang đi với mình là Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Trong ngày lễ trọng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta nhắc nhở mình cái chân lý này: Tôi đã được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nên Ngài dựng thành, cứu chuộc và thánh hóa. Vậy tôi phải có nghĩa vụ đáp trả lại tình yêu đó. Nợ tình phải trả bằng tình. Cuối cùng chỉ có Đức Mến là thiên thu.
Đã nhiều lần tôi trộm nghĩ, nếu bây giờ mình ra khỏi thế gian này, đứng trước tòa Chúa phán xét thì điều gì tôi hối hận nhất? Tôi không cần suy nghĩ lâu để tìm ra câu trả lời, “Điều tôi hối hận nhất là khi còn sống trên trần gian này tôi yêu mến Chúa qúa ít. Từ cái nhược điểm đó nó kéo đi theo bao nhiêu vấn đề xấu hay tiêu cực khác.” Rất may chúng ta còn có thời giờ, chúng ta biết phải làm gì để bớt hối hận nhiều ở đời sau.
Bài 6. SUY SỰ ĐỨC CHÚA TRỜI
JM. Lam Thy ĐVD
Cũng đã có nhiều những so sánh với vật thể hữu hình nhằm làm sáng tỏ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa (chẳng hạn như “một ngón tay có ba đốt”, “một lá có ba nhánh”, “một cái trứng có vỏ + tròng trắng + tròng đỏ”, “nước có ba dạng: thể hơi, thể rắn, thể lỏng”, “một gia đình có 3 ngôi vị: cha, mẹ, con cái” v.v…). Tuy nhiên, sự so sánh như vậy vẫn có vẻ khập khiễng. Có lẽ cũng vì thế nên Thánh Âu-tinh (354-430) – một nhà Thần học và Triết học – muốn hiểu thật tường tận về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một hôm, thánh nhân đi đi lại lại trên bờ biển để vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang đăm chiêu bách bộ, chợt ngài thấy có một em bé trông rất khôi ngô tuấn tú, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ (hang cua, hang cáy) trên bờ biển. Ngạc nhiên, Thánh Âu-tinh liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn tát cạn nước biển.” Thánh Âu-tinh phì cười: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy. Làm sao cháu có thể múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé cũng cười rất tươi nói: “Thì việc cháu đang làm cũng đâu có gì khác với việc bác đang suy nghĩ?” Với sự đáp trả đầy thông minh hóm hỉnh của em nhỏ, Thánh Âu-tinh giật mình hiểu ra Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài thông qua cậu bé (thiên sứ) này, và kể từ đó, ngài không dám “suy sự Đức Chúa Trời” theo kiểu triết lý của trần gian nữa.
Đúng là việc “suy sự Đức Chúa Trời”  không đơn giản chút nào. Bản thân mình thắc mắc còn không lý giải được, huông hồ bị người khác vặn hỏi; vì thế nên ngày nay, không thiếu những quý vị giảng viên, giáo lý viên đứng lớp, khi bị chất vấn: “Tại sao Thiên Chúa lại có 3 Ngôi mà không phải là 2 hay 4?”, là ngay lập tức tìm cách bịt miệng học viên: “Đã gọi là mầu nhiệm thì chỉ có tin, không được thắc mắc”. Không dám thắc mắc nữa, nhưng trong lòng các Tô-ma thời đại vẫn còn ấm ức lắm. Chẳng lẽ cứ nhắm mắt mà tin sao? Quả thật nói về mầu nhịêm rất khó. Khó nhưng không phải là không làm được, vì “…những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1, 20). Điều quan trọng là phải hiểu Thiên Chúa vẫn luôn đến với con người bằng con đường mạc khải, để con người có thể hiểu được những công trình kỳ diệu Người đã thực hiện. Cũng chẳng khác câu chuỵên mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm người, nếu chỉ nhìn vào gia đình bác thợ mộc Giu-se tại Na-za-ret với những sinh hoạt thường nhật như bao gia đình nghèo khác, mà không được chứng kiến đêm Giáng Sinh Bê-lem, không được thấy những phép lạ, những hành động, những việc làm của chàng thanh niên Giê-su, thì liệu có ai hiểu được không? Hoá cho nên tất cả những sự kiện – từ biến cố Giáng Sinh đến cuộc khổ nạn, rồi phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Giê-su – đều được thể hiện một cách cụ thể, để con người thấy tận mắt mà tin vào Thiên Chúa. Chính vì thế nên phải cầu nguyện để Thiên Chúa thương mà vén màn lên (mạc khải) cho được tỏ tường.
Từ đó suy ra con người rất cần được mạc khải trước những biến cố Thiên Chúa đã thực hiện để đến với con người. Trước hết, loài người – thông qua các thánh Tông đồ và dân tộc Ít-ra-en cách đây 2000 năm – đã được thực mục sở thị (trông thấy nhãn tiền), được gặp gỡ trò chuyện, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với một trong Ba Ngôi là Ngôi Hai Thiên Chúa, một con người với bản tính người-rất-người, người 100% (không kể bản tính Thiên Chúa). Chính Con Người ấy trong mọi sinh hoạt trên đời này đều luôn minh chứng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều tồn tại trong Người: Khi chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan (“và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” – Luca 3, 22); khi ăn uống thì dâng lời chúc tụng Cha trên trời; cả những khi cầu nguyện (“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” – Ga 12, 28); và nhất là khi dạy dỗ, trò chuyện, giao tiếp với các môn đệ, với mọi người (“Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 21-23; “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” – Lc 11, 13; “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” – Ga 14, 9; “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” – Mt 28, 18-20)… Nhiều lắm những dẫn chứng rất sinh động và thật cụ thể do chính những con người – là các Thánh sử, các Thánh Tông đồ được “sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, cùng trò chuyện, được dạy bảo…” bởi chính Ngôi Hai Thiên Chúa – đã ghi lại trong Thánh Kinh để minh họa,
Rõ ràng là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cùng tồn tại trong Ngôi Hai, một con người như tất cả mọi con người hiện diện trên trái đất này, mà lịch sử loài người đã ghi nhân cách đây 2000 năm. Và từ những chứng liệu cụ thể đó, có thể suy ra được trong Ngôi Cha cũng có Ngôi Hai và Ngôi Ba, trong Ngôi Ba cũng tồn tại Ngôi Cha và Ngôi Con. Cả 3 Ngôi đều có ở trong nhau, tồn tại trong nhau, vì thế Ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nói 3 Ngôi ở trong nhau như một thân thể duy nhất, phải chăng là nói đến sự thông hiệp giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, và từ cội nguồn mầu nhiệm đó, dòng suối hiệp thông tuôn tràn trên Giáo Hội phổ quát? Câu trả lời thật rõ ràng như trong Tông huấn “Ki-tô hữu Giáo dân” (số 18) đã khẳng định: “Sự thông hiệp này, chính là mầu nhiệm của Giáo Hội như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dùng những lời của Thánh Cy-py-a-nô để nhắc lại: “Giáo Hội phố quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông này được nhắc nhở ở mỗi đầu Thánh Lễ khi vị chủ tế đón mời chúng ta bằng lời chào của Thánh Phao-lô Tông Đồ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha và ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr 13, 13)”. Và chính sự sống hiệp thông của Giáo Hội đã trở nên như một dấu chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa cho thế giới, đồng thời là một hấp lực thu hút mọi người tới niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô qua Lời Người: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17, 20-21).
Dân tộc Ít-ra-en thường gọi Ông Trời mà họ kính mến nhất, thương yêu nhất là Abba – Cha – tức là Đấng sinh thành dưỡng dục mình. Vậy thì khi Thiên Chúa mạc khải cho sắc dân được tuyển chọn về Thiên Chúa, về Ông Trời, đương nhiên Người phải dùng chính cái lý lẽ mà sắc dân ấy (nói chung là cả loài người) đã công nhận. Có Cha phải có Con (vì loài người tin rằng Cha sinh ra Con), vậy Ngôi Thứ Hai chắc chắn là Ngôi Con. Thực tế thì Chúa Cha không sinh ra Chúa Con mà cả 2 cùng có từ trước vô cùng. Mà nếu Chúa Cha có thật sự “sinh ra” Chúa Con chăng nữa, thì sự sinh ra ấy cũng không theo nhục thể, không phải do máu huyết như loài người (bởi Thiên Chúa là Đấng “tạo thành”, còn loài người chỉ là loài “được tạo thành” (“thụ tạo”). Với loài người, thì cha sinh ra con, đáng lẽ phải thương yêu gắn bó với nhau như một, nhưng xã hội lại nhan nhản cảnh cha và con là 2 thái cực cách biệt nhau, xung khắc nhau… Sinh ra nhau mà còn thế, huống hồ bây giờ lại bảo không sinh ra nhau, bằng nhau, cùng lúc hiện hữu, và là một, như vậy thì làm sao mà tin nổi. Vả lại, mới chỉ có 2 Ngôi (Cha và Con) chưa kiên vững, mà cần phải có một mối dây liên kết 2 Ngôi lại với nhau, mối dây liên kết ấy chỉ có thể là Tình Yêu mới bền chắc được. Chinh mối dây ấy là Ngôi Ba Thánh Thần vậy. Xin nói thêm, nếu chỉ hiểu theo quan niệm loài người, thì có cha ắt phải có mẹ mới có con được, và nếu Thiên Chúa cũng vậy thì Người cũng chẳng mất công mạc khải làm gì. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Đó là Mầu nhiệm mà Thiên Chúa muốn cho con người (vốn dĩ bất toàn) hiểu và tin qua mạc khải vậy.
Như trên đã trình bày, Giáo Hội phổ quát được khai sinh từ chính Ngôi Hai Thiên Chúa (“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” –  Ga 17, 22-23), là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và với nhân loại, để từ đó trở nên một khối duy nhất Thánh thiện + Công Giáo và Tông truyền. Sự hiệp nhất này đã đưa Giáo Hội từ 12 thành viên tiên khởi tại một vùng đất cố định (It-ra-en), tiến tới hàng tỷ người trên khắp năm châu bốn biển. Vì thế nên mới nói đặc tình Giáo Hội phổ quát là MẦU NHIỆM (xuất phát từ Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa) + HIỆP THÔNG (Thông hiệp với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau trên khắp địa cầu) + SỨ VỤ (được sai đi “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, làm Phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”).
Như vậy, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một điều huyền bí chỉ các nhà Thần Học mới hiểu được. Nhà Thần học Thomas Hancock (tk XIX) đã nói một câu thật chí lý: “Một người đàn ông hay một người phụ nữ dù quê mùa không thể lý luận về Thịên Chúa Ba Ngôi, nhưng vẫn có thể nhận thức được về Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hoàn hảo hơn một nhà Thần học uyên bác…”. Thực thế, những kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu đã không hiểu về mầu nhiệm này, nên mới coi Chúa Giê-su như một kẻ điên rồ, bị ma nhập, ăn nói phạm thượng… và đóng đinh Người như một kẻ trộm cướp! Tuy nhiên, những người bé mọn, những kẻ tội lỗi nhờ lòng tin và đức mến, đã được chữa khỏi (“Đức tin của con đã chũa lành con”). Chính Đức Giê-su Thiên Chúa đã khẳng định trong một lần cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11, 25-26).
Thánh Phao-lô cũng dạy: “Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mạc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa.” (1Cr 2, 10-11). Như vậy là vấn đề đã sáng tỏ, nhờ mạc khải mà con người biết được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm đó không đến nỗi quá bí hiểm để “chỉ có tin, không được thắc mắc”. Mầu nhiệm đó có thể – nhờ Thần Khí soi sáng – giúp Ki-tô hữu tìm ra một số con đường đến với Thiên Chúa để hiểu rõ hơn về Người. Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để “khám phá ra một số ‘con đường’ giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghĩa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa”. (Giáo lý HTCG, điều 31).
Ôi! Lạy Chúa! Xưa Chúa đã phán “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 25-26). Cúi xin Chúa ban Thánh Linh thêm sức, dạy dỗ và soi sáng cho chúng con hiểu được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, ngõ hầu giúp chúng con củng cố đức tin vững mạnh, kiên tâm bền chí sẵn sáng làm chứng nhân cho Mầu nhiệm Cực Thánh này, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Bài 7. Sứ Mạng Bất Từ Nan
AM Trần Bình An
Tin Mừng hôm nay là những dòng chữ cuối cùng của Phúc Âm theo thánh Mátthêu. Đồng thời cũng là những lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu, trước khi Người về trời. Người đã gửi gấm tín hữu cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dìu dắt, cùng ban lệnh truyền rất vắn gọn, súc tích và minh bạch.
1. Xác nhận quyền bính của Thiên Chúa
Trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu vào hoang địa cầu nguyện, chịu cám dỗ. Bấy giờ Satan, vốn kiêu ngạo, dụ dỗ Người bái thờ để được vinh hoa lợi lộc của các nước (Mt 4, 8-10). Satan có ý khoe mình là chủ tể thế gian. Điều mà lâu nay nhiều người vẫn thường lầm tưởng. Tuy nhiên cũng có phần nào đúng, vì Satan đích thị là hoàng đế sự dữ và tội lỗi.
Nay Chúa Giêsu công khai khẳng định chân lý bất di bất dịch:”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”(Mt 28, 18). Điều này đã được ông Đanien thị kiến từ thế kỷ VI trước Công nguyên: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các tiếng nói phải phụng sự Người.”(Đn 7, 14) Quyền tối thượng vẫn thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải thuộc về thế lực đen tối của Satan, cho dù ảnh hưởng của sự dữ hiện đang lan tràn như vũ bão khắp nơi. 
2. Sứ mạng trao phó
Với quyền bính bao trùm cả trời đất, Chúa Giêsu trao sứ mạng cho các Tông đồ, cũng như cho từng tín hữu, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh  em.” (Mat 28, 19-20)
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn trực tiếp mạc khải tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự kết hợp hài hòa, hầu con người noi theo gương hiệp nhất với nhau trong tình yêu.
3. Chúa đồng hành đến tận thế
Tuy Chúa Giêsu về trời, nhưng Người vẫn cùng đồng hành thân mật với tín hữu qua Lời Chúa và Thánh Thể, cùng các phép Bí Tích nhiệm mầu. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mat 28, 20)
Hơn nữa, Người còn phó thác cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dưỡng nuôi tín hữu từng ngày từng giờ, qua những đặc sủng và hồng ân. Như thế, Người xa mặt, mà chẳng hề cách lòng. Mãi mãi vẫn là Đấng Emmanuel = Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn nhớ mình đã được thánh hiến qua Bí tích Rửa Tội, đã trở nên con cái Chúa, thì sống sao hiếu thảo và đẹp lòng với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Mân Côi, xin dạy con biết nhận ra và thực hành Ơn Gọi Sai Đi, bằng chính cuộc sống hằng ngày, để đem niềm tin đến cho mọi người. Amen.
Bài 8. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Với người công giáo, còn gì gần gũi thân quen cho bằng làm dấu thánh giá trên mình cùng với lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ấy thế mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dường như lại thật xa lạ và trừu tượng. Có chăng những từ ngữ “ngôi vị” và “bản tính”, vốn rất cần thiết để minh định tín điều, lại là bước cản cho sự gặp gỡ Đấng Thiên Chúa sống động? Có chăng những suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú về tư duy nhưng lại thiếu tiếp cận mục vụ và linh đạo? Từ góc độ thực hành của đời sống đức tin, xin gợi ý về lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” như một cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Thiên Chúa duy nhất và là Đấng ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử.
Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong
Cảm nghiệm đầu tiên của con người về Thiên Chúa: Ngài là Đấng “ở trên”, “Ông Trời”, “Ông Thiên”. Thánh Phaolô tuyên xưng chỉ mình Thiên Chúa là “Đấng trường sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Tim 6,16). Vì Thiên Chúa vượt lên trên vũ trụ và nhân loại nên “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Mt 16,23). Nếu ai nói rằng mình hiểu được Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là Thiên Chúa đích thực nữa.
Những khám phá khoa học ngày nay không những không làm tiêu hao niềm tin vào Thiên Chúa mà trái lại, càng làm cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tính bất khả đạt thấu của Thiên Chúa. Ngân hà mà trái đất chúng ta là một thành phần đã là vĩ đại rồi, nhưng nó chìm nghỉm trong hằng tỉ giải ngân hà của vũ trụ. Chính sự vĩ đại ấy của vũ trụ lại càng làm nổi bật tính vô biên và bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa: “Chúng ta không thể khám phá Thiên Chúa đang điều khiển thế giới cách ngây ngô như trước. Chúng ta không thể làm thế, không phải vì Thiên Chúa đã chết, nhưng vì Ngài là Đấng vĩ đại hơn nhiều, Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự” (Karl Rahner, Science as a Confession, 389).
Cảm thức về tính bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa giúp các Kitô hữu tránh được nguy cơ rơi vào tình trạng mà một nhà tư tưởng phê phán: “Không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nhưng chính con người đã làm nên Thiên Chúa theo hình ảnh của mình”. Một trong những điều răn đầu tiên Thiên Chúa ban bố là: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Dân Chúa trong thời Cựu Ước lại chẳng rơi vào tình trạng đó sao khi họ lấy vàng đúc thành con bê rồi sụp lạy tung hô: “Đây là vị thần đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập” (Xh 32,7)? Và cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng tái diễn trong lịch sử dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thiên Chúa là Đấng “ở trên” nhưng đồng thời lại là Đấng “ở với” loài người. Đây là mạc khải trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Kinh Thánh tràn ngập cụm từ “ở với”. Hầu như khi sai bất cứ ai đi thi hành sứ mạng, Thiên Chúa cũng chỉ hứa điều quan trọng nhất là: “Ta ở với ngươi”. Từ Môsê đến Đức Maria đều thế cả (Xh 3,12; Lc 1,28). Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn là: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Danh thánh Thiên Chúa mạc khải cho Môsê (Xh 3,14) được dịch nhiều cách: “Ta là Đấng hằng hữu”, “Ta là Đấng hiện hữu”, “Ta là Đấng Ta là”. Nhưng cũng có một cách dịch khác mang tính hiện sinh hơn: “Ta là Đấng hằng ở với anh em” (trong mọi hoàn cảnh, mọi bước đường, mọi biến cố). Lời hứa “ở với” ấy đã vươn đến cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa-ở-với-chúng ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở với loài người không những bằng sự hiện diện mà còn chia sẻ phận người, kể cả những trạng huống bi thảm nhất, để trong mọi hoàn cảnh, kể cả sự chết, ta có thể cảm nhận được tiếng nói: Cha ở với con.
Ratzinger có trang sách đẹp về trải nghiệm sự chết khởi đi từ hình ảnh đứa bé bị lạc lối trong rừng sâu và màn đêm buông xuống. Cùng với bóng tối vây bủa chung quanh là nỗi hoang mang sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Trong giây phút ấy, điều mà cậu bé mong chờ nhất không phải là bài học địa lý về cánh rừng hoặc bài hướng dẫn khoa học tìm tọa độ. Điều mong chờ nhất chỉ là có một bàn tay chạm lấy và tiếng nói bên tai: “Cha đây, nào chúng ta đi”. Không có giây phút nào con người cảm nhận nỗi cô đơn tột cùng cho bằng khi đối diện với sự chết. Kể cả những người thương yêu ta nhất cũng không thể đồng hành. Mọi lý thuyết về thế giới mai sau dường như vô nghĩa. Điều mong đợi duy nhất là sự hiện diện và đồng hành của một ai đó trên con đường tăm tối. Và Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã kinh qua sự chết và đã sống lại, chính là Đấng duy nhất đáp trả nỗi ước mong sâu thẳm về một bàn tay nắm lấy và tiếng nói bên tai “Ta đây, nào chúng ta cùng đi”. Thiên Chúa ở với.
Thiên Chúa không chỉ ở với con người mà còn ở trong họ. Theo quan điểm công giáo, lương tâm là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong lòng họ” (Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 16).
Tin Mừng Gioan, Tin Mừng của đời sống chiêm niệm, tràn ngập cụm từ “ở trong”: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Ngài” (15,9-10); “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (14,16-17).
Có chuyện kể về một guru đánh mất chìa khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ trước nhà. Đám học trò thấy thế bèn hỏi, “Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?” “Thầy mất chìa khóa vào nhà rồi”. “Để chúng con tìm giúp”. Thế là ai nấy hăng hái bới từng gốc cây, lật từng ngọn cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt ruột hỏi: “Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh rơi ở đâu không?” “Có chứ, thầy nhớ rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa lại”. Đám học trò la lên: “Trời ơi, sao bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở ngoài này, làm sao thấy được!” Ông thầy có dịp cho học trò một bài học để đời: chúng ta đánh mất chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta lại mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ… mà hạnh phúc vẫn biệt tăm. Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng chúng ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.
Đúng là “Chúa ở trong con sâu hơn chính con” và “Con đi tìm Chúa bên ngoài mà quên mất rằng Chúa ở trong con”. Không chỉ là cảm nghiệm của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của mỗi người nếu chân thành nhìn lại chính mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Hội Thánh có sứ vụ giới thiệu và loan báo cho con người Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử. Nghĩa là phải loan báo Thiên Chúa trong tính toàn thể. Xem ra không dễ dàng giữ được sự quân bình và tính toàn thể ấy. Có khi người Kitô hữu nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở trên (chiều kích siêu việt) và ở trong (chiều kích nội tại) mà không quan tâm đến Thiên Chúa ở với phận người, nên bị người ta chê trách là lãng quên những thực tại trần thế. Lại có khi nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở với (chiều kích dấn thân xã hội) mà quên Thiên Chúa ở trên và ở trong, nên biến Hội Thánh thành cộng đoàn xã hội thuần túy với chân trời và đường lối hành động không khác gì những tập thể xã hội khác. Làm thế nào để giữ được sự quân bình và tính toàn thể của mầu nhiệm Thiên Chúa, để có thể “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17,14-16), để là “muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-16). Sẽ mãi là một thách đố, nhưng ít ra ý thức được điều ấy cũng đã là lời nhắc nhở cần thiết cho sứ vụ, lời nhắc nhớ mỗi ngày khi làm dấu thánh giá trên mình và đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Bài 9. Làm Dấu
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
1. Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.
Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh thiên hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.
ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.
Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.
2. Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.
Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.
Đã có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng cháy niềm tin.
Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.
Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán : 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết : Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết : Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi : yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
Bài 10. Người ta trở thành môn đệ bằng cách đón nhận phép rửa nhân danh Ba Ngôi
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT
Người ta trở thành môn đệ bằng cách đón nhận phép rửa nhân danh Ba Ngôi
“Điều Hội Thánh đem đến cho thế giới trước hết không phải là những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu.”
Bài Tin Mừng Mt 28,16-20 là đoạn kết sách Tin Mừng Mt, kể lại cho chúng ta cuộc hiện ra chính thức và long trọng của Chúa Kitô Phục Sinh với các Tông Đồ. Điểm nhấn không phải là chứng tỏ Chúa đã phục sinh, mà là trao sứ mạng cho các Tông Đồ, và qua các ông, cho toàn thể Hội Thánh.
Mở đầu bài Tin Mừng là cuộc gặp gỡ của các Tông Đồ với Chúa Phục Sinh: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (cc.16-17). Trước hết, Nhóm Mười Một đi đến một nơi do Chúa Giêsu ấn định, “tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến”. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, rất đáng suy nghĩ đối với chúng ta hôm nay.
Cho đến lúc này, các đồ đệ chưa được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng các ông vẫn làm theo một lệnh truyền của Người, vì lẽ, trong tư cách là những đồ đệ đích thật, các ông tin tưởng vào lời của Thầy. Theo sứ điệp do các phụ nữ truyền đạt, cuộc hành trình đến ngọn núi ở Galilê này được thực hiện trong ý thức rằng Đấng Phục Sinh đã gọi họ là anh em, và trong niềm hy vọng mãnh liệt rằng họ sẽ được gặp Đức Giêsu ở đó.
Cuộc hành trình tới Galilê làm cho các đồ đệ nhớ về Thầy Giêsu và suy niệm về những thực tại mà các ông đã từng trải nghiệm cùng với Người trong suốt cuộc hành trình dài trước đây, như đã được kể trong 16,21 – 21,34. Trong cuộc hành trình đó, Thầy Giêsu đã nhiều lần nói trước cho họ biết về những gì sẽ xảy ra tại Giêrusalem, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người (16,21; 17,22-23; 20,17-19). Khi ấy, các đồ đệ không hiểu (16,22-23; 20,20-23) và Thầy Giêsu đã dạy cho các ông biết đâu là điều cốt yếu đối với các ông trong cuộc đi theo Người (16,24-28; 18,1-35; 20,24-28). Bây giờ, khi tất cả những điều được báo trước ấy đã xảy đến, các đồ đệ đi lại cuộc hành trình đó và sống lại các kinh nghiệm của cuộc hành trình trước đây trong ánh sáng mới của mầu nhiệm Phục Sinh.
Các đồ đệ là chứng nhân của những giáo huấn và những hành động quyền năng mà Thầy Giêsu đã thực hiện suốt cuộc hành trình cùng các ông từ Galilê. Các thực tại đó cũng cần được chiêm nghiệm lại dưới ánh sáng mới của cuộc Phục Sinh. Các ông sẽ hiểu ra rằng tất cả các hoạt động của Đức Giêsu đều được xác nhận giá trị do cuộc phục sinh của Người, và chỉ có thể hiểu đúng nếu xuất phát từ mầu nhiệm Phục Sinh mà thôi.
Điểm đến chính xác của cuộc hành trình của Nhóm Mười Một sẽ là ngọn núi. Ngọn núi đã được nói đến lần đầu tiên trong 5,1 và làm thành khung cảnh của bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu, thường được gọi là “Bài giảng trên núi”. Ở 5,1, lần đầu tiên chúng ta gặp biểu thức “các đồ đệ của Người”; họ được trình bày như là những người gần gũi nhất của Đức Giêsu và là đối tượng đầu tiên của những lời giáo huấn của Người. Được truyền phải đi đến ngọn núi, tức là các đồ đệ được kêu gọi tìm về nơi chốn khởi đầu mối tương quan chung của họ với Thầy Giêsu, và trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, họ phải trải nghiệm lại toàn bộ cuộc hành trình thế tạm của Người.
Đến ngọn núi ở Galilê, các đồ đệ được gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng sự kiện các ông thấy Người đã chỉ được mô tả rất vắn tắt bằng một động tính từ: “khi thấy Người”. Sau đó là hai phản ứng của các ông: bái lạy và hoài nghi. Bằng việc bái lạy, các ông diễn tả cách hiểu của mình về con người và phẩm giá cao cả của Đức Giêsu. Nhưng đồng thời, xảy đến sự hoài nghi. Tác giả Tin Mừng viết: “hôi dê êdistasan”. Trong Tân Ước, động từ “êdistazêin” (nghi ngờ) chỉ xuất hiện trong Mt 14,31 và 28,17. Ở 14,31 sự nghi ngờ của ông Phêrô liên quan đến quyền năng của Đức Giêsu. Ở 28,17 thì chính con người và sự hiện diện của Đức Giêsu bị các đồ đệ nghi ngờ. Vấn đề tranh luận là với cách nói “hôi dê”, tác giả Tin Mừng muốn nói tất cả Nhóm Mười Một nghi ngờ hay chỉ một số người trong họ mà thôi. Xem ra cả hai cách giải thích đều có thể đúng (bản Vulgata đọc là: “quidam autem dubitaverunt”). Dù hiểu theo cách nào, thì chuyện quan trọng vẫn là mối tương quan của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu Phục Sinh vẫn chưa hoàn hảo. Cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh còn phải được hoàn thành và xác nhận bởi sự kiện Chúa Phục Sinh ngỏ lời với họ.
“Đức Giêsu đến gần, nói với các ông” (c.18a). Từ bây giờ, chỉ một mình Đức Giêsu hành động. Người đến gần các môn đệ và nói với họ. Tác giả Mt có vẻ ưa dùng động từ “đến gần” (tổng cộng đến 52 lần, trong khi Mc 5 lần, Lc 10 lần và Ga chỉ 1 lần). Trong phần lớn các trường hợp (38 lần), chính Đức Giêsu là đích của sự “đến gần” này. Chỉ có hai trường hợp là Đức Giêsu “đến gần” và điểm đến luôn là các đồ đệ. Ở cuối trình thuật về biến cố hiển dung, Đức Giêsu đến gần các đồ đệ khi các ông đang rất đỗi sợ hãi, ngã sấp mặt xuống (17,6); Người chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ” (17,7), tức là Người chủ động thiết lập một sự hiệp thông với các đồ đệ đang tê liệt vì sợ hãi và làm cho các ông trở nên mạnh mẽ. Ở 28,17 các đồ đệ bái lạy Đức Giêsu, tức là đang ở tư thế cúi mình xuống đất, và đồng thời, (ít là) vài người trong số đang trải qua tâm trạng bối rối nghi nan. Một lần nữa, Đức Giêsu đến gần họ, và với lời của Người, Đức Giêsu định hướng cho cuộc sống và sứ mạng của họ trong tương lai. Người cho các ông biết Người là ai, quyền năng mà Người hiện có là thế nào, và họ cần phải làm gì…
Lời đầu tiên Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một xác quyết quan trọng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (c.18b). Người cho các ông biết Người đã nhận được gì từ Chúa Cha, và vị thế của Người từ nay là thế nào. Động từ “trao” được đặt ở thì aorist dạng thụ động thần học, cho thấy quyền bính mà Đức Giêsu Phục Sinh đã lãnh nhận có nguồn gốc là chính Thiên Chúa. Thì aorist cho biết việc trao quyền bính này đã xảy ra. Vậy đây không phải là một hy vọng hay một lời hứa, mà là một thực tại đã xảy đến dứt khoát. Đặc tính toàn diện của quyền bính mà Đức Giêsu đang có, được tác giả nhấn mạnh cách đặc biệt, cả về phương diện bản chất lẫn về phương diện phạm vi: “toàn quyền” và “trên trời dưới đất” (tức là toàn thể vũ trụ). Quyền bính này, như thế, tương ứng với quyền bính của chính Thiên Chúa. Trong quyền bính như thế, căn tính của Chúa Con được thể hiện.
Lời thứ hai Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một lệnh truyền long trọng:“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (cc.19-20a). Lệnh truyền “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” được bắt đầu bằng hạn từ “vậy”, cho thấy lệnh truyền đó được đặt nền tảng trên những gì vừa được khẳng định ở phía trước. Nói cách khác, nhiệm vụ thừa sai của Hội Thánh đặt nền tảng trên mầu nhiệm toàn quyền trên trời dưới đất đã được Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Hạn từ “môn đệ” xuất hiện 65 lần trong Mt 5,1 – 28,16 với ý nghĩa chỉ về các môn đệ của Đức Giêsu và luôn luôn được đặt ở số nhiều. Trong tư cách là một cộng đoàn nhỏ, họ hiện diện bên cạnh Đức Giêsu trong suốt hành trình của Người từ bài giảng trên núi đến cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh. Mối tương quan “môn đệ – tôn sư” này là yếu tố nền tảng, diễn tả và xác định sự hiệp nhất nên một của họ với Đức Giêsu và là nền tảng cho sự hiện diện liên tục của họ bên cạnh Người. Đồng thời, cũng chính mối tương quan đó với Đức Giêsu lại xác định mối tương quan của họ với nhau. Tất cả các đồ đệ đều chung nhau tư cách là môn đệ của Đức Giêsu; tư cách đó làm cho họ hiệp nhất với nhau và tạo thành một cộng đoàn thực sự chung quanh Đức Giêsu. Bây giờ, Chúa Phục Sinh trao phó cho họ nhiệm vụ kéo dài và đào sâu kinh nghiệm làm môn đệ đó của họ cho muôn dân. Như thế, tất cả những gì mà tác giả Tin mừng Mt đã nói trong suốt cuốn sách về tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ Người, đã không hề là chuyện quá khứ bị vượt quá rồi, nhưng là những thực tại luôn luôn có giá trị căn bản đối với nhiệm vụ của họ trong hiện tại và tương lai. Mối tương quan thiết thân của họ với Đức Giêsu đã trở thành khuôn mẫu phổ quát cho mối tương quan giữa người ta với Người. Điều mà họ phải làm cho thế giới, trước hết, không phải là đưa ra những giáo huấn, những huấn lệnh, những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu.
Lệnh truyền “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” cũng bao hàm nhiệm vụ của các môn đệ là biến đổi toàn nhân loại, tức là tất cả mọi dân, thành một cộng đoàn vĩ đại. Tư cách là đồ đệ nối kết con người với Đức Giêsu đồng thời nối kết con người lại với nhau. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu cũng đồng thời là bước vào cộng đoàn các đồ đệ của Người.
“Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” là nội dung chính yếu trong lệnh truyền của Chúa Phục Sinh cho các môn đệ của Người. Ngoài ra, có ba hành động khác được nối kết vào với nội dung chính yếu đó: đi, làm phép rửa và dạy bảo. Ba hành động này được trình bày, về mặt ngữ pháp, bởi ba động tính từ. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải lên đường, chứ không ngồi yên ở nhà mà chờ đợi muôn dân đến để làm cho họ thành môn đệ của Chúa. Hội Thánh thừa sai luôn luôn hiện hữu trong tư thế đi đến với muôn dân, một cách tự do, năng động và thân thiện. Hội Thánh “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” bằng cách “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền”. Mối tương quan thiết thân với Đức Giêsu, Vị Thầy duy nhất, là mối tương quan nền tảng. Người ta trở thành môn đệ bằng cách đón nhận phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và sống tư cách môn đệ bằng cách lắng nghe và tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu.
Lời thứ ba Đức Giêsu nói với các môn đệ là một sự bảo đảm trợ giúp: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (c.20b). Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ sứ mạng thừa sai phổ quát, và bây giờ, Người bảo đảm sẽ ban cho các ông quyền năng trợ giúp của chính Người. Quyền năng này trước hết liên quan đến việc thi hành sứ mạng và làm cho những người được sai đi trở nên vững mạnh. Nhóm Mười Một phải làm cho muôn dân trở thành đồ đệ của Chúa, phải làm phép rửa cho họ và dạy dỗ họ, nhưng chính Đức Giêsu ở với các ông và hoạt động qua các ông.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Tin Mừng Mt kết thúc với lời hứa trợ giúp long trọng (c.20b), tức là kết thúc với việc mở ra không giới hạn và hoàn toàn hướng đến sứ vụ phổ quát. Tác giả không nói gì về việc Chúa Giêsu Phục Sinh biến đi, càng không nói Người đã “lên trời”. Ông cũng chẳng nói gì về việc các môn đệ thực hiện lệnh truyền của Đức Giêsu. Bằng cách đó, hình như tác giả muốn cho thấy giá trị liên tục của lệnh truyền thừa sai, đồng thời khẳng định sự hiện diện thường hằng và đầy quyền năng của Đức Giêsu cho đến ngày tận thế.
2. Để đi đến chỗ được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, Nhóm Mười Một đã trải qua một cuộc hành trình “đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến”. Các ông đã đi trong sự tin tưởng vào lệnh truyền của Thầy, trong ý thức mạnh mẽ rằng Đấng Phục Sinh đã gọi họ là anh em, và trong niềm hy vọng mãnh liệt rằng họ sẽ được gặp Đức Giêsu ở đó. Có lẽ đó cũng là những tâm tình, xác tín và hy vọng mà chúng ta phải có trong hành trình đức tin hôm nay.
3. Sứ mạng thừa sai của Hội Thánh là “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” bằng cách “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Điều Hội Thánh đem đến cho thế giới trước hết không phải là những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu. Lệnh truyền “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” cũng bao hàm nhiệm vụ của các môn đệ là biến đổi toàn nhân loại, tức là tất cả mọi dân, thành một cộng đoàn vĩ đại. Và là thành cộng đoàn đó “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Bài 11. TRÁI TIM YÊU THƯƠNG
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tháng 6 hằng năm, phụng vụ dành riêng cho việc kính thờ Trái Tim Chúa Giêsu.
Tháng Trái Tim, bầu khí thiêng liêng thổi hơi ấm đạo đức bao phủ các cộng đoàn giáo xứ. Một cuộc trao đổi giữa trái tim tín hữu với trái tim Chúa Giêsu, giữa các trái tim tín hữu với cuộc đời.
Tấm lòng người Công giáo Việt Nam đối với Thánh Tâm đúng là tâm tình đạo đức nhiệt thành như là cách đáp trả lòng thương xót đặc biệt của Chúa.
Trái tim là trung tâm điểm của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, nên nói tới tình yêu Thiên Chúa, chúng ta liên tưởng tới Trái Tim Chúa Giêsu.
1. Trái Tim Chúa Giêsu
Tất cả cốt lõi của đạo Công Giáo gồm tóm trong một quả tim (x. Mt 11, 25-30 ), bởi lẽ  “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Trong cuộc khổ nạn, khi: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra” ( Ga 19, 34). Hình ảnh Chúa Giêsu trên thập giá với Trái Tim bị đâm thâu là đỉnh cao của Lời tình yêu được tỏ bày. Máu và Nước chảy ra, nguồn mạch tình yêu được khai sinh. Giáo Lý Hội Thánh số 478 dạy : “Trong suốt cuộc đời, cả khi hấp hối và chịu khổ nạn, Đức Giêsu biết và yêu mến mọi người và từng người chúng ta. Người đã hiến mạng cho mỗi người chúng ta. “Con Thiên Chúa đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu chúng ta bằng con tim nhân loại. Do đó Thánh Tâm Chúa Giêsu, bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta và để cứu độ chúng ta (x. Ga l9,34), “được coi là dấu chỉ và biểu tượng tuyệt vời của tình yêu mà Đấng Cứu Thế không ngừng dâng lên Chúa Cha hằng hữu và dành cho mọi người không trừ ai”. ( ĐGH Pio XII, TĐ «Haurietis aquas»: DS. 3924 ; x. DS 3812).
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu được thiết lập từ những cuộc hiên ra của Chúa Giêsu cho thánh nữ Magarita Maria Alacoque, vào những năm cuối của thế kỷ 17. Vào năm 1899, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII chính thức lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cho toàn thể Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với thánh nữ và tỏ cho thánh nữ biết Chúa yêu thương loài người đến thế nào. Ngài nói với thánh nữ: “Nầy là Trái Tim đã yêu thương loài người đến nỗi không còn tiếc gì với họ”.
Tôn thờ Thánh Tâm là nòng cốt của đức tin Công giáo như ĐGH Piô XI và Piô XII đã nói: “Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là điểm cốt yếu của đạo chúng ta“. ĐGH Lêo XIII đã dâng hiến toàn thể nhân loại cho Thánh Tâm Chúa. Tình yêu phát xuất từ trái tim Chúa là tình yêu cứu độ và thánh hoá. Nhờ ơn Chúa, trái tim chúng ta được cải đổi, để biết sống bé nhỏ trong tình yêu trái tim Chúa.
2. Trái tim Chúa Giêsu và trái tim Mẹ Maria
Trong niên lịch Phụng vụ của Giáo Hội, lễ kính Thánh Tâm Chúa và lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ đi liền nhau. Các nhà hội họa cũng thường vẽ Trái Tim Chúa Giêsu song song với Trái Tim Đức Mẹ, dưới hai biểu hiệu đau đớn giống nhau: Trái Tim Chúa Giêsu có vòng gai quấn quanh, và Trái Tim Đức Mẹ có lưỡi đòng đâm thâu. Hai Trái Tim biểu hiệu cho hai tình thương mến giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và tình thương yêu của hai Mẹ Con đối với loài người chúng ta.
Trên đỉnh đồi Canvê, hai Trái Tim đều bị đâm thâu qua. Trái Tim Mẹ bị đâm bằng thanh gươm, như lời cụ già Simêon đã tiên báo. Trái Tim Con Mẹ bị đâm thâu bằng lưỡi đòng của tên lính, máu cùng nước chảy ra cho đến giọt cuối cùng (x. Ga 19, 31-37). Trái Tim Con bị đâm thâu qua; Trái Tim Mẹ đớn đau vô cùng. Máu và nước từ Trái Tim Con chảy ra; Những dòng lệ từ đôi mắt Mẹ tuôn rơi chan hòa.
Ở Paray le Monial bên Pháp, Chúa đã tỏ Trái Tim cho Thánh nữ Margarita và dạy làm việc đền tạ Trái Tim Chúa bằng việc tôn sùng Trái Tim, làm giờ Thánh đền tạ, rước lễ các ngày thứ Sáu đầu tháng. Ở Fatima bên Bồ Đào Nha, Đức Mẹ hiện ra cho ba em nhỏ truyền dạy loài người ăn năn đền tội, siêng năng lần hạt Mân Côi, tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng.
3. Trái tim yêu thương
Trái tim là nguồn phát máu đi nuôi thân thể con người, khi nào trái tim ngừng đập, lúc ấy không còn sự sống nữa. Trái tim làm việc kinh khủng để cung cấp máu, không hề nghỉ một giây phút, từ lúc con người sinh ra cho đến lúc chết. Tính ra mỗi phút trái tim chuyển được 10 lít máu,mỗi giờ được 600 lít, một ngày được 14.000 lít, một năm được 5.110.000 lít. Và nếu ai sống được 60 tuổi thì trái tim đã làm việc để chuyển đi được 30.000.000 lít máu. Một ngày, tim đập được 100.000 lần, có một sức mạnh tổng cộng có thể nâng được một toa xa hỏa nặng 45 tấn lên cao một mét. Quả tim có sức mạnh phi thường, không ai ngờ được.
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ. Mỗi người với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 14.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số. Điều bất ngờ không dừng ở đó, và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 14.000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkiel với toàn thể dân Do thái: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới”. Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới.
Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân; Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới. Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh Thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi, Người cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi sẽ trở thành người thiên cổ, nhưng trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa, trái tim tôi vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là tôi đang sống, đang hạnh phúc trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi?
Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha. Lọc hiềm thù để còn yêu thương. Lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đem đến chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống tôi sẽ chết dần chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh Thần đang đổi mới cuội đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng giòn yếu đuối này, tôi cần được tham dự vào sự sống của Người.
Như thế, từng phút giây, tôi được mời gọi:
Hãy yêu như đang sống.Hãy sống như đang yêu.
Yêu để sự sống tồn tại. Sống để tình yêu có mặt
.
Tình yêu làm hỗn mang trở nên mầu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã bước vào trần thế bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Thiên Chúa biết tôi mỏng giòn và là bình sành dễ vỡ nên người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa khiến tôi không ngừng tự hỏi : “Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm”.
Lạy rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, thương xót chúng con.
Lạy Trái Tim cực thanh cực tịnh Đức Bà Maria cầu cho chúng con.

Bài 12. MẦU NHIỆM TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI
LM ĐAN VINH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20
(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. Ý CHÍNH
Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố đã được Chúa Cha cho toàn quyền trên trời dưới đất, Người sai các ông đi khắp nơi thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH
- C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách thế chỗ cho Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giêsu sắp bị kết án tử hình, Giu-đa đã bị hối hận. Hắn liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng đã bị họ từ chối. Giu-đa thất vọng nên đã ném tiền vào cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giêsu đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến quả núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn : Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giêsu cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, nên còn gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao sứ mệnh loan Tin mừng phổ quát cho các ông. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giêsu là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt tới đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây chính là sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có người còn hoài nghi.
- C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố: Người đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). +Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần:  Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).
- C 28,20: +Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến tận thế nhờ Thánh Thần và qua các mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Như vậy Đức Giê-su chính là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời? 2) Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phản nộp Thầy? 3) Tại sao Chúa Phục Sinh truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê? 4) Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và hoài nghi về điều gì? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian, do Xa-tan hứa ban khi nào? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, hầu ứng nghiệm với sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào? Lời tuyên sấm ấy nội dung ra sao? 8)Chúa truyền cho Hội Thánh phải làm cho những ai trở thành môn đệ của Người? 9) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh cần tiếp tục làm gì cho họ? 10) Câu nào trong đọan Tin mừng trên chứng minh Chúa Giêsu mặc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1.LỜI CHÚA: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
2. CẦU CHUYỆN: CHÀNG SINH VIÊN VÀ ÔNG GIÀ
Trên chuyến xe lửa từ Ly-ông đi Pa-ri (Lyon-Paris), một thanh niên ăn mặc sang trọng, ngồi bên một ông già có dáng vẻ hơi nhà quê. Bấy giờ ông cụ tay cầm cỗ tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Chờ cho ông cụ đọc kinh xong, chàng thanh niên liền gợi chuyện: “Cháu có thắc mắc là không biết tại sao đến giờ này mà ông vẫn còn tin vào những điều huyền hoặc của tôn giáo như thời Trung cổ? Chắc ông cũng tin mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ sinh con mà còn đồng trinh và những chuyện đại loại như thế mà mấy ông cha sở vẫn nhai đi nhai lại trong nhà thờ chứ gì?” Ông già trả lời: “Đúng vậy! Thế còn cậu thì sao?” Chàng trai liền cười rộ lên và nói: “Cháu mà lại tin vào những điều nhảm nhí đó sao? Cháu đã khám phá ra sự thật khi học đại học. Thiết tưởng ông cũng nên bắt đầu bỏ xâu chuỗi kia đi là vừa, để dành thời giờ đọc các sách báo khoa học tiến bộ!” Ông lão liền nói: “Tôi cũng muốn được như vậy, nhưng lại không biết tìm đâu ra các sách báo khoa học đó!” Chàng thanh niên đáp: “Được rồi, cháu sẽ gửi biếu ông một số sách báo khoa học. Thế ông có biết đọc không?”. Ông cụ trả lời: “Cám ơn cậu, tôi biết đọc”. Chàng thanh niên nói: “Thế thì tốt. Nhưng xin ông cho cháu biết địa chỉ để cháu sẽ gửi sách đến cho ông”. Bấy giờ ông già liền rút từ trong túi áo ra một tấm danh thiếp trao cho chàng thanh niên. Cậu ta ngạc nhiên trố mắt lên nhìn vào mấy hàng chữ trên tấm danh thiếp: “Lu-y Pát-tơ (Louis Pasteur) – Viện nghiên cứu khoa học Pa-ri (Paris)”. Thì ra ông cụ mà chàng thanh niên kia đánh giá là kẻ mê tín hủ lậu, không ai khác hơn, lại chính là nhà bác học lừng danh Lu-y Pát-tơ, người đã có nhiều bằng sáng chế khoa học và đã viết nhiều đầu sách nghiên cứu khoa học, mà anh ta rất say mê đọc với lòng khâm phục!
3. SUY NIỆM
1) Đạo Công Giáo có nhiều chân lý mầu nhiệm, là những điều mặc khải của Thiên Chúa, đã được Đức Giê-su cho biết, được Hội Thánh giảng dạy. Các chân lý đức tin ấy tóm lại trong kinh Tin Kính. Trong số các mầu nhiệm đức tin thì Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm quan trọng nhất và là nền tảng của các mầu nhiệm khác. Đã là mầu nhiệm thì đương nhiên người ta khó lòng thấu hiểu được. Tuy nhiên nếu biết khiêm tốn xin ơn Thánh Thần soi sáng, và cố gắng tìm tòi học hỏi thì người ta cũng có thể lãnh hội được phần nào ý nghĩa, và sẽ không thấy có gì đối nghịch giữa khoa học và đức tin tôn giáo, như câu chuyện về nhà bác học Lu-y Pát-tơ nói trên đã cho thấy.
2) Cũng có nhiều chân lý đức tin mà những người vô tín khó lòng chấp nhận. Chẳng hạn khi nghe Đức Giê-su giảng về bí tích Thánh Thể, thì một số môn đệ đã chê trách: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”… Và “từ lúc đó có nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,54-66). Cũng có một số chân lý đức tin khác được Đức Giê-su dạy như mầu nhiệm tử nạn và phục sinh… mà do thiếu đức tin nên các môn đệ không hiểu ngay được. Phải đợi đến khi được Chúa Phục Sinh nhiều lần hiện ra dạy dỗ cho các ông am hiểu Kinh thánh và nhờ tham dự nghi thức Bẻ Bánh, các môn đệ mới tin vào mầu nhiệm này (x Lc 24,13-35). Ngòai ra còn nhiều mầu nhiệm khác, trong đó có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, khi nghe Đức Giêsu rao giảng, các môn đệ chưa thể hiểu ngay, phải đợi đến khi Thần Khí của Chúa Phục Sinh tác động vào lễ Ngũ Tuần, các ông mới lãnh hội được sự thật tòan vẹn, đúng như lời Đức Giêsu dạy như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không còn sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).
3) Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Dựa vào lời Chúa Giêsu mặc khải trong Tân Ước Hội Thánh đã rút ra chân lý mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như sau:
Chỉ có Một Thiên Chúa và “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,7), nhưng Người lại có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần (x Mt 3,16-17; Mt 28,19). Vì Ba Ngôi cùng chung một bản tính và cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi, không Ngôi nào lớn hơn (x Ga 14,10). Vai trò của mỗi Ngôi như sau:
- Chúa Cha sáng tạo nên ta: Khi sáng tạo vũ trụ vạn vật và loài người. Thiên Chúa xuất hiện là Ngôi thứ Nhất như một người Cha. Người dùng Lời quyền năng (Ngôi Hai) làm cho vạn vật từ không xuất hiện (x. St 1,3), và tiếp tục quan phòng gìn giữ để các tạo vật ấy tồn tại, phát triển và tiến hóa ngày một hòan thiện hơn. Người cứu độ loài người bằng việc sai Con Một (Ngôi II) nhập thể cứu chuộc và ban Thánh Thần (Ngôi III) tiếp tục chương trình cứu độ lòai người qua Hội Thánh.
- Chúa Con cứu chuộc ta: Khi tới Giờ đã định, Chúa Cha (Ngôi I) sai Con Một là Chúa Con (Ngôi II) xuống thế làm người là Đức Giê-su Ki-tô (x. Ga 3,16). Người thi hành sứ mệnh Thiên Sai bằng việc đi khắp nơi công bố Tin mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, và cuối cùng tình nguyện chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người và sống lại để ban ơn cứu độ loài người. Đức Giê-su chính là “Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,16), là “Con rất yêu dấu luôn làm hài lòng Cha” (Mc 1,11). Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa (x. Dt 1,3). Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Người luôn hiệp nhất với Chúa Cha (x. Ga 17,22).
- Chúa Thánh Thần thánh hóa ta: Thánh Thần tuôn đổ thần khí ân sủng xuống trên các Tông đồ và các môn đệ trong lễ Ngũ tuần, ban ơn soi sáng giúp lương dân gia nhập Nước Trời là Hội thánh, tiếp tục trợ giúp Hội thánh chu toàn ba sứ mệnh của Chúa Giêsu: Một là làm ngôn sứ rao giảng Tin mừng; Hai là làm tư tế thánh hóa loài người nhờ các phép bí tích do Chúa Giêsu thiết lập; Ba là làm vương đế phục vụ đoàn chiên được trao phó…Đấng ấy là Chúa Ngôi Ba, là Thánh Thần, Thánh Linh hay Thần Khí.
4) Sống tình yêu thương noi gương Gia Đình Ba Ngôi Thiên Chúa: Thánh Gioan trong thư thứ nhất đã viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối: Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Dây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình”(1Ga 4,20-21).
4. THẢO LUẬN: 1) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì để đào sâu về giáo lý đức tin công giáo? 2) Để sống mầu nhiệm tình yêu của Gia Đình Ba Ngôi Thiên Chúa, tôi sẽ thể hiện tình thương thế nào đối với những người tôi không ưa hoặc có ác cảm?          
5. CẦU NGUYỆN
LẠY CHÚA, Thánh Phao-lô dạy: “Tình yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7). Xin Chúa giúp chúng con năng đến thăm những người nghèo khổ bệnh tật…như Mẹ Ma-ri-a đã mang thai nhi Giêsu đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a khi xưa. Xin cho con biết vui vẻ chào hỏi người khác noi gương Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng chào hỏi bà Ê-li-sa-bét trước để chia sẻ miềm vui ơn cứu độ cho thai nhi Gio-an trong lòng mẹ. Trong những ngày này, xin Chúa giúp chúng con biết sống hiệp thông với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi qua thái độ khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa đã sai Con Một nhập thể làm người để ở cùng chúng con và nêu gương yêu thương phục vụ lòai người chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Bài 13. NHÂN DANH AI?
PM. CAO HUY HOÀNG
“Tôi rửa anh nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Một câu công thức ngắn gọn, nhưng quan trọng vô cùng. Quan trọng vì lấy danh nghĩa của Thiên Chúa Ba Ngôi mà làm công việc rửa cho người khác được sạch tội tổ tông truyền, kể cả tội cá nhân người ấy phạm.
Nhân danh, lấy danh nghĩa hay nói cách khác đúng hơn là thừa lệnh, là được phép làm do lệnh của ai đó, do uy quyền chính đáng của ai đó đã ban cho.
Cũng vậy, người Công Giáo làm dấu Thánh Giá với câu “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” khi làm tất cả các việc từ nhỏ đến lớn: trước sau bữa ăn, trước khi đi ngủ sau khi thức dậy, trước sau khi họp hội, làm việc, trước sau Thánh Lễ, trước sau giờ kinh nguyện… Tất cả các việc đều nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, hay nói đúng hơn làm gì cũng có, cũng vì danh dự, uy tín của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Vâng, sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, để từ đó, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và được hưởng ơn cứu độ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Từ đây, chúng ta sống là sống cho Chúa, sống nhờ tương quan mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa, sống nhờ tác động của quyền lực Thiên Chúa tự bên trong ra bên ngoài, tự suy nghĩ ra đến công việc. Thánh Phaolô suy niệm còn sâu xa hơn nữa về Bí Tích Rửa Tội của chúng ta như sau: “Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự, nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Đức Kitô: vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 16 – 17).
Mỗi tín hữu được đặt trong thế gian để thế gian thấm nhuần ơn cứu chuộc. Mỗi tín hữu được sai đi để rửa tội cho thế gian, cho mọi người để mọi người, để thế gian nhận lấy tình thương vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, mỗi tín hữu cũng luôn được đặt trước sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và thế gian, nhất là khi thế gian đòi lên làm chủ, làm chúa tể. Nhân danh quyền lực tối thượng của thế gian, hay nhân danh quyền năng vô biên của Thiên Chúa? Nhân danh sức mạnh của đồng tiền, của sắc đẹp, của kỹ – mỹ – công nghệ khoa học hay nhân danh toàn Chân, toàn Thiện, toàn Mỹ của Thiên Chúa?
Sách Đệ Nhị Luật củng cố niềm xác tín của chúng ta vào Thiên Chúa như sau: “Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi” (Đnl 4, 39 – 40).
Vâng, “không có Chúa nào khác”. Bởi vậy không thể có chuyện miệng đọc, tay làm dấu “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” mà lại đồng thời làm chuyện chống lại Thiên Chúa, chống lại Giáo Hội, chống lại Chân Lý của Chúa.
Tôi và bạn hẳn đã có đôi lần nếu không nói là nhiều lần hay tất cả, đã vừa nhân danh Thiên Chúa lại vừa khiếp sợ, không đủ can đảm làm chứng cho Công Lý của Chúa, nên đành buông xuôi cho Sự Dữ lan tràn, hoặc còn hơn thế nữa, tiếp tay cho Sự Dữ lan tràn. Quả là chuyện khôi hài có thật!
Hoặc khôi hài hơn nữa là vừa nhân danh Thiên Chúa vừa quy phục ma quỷ, quy phục thế lực chống lại Thiên Chúa.
Trở lại với lời khuyên của sách Đệ Nhị Luật, thiết nghĩ mỗi chúng ta nên đặt lại vấn đề nhân danh cách nghiêm túc để có thể nói: Tôi chẳng nhân danh ai cả, tôi chỉ nhân danh Chúa Ba Ngôi mà thôi. Bởi chẳng có cái nhân danh nào được cái danh dự chính đáng, có được cái quyền lực lớn lao, bền vững trong cuộc đời này cả.
Lễ Chúa Ba Ngôi, cơ hội cho mỗi chúng ta kiểm lại tương quan của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để mỗi khi đọc và dấu Thánh Giá  trên mình “nhân danh Cha và Con Và Thánh Thần” nhắc nhở rằng “chúng ta thuộc về Thiên Chúa”, chúng ta không thuộc về thế gian này. Và với ý thức ấy, chúng ta không thể nhân danh một chúa thế gian nào khác cho dẫu được lợi lộc quyền lực, được ân ban danh hiệu yêu nước, được tuyên dương có văn hóa, được chia chác cơ nghiệp hư nát thế gian…
“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18 – 20).
Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà sống cho xứng đáng người con của Thiên Chúa trong cuộc đời này, hẳn là bước khởi đầu hợp lý cho việc thực hiện lệnh truyền “giảng dạy và rửa tội cho muôn dân” vậy.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được vinh dự nhận lấy Bí Tích Thánh Tẩy, được vinh dự gọi Thiên Chúa là Cha, được thừa kế quyền nghĩa tử cùng với Chúa Con và được soi dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con hoàn toàn thuộc về Chúa, “nhân danh chỉ một Chúa” mà sống giữa thế gian để làm chứng cho Chúa, cho tình yêu Chúa, cho Nước Chúa. Amen.
Bài 14. Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ
Lm. Jude Siciliano, OP.
Thưa quý vị,
Sách Đệ nhị luật hôm nay mở đầu bằng cặp câu hỏi: “có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế? hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng ?” Có lẽ chúng ta nên đổi dấu câu sau hai câu này; không phải dấu hỏi nhưng đúng hơn là một khẳng định về sự kiện và phân vân. Chúng nên được chấm vài dấu chấm cảm, vì chúng bày tỏ sự kinh ngạc, sửng sốt. “Có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế!!! Hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng!!!” Những dấu chấm cảm còn tiếp theo, “có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc!!!” Không phải là những câu hỏi, nhưng là một lời tuyên xưng vui tươi về đức tin.
Thiên Chúa của chúng ta như thế nào? Đó là Đấng khơi lên biết bao dấu chấm cảm trong ký ức và cảm xúc của chúng ta. Ôi chao! Làm sao một kết luận như thế có thể định nghĩa về Thiên Chúa được? “Chao ôi!”
Mười Điều Răn và cách mà dân đáp trả lại những đòi hỏi ấy, mãi tới chương sau của Đệ nhị luật mới xuất hiện. Dân cần được nhắc nhớ rằng Thiên Chúa khoan dung độ lượng với họ và vẫn luôn trung tín. “Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa”. Chỉ một từ “Chao ôi!” Nay chúng ta biết phải làm sao để đáp lại Thiên Chúa khoan dung rộng lượng của chúng ta. Do đó, Điều Răn không chỉ là một bản liệt kê những điều không được làm, nhưng còn là sự đáp lại với Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm đến chúng ta, Đấng là sự che chở, hướng dẫn và sức mạnh của Chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta không phải là người lặng lẽ đứng ngoài quan sát, nhưng là Đấng lên tiếng “giữa ngọn lửa” và chúng ta đã nghe thấy và sẵn lòng đáp lại.
Trong thư Rôma, chúng ta được khích lệ tự tin quay lại với Thiên Chúa vì Thánh Thần đảm bảo với chúng ta rằng chúng ta là con cái dấu yêu của Thiên Chúa. Hôm nay là đại lễ của sự tương quan – tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa Thiên Chúa với chúng ta. Đó là mối tương quan duy nhất. Thánh Phaolô nói cho tín hữu Rôma biết họ không phải là những nô lệ khom lưng cầu xin lòng thương xót hay được để được nhận lời, nhưng họ là con. Đế quốc Hylạp và Rôma được xây dựng trên cơ cấu chủ-nô. Thử tưởng tượng xem tin này vui biết chừng nào đối với dân chúng, những người quá quen với việc làm nô lệ và sống giữa những người nô lệ, nay được nghe thánh Phaolô nói rằng chúng ta không phải là những người nô lệ, nhưng là dưỡng tử của Thiên Chúa. Làm sao chúng ta dám chắc điều này, nhất là khi chúng ta chưa cảm nhận được một tương quan khắng khít như thế với Thiên Chúa? Khẳng định đó là công trình của Thánh Thần. “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa…” Lắng nghe tiếng của Thánh Thần trong chúng ta, đảm bảo với chúng ta rằng: “Ngươi là con yêu dấu của Thiên Chúa”.
Hôm nay, chúng ta không cử hành một giáo thuyết, nhưng là tâm điểm của đức tin: trong Đức Kitô chúng ta có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, chúng ta là con Thiên Chúa và “đồng thừa tự với Đức Kitô”. Chúng ta không cần phải sợ một Thiên Chúa chung chung và xa xôi, vì Thiên Chúa là “Cha” của chúng ta, người cha đã đến cứu và nhận chúng ta làm con. Thư Phaolô nhắc chúng ta biết rằng trong mắt Thiên Chúa, chúng ta được xem như một nhân vị khác, “Chao ôi!”
Trong thế giới của chúng ta, việc chúng ta là ai phụ thuộc rất nơi quốc gia và nguồn gốc gia đình, những thành tích kinh tế và giáo dục. Những người nào đứng nhất sẽ được biết đến và kính trọng; những người chẳng có gì sẽ chỉ là thành phần của đại đa số thường dân. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thực hiện bởi Thiên Chúa nơi Đức Kitô, trong sức mạnh của Thánh Thần. Là con Thiên Chúa, chúng ta được Thánh Thần tác động để sống căn tính của chúng ta: để nhìn người khác qua đôi mắt của Thiên Chúa, là anh chị em của ta.
Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta lưu tâm đến anh chị em chúng ta trong cộng đoàn Kitô hữu. Chung ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa và cảm thương chăm sóc lẫn nhau, không phải như những nô lệ khúm lúm làm theo mệnh lệnh, nhưng như “dưỡng tử”. Vì thế, chúng ta phục vụ không phải vì sợ hãi, hay bị ép buộc nhưng như con cái Thiên Chúa được đảm bảo chắc chắn về phận vị của mình trước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đảm bảo rằng là con cái Thiên Chúa, chúng ta “được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô”. Là người thừa kế, chúng ta mong chờ gia sản mà chúng ta chưa có. Niềm hy vọng đó kiện cường chúng ta để chúng ta có thể chịu đựng và vượt qua những khốn khó hiện nay.
Thời các môn đệ, các ngài cảm nghiệm được những xung đột giữa họ khi sứ vụ vượt ra khỏi khuôn khổ của những người Dothái để đi ra với thế giới Dân Ngoại. Chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn tương tự khi vươn ra với những nền văn hóa đa dạng và những kiểu giải thích đức tin cũng như thực hành tôn giáo của họ. tại sao chúng ta vượt qua những khó khăn và phải đón nhận những yêu cầu quá sức như thế? Vì lời Đức Giêsu trong Tin mừng Mátthêu là “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Không có một nhóm nào trên thồ gian được gọi là “môn đệ hạng nhất”. Không nên có những phân biệt chủng tộc, giới tính, tuổi tác hay giàu nghèo. Tất cả chúng ta đều lãnh nhận Phép Rửa của các môn đệ và được kêu gọi để thông dự trọn vẹn vào cộng đoàn Kitô hữu.
Làm sao các môn đệ biết được khi nào thì lời dạy của họ được những người nghe đón nhận? điều kiện tiên quyết ở giai đoạn này không phải là vấn đề giáo lý nhưng là thái độ luân lý. Những người được rửa tội và được nghe các môn đệ rao giảng thực hành những gì Đức Giêsu dạy các môn đệ: yêu mến Thiên Chúa và bày tỏ tình yêu đó qua việc yêu mến người thân cận. Những gì chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính hôm nay không chỉ là tuyên xưng mang tính giáo lý, nhưng là sự xác quyết về Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và tất cả cuộc sống của chúng ta được quy hướng về Ngài.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu đưa chúng ta trở lại Galilê nơi các môn đệ đầu tiên được mời gọi. Khung cảnh diễn ra trên núi, cũng như những biến cố quan trọng khác trong sách thánh. Trong Tin mừng của Mátthêu, núi cao là nơi Đức Giêsu rao giảng, nơi Người biến hình và nay là lần hiện ra cuối cùng của Người.
Câu chuyện nghe giống như một trong những lần hiện ra sau phục sinh. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ; họ nhận ra Người va họ thờ lạy Người – “nhưng họ hoài nghi”. Rồi Đức Giêsu tuyên bố quyền năng của Người và lệnhcho các môn đệ: “…hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.
Phép rửa là cách mà những ai không được kinh nghiệm trực tiếp về Đức Giêsu nay có thể gặp gỡ Đức Kitô và được đưa vào trong cộng đoàn tín hữu. Tuyên tín trong phép rửa nhấn mạnh niềm tin Chúa Ba Ngôi của Giáo hội sơ khai. Sau khi rửa tội, các môn đệ còn phải giảng dạy. Hoán cải và thánh tẩy là quan trọng, nhưng không phải là những bước duy nhất trong tiến trình. Việc giảng dạy cũng cần thiết sau đó để những thành viên mới được hiểu sâu hơn về những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong đời họ. Tin mừng Mátthêu kết thúc với lời hứa của Đức Giêsu ở lại với các môn đệ, “cho đến tận thế”.
Bài 14. LỄ CHÚA BA NGÔI – BA NGÔI TÌNH YÊU
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chính yếu trong niềm tin của người Kitô hữu, tuy nhiên đây lại là mầu nhiệm khó giải thích bằng những lý luận hoặc hình dung theo ngôn ngữ của con người. Ngày nay người ta hay nói đến các sản phẩm ba trong một, nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là một sự hòa trộn tổng hợp của ba thành phần, mà là sự kết hợp tình yêu nhiệm mầu của Ngôi vị Thiên Chúa Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà chúng ta không thể lý giải được.
Mặc dù Kinh Thánh Cựu ước đã nhiều lần gợi lên hình ảnh và hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhắc đến Thần Khí và Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhưng chỉ có Đức Giêsu Đấng đến từ Thiên Chúa Cha, Ngài mới tỏ bày cho chúng ta một cách rõ ràng nhất về một Thiên Chúa, Ngài có Ba Ngội: Cha, Con và Thánh Thần.
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về chính Ngài và về Thiên Chúa. Về chính mình, Đức Giêsu đã khẳng định với các tông đồ rằng, Ngài đã được Thiên Chúa Cha trao cho toàn quyền trên trời và dưới đất. Điều đó có nghĩa rằng, qua cuộc tử nạn và phục sinh trong vâng phục và yêu mên Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã hoàn toàn làm theo ý Thiên Chúa Cha và được Chúa Cha chấp nhận sư hy sinh của Ngài và nay, Thiên Chúa Cha ban tặng và trả lại vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa cho Ngài và còn đặt Ngài làm Chúa tể trên trời dưới đất. Vinh quang và danh dự này được trao ban cho Đức Giêsu, tức là trao ban cho cả hồn và xác, cho cả bản tính Thiên Chúa và bản tính Nhân loại của Chúa Giêsu, vinh quang của một vị Thiên Chúa.
Đó chính là lý do mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ ra đi và làm cho mọi người nhận biết, tôn thờ vinh quang và địa vị Thiên Chúa ở nơi Ngài và trở thành môn đệ của Ngài. Trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, tin nhận vinh quang Thiên Chúa ở nơi Chúa Giêsu cũng đồng thời là tin nhận vinh quang danh dự của chính Thiên Chúa, và vì thế, những ai tin thì sẽ được lãnh nhận phép rửa không phải bởi ai khác dưới trần gian mà là nhân danh chính Thiên Chúa Cha và Con và Thánh Thần, người ấy sẽ được gia nhập vào gia đình của Thiên Chúa và là người nhà của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Từ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta nhìn lại những biến cố trong Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy rõ hơn Thiên Chúa Ba Ngôi đã hoạt đông một cách liên tục và mạnh mẽ trong vũ trụ và trong lịch sử thế giới. Bài đọc một sách Đệ nhị luật đã nhìn lại cả một lịch sử dài của dân tộc và nghiệm ra bàn tay quyền năng của Thiên Chúa là Cha yêu thương, chính Ngài là tác giả từ công trình tạo dựng đến công trình giải thoát, từ vũ trụ, muôn vật muôn loài tốt đẹp, đến con người, đều là thành quả của quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa mà không có một thần minh nào có thể làm được. Cũng chính bởi cánh tay hùng mạnh của Ngài với bao phép lạ cả thể Thiên Chúa như một người Cha, dẫn đưa dân Ngài ra khỏi Ai Cập, bảo vệ họ khỏi bàn tay của Pharaon và dẫn đưa họ về miền đất hứa. Không dừng lại ở đó, trong hoang địa, Thiên Chúa lại lấy tình cha mà săn sóc giữ gìn đoàn dân là con cái của Ngài, dù nhiều lần chúng ngỗ nghịch phản bội, vậy mà Thiên Chúa vẫn yêu thương và còn cam kết nhận họ làn dân riêng và chăm sóc họ bằng tình thương của một người cha.
Tình cha của thiên Chúa không chỉ dành cho dân Israel mà còn dành cho chúng ta là dân mới của Ngài là những người đã được Đức Giêsu cứu chuộc, được đón nhận và đưa vào gia đình của Thiên Chúa, chúng ta vẫn nhận được tình yêu quan phòng của Ngài từng giây từng phút. Thiên Chúa như một người cha nhìn xa thấy trước Ngài đã yêu thương và quan phòng sắp đặt cho chúng ta những điều tốt đẹp, nâng đỡ chúng ta khi chúng ta gặp khó khăn vấp té và đồng hành an ủi chúng ta khi chúng ta mệt mỏi trên đường đời, ban tặng cho chúng Người Con Một của Ngài để làm bạn và là người đồng hành dẫn dắt chúng ta.
Không dừng lại ở đó, Thiên Chúa còn ban Thánh Thần là sức mạnh, là tình yêu của Ngài cho chúng ta.  Thư Roma đã cho chúng ta biết rằng chính nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta mới có thể sống đúng với tư cách làm con Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần soi sáng, chúng ta mới có thể nhận biết và tuyên xưng Chúa là Cha, và Thánh Thần giúp cúng ta sống theo gương mẫu của Người Con là Đức Giêsu, vì chỉ khi sống như Đức Giêsu chúng ta mới có thể và xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha của mình, điều đó Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta. Thánh Thần của Thiên Chúa còn tiếp tục soi sáng hướng dẫn giúp mỗi người có thể đón nhận và hưởng tọn vẹn ơn làm Nghĩa tử của Thiên Chúa và thừa hưởng gia nghiệp cùng với Đức Giêsu, vì Ngài là Trạng Sứ, là Thần Thần Chân lý.
Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần nhấn mạnh cho chúng ta về vai trò của chúa Thánh Thần, Thánh Thần sẽ soi sáng cho chúng ta hiểu những gì Chúa Giêu đã dạy, là Đấng Bảo trợ cho mỗi người trước tòa Thiên Chúa, là ngọn lửa yêu mến bừng cháy giúp chúng ta thêm lòng yêu mến, là Thần Chân lý dẫn chúng ta trên con đường sự thật, và chắc chắn Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong Chúa Giêsu như thế nào, thì Ngài cũng hoạt động  và hướng dẫn những người tin vào Chúa Giêsu như vậy.
Thưa quý ông bà và anh chị em, mỗi người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa ba Ngôi. Thánh Kinh đã cho thấy, khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa đã “bàn bạc” với gia đình của Ngài rằng: Nào chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, và Thiên Chúa đã dựng nên con người là nam và nữ theo hình anh của Ngài. Vì được dựng nên giống Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi Tình yêu nên chúng ta cũng được mời gọi sống tình yêu thương như Thiên Chúa, và có thể nói rằng con người giống Thiên Chúa ở khả năng yêu thương và khi càng yêu thương, chúng ta càng giống Thiên Chúa.
Trước hết, mỗi người hãy xây dựng gia đình của mình thành một gia đình thánh thiện, yêu thương và hạnh phúc giống như Gia Đình Ba Ngôi của Thiên Chúa. Từng thành viên trong gia đình, từ người cha, đến người mẹ và các con đều phải có trách nhiệm này, trứơc hết bằng việc: làm cho từng cá nhân trong gia đình nên thánh bằng đời sống thánh thiện, canh tân biến đổi cuộc sống mỗi ngày, cắt tỉa những gì là phàm tục, ra khỏi tâm hồn và cách cư xử, vun đắp cho mình và cho các thành viên khác bằng những lời nói và việc làm yêu thương.
Các bậc cha mẹ, hãy thể hiện tình cha tình mẹ trên con cái bằng sự chăm lo cho con cái khôn lớn nên người và nhất là nên con cái Chúa, hãy thực hiện tình yêu thương sáng tạo mà Thiên Chúa đã ban các bậc cha mẹ để cộng tác với Ngài trong việc sinh sản và giáo dục con cái, hãy quảng đại đón nhận, yêu thương những “tạo vật” là những mầm sống những thai nhi mà các bậc cha mẹ đã hình thành nên trong cung còng của mình, vì nó chính là hình ảnh và là kết quả tình yêu của các bậc cha mẹ, hãy đón nhận chứ đừng hủy hoại nó vì bất cứ lý do gì.
Còn với các bạn trẻ và tất cả những người làm con, chúng ta sẽ phải giống như Người Con là Đức Giêsu, luôn yêu mến và vâng lời Cha mẹ của mình vì Chúa muốn như thế, vì các Ngài là những người được Chúa cậy nhờ để sinh thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng ta, đừng bao giờ tỏ ra vô ơn hay ngỗ nghịch với các Ngài, đừng bao giờ khing thường hay đối xử tệ bạc với các Ngài, hãy làm tất cả những điều tốt nhất cho các Ngài vì các Ngài luôn muốn và làm điều tốt cho chúng ta, vì các Ngài đã cả một đời hy sinh cho chúng ta. Hãy cùng với cha mẹ làm cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm hạnh phúc, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa, là nơi mà mỗi thành viên được cảm thông và nâng đỡ, được yêu thương và tôn trọng. Sống và thực hành như thế, là chúng ta đang tô đậm hình ảnh Chúa Ba Ngôi ngay trong gia đình và trong đờì sống của chúng ta. Amen.
Bài 15. Làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Trước khi về trời, Chúa Giê-su đã long trọng ban cho các môn đệ một lệnh truyền.  “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.  Khi truyền lệnh như vậy, chắc chắn Chúa Giê-su đã cho họ thấy rõ họ phải làm việc gì và làm việc ấy cho ai và vì ai.
Vậy các môn đệ Chúa phải làm gì, hoặc sứ mệnh của họ là gì? Đó là làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dĩ nhiên là môn đệ của Chúa Giê-su như chính Người đã kêu gọi và làm cho họ trở thành môn đệ của Người. Họ phải đi rao giảng về Chúa Giê-su và Tin Mừng của Người, để những người không có cơ may đích thân gặp Chúa và nghe Người giảng đều có thể biết về Chúa. Sứ mệnh của người rao giảng không chỉ nói cho người ta biết về Chúa, mà còn giúp người ta yêu mến và tuân giữ các điều răn của Chúa nữa (Gio-an 14:15). Nói khác đi, họ phải giúp người ta xây dựng một mối tương quan yêu thương cá nhân với Chúa Giê-su, bởi vì chỉ có tình yêu đích thực mới là động lực chính đáng giúp họ thực hành lời giảng của Người và giữ các điều răn của Người. Từ biết tiến tới yêu mến, rồi từ yêu mến tiến tới giữ các điều răn, đó là con đường bất cứ ai muốn làm môn đệ Chúa cũng phải bước theo.
Ngoài ra, việc làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa đã xác định tính cách phổ quát của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Rao giảng Tin Mừng phải nhắm vào toàn thể nhân loại, không loại trừ ai, không giới hạn trong một miền hay một quốc gia. Ai cũng cần được kêu gọi làm môn đệ Chúa, không phân biệt ngôn ngữ hay chủng tộc, thành phần xã hội hay văn hóa.
Sứ mệnh làm cho muôn dân trở thành môn đệ thật là khẩn thiết, nhưng dấu chỉ nói lên một người đã được làm môn đệ cũng không kém phần quan trọng, đó là họ được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Tất cả chúng ta đều đã được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhưng có lẽ ít khi nào chúng ta suy nghĩ thêm một chút về ý nghĩa của “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đúng vậy, phải là nhân danh Chúa Ba Ngôi, thì cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta mới mang ý nghĩa đầy đủ. Trước hết là mục đích cuộc đời Ki-tô hữu đều quy hướng về Ba Ngôi.  Chúa Cha tạo dựng chúng ta là để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Người. Chúa Con cứu chuộc chúng ta là để chúng ta được làm con Thiên Chúa và được cùng Người đồng thừa kế gia nghiệp Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần tiếp tục công việc cứu độ của Chúa Giê-su, dẫn dắt chúng ta sống theo căn tính mới là con Thiên Chúa và ban sức mạnh cho chúng ta được trung thành với ơn gọi làm con Thiên Chúa. Tất cả ba Ngôi Thiên Chúa đã tích cực trong kế hoạch cứu độ để giúp chúng ta đạt tới cứu cánh của con người. Mọi công việc tích cực ấy đều được thực hiện dưới một động lực duy nhất là tình yêu.  Vì thế, chúng ta chắc chắn có thể nói rằng được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi cũng chính là được rửa tội nhân danh Tình Yêu.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Được rửa tội nhân danh tình yêu mà lại không sống yêu thương thì quả thực là mỉa mai! Được rửa tội là khởi đầu cho cuộc sống mới của người môn đệ, vì từ nay họ phải sống “nhân danh Ba Ngôi”, tức là nhân danh tình yêu. Họ được sai đi để làm nhân chứng cho tình yêu. Chúa Giê-su đã được sai đến trần gian và “được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Toàn quyền của Người chính là sự thật và tình yêu. Người đã thi hành quyền năng và sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa để thiết lập một cuộc tạo dựng mới. Chúng ta cũng được Thiên Chúa Ba Ngôi mời gọi cộng tác vào cuộc tạo dựng mới ấy bằng cách sống và làm chứng cho sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta đừng sợ hãi trước sứ mệnh này, vì Chúa Giê-su đã hứa “ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Nếu chúng ta có Chúa Giê-su là tình yêu Thiên Chúa nhập thể ở cùng chúng ta, nhất định chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh!       

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang