Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – năm B

A. BẢN VĂN (Ga 20,19-23):

19 Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! “20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
1- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (20,19-20);
2) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các ông sợ người Do-thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Do-thái, shalôm (= bình an) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ôngAnh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai …; anh em cầm giữ ai… (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy-lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Híp-ri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Híp-ri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy-lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa hàm hồ: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Híp-ri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
4- Ý nghĩa của bản văn
Sau khi Đức Giêsu đã bị bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất bình an. Trong khi các môn đệ còn ở trong tình trạng bế tắc cùng cực, Đức Giêsu Phục Sinh đã đến với họ, tự mình đi vào ngày giữa lòng tình trạng thê thảm đó.
* Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)
Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: “Bình an cho anh em!” (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an, Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong tư cách vừa là Đấng Tử Nạn vừa là Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc, Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh. Do đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ (c. 20).
Đoạn văn này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Lời Đức Giêsu chào “Bình an cho anh em” (eirênê hymin) khiến chúng ta nghĩ đến ý nghĩa Thần Khí học của đoạn văn: eirênê lần đầu tiên được dùng ở Ga 14,27, ngay sau một lời nhắc đến Đấng Bảo Trợ sẽ đến (14,26). Câu tiếp theo “Thầy ra đi và đến với anh em” (14,28) là một quy chiếu về việc Đức Giêsu ra đi và Thánh Thần đến (x. 16,7). Như thế, lời Đức Giêsu nói về sự bình an của Người ở c. 27 rất có thể cũng phải được giải thích như là một quy chiếu về việc ban Thánh Thần trong tương lai, do chỗ các động từ “Thầy để lại” (aphiêmi) và “Thầy ban” (didômi) đều có nghĩa tương lai, cũng như “Thầy đến” (erchomai) ở c. 28. Các lời hứa – sai Thánh Thần, ban bình an, và lại đến – nay đã được hoàn tất.
Một chi tiết nữa cũng liên hệ đến Thánh Thần, là “cạnh sườn” (pleura); từ này tạo một liên kết với cuộc đóng đinh và hành vi người lính đâm cạnh sườn Đức Giêsu (19,31-36). Rất có thể coi nước chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu là một biểu tượng về Thánh Thần: nước và Thánh Thần được đặt song song tại 3,5 và cái chết của Đức Giêsu là một điều kiện cần thiết để Thánh Thần đến (7,39; 16,7). Ở 7,38-39, tác giả Ga minh nhiên đồng hóa những dòng nước hằng sống, sẽ chảy ra từ Đức Giêsu, với Thánh Thần. Điều này được hoàn tất ở 19,34. Bây giờ, khi Đức Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn bị đâm, Người không chỉ chứng minh Người là con chiên Vượt Qua đã chết trên thập giá, nhưng nay đã sống lại; Người còn cho thấy rằng Thánh Thần đã tuôn trào ra từ Người và bây giờ có thể được ban cho các môn đệ.
* Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)
Sau khi chúc bình an lần thứ hai, Đức Giêsu nói đến việc sai phái các môn đệ  (c. 21). Trước đây, tác giả TM IV cũng đã nói đến một việc sai phái các môn đệ tương tự việc Chúa Cha sai phái Đức Giêsu (13,20; 17,18). Thiên Chúa sai phái Đức Giêsu đi nói các lời của Thiên Chúa và giảng dạy (3,34; 7,16; 8,26; 12,49; 14,24), để thực hiện ý muốn và các công việc của Thiên Chúa (4,34; 5,30.36; 6,38-39; 9,4), và cứu độ thế gian (3,17). Từ ngữ “như” (kathôs) ở 20,21 khiến nhớ lại nhiều đoạn trong TM IV cho hiểu rằng các môn đệ phải làm việc như các ngôn sứ của Đức Giêsu, y như Đức Giêsu đã làm việc như là ngôn sứ của Cha Người. Như Đức Giêsu đã thấy Chúa Cha, họ cũng đã thấy Đức Giêsu; qua việc thấy Đức Giêsu, họ cũng đã thấy Chúa Cha (14,7-9). Bởi vì Đức Giêsu đã cho họ tất cả được biết những gì Người nghe được từ Chúa Cha (15,15), những gì họ đã nghe được từ Đức Giêsu bây giờ là lời của Chúa Cha (14,24). Các lời (rhêmata) đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ (17,8). Như Đức Giêsu đã làm chứng về những gì Người đã thấy và nghe (3,11.32), các môn đệ Người cũng phải làm chứng về Người (15,27). Như một cành nho không thể sinh hoa trái tự mình (aph’ heautou) nhưng chỉ nhờ ở lại trên cây nho, họ cũng phải ở lại trong Đức Giêsu, “vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (15,4-5). Đức Giêsu đã ban cho họ vinh quang (doxa) mà Chúa Cha đã ban cho Người (17,22). Như vậy, các đặc điểm ngôn sứ trong sứ mạng của Đức Giêsu nay được gán cho các môn đệ sau khi Người đã chết, sống lại và lên trời vinh hiển.
Nói xong, Người “thổi hơi vào” (enephysêsen) các môn đệ; nói như thế là tác giả giải thích rằng hơi thở của Đức Giêsu là Thánh Thần. Y như sự cố Thần Khí xuống đã đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu (1,32-33), nay ân ban Thần Khí khai mạc sứ mạng của các môn đệ. Trước đây Đức Giêsu đã nói đến Thần Khí sự thật, Đấng ở lại (menei) với các môn đệ (14,17) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (1,32). Đây là Thần Khí ngôn sứ, theo như Đức Giêsu đã giải thích: “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (16,13). Ở đây nhiều đặc tính ngôn sứ được áp dụng cho Thần Khí: Ngài vừa nghe vừa nói/loan báo những điều giấu kín, và Ngài là trung gian truyền tải sứ điệp. Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu và như thế cung cấp cho các môn đệ một điển hình (15,26-27).
Động từ emphysian (“thổi hơi vào”) ở Ga 20,22 đã được dùng tại St 2,7 LXX là chỗ nói về việc Thiên Chúa thổi hơi mang sức sống vào Ađam. Dựa vào đó, có những nhà chú giải đã giải thích rằng, chức năng của Thần Khí là rửa sạch các môn đệ khỏi tội lỗi và làm cho họ thành một cuộc tạo dựng mới. Nhưng ở đây Thần Khí được ban cho các môn đệ không phải vì lợi ích cá nhân họ, nhưng vì những kẻ khác.
Anh em tha tội ai… anh em cầm giữ ai…” (c. 23): Câu này nói đến quyền tha và buộc tội. Dưới ánh sáng của Chu kỳ Bilơam (Ds 22–24), các thì hoàn thành của Ga 20,23 không có ý nói là Thiên Chúa cứ “nhắm mắt” phê chuẩn bất cứ hành vi tha tội và cầm tội nào mà các môn đệ tự do công bố. Đúng hơn, các thì này diễn tả điều này: nhờ Thánh Thần ngôn sứ được ban cho các ông, các môn đệ sẽ có khả năng tha tội cho những người và chỉ cho những người mà Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu đã tha tội cho.
+ Kết luận
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, “chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Các ông có thể ra đi thực hiện chương trình cứu độ, nhớ Thánh Thần của Người.
5- Gợi ý suy niệm
1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vọng ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, của những sai lầm, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên : ‘Áp-ba, Cha ơi!’” (Gl 4,6).  
4. Nếu chúng ta chờ đợi một sự biến đổi đột ngột, tức khắc và lạ lùng sau khi được rửa tội, chắc chắn chúng ta phải thất vọng. Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả.
Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau việc Chúa Con đến trong thế gian mà chúng ta đã tưởng niệm từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, lễ Ngũ Tuần khai mở kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, khi họ tụ họp trong phòng Tiệc Ly. Biến cố nầy rất thân thuộc với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
1Cr 12: 3-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân sủng làm chứng về hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi tín hữu lãnh nhận những ân sủng của một Chúa Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 10: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật “tiền Ngũ Tuần”, tức là ngay khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân sủng của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Phục Sinh của Chúa Giê-su là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Ngay từ ngày đầu tiên này, Chúa Thánh Thần ở với Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài trước khi rời bỏ họ: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13), chắc hẳn đó là căn phòng ở đó Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó cũng chính là căn phòng ở đó, dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; đó cũng chính là căn phòng ở đó Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
1. Mọi người đang tề tựu ở một nơi
Không nên hiểu kiểu nói “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”, họ cùng nhau cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do Thái giáo được gọi là lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
2. Lễ Ngũ Tuần
Được gọi là “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ nầy được cử hành vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do Thái giáo tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Do thái đều đã trải qua một tiến trình tâm linh hóa, từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Thế nên, lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc; sau cùng, lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki-tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc giao ước được làm mới lại hằng năm. Vào ngày đại lễ nầy, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
3. Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố nầy được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong theo sau những cuộc thần hiện. Trong Do thái giáo, chúng ta ghi nhận một nét đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài nhưng chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo khung cảnh của những cuộc thần hiện Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở nơi thể loại văn chương khải huyền nầy, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày cánh chung. Thánh Lu-ca liên kết trực tiếp những hình ảnh nầy với ân ban nói các thứ tiếng khác mà các Tông Đồ lãnh nhận. Như thế, kỷ nguyên Ki-tô giáo thật sự được loan báo theo cùng những dấu chỉ của kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng, truyền thống Kinh Sư đã suy gẫm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được. Hơn nữa, làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29)?.
Vì thế, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai bộ tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra những khác biệt thật sâu xa.
4. Phép rửa trong Thần Khí
“Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Các Tông Đồ đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo nầy.
Những biến cố xảy ra trên núi Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố xảy ra trong phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Chúa Thánh Thần. Xưa kia, một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, muôn dân đều được mời gọi chung hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân ban nói các thứ tiếng khác, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó sự xáo trộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Vì thế, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng phục hồi sự hiệp nhất của các dân tộc.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục hồi quyền của Đấng chịu đóng đinh và làm chứng là Ngài đã sống lại.
5. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a
Như chúng ta đã ghi nhận trên, kiểu nói: “mọi người đang tề tựu ở một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần thật là quan trọng. Vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí thinh lặng của căn phòng Na-da-rét, Thiên Chúa đã kín đáo đến ở giữa nhân loại với tư cách là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Còn bây giờ, Đức Ma-ri-a đảm nhận một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của Nhiệm Thể Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những phụ nữ nầy không phải dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ; các bà làm chứng theo một cách khác; các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”, nghĩa là “tông đồ tuyệt vời nhất”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, gởi cho cộng đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào khoảng những năm 50-52.
1. Hoàn cảnh của cộng đoàn Cô-rin-tô:
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô. Giáo đoàn nầy sống ở giữa thế giới lương dân và trong một thành phố mở rộng cửa đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu nầy không phải là không tác động đến cách ăn nếp ở của các tín hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh đặc thù của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki-tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật, tổ chức còn non yếu và chưa chặt chẻ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu nầy. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều; sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là một sự kiện.
Xem ra các tín hữu Cô-rin-tô đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế thánh nhân đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ nầy.
2. Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là Ba Ngôi Thiên Chúa
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu chỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, khởi đi từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa (Đức Ki-tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) hoạt động trong mọi người”.
3. Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là lợi ích chung
Thánh Tông Đồ đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là đem lại lợi ích cho cộng đoàn, nghĩa là, nếu không vì lợi ích cho cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
Tiếp đó, thánh nhân so sánh thân thể với Đức Ki-tô, hình ảnh này rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki-tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên. Nguyên tắc hiệp nhất chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất và ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Chúa Thánh Thần tuôn trào sự sống trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng nầy rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, với một đoạn trích dẫn dài hơn và trong quan điểm của biến cố Phục Sinh.
Hôm nay, bản văn nầy được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của biến cố Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Điều nầy không mâu thuẩn với biến cố mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng là bổ túc thần học: “Giáo Hội được khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, cho dù những ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy.
1. Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su ký thác sứ mạng cho cộng đoàn nhỏ bé nầy là tiếp tục công trình của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. “Nhóm còn lại” nầy hình thành Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội được khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Đây là một trong những giáo huấn cốt yếu của bản văn nầy.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo: thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh linh (St 2: 7). Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en dùng để mô tả cuộc hồi sinh của những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, đây cốt là khởi điểm của một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành hạt nhân của một nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
2. Hiệp nhất giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần
Thánh ký luôn luôn liên kết biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống với biến cố Phục Sinh. Thánh ký đã giải thích lời công bố của Chúa Giê-su về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại nầy, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là khúc dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày lễ nầy đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, thánh Gioan khẳng định sự liên đới của hai biến cố nầy trong một viễn cảnh mới.

C. CÁC BÀI CHIA SẺ

Bài 1. Suy niệm của ĐGM. Nguyễn Văn Khảm

“Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen”.

Bài 2. Gió-Lửa-Nước

Trầm Thiên Thu
Gió, Lửa và Nước “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng đó lại là những thứ mạnh nhất và quan yếu nhất trong cuộc sống, ba thứ ấy mạnh đến nỗi không gì có thể cưỡng lại.
GIÓ có thể tiếp nhận, thổi bay và chuyển hóa mọi thứ, dù những thứ xấu xa và dơ bẩn nhất. Gió luôn tự hào, không buồn khổ hay tủi nhục. Gió có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Phong, có khả năng di động và chuyển hóa phi thường.
LỬA có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất. Lửa không vì thế mà cảm thấy buồn tủi, chán chường, hoặc ghen ghét. Lửa có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Hỏa, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả mọi thứ.
NƯỚC có thể tiếp nhận và rửa sạch mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất, người ta có đổ xuống nước mọi thứ nhưng nước vẫn bình thản, không lệ thuộc hoặc cảm thấy oán hờn, tủi nhục. Nước cũng có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Thủy, có khả năng di động và chuyển hóa kỳ diệu.
Gió, Lửa và Nước luôn dạy chúng ta nhiều bài học sống: Nếu tâm chúng ta có khả năng chuyển hóa và di động, chúng ta cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi thứ đau khổ mà người khác trút lên chúng ta, và những thứ ấy không thể gây xáo trộn tâm hồn chúng ta, không thể tước mất sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn chúng ta: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39).
Nước liên quan Phép Rửa, cũng gọi là Bí tích Thánh tẩy: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Như vậy, Nước cũng liên quan Chúa Thánh Thần.
Những gì đơn giản nhất thường bị coi thường. Chúa Thánh Thần cũng thường không được chúng ta “nhắc tới”, dù Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc đời chúng ta. Hãy thành tâm thân thưa với Chúa Thánh Thần: “Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài!”.
TIẾP NHẬN THÁNH THẦN…
Sách Công vụ Tông đồ kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3).
Hai hình ảnh xảy ra liên tiếp: Gió và Lửa. Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Làn gió do quạt máy không làm người ta sảng khoái, nhưng chỉ một chút gió hiu hiu cũng đủ làm người ta tỉnh táo và cảm thấy hồi phục ngay. Tuy nhiên, nếu gió mạnh quá thành lốc hay bão thì chẳng gì có thể chống lại, cả tòa nhà cao lớn cũng bị gió thổi sập trong tích tắc. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa Đông giá lạnh, một đốm lửa dễ dàng bị thổi tắt, nhưng đốm lửa đó cháy lan như những vụ hỏa hoạn thì con người chỉ biết đứng nhìn mà “cười ra nước mắt”. Nước cũng rất mềm, dễ ngăn cản, ai muốn làm gì thì làm, nhưng một khi Nước “nổi giận” thì con người không thể ngăn cản, chạy cũng không kịp: Triều cường, vỡ đê, lụt lội, sóng thần,…
Gió, Lửa và Nước như thế đấy, vừa yếu vừa mạnh, vừa mềm vừa cứng. Và đó chính là Thần Khí Chúa, là Đức Chúa Thánh Thần, là Thánh Linh, là Thần Chân Lý, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Khi Gió thổi tới và Lửa đậu trên đầu thì mọi người được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hiện tượng “nói tiếng lạ” xảy ra ngay lập tức, nhiều người ngạc nhiên và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” (Cv 2:12), nhưng một số khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Không lạ sao được khi họ nói đủ thứ tiếng vậy mà họ vẫn hiểu nhau, đặc biệt là ai nghe cũng thấy họ nói tiếng của mình. Nhưng tất cả là để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11; Tv 86:11).
Có Chúa Thánh Thần thì người yếu đuối cũng thành khỏe mạnh, người nhút nhát cũng thành người bạo dạn, người run sợ cũng thành người can đảm. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được Chúa Thánh Thần tác động như vậy. Vì thế, chúng ta phải thốt lên: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Thiên Chúa tạo dựng mọi thứ, nếu “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Thật vậy, “sinh khí của Ngài do Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30). Chính Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân mọi thứ, chúng ta có làm được gì cũng là nhờ Ơn Chúa, do đó chúng ta phải quyết tâm: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
…ĐỂ SỐNG CHỨNG NHÂN
Chúa Giêsu đã nhiều lần động viên chúng ta: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5 & 10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Sách Khải Huyền nhắc lại và giải thích: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Lúc sinh thời, chính Chân phước GH Gioan Phaolô cũng rất thích câu nói đó: “Đừng sợ!”. Không sợ thì mới dám “vào đời”, dám “ra khơi”, dám hành động và dám bảo vệ công lý, dám sống theo chân lý của Thiên Chúa (Tv 26:3).
Thánh Phaolô nói: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16), và giải thích: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thánh Phaolô nói chi tiết hơn: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:18-21a). Chắc chắn rằng “những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5:21b).
Trên đây là những điều ngược với Chúa Thánh Thần, còn những điều thuận với Chúa Thánh Thần? Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5:23). Tất nhiên, chẳng có luật nào chống lại những điều như thế – dù là luật đời. Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:24). Trong Chuỗi Mân Côi, ở mầu nhiệm thứ 5 của Mùa Thương, Giáo hội dạy: “Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa”. Đó là từ bỏ chính mình theo tác động của Chúa Thánh Thần. Và “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5:25-26).
Chúa Giêsu đã hứa: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15:26). Và Ngài cũng đã giữ đúng lời hứa đó. Nhưng Ngài cũng trao trách nhiệm cho mỗi chúng ta: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Sống chứng nhân là bổn phận chung. Chúa Giêsu nói “anh em” không có nghĩa là chỉ có phái nam, còn phái nữ “khỏe re”. Lúc đó Ngài nói với các Tông đồ nên chỉ nói “anh em”, không có từ “chị”, nữ giới đừng vì thế mà “tự ái”, “đùn đẩy” hoặc “né tránh” trách nhiệm. Nhưng ngày nay phải được hiểu là “anh chị em” (ngôi thứ hai số nhiều – you, vous, vosotros, voi), cả nam và nữ.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16:12). Ngài biết chúng ta “không có sức chịu nổi” vì chưa được lãnh nhận Thần Chân Lý. Ngài xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:13-14). Vì Ba Ngôi là Một nên Chúa Giêsu nói: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16:15a). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nhắc lại: “Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15b). Vậy là đã rõ ràng và chắc chắn, đúng như Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28).
Lạy Chúa, xin soi sáng và dẫn chúng con đi theo đường chân lý của Ngài (Tv 25:5). Cuộc sống phàm nhân luôn nhiêu khê đủ thứ, xin Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ chúng con theo đúng Thánh Ý của Ngài, để chúng con can đảm thể hiện yêu thương mọi người trong từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Bài 3. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT
“Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải là dấu chấm hết cho một giai đoạn, mà thực chất là cánh cửa mở toang ra một viễn tượng mới, viễn tượng của Hội Thánh vui mừng và mạnh mẽ thực thi sứ mạng thừa sai.”
Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20,19-23) là một câu chuyện đặc biệt về cộng đoàn Hội Thánh trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Cho đến chiều ngày thứ nhất trong tuần, tình cảnh của các môn đệ vẫn thật bi đát: “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái” (c.19a). Các ông đang ở trong một hoàn cảnh thù nghịch và đang phải mang nặng một nỗi sợ hãi vì không được an ninh. Trong Ga, kiểu nói “vì sợ người Do Thái” đã từng xuất hiện hai lần: trong 7,13 khi không ai dám nói công khai về Đức Giêsu “vì sợ người Do Thái”, và trong 19,38 khi nói về việc ông Giuse Arimathê là một môn đệ Đức Giêsu nhưng là môn đệ cách kín đáo “vì sợ người Do Thái”. Vậy khi nói các môn đệ đóng kín cửa “vì sợ người Do Thái”, tác giả Ga cho chúng ta thấy tình cảnh của các ông lúc bấy giờ: sợ hãi, trốn tránh, không đủ can đảm công khai chứng tỏ mình có liên hệ với Đức Giêsu, không dám công khai nói về vị Thầy đã bị kết án bất công. Các ông sợ, vì chưa gặp Đấng Phục Sinh. Cho dù bà Maria Magđala đã nói với các ông rằng “Tôi đã thấy Chúa” và kể cho các ông điều mà Chúa đã nói với bà (20,18), nhưng sứ điệp đó của bà Maria Magđala vẫn không thể làm cho các ông khỏi sợ hãi. Nói cách khác: biết rằng Chúa Giêsu đã phục sinh thì chưa đủ; chính sự hiện diện thật sự của Đức Chúa Phục Sinh mới có thể đem lại cho các môn đệ niềm vui và bình an, giải thoát họ hoàn toàn khỏi nỗi sợ hãi đối với người Do Thái.
“Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em!” (c,19b). Đức Giêsu đã từng hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ đến với anh em” (14,18). Hôm ấy, trước cuộc khổ nạn, Người đã nói với các ông rằng “Một ít nữa thôi, thế gian sẽ không còn  thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (14,19). Bây giờ, lời hứa và lời tuyên bố ấy được thực hiện, khi Đức Kitô Phục Sinh đến đứng giữa cộng đoàn các môn đệ đang đóng chặt cửa vì sợ người Do Thái. Đấng Phục Sinh “đứng giữa các ông”, tức là Người hiện diện giữa cộng đoàn, làm trung tâm của cộng đoàn. Chính Người là nguồn sống, là trung tâm hiệp nhất toàn thể cộng đoàn đang tan tác vì sợ hãi, là cây nho mà các đồ đệ là cành, là Đấng hiện diện giữa những người Chúa Cha đã ban cho Người để cho họ được thấy vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người vì Chúa Cha đã yêu mến Người từ trước khi thế gian được tạo thành (x.17,24; 1,14).
Người chào các môn đệ: “Bình an cho anh em!” Lời chào này có giá trị bắt đầu cuộc gặp gỡ, nhưng không phải là một lời chào theo công thức sáo rỗng. Thực sự đây là một lời hữu hiệu, vì là lời của Đấng Phục Sinh. Trước khi đi vào Giờ vượt qua của Người, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy cho anh em bình an của Thầy… Anh em đã nghe Thầy nói: ‘Thầy ra đi và Thầy trở lại với anh em…” (14,27-28). Sự bình an đó được đặt cơ sở trên chiến thắng của Đức Giêsu đối với thế gian: “Trong Thầy, anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gặp gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (16,33). Như thế, lời chào bình an của Đấng Phục Sinh cũng đồng thời là lời khẳng định chiến thắng của Người trên thế gian và vì thế, là lời ban bình an thật sự.
“Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người” (c.20a). Trước đây, trong một đêm biển động mạnh, khi các môn đệ đang hoảng sợ giữa Biển Hồ, Đức Giêsu đến với các ông và nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” (6,20). Việc Người cho các ông xem tay và cạnh sườn hôm nay tương ứng với lời “Chính Thầy đây!” trong biến cố đó. Vậy cho xem tay và cạnh sườn ở đây trước hết chính là cách Đức Giêsu làm cho các môn đệ nhận biết Người đang hiện diện giữa họ.
Tay và cạnh sườn mang những dấu tích của cuộc hành hình thập giá cho biết Đấng Phục Sinh đang hiện diện giữa họ đây cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá. Và điều này là bảo đảm chắc chắn cho tính xác thực và hữu hiệu của ơn bình an mà Người ban cho họ khi nói “Bình an cho anh em”. Họ sợ người Do Thái vì người Do thái có thể đẩy họ đến cái chết như đã xảy ra với Đức Giêsu. Nhưng bây giờ chính Đức Giêsu đã bị treo trên thập giá ấy đang hiện diện giữa họ, nghĩa là không quyền lực trần gian nào có thể tước mất sự sống của Đức Giêsu. Quả đúng như lời Người đã nói với họ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (10, 18).
Cho các môn đệ xem những dấu tích của cuộc khổ nạn nơi mình, Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Con Chiên lễ Vượt Qua mới đã bị tế sát. Sự tồn tại mãi những dấu tích của cuộc khổ nạn trên thân thể phục sinh của Chúa chứng tỏ sự vĩnh cửu của tình yêu mà Người thi thố cho thế gian trong cuộc Vượt Qua của Người. Chúa Phục sinh, Đức Giêsu Kitô, sẽ vĩnh viễn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh, từ nơi Người, trào vọt máu và nước (19,34: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra”).
Điểm đặc biệt là trước đây, trong trình thuật về cuộc đóng đinh Đức Giêsu, tác giả Ga không hề đề cập gì đến tay của Người. Trái lại, ông nhiều lần khẳng định rằng Chúa Cha đã trao mọi sự trong tay Đức Giêsu (3,35: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”; 13,3: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người”) và rằng không ai có thể cướp khỏi tay Người những con chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người (x. 10,20). Vậy đôi tay được đưa ra cho các môn đệ xem hôm nay là đôi tay ban cho các ông sự bình an đích thực. Đó là đôi tay tự do và nắm trọn quyền bính và sức mạnh. Cho các ông xem tay tức là Đức Giêsu cho các ông đụng chạm đến chính quyền năng vĩ đại mà Người có để bảo vệ các ông.
Cạnh sườn lại diễn tả một thực tại khác. Cạnh sườn đã bị lưỡi đòng đâm thâu đó chính là bằng chứng hùng hồn của tình yêu vô biên mà Người đã thi thố trong cuộc tử nạn của Người. Cho các đồ đệ xem cạnh sườn ấy tức là Đức Giêsu cho các ông trải nghiệm tình yêu vô biên của Người. tình yêu vô biên đó sẽ được thực hiện nhờ cánh tay quyền năng của Người.
Nói tóm lại, bằng việc cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn, Đức Kitô Phục Sinh chứng tỏ cho các ông thấy tình yêu, quyền bính và chiến thắng của Người.
Vì vậy, “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (c.20b). Niềm vui này là sự thực hiện lời Đức Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ ưu phiền, nhưng nỗi ưu phiền của anh em sẽ biến thành niềm vui” (16,20). “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (16,22). Đó là niềm vui vì một thực tại mới, một sức sống mới đã bắt đầu ùa vào trần gian: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy” (16,21-22a).
“Đức Giêsu lại nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em!” (20,21). Đức Giêsu lặp lại lời chúc bình an cho các môn đệ, nhưng chức năng của lời chúc bình an này có thay đổi so với lời chúc thứ nhất. Nếu lần thứ nhất là ơn bình an cho hiện tại, giải thoát các môn đệ khỏi nỗi sợ hãi lớn lao đang đè nặng tâm hồn và cuộc sống của họ, thì ơn bình an mà Người ban cho họ bây giờ là ơn dành cho tương lai, vì Người sắp trao cho họ sứ mạng quan trọng.
Sau lời chúc bình an, Đức Giêsu trao sứ mạng cho các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (20,21). Đức Giêsu đã chọn các môn đệ vì sứ mạng này, như Người đã từng nói: “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (15,16). Đó là sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Đức Giêsu, tức là sứ mạng cứu độ thế gian. Như Đức Giêsu, các môn đệ được sai vào giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Đức Giêsu đã từng thưa với Chúa Cha về sứ mạng này của các môn đệ: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (17,18); “Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian” (17,16). Mục đích của sứ mạng đó cũng đã từng được Đức Giêsu xác định một cách tường minh trước mặt ông Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật” (18,37). Và cũng như Đức Giêsu, các môn đệ phải hoàn thành sứ mạng được trao phó: “Tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi” (5,36).
Sau khi ban bình an cho các môn đồ và trao sứ mạng cho họ, Đức Kitô Phục Sinh “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20,22-23).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa ban sinh khí và sự sống cho con người khi thổi hơi vào con người mà Người đã tạo nên (x. St 2,7). Đức Kitô Phục Sinh thổi hơi của Người vào các môn đệ để ban Thánh Thần và sự sống mới cho các ông. Thánh Thần mà Chúa Kitô ban sẽ tạo nên nơi các ông một thực tại mới mẻ, làm cho các ông trở thành những con người được sinh ra bởi Thần Khí và do đó, là “thần khí”: “bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí” (3,6). Nhờ đó, họ sẽ sống theo ân sủng và sự thật (x.1,17). Họ “được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (1,13) và được quyền trở nên con Thiên Chúa (1,12). Như thế, con người sẽ vượt quá được thân phận “xác thịt” (3,6), vượt quá thân phận yếu đuối, mong manh và hay thay đổi, và có thể thông truyền cho những ai đón nhận sứ mạng của họ chính quyền năng tác sinh của Thánh Thần mà họ đã lãnh nhận từ Chúa Kitô Phục Sinh.
Đồng thời với việc ban Thánh Thần, Đức Kitô Phục Sinh ban cho các môn đệ quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20,23). Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian (1,29). Các môn đệ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu, nên cũng tiếp nối sứ mạng ban ơn tha tội của Người: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”.
Và cũng giống Chúa Giêsu, cộng đoàn các môn đệ, tức là Hội Thánh, không có nhiệm vụ lên án thế gian. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (3,17). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (12,47). “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (5,24). Phán quyết của Hội Thánh, như thế, không là gì khác hơn sự thừa nhận điều mà thế gian tự gây ra cho mình. Đó chính là ý nghĩa của sự “cầm giữ” trong lời “anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một thực tại quan trọng. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với Hội Thánh, cho Hội Thánh trải nghiệm một cách cụ thể và đích thực sự hiện diện tràn đầy tình yêu, quyền năng và chiến thắng của Người. Rồi chính trong trải nghiệm tích cực đó mà Hội Thánh được Đức Kitô trao phó sứ mạng thừa sai, được đón nhận Thánh Thần và quyền tha tội, và được bình an vui mừng.
Nhìn trong khung cảnh của thực tại nhiệm mầu đó, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải là dấu chấm hết cho một giai đoạn, mà thực chất là cánh cửa mở toang ra một viễn tượng mới, viễn tượng của Hội Thánh vui mừng và mạnh mẽ thực thi sứ mạng thừa sai. Chúa Thánh Thần là sức mạnh tuyệt đối mà Hội Thánh đã đón nhận từ Chúa Phục Sinh, sẽ hoạt động trong Hội Thánh và giữa nhân loại này, giúp Hội Thánh thực hiện sứ mạng cứu độ của mình.
Bài 4. THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Hồng Y Carlo Martini nói: “Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông”.
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ  Hiện Xuống,  Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”, ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
“Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!”
- Đó là đài phát thanh “Chân Lý”.
- Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người H’mong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX.” (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: “Mạc Khải là việc Thiên Chúa ‘Truyền Thông Chính Mình’ cho nhân loại” (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những “kênh truyền thông” mới. Vì thế, “Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn” (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: “Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần” (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy lạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hy lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”.
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu”.
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá… Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet… đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của “nền văn hóa mới” này.
Thư Chung HĐGMVN 2011 đưa ra định hướng: “Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này”. (Số 9).
Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc HĐGMVN đã đưa ra bản “Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay” vào ngày 15/5/2012. Bản Nhận Ðịnh đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy. Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Ðịnh đề ngày “15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Ðiệp Rerum Novarum”. Bức thông điệp của Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Ðịnh, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Ðồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những “căn bệnh trầm kha”. (Lm Vũ Khởi Phụng).
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
Bài 5. TÁC ĐỘNG CỦA THẦN KHÍ
LM ĐAN VINH
THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG NƠI CÁC TÍN HỮU
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta nước Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với nhiệm vụ chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang hấp hối và bị bỏ rơi trên các góc phố thành Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em dòng Thừa sai Bác ái là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ được chết trong bình an. Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ chuyên lo phục vụ cho những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào việc đầu tiên là tìm thuê mướn một căn nhà để làm nơi tạm trú cho họ, đang khi trong túi của bà chỉ còn vỏn vẹn ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã lan khắp các nước trên thế giới. Quả thực, điều này cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa là Hội Thánh.
THÁNH THẦN TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU
Về việc đầu thai của Đức Giêsu, trong kinh Tin kính có câu này: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh” (x. Lc 1,35). Chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Maria đã thụ thai Hài Nhi Giêsu mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin chịu phép rửa của Gioan tại sông Gio-đan. Vừa chịu phép rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện và chịu ma quỷ thử thách. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giêsu đã chiến thắng ba cơn thử thách cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng Thánh Thần, Người đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người cũng thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm giữ người ta nữa (x. Ga 20,23).
HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN TRONG HỘI THÁNH
Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm và công khai làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng và muốn thoái lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối xin chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).
Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để các ngài chu toàn ba sứ vụ được Đức Giêsu trao phó: Một là sứ vụ ngôn sứ để công bố Lời Chúa. Hai là sứ vụ tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các bí tích. Ba là sứ vụ vương đế để chăn dắt và phục vụ Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng Chung mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì đều bất khả ngộ nghĩa là không thể sai lầm, vì luôn được Thần Chân Lý soi dẫn, như trong quyết nghị của công đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 có viết: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).
THẢO LUẬN
1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào?
2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào? 3)Mỗi tín hữu hôm nay phải làm gì để được Thánh Thần tác động giống như các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần khi xưa?
NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là một người bạn, người thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa là “Áp-ba!- Ba ơi !” nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giêsu là “Chúa” khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa Giêsu. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
- LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH, xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi âu lo sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ trần gian.
Bài 6. “ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN’’
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ       
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” không chỉ là lời của Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh nói với các Tông Đồ xưa mà là lời của Người nói với tất cả các Ki-tô hữu của mọi thời đại, mọi quốc gia. Bất cứ người Ki-tô hữu nào cũng phải nhận lấy Thánh Thần là quà tặng của Chúa Ki-tô Phục Sinh, để sống tư cách là môn đệ Chúa Ki-tô trong các môi trường gia đình, nghề nghiệp và cộng đồng xã hội của mình. Đã đành mỗi Ki-tô hữu đã nhận lấy Chúa Thánh Thần ngày người ấy chịu phép Rửa. Nhưng phải nói là mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng…, các Ki-tô hữu cần phải nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh, để được đổi mới liên tục và làm chứng cho Niềm Tin của mình.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:    
1°) Bài đọc 1 (Cv 2,1-11) là bài tường thuật của Sách Công vụ Tông Đồ về biến cố xảy ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái, một thời gian sau Lễ Vượt Qua. Biến cố được kể lại là sự “hiện xuống” của Thánh Thần Thiên Chúa trên các môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Thánh Thần được nhìn thấy giống như những lưỡi lửa. Chúa Thánh Thần đổ xuống trên từng người và tràn ngập tâm hồn họ khiến những người này nói các thứ tiếng không phải ngôn ngữ của mình mà người nghe (bất kể thuộc ngôn ngữ nào) đều hiểu được điều các tông đồ nói.
2°) Bài đọc 2 (1 Cr 12,3a-7.12-13) là một đoạn của thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó trước hết Thánh Phao-lô Tông đồ khẳng định tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của người Ki-tô hữu; kế đến ngài giảng giải về các đặc sủng phong phú và khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban cho bất kỳ tín hữu nào cũng nhằm ích lợi chung của Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô; và sau cùng ngài kết luận về tính hiệp nhất của cộng đoàn kẻ tin: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
3°) Bài Tin Mừng (Ga 20,19-23 ) là tường thuật của Thánh Gio-an Tông đồ về lần hiện ra đầu tiên của Chúa Giê-su Phục Sinh với các môn đệ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Trước hết Chúa Giê-su cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn là dấu tích của cuộc Khổ Nạn ba ngày trước đó. Kế tiếp Chúa Giê-su chúc bình an cho các môn đệ và giao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin Mừng Cứu Độ mà Người đã nhận từ Thiên Chúa Cha. Và sau cùng Chúa Giê-su ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các môn đệ của Ngài.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thánh Thần của Chúa Giê-su (cũng là Thần Khí của Thiên Chúa) đã được ban cho các tín hữu là môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã chết và phục sinh. Vậy việc quan trọng nhất là chúng ta hãy nhận lấy Thánh Thần như chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh mời gọi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
Thánh Thần Thiên Chúa sẽ củng cố và đổi mới niềm tin Ki-tô của mỗi người và sẽ gắn kết mọi người thành một cộng đoàn hiệp nhất. Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cần thiết để mọi người thực hiện sứ mạng rao giảng, làm chứng cho Tin Mừng và phục vụ con người như chính Chúa Giê-su Ki-tô đã thực hiện và mời gọi các môn đệ làm theo.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, Đấng thực hiện mọi công trình tạo dựng, cứu độ và thánh hóa các tín hữu và ban cho họ tràn đầy ân sủng mà làm vinh danh Thiên Chúa và xây dựng Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh.  
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là:
(a) chúng ta mở lòng, mở trí, mở linh hồn và cuộc sống của chúng ta để Chúa Thánh Thần ngự vào và tự do hoạt động, bằng hai cách:
(b) Nỗ lực canh tân đời sống, xây dựng sự hiệp thông trong cộng đoàn, dùng những ơn huệ Chúa Thánh Thần đã ban, nhất là những đặc sủng, mà phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa và Hội Thánh.
(c) Thực hiện những gợi ý, soi sáng, thúc đẩy của Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận được, khi chúng ta cầu nguyện, dâng thánh lễ, nghe giảng, đọc Thánh Kinh, tĩnh tâm và tiếp xúc với người nghèo.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI
5.1 “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong thế giới hôm nay để họ nhận ra dấu chỉ của Thiên Chúa trong đời sống cá nhân và xã hội mà tin vào Thiên Chúa.
X- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ- Xin Chúa nhận lời chúng con
5.2 “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa được tràn đầy Thánh Thần mà nói Lời Chúa cho những người xung quanh.  
5.3 “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết mở lòng mở trí nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh.
5.4 “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội, để các vị ấy biết hành sử, cách bao dung và nhân ái, quyền bính của mình mà đem lại sự bình an và hạnh phúc cho mọi người.
Bài 7. Thánh Thần muốn tiếp tục hoạt động
Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Hôm lễ Lên trời, chúng ta đã thấy một cuộc lên trời hữu hình trước mắt các môn đệ khoảng 40 ngày sau khi Chúa sống lại; và có một cuộc lên trời vô hình, nhưng đích thực, xảy ra chính hôm phục sinh, khi Ðức Kitô đi vào vinh quang của Chúa Cha. Cũng vậy, hôm nay chúng ta cũng có thể nói đến hai cuộc hiện xuống. Một lần, như chúng ta vừa nghe đọc trong Phúc Âm vào chính buổi chiều ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa sống lại đã thổi hơi vào các Tông đồ và bảo: các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Và như vậy, Thánh Thần đã đến với các môn đệ ngay từ hôm Phục sinh. Nhưng cũng lại có một cuộc hiện xuống hữu hình công khai như sách Tông đồ Công vụ thuật lại cho chúng ta nghe trong bài đọc I hôm nay. Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau lễ Vượt qua, lễ Chúa sống lại, các Tông đồ đã được lãnh nhận Thánh Thần một cách thật kỳ diệu.
Phụng vụ hôm nay chú trọng đến biến cố hiện xuống hữu hình, công khai này, nhưng mà để nhờ đó mà hiểu biết hơn về hành động âm thầm của Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội trải qua các thời đại. Như vậy, chúng ta cũng phải tựa vào biến cố của ngày lễ Ngũ tuần hôm nay để biết quý hóa ơn Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong Giáo Hội và nơi ta.
Lễ Ngũ tuần trong dân Dothái thoạt tiên chỉ là một lễ nông nghiệp. Năm mươi ngày sau khi cắt bó lúa đầu mùa, nông dân làm lễ này như “để rửa công thợ” tức là như để liên hoan mừng mùa gặt tốt tươi. Sau đó, người ta đã mặc cho ngày hội nông dân này một ý nghĩa tôn giáo, cũng như người ta đã tôn giáo hóa ngày xuất quân đi gặt hái. Hôm đó người ta đã đem bó lúa đầu tiên về dâng trên bàn thờ. Còn hôm nay, 50 ngày sau mùa gặt, người ta đem bánh, đem chiên, đem bò, đem dê để dâng lễ, biểu lộ lòng biết ơn sâu xa của con người lao động đối với các ơn mưa móc bởi trời. Như vậy, ngày lễ 50 hoàn thành ngày lễ đầu mùa gặt hái và bầu khí tự nhiên sầm uất hân hoan hơn buổi lễ đầu tiên.
Dần dần, những ngày lễ nông nghiệp này được tôn giáo hóa thêm. Người ta đưa những buổi lễ đó vào bình diện giao ước, và dùng để gợi lại những biến cố trong lịch sử dân Chúa cũng là lịch sử ơn cứu chuộc. Lễ dâng bó lúa đầu mùa được đồng hóa với lễ Vượt qua, kỷ niệm lần đầu tiên dân được tế lễ Chúa sau khi thoát ách nô lệ, chấm dứt thời gian mà các tiên tri thường diễn tả bằng những hình ảnh đói kém, thiếu lúa rượu và dầu ăn. Ngày nông dân xuống ruộng gặt bó lúa đầu tiên khiến họ nhớ tới ngày được đặt chân vào đất chảy sữa và mật. Và 50 ngày sau, khi liên hoan chung quanh các vựa thóc, khỏi sao họ không nghĩ tới ngày hội lớn ở chân núi Sinai xưa. Thành ra ngày lễ Ngũ tuần được dùng ngay để kỷ niệm ngày ký kết giao ước Sinai. Và Chúa đã muốn dùng ngày lễ ấy để ban Thánh Thần xuống một cách dồi dào trên các môn đệ.
Như chúng ta vừa nghe đọc trong bài đọc I hôm ấy các môn đệ đang hội họp. Bỗng từ trời có tiếng gió thổi mạnh. Và có lửa hiện xuống, chia ra thành nhiều hình lưỡi đậu trên các môn đệ. Quang cảnh thật là kỳ lạ, nhưng lập tức ai cũng thấy ngay đây là việc của Chúa. Khi xưa ở trên núi Sinai, muốn chứng tỏ Người hiện xuống trên núi để hành động, Người cũng đã dùng tiếng sấm, tiếng sét. Và hôm ấy trên bài thờ giao ước, lửa trên trời cũng hiện xuống thiêu đốt tất cả lễ tế. Như vậy hôm nay, qua tiếng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa hiện đến Chúa cũng rõ ràng chứng tỏ Người đến hành động mạnh mẽ nơi các Tông đồ.
Mà thực vậy, người ta thấy các ngài bỗng dưng đầy Thánh Thần sốt mến, như các tiên tri trong những giây phút xuất thần và thiêng liêng nhất. Các Tông đồ nói tiếng lạ, ca tụng các kỳ công của Chúa. Người ta kéo nhau lại coi. Chắc chẳng ai đếm được số người bao nhiêu và thuộc những dân nước nào. Nhưng vì hôm đó là ngày lễ lớn, các người Dothái đi làm ăn nơi xa cũng về lễ, tác giả sách Tông đồ Công vụ kể tên 12 nơi, từ đông sang tây lấy Giuđêa làm chính, có ý ám chỉ rằng tất cả mọi nơi trên mặt đất này đều được Chúa gọi về để tham dự hồng ân Người đã từng hứa ban.
Gioel, người tiên tri của Chúa, đã từ lâu tuyên cáo rằng: sẽ đến ngày Ta đổ Thần trí Ta trên mọi người; già trẻ trai gái hết thảy sẽ nói tiên tri và tiếng lạ. Như vậy, ngày hôm nay, việc đó đã xảy đến. Quả thật Thiên Chúa đang hành động kỳ diệu nơi các Tông đồ. Họ là người Galilêa, thế mà mọi người đang nghe họ nói về Chúa trong thứ ngôn ngữ của mình. Rõ ràng Chúa muốn dùng họ để đoàn tụ muôn dân lại trong một niềm tin, khác với cảnh xây tháp Babel ngày xưa, anh em một nhà mà bỗng dưng nói tiếng xa lạ không còn hiểu nhau nữa. Gia đình nhân loại từ ngày đó đã phân rẽ và chia rẽ kình địch nhau vì họ muốn chống lại Chúa. Hôm nay những con người Galilêa kia đầy lòng yêu mến Chúa, đang nói lên những lời sốt sắng để muôn dân đoàn tụ lại trong một niềm tin.
Và nếu chúng ta muốn diễn tả thêm về ý nghĩa của lửa hiện xuống, sách thánh còn đó để giúp ta hiểu. Trong Cựu Ước, Chúa dùng lửa để báo hiệu việc Chúa hiện diện, để dẫn dắt dân đi trong u tối, để thánh hóa chấp nhận các lễ vật. Các lưỡi lửa hôm nay cũng nói lên việc Chúa hiện diện, thánh hoá, soi sáng, khích lệ các cộng đoàn Tông đồ. Nhưng cùng với việc các môn đệ nói tiếng lạ, lưỡi lửa hôm nay còn làm chứng Chúa Thánh Thần muốn đặt vào lòng Giáo hội sơ khai bản tính sốt sắng nhiệt thành để biến cả thế giới nên một gia đình đầy bác aí yêu thương.
Ý nghĩa thay ngày lễ Ngũ tuần của Tân Ước, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mà chúng ta mừng hôm nay. Nó vượt xa ngày hội lớn của dân Dothái khi Chúa ký kết giao ước ở chân núi Sinai. Còn nói đến lễ nông nghiệp kết thúc mùa gặt hái làm gì? Tuy nhiên, trong lễ hiện xuống này, Chúa muốn cho chúng ta sống lại tất cả ý nghĩa của các lễ kia, để chúng ta thấy hết mọi vẻ đẹp của ngày lễ Chúa Thánh Thần và nhất là để chúng ta đem tất cả những ý nghĩa đó vào đời sống đạo của chúng ta.
Thật vậy, ngày lễ Hiện xuống này nối liền với lễ Phục sinh đến nỗi kinh Tiền tụng chốc nữa nói: Chúa muốn dùng lễ Hiện xuống hôm nay hoàn thành và kết thúc lễ Phục sinh, khác nào như ngày lễ nông nghiệp 50 ngày sau khi gặt hái kết thúc lễ đầu mùa xuống đồng gặt hái vậy. Và cũng như ngày lễ Ngũ tuần nhắc nhở lại giao ước Sinai, kết thúc và hoàn thành lễ Vượt qua đặt chân vào hứa địa. Chính Chúa Giêsu sống lại trên trời hôm nay ban Thánh Thần Ngài chan hòa vũ trụ khiến ta có thể nói, hôm Phục sinh ánh sáng vinh quang của Chúa sống lại mới ló lên ở chân trời cho tạo vật bừng dậy sống một ngày mới; hôm nay Chúa lên trời như mặt trời giữa ngọ tỏa hết ánh sáng xuống trên hết mọi tạo vật… Nên chúng ta phải tung hô ca tụng Chúa hết sức mình và nhận ra sự nghiệp của Chúa phục sinh bây giờ đã tràn lan khắp trời đất. Và như tạo vật lúc giữa trưa được đầy ánh sáng mặt trời thế nào, hôm nay chúng ta được đầy ánh sáng hiểu biết và sốt sắng mến yêu đạo Chúa như vậy. Và nhất là như các môn đệ Chúa trong ngày lễ Hiện xuống được đầy Thánh Thần nói lên niềm tin đoàn tụ muôn dân lại thế nào, hôm nay chúng ta cũng phải trở thành những con người thu hút người ta về với Chúa và hợp với nhau thành một gia đình nhờ thái độ sống đạo sốt sắng, nhiệt thành của chúng ta.
Bởi vì hôm nay Thiên Chúa cũng vẫn đang còn muốn ban Thánh Thần Người cho những ai cầu xin. Và Thánh Thần muốn tiếp tục hoạt động trong các cộng đoàn Kitô hữu như ngày trước. Ðặc biệt trong thánh lễ này, Thiên Chúa đang muốn đổ Thánh Thần sốt mến xuống trên chúng ta đang sum họp nơi đây. Mọi lời kinh tiếng hát đều muốn hướng lòng chúng ta lên với Chúa và hòa giải chúng ta trong một tâm tình chung. Nhất là Thánh Thể mà chúng ta sắp chịu lấy, là Mình Máu Thánh Chúa, là sự sống hùng mạnh đầy yêu thương sáng tạo thoát ra từ lòng Chúa, để ai lãnh nhận, chính họ sẽ không sống nữa, nhưng là chính Chúa và Thánh Thần của Người sống ở trong họ. Họ sẽ ra về, tùy theo phận sự, mỗi người làm một công việc cho gia đình và cho xã hội; nhưng nếu họ tiếp tục để cho Chúa sống ở trong họ, thì như lời Thánh thư hôm nay nói, cũng chỉ là Thánh Thần làm việc, hành động ở trong mọi người. Và như vậy, một Thánh Thần sẽ hướng dẫn công việc của muôn người đi về cùng một mối là xây dựng một gia đình nhân loại trong tình yêu thương của Chúa. Các sự lầm lạc tối tăm và chia rẽ hận thù sẽ dần dần bị loại ra. Phúc Âm ở trong lòng mọi người dần dần thúc đẩy chúng ta hành động vì yêu thương và cho yêu thương. Ðời sống con người sẽ được hạnh phúc ngày ở đời này để cuối cùng muôn dân sẽ được kêu gọi tập họp lại trong Nước Trời vô tận.
Chúng ta cùng nhau đứng lên tuyên xưng niềm tin sâu xa đó và xin Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta, sai chúng ta đi loan truyền tình yêu của Người đang muốn kết nạp mọi người.
Bài 8. Cuộc sáng tạo mới
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26).
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri…
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giê-su sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào. (Ga 20,19)
Con người mới được tác sinh
Thế rồi “vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”
Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giê-su “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gioan 20,19. 22).
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Do-thái cổ), Chúa Thánh Thần được gọi là Ru-ah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giê-su truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giê-su cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời…
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.
Bài 9. Sự Thúc Đẩy Của Ơn Chúa Thánh Thần
Tuyết Mai
Ai trong chúng ta nhận biết mình được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, đều được Ngài tỏ dấu cho biết, tìm cơ hội báo cho chúng ta biết, việc Ngài muốn chúng ta làm, theo Thánh Ý Thiên Chúa. Những dấu chỉ sơ khai mà chúng ta rất dễ nhận biết là trong con người của chúng ta có sự thay đổi, có thêm sức mạnh hay được gọi là thần khí, sức chịu đựng và nhịn nhục nhiều hơn trước.   
Làm được những việc phi thường mà trước kia chúng ta không thể nào tự mình làm được. Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra thắm thiết hơn, trò chuyện tâm tình với Ngài nhiều hơn, đúng đắn và có chiều sâu hơn, biết sợ phạm tội mất lòng Chúa. Khiêm nhường hơn, cảm thấy tiền của thế trần không phải là cứu cánh và cho ta hạnh phúc đích thật. Không bon chen tranh dành, sống mật thiết và liên kết với tình Ngài nhiều hơn, dù cuộc đời ngày qua ngày có cho ta nhiều muộn phiền nhưng biết phó dâng và tìm bình an trong tình yêu của Ngài là thiết yếu.
Tình yêu đối với tha nhân, cũng thay đổi rất nhiều trong con mắt, môi miệng, sự va chạm, và trái tim biết chạnh lòng thương khi thấy anh chị em đói khổ. Cuộc sống được thay đổi theo chiều hướng tốt lành, không thích bon chen, không thích phô trương, luôn hạnh phúc dù hoàn cảnh có đen tối như thế nào! Biết tin tưởng vào Chúa nhiều hơn. Quyết tâm tìm Nước Thiên Đàng. Đem bình an của Chúa đến khắp mọi nơi. Đem khả năng Chúa ban đến cho người khác để tìm lợi ích cho linh hồn hơn là tấm thân hay chết này được sung sướng.
Hãm mình để chuộc tội lỗi nhiều hơn theo rất nhiều hình thức. Biết so sánh và bắt chước gương nhân đức tốt lành của các Thánh. Biết hy sinh cho người khác ở rất nhiều hình thức, từ nhịn lời ăn tiếng nói, cho đến nhịn và chịu đựng những lời nói cay đắng có ý nhục mạ, sỉ vả, hạ nhục, trước mặt người khác. Biết dâng mọi sự để cầu nguyện cho tất cả những ai còn sống hay đã qua đời những lợi ích mà chính họ không làm được, như gương nhân đức của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu vậy! Nhưng trọng yếu nhất vẫn là sự cầu nguyện. Có rất nhiều hình thức để chúng ta cầu nguyện. Chúng ta có thể đọc kinh Mân Côi.
Nếu không có thể đọc kinh được như những người bệnh nằm trong nhà thương hay tại gia thì chúng ta mở máy cho họ nghe. Cảm ơn thời buổi văn minh, tất cả các loại kinh, Phúc Âm Lời Chúa, Thánh Ca, 14 chặng đàng Thánh Giá… đều có thể thâu âm và đem vào phòng cho họ nghe được mà không làm phiền những ai nằm hay ở gần. Giúp họ luôn luôn nghĩ đến Chúa mà không để thời gian trống trải không có âm thanh, dễ làm cho họ cảm thấy sợ và trống vắng Chúa.
Đây cũng là hình thức giúp cho những ai làm biếng đọc kinh. Cầu nguyện cách hữu hiệu khác nữa nếu chúng ta làm biếng, là nghe Thánh Ca, nhờ nhạc mà chúng ta dễ hướng lòng lên với Chúa. Cầu nguyện bất kể nơi nào là nói chuyện hay tâm tình cùng Chúa, y như chúng ta thấy những người bây giờ miệng lúc nào cũng lẩm bẩm nói chuyện một mình trên phôn di động. Nếu quen và siêng năng cầu nguyện nếu chúng ta có phòng riêng thì rất tốt, giúp cho chúng ta như nói chuyện thẳng với Chúa hay Đức Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa.
Sau cùng hình thức cầu nguyện nào cũng giúp cho chúng ta đến với Thiên Chúa, nhưng quan trọng không kém với sự cầu nguyện là làm việc bác ái. Bởi nếu chúng ta yêu anh chị em mình qua môi miệng thì chẳng ích gì cho linh hồn của chúng ta cả!.   Bởi có phải hầu hết những điều chúng ta cầu nguyện như là những lời xin xỏ và đợi lâu không thấy có kết quả, chúng ta sẽ rất dễ nản lòng? Sự hướng lên Trời của chúng ta cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần. Rất quan trọng là chúng ta phải để ý đến ơn của Ngài và sự thúc dục của Ngài. Đôi khi chúng ta yêu Chúa trên môi trên miệng, lại để cho mọi thứ vật chất thế gian quyến rũ, bận lòng, đeo đuổi, thì rốt cuộc ơn Chúa Thánh Thần đã bị những thứ chóng qua mau tàn, ngăn cản con đường Lên Trời của chúng ta.
Ai có được ơn Chúa Thánh Thần dễ nhận biết lắm! Con người cũ của họ như đã được Chúa Thánh Thần thánh hóa, gội rửa, nên không còn lòng tham lam như con người cũ nữa! Những gì gian manh lừa dối, hoàn toàn không còn nữa! Khi xưa chúng ta làm gì cũng gian xảo, lừa đảo, ăn gian nói dối, thì luôn tìm cớ để tránh tội, để lương tâm chúng ta bớt ra nặng nề. Nào là lậy Chúa, chung quanh chúng con ai sao thì con vậy! Ngay thẳng quá thì chúng con chẳng có miếng cơm mà ăn. Rồi thì ngay thẳng quá tốt lành quá thì họ bảo chúng con là làm ăn khờ dại thì lấy gì mà ăn mà trả nợ nần?
Cân lượng buôn bán thì không bao giờ và không ai làm ăn cho đúng mức, đúng lượng, và đúng với lương tâm. Đồ giả thì bảo khách hàng là đồ thật. Rượu thì pha nước cho thật nhiều. Đại khái là chúng ta buôn bán một cách không trung thực, để chủ đích là làm giầu nhanh chóng, làm hại anh chị em mà không cần biết tác hại có thể dẫn đến sự chết, nhưng miễn sao vơ tiền vào túi cho thật nhiều là được. Làm chứng gian, và mọi hình thức gian dối.
Điển hình nhất chúng ta thấy Thánh Phaolô của chúng ta khi được ơn Chúa Thánh Thần biến đổi, thì ngài từ con người năng nổ và dữ dằn, đã trở thành một môn đệ thật tốt lành của Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi sự xấu xa ngài làm trước đây là bắt bớ, đánh đập, hành hạ, xử trảm những ai đi theo Chúa Giêsu, để sống một đời còn lại thật thánh thiện thật an lành. Thân xác và linh hồn của ngài từ đó đã hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa và xin được theo thánh Ý của Chúa cho đến hơi thở tàn của ngài. Ngay cả ngài biết cái chết của ngài ra sao, nhưng vẫn cương quyết một lòng chấp nhận mà đi theo con đường thập giá của Chúa Giêsu là con đường đau khổ và đầy gian truân, để đến được với Ba Ngôi Thiên Chúa trong vinh quang trên Nước Thiên Đàng hạnh phúc muôn đời.
Có nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng Chúa xa tránh chúng ta, nhưng thực sự là ơn của Chúa luôn dồi dào ban phát, nhưng vì chúng ta không đón nhận đấy mà thôi! Vì chúng ta đã quá bận rộn với công ăn việc làm, với những bổn phận cơm áo, mà quên dành thời giờ cho Chúa, chỉ khi nào sức của chúng ta ra kiệt quệ, ra tàn tạ, ra vô dụng, thì chỉ khi ấy chúng ta mới chạy đến Chúa mà thôi! Thưa có phải không anh chị em?
Vâng, đến phút chót ấy tình Ngài vẫn luôn ban phát, nhưng đôi khi chúng ta cũng chưa mở cửa để đón nhận hồng ân của Ngài, bởi chúng ta vẫn chưa muốn đi theo Chúa về đến cõi hạnh phúc muôn đời. Vì lý do riêng tư nào đó mà chúng ta vẫn muốn níu kéo, muốn được sống nữa, sống hoài trên cõi đời trần tục này! Cho đến ở giây phút chót, chúng ta đã quá trễ để dọn lòng, dọn tư tưởng, dọn linh hồn để đón Chúa trong tâm hồn và cõi lòng của chúng ta. Ấy là vì tất cả chúng ta tham lam, chứ không phải tình Ngài không hằng ban phát, nhưng tại vì chúng ta từ chối Ngài, ngay cả trong giờ lâm tử. Amen.
Bài 10. SINH NHẬT GIÁO HỘI
JM. Lam Thy ĐVD
Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20, 19-23) trình thuật việc Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần. Người phán dạy: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Như vậy, Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay từ khi Người mới sống lại. Vậy tại sao mãi tới 50 ngày sau (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) Chúa Thánh Thần mới thực sự đến với các Tông đồ? Sở dĩ vậy, vì Thiên Chúa muốn mạc khải cho loài người biết mọi việc Người làm đểu thể hiện tình yêu vô bờ bến của Người đối với nhân loại. Thiên Chúa là Đầng Toàn Năng chỉ cần phán một lời thì tất cả tội lỗi của loài người sẽ được tha thứ hết, nhưng như thế thì con người – vì được tự do và với sự hiểu biết hạn chế, bất toàn – sẽ không thể hiểu được ân sủng vô cùng cao quý ấy, và chắc chắn sẽ tiếp tục sai lầm, tiếp tục sống đời tội lỗi một cách vô tư. Hoá cho nên tất cả những sự kiện – từ biến cố Giáng Sinh đến cuộc khổ nạn, rồi phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Giê-su đều được thể hiện một cách cụ thể, để con người thấy tận mắt mà tin vào Thiên Chúa. Đến như vậy mà loài người vẫn còn không ít những kẻ hoài nghi, không tin. Vậy đó! Vì thế, nên vẫn rất cần thiết cho các môn đệ và cho tất cả mọi người một ngày Lễ Ngũ Tuần vậy.
Sách Xuất hành có viết về Lễ Vượt Qua trong Cựu Ước: “Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn.” (Xh 12, 27).  Vì được Thiên Chúa thương giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, và ban cho mười giới luật để đóng ấn giao ước giữa Chúa và dân của Người (trên núi Si-nai), nên dân Ít-ra-en đã mừng biến cố này hết sức long trọng vào đúng ngày thứ 50 sau lễ Vượt Qua. Vì thế, ngày này được gọi là lễ Ngũ Tuần (“Pentecost”: ngày thứ 50). Bước sang thời kỳ Tân Ước, thì cuộc vượt qua khổ nạn, chiến thắng sự chết và sống lại hiển vinh của Chúa Ki-tô cũng đúng vào dịp mừng Lễ Vượt Qua và 50 ngày sau (vào đúng Lễ Ngũ Tuần) thì biến cố hiện xuống của Đức Thánh Linh xảy ra. Biến cố ấn tượng và hết sức lạ lùng này được Sách Công vụ Tông Đồ tường thuật lại một cách rất thuyết phục: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Sự kiện lạ lùng xảy ra khiến đám đông dân chúng hiện diện ”sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 1-4.7-11)
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như Thần Khí, Thần Chân Ly, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết vời Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong sáng tạo vũ trụ và con người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8). Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện bên dân Chúa và với các ngôn sứ trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13) ; “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15) v.v… Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thần Khi vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua.
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thần Khi trong khi Người chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khí dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chềt” (Rm 8, 11).
Còn đối với Giáo Hội, thì Chúa Thánh Thần hoạt động như thế nào? Ngay từ khi Chúa Giê-su thiết lập Hội Thánh thì Chúa Thánh Thần đã hoạt động thông qua Đức Ki-tô (mỗi khi Người chào các môn đệ, Người đều nói “Bình an cho anh em” hay “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, sự bình an đó chính là Chúa Thánh Thần vậy; hoặc cũng có khi Người nói thẳng: ”Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” – Ga 20, 21-23). Tuy nhiên phải đến ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới thực sự hiện xuống trên các thánh Tông đồ. Vì thế, Lễ Hiện Xuống là ngày khởi đầu cho hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là “Sinh Nhật” của Hội Thánh Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giê-su đã giảng dạy, đặc biệt là ân sủng “vẫn nói tiếng Ga-li-lê quê hương của mình, nhưng người nghe lại nghe thành tiếng nói bản xứ của họ”. Các Tông đồ không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20, 19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các ngài ở (Cv 2, 14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2, 41).
Có thể nói trong cuộc tử nạn của Chúa Giê-su thì các Tông đồ cũng chết theo Người. Sự sợ hãi, co cụm vào nhau không dám hoạt động, khiến cho môi trường sinh hoạt của các Tông đồ mất hết sinh khí và chỉ giời hạn trong một gian phòng nhỏ đóng kín các cửa. Nhưng khi Chúa Phục Sinh và nhất là từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì sinh khí bùng phát, các Tông đồ như được từ cõi chết cùng sống lại với Đức Ki-tô. Đúng là Giáo Hội tiên khởi đã cùng chết với Đức Ki-tô và được tái sinh bởi Thần Khí Thiên Chúa vậy. Vì thế mới coi ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là ngày sinh của Giáo Hội (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8, 11). Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển và cho đến ngày nay, Giáo hội đã hiện diện trên khắp năm châu bốn biển, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16, 16…). Qua dòng thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đồng hành và chở che Giáo hội qua “mọi cơn gian nan thử thách!”, qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Như vậy thì Đức Thánh Linh luôn hiện diện ở khắp mọi nơi và trong mọi thời điểm, còn nói Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ là cách nói nhằm làm sáng tỏ sự thật về Ngôi Ba Thiên Chúa. Đó là Đấng Thánh, là Thần Khi Sự Thật luôn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mọi công trình của Thiên Chúa (từ sáng tạo vũ trụ và con người, đến hồng ân cứu độ, từ khởi nguyên tới tận cùng). Một cách cụ thể, khi nòi Chúa Thánh Thần hiện xuống, là để miêu tả hình ảnh thật (Chim Bồ Câu, Lưỡi Lửa, Ánh Sáng…) từ trời cao bay xuống đậu trên những vật thể hữu hình, và đó cũng chính là những mạc khải của Thiên Chúa để con người hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh! Chúa đã ban Thánh Thần cho Giáo Hội ngay từ ngày mới thiết lập và cũng nhờ thế mà Giáo Hội ngày nay đã hiện diện trên toàn thế giới. Tuy nhiên, những người biết và tin vào Thiên Chúa trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Xin Chúa thương ban cho chúng con được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được như các Tông đồ thủa xưa tái sinh trong Thần Khí mà vững bước trên con đường loan báo Tin Mừng, đem Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc của cuộc đời con. Ôi! Lạy Chúa! “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã thánh hiến tôi. Sai tôi đi ngài sai tôi đi…” (TCCĐ). Amen. Alleluia! Alleluia!
Bài 11. Xin hiệp nhất chúng con
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong mỗi dịp sinh nhật, người ta thường đặt những ngọn nến tượng chưng cho mỗi năm tháng cuộc đời. Bên ánh nến lung linh huyền bí, người ta trao gởi những ước nguyện, những ưu tư trăn trở sâu thẳm nhất của cõi lòng mình. Có lần tôi hỏi một em bé mừng sinh nhật rằng: “Em ước điều gì trong ngày sinh nhật của em?”. Em trả lời: “Em ước mơ cha mẹ tha thứ cho nhau và về chung sống trong một mái ấm gia đình”.
Một điều ước thật bình dị và cũng thật thiết thực. Cha mẹ em đã ly dị. Họ không còn yêu thương nhau. Họ chia tay nhau cũng đồng nghĩa chiếc nôi êm ấm của gia đình đã tan nát. Thế nên, em mong ước cho cha mẹ đoàn tụ để xây dựng lại mái ấm gia đình đã đổ vỡ. Một mái ấm đã từng rộn rã tiếng cười và đầy ắp yêu thương mà nay không còn nữa. Một mái ấm mà “ai đi xa” cũng nhớ về mà nay chỉ còn sự tiếc nuối xót xa, vì chồng một nơi, vợ một nơi!
Hôm nay là ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày khai sinh của Giáo hội. Giáo hội mừng sinh nhật thứ 2012 của mình. Chúng ta ước mơ điều gì? Giáo hội còn những ưu tư, trăn trở nào mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa hoàn thành ước nguyện? Phải chăng đó là sự hiệp nhất nên một trong Chúa? Phải chăng đó là bầu khí yêu thương mà sách Tông đồ công vụ đã từng diễn tả: “Họ đồng tâm nhất trí với nhau. Họ coi mọi sự là của chung. Họ cử hành Thánh Thể với việc chia sẻ cơm bánh với nhau để không ai phải thiếu thốn” (Cv 2, 42 – 46).
Thực vậy, hơn 2000 năm đã qua rồi, nỗi niềm khao khát quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su vẫn còn đó! Ngài khao khát cho ngọn lửa của yêu thương được bùng cháy mọi nơi, được lan toả đến mọi nhà và sưởi ấm mọi con tim đang giá băng! Thế mà lửa yêu thương vẫn còn nguội lạnh nơi nhiều gia đình, nhiều cộng đoàn và xứ đạo! Hơn hai ngàn năm đã qua, thế mà ngọn lửa hiệp nhất và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong ngày lễ ngũ tuần vẫn còn loe loét giữa thế giới mênh mông này. Đức Ky-tô đã bị “chia năm xẻ bảy” bởi Công giáo – Chính Thống – Tin Lành – Anh Giáo. Niềm tin con một Cha trên trời cũng bị phân tán bởi Do Thái Giáo – Hồi giáo và Công Giáo… Đây cũng là nỗi niềm khát khao của Đức Thánh Cha Bê-nê-dic-tô khi mà Ngài đặt chân đến những vùng đất được coi là cấm địa của Hồi giáo, của Do Thái giáo. Ngài đang cùng với Thánh Thần đến để tìm lại tiếng nói chung, để xây dựng lại tình hiệp nhất của những người con Một Cha trên trời. Ngài đang thực hiện lại những bước chân hào hùng của các tông đồ khi đầy tràn Chúa Thánh Thần năm xưa. Khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các ngài đã tháo cởi những ràng buộc trong căn phòng đóng kín. Các ngài đi đến với muôn dân. Các ngài dùng ngôn ngữ của Thánh Thần nên ai cũng hiểu. Ai cũng cảm thấy sự gần gũi của Giáo hội. Một ngôn ngữ của tình yêu. Một ngôn ngữ tạo nên sự hiệp nhất thay cho sự chia ly thời Babel năm xưa.
Vâng, Thánh Thần của Đấng Phục sinh đã đến. Ngài đã mở ra cho các môn đệ chân trời mới của cuộc sống, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín mà đến với muôn dân, mà thổi vào lòng nhân thế tình yêu và sức sống của Chúa. Ngọn gió Thánh Thần đó vẫn tiếp tục mang lại sự đổi mới cho con người hôm nay nếu chúng ta biết mở lòng ra cho ơn Chúa tác động, nếu chúng ta dám quên đi cái tôi của mình để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chính cuộc đời chúng ta và biến chúng ta thành sứ giả của yêu thương, của hiệp nhất và bình an.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến trong tâm hồn chúng con và nhóm lên ngọn lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con, để chúng ra đi xây dựng tình hiệp nhất và yêu thương cho con người hôm nay. Amen.
Bài 12. Thời Đại của Chúa Thánh Thần
AM Trần Bình An
Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban muôn hồng ân cho các Tông đồ không chỉ trong ngày Ngũ Tuần ngày xưa, mà đến nay Ngài vẫn còn tiếp tục hiện xuống hằng ngày, hằng giờ cho tất cả những ai thực lòng mong đợi. Do vậy, Giáo Hội mới xác tín bây giờ là Thời đại của Đức Chúa Thánh Thần.
Những biểu tượng về Đức Chúa thánh Thần phần nào cũng phản ánh những hồng ân của Ngài, như: Khí, nước, lửa, sự xức dầu, ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay và chim bồ câu. Chúa Thánh Thần tác động trên mọi lãnh vực, đáp ứng mọi nhu cầu của con người.
1. Đức Chúa Thánh Thần, nguồn mạch sự sống
Sách Sáng Thế Ký thuật lại thuở con người mới được tạo dựng: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7). Sinh khí tạo nên sự sống như thế bắt nguồn từ Chúa Thánh Thần.
Ngài còn hồi sinh những tâm hồn đã chết vì tội lỗi. Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí hãy đến thổi vào những người đã chết này, cho chúng được hồi sinh. (Ed, 37, 9)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cùng các Tông đồ. “Người thổi hơi và phán bảo các ông: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…” (Ga 20, 22). Chúa Thánh Thần ban sức sống mới, để các Tông đồ thực hiện sứ mạng mà Chúa Giêsu trao phó, đi loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần còn đem đến sự sống mới viên mãn. Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới ( Rm 8, 11).
2. Đức Chúa Thánh Thần hòa giải
Qua Bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần hóa giải con người tội lỗi với Thiên Chúa từ bi độ lượng. Ngài còn tiếp tục xóa đi tấm màn u minh của con người qua Bí Tích Thêm Sức, để con người có thể nhập tâm Lời Chúa, mà can đảm thực hành.
Chúa Thánh Thần cũng giải hòa con người với nhau, làm lành với nhau, thông cảm và thương yêu nhau hơn. Ngài như làn gió mát hòa dịu len lỏi vào tâm hồn để san lấp chia rẽ, đố kỵ, ganh ghét, khi con người biết tin cậy và nghe theo Ngài khuyên nhủ. 
3. Đức Chúa Thánh Thần thánh hóa
Ngay từ thuở đầu, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống, thánh hóa các Tông đồ trở nên những Chứng nhân của Đức Kitô. Ngài tiếp tục thánh hóa Giáo Hội qua những triều đại Đức Giáo Hoàng tài ba lỗi lạc, lèo lái Hội Thánh khỏi những phong ba đe dọa hiểm nguy.
Vào những thời điểm Giáo Hội rơi vào khủng hoảng, Chúa Thánh Linh đã gửi đến những thánh nhân để  kịp thời cứu vãn, như thánh Phanxicô Assisiô, thánh Catarina Siêna, thánh Têrêsa Avila, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Nhất là gần đây, Chúa Thánh Thần còn phái đến những chứng nhân kiệt xuất, như Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,…
4. Đức Chúa Thánh Thần canh tân
Dưới hình ảnh lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ, Chúa Thánh Thần đã khai sáng các ngài, hiểu được sâu sắc những Lời Chúa truyền dạy trước đây, để rồi can đảm nhận sứ vụ Sai Đi. Như ông Phêrô, vốn từng sợ hãi chối Chúa trước đây, nay được tràn đầy hồng ân Chúa Thánh Thần, đã can đảm công khai rao giảng Tin Mừng trước toàn dân. (Cv 2, 14-36)
Chúa Thánh Thần còn ban bảy ơn đặc sủng, như Ngôn sứ Isaia đã chúc phúc cho vua Đavít, các ơn khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, dũng mãnh, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Chúa. (Is 11,2) Hơn nữa, Chúa Thánh Thần được nhận biết qua nhân đức ban cho loài người, mà Thánh Phaolô Tông đồ gọi là hoa quả của Thần Khí, hay 12 Hoa quả Nhân đức: Bác ái, hân hoan, bình an, khiêm nhường, hiền hòa, nhẫn nhục, từ tâm, quảng đại, trung tín, trong sạch, tiết độ và tự chủ (Gl 5: 22-23). 
5. Đức Chúa Thánh Thần thương yêu và tận tụy
Chúa Thánh Thần còn luôn sẵn sàng giúp đỡ con người gần gũi, liên kết thân mật, nguyện cầu cùng Thiên Chúa. Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thề nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.(Rm 8, 26-27)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho con luôn tỉnh thức và xứng đáng đón nhận những đặc sủng của Ngài, để con được tái sinh viên mãn.
Lạy Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, xin nhắc nhở con luôn cậy nhờ đến Chúa Thánh Thần, cầu thay nguyện giúp cho con, đúng ý Thiên Chúa. Amen.
Bài 13. Chúng ta nhờ Thần Khí mà tiến bước
Lm. Jude Siciliano, OP.
Thưa quý vị,
Thật khó chịu khi ai đó thất hứa phải không? Quý vị nghe lời ai đó, tin vào những lời họ đã hứa, nhưng rồi họ lại không thực hiện lời hứa với quý vị. Có những người đã thất hứa quá nhiều lần trong đời đến độ họ đã có thể tạo một thư mục riêng với tên “Những lời hứa không được tôn trọng” trong máy tính của mình. Mở thư mục đó ra và đọc những tập tin có thể dễ dàng khiến những giọt nước mắt rơi và những nỗi đau hiện rõ trên gương mặt.
Thiên Chúa là Đấng giữ lời hứa. Đức Giêsu đã chứng minh rằng Thiên Chúa thực hiện những lời hứa khi xưa đã cam kết với dân Israel nghèo khổ. Kiểu đưa ra lời hứa không dừng lại với cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh Cựu Ước. Những lời hứa vẫn còn tiếp diễn trong Tân Ước.
Hôm nay, chúng ta cử hành một lời hứa khác đã được đưa ra và đã thực hiện. Chẳng hạn, ông Gioan Tẩy giả đã hứa “…có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến… Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Lc 3,16). Trước khi về trời, Đức Kitô Phục sinh đã hứa với nhóm mười một Tông đồ rằng: “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,48-49). Thêm một lần nữa, Thiên Chúa đã thấy được nhu cầu của chúng ta nơi Đức Kitô và Người đã giữ lời. Hôm nay, chúng ta mừng kính việc Thần Khí ngự xuống trên các Tông đồ và 120 môn đệ (1,15). Tất cả mọi người đang quy tụ ở đó được đầy Thánh Thần như lời đã hứa: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta trên tôi nam tớ nữ.” (Ge 3,1-2).
Lễ Ngũ Tuần là một trong ba ngày lễ trọng của người Do Thái. Lễ này kỷ niệm mùa thu hoạch và diễn ra bảy tuần sau khi bắt đầu mùa thu hoạch. Sách Dân số gọi ngày lễ này là “lễ các Tuần” và “ngày hoa trái đầu mùa” (28, 26-31). Lễ này mang một ý nghĩa lịch sử và trở thành ngày kỷ niệm việc Môsê đón nhận Luật. Trong khi ngày lễ người Do Thái đã cử hành nhỏ hơn, thì với biến cố chúng ta mừng kính hôm nay, việc Thần Khí ngự đến, Lễ Ngũ Tuần nay trở thành một ngày lễ trọng đối với các Kitô hữu.
Hãy nhìn những gì đã xảy đến rất nhanh cho nhóm các môn đệ đang tụ họp: Việc Thần Khí ngự xuống trên các ông, ơn nói các thứ tiếng, bài giảng của Phêrô và việc thành lập Giáo hội. Đang khi các kỳ mục trong các bản văn Hippri (1Sm 10,3) diễn giảng một cách xuất thần dưới sự thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa (“lời tiên tri”), thì hôm nay chúng ta mừng kính việc Thần Khí Đức Giêsu trao cho Giáo hội còn non yếu quyền năng tự tỏ bày cho các dân tộc để họ nhận biết Giáo hội.
Kinh thánh cho chúng ta biết rằng khi con người, lòng đầy kiêu hãnh, đã toan tính xây tháp Babel thì họ có sự bất đồng về ngôn ngữ. Ngày nay, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hiệp nhất lại và với Thần Khí, Giáo hội ra đi rao giảng Tin Mừng – bằng chứng là Phêrô diễn thuyết ngay sau khi Thần Khí ngự đến. Phêrô giải thích rõ những gì đang diễn ra cho dân, những người đang bị tiếng động thu hút và họ nghe các môn đệ “nói tiếng của họ” (2,6). Sự tương phản trước và sau rất rõ ràng. Trước khi Thần Khí ngự đến, nhóm các môn đệ chỉ là một tập hợp các môn đệ bị phân tán và bối rối. Sau khi Thần Khí ngự đến, các ông đã trở nên can đảm và có thể nói năng lưu loát, sẵn sàng đáp lời mời gọi ban đầu của họ, trở nên “những kẻ chài lưới người”.
Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống không liên quan đến tính cách thực sự và mẫu mực của các môn đệ đầu tiên. Các ông đã tỏ ra mình là một nhóm người vô dụng và pha tạp. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không ca ngợi những công trạng của họ và phần thưởng đạt được, nhưng lễ này tán dương những gì Thiên Chúa đã thực hiện và còn tiếp tục thực hiện – hoàn trọn những lời hứa. Nơi vị Thầy và Chúa của mình là Đức Giêsu, những hồng ân tự nhiên của Giáo hội sơ khai không đủ để loan truyền niềm tin của các ông cho toàn thế giới. Thực vậy, một khi được Thần Khí hướng dẫn và xác nhận, Thiên Chúa có thể dùng nhóm các môn đệ pha tạp để loan truyền Tin Mừng khắp thế giới nhờ hồng ân của Thần Khí để nói bằng “ngôn ngữ riêng của mình về những hoạt động mạnh mẽ của Thiên Chúa”.
Quý vị còn nhớ mùa Vọng và Giáng Sinh chứ? Có vòng hoa mùa Vọng, những cây thông trong thánh đường và cả nơi máng cỏ. Còn vào mùa Phục sinh, chúng ta đã có Ngọn nến Phục sinh được thắp sáng và dòng nước tuôn chảy. Nhưng chúng ta sẽ dùng biểu tượng nào cho ngày lễ hôm nay – ngoài phẩm phục màu đỏ và “những hình lưỡi lửa mà thánh Luca diễn tả việc Thần Khí ngự xuống tại phép rửa của Đức Giêsu khi đi xuống dưới “hình dạng vô hình như chim bồ câu” (3,22), vì chim bồ câu thường là biểu tượng cho Thần Khí trong nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo. Đó là một hình ảnh dễ thương và diễn tả phần nào sự dịu hiền của Thiên Chúa đang đến giữa chúng ta. Gợi lại hình ảnh chim bồ câu đến với ông Nôe như là một dấu chỉ bình an và cho biết trận lụt đã kết thúc. Trong Tân Ước, chim bồ câu là lễ vật của người nghèo tại Đền thờ. Nếu Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu dưới “hình dạng hữu hình như chim bồ câu” thì đó là Tin Mừng sử dụng một biểu tượng cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa ở với người nghèo.
Tuy nhiên, chúng ta không gặp thấy hình ảnh chim bồ câu hiền lành trong biến cố lễ Ngũ Tuần mà chúng ta mừng kính hôm nay. Thay vào đó, chúng ta có được một câu chuyện sống động và đầy lý thú cùng với một âm thanh tựa như tiếng gió đang thổi mạnh, những hình lưỡi lửa và ngay đó hoạt động náo nhiệt của cộng đoàn. Thần Khí hôm nay náo nhiệt, rất công khai, đầy thương cảm và có những dấu hiệu chung đi kèm.
Nếu chúng ta tìm một biểu tượng cho ngày hôm nay thì chúng ta sẽ quay trở lại Tin Mừng và tường thuật của thánh Gioan về biến cố này. Sau khi ban lời bình an cho các môn đệ đang còn trong sợ hãi, Đức Giêsu cho các ông xem những vết thương của Người. Rồi Người thổi hơi vào các ông và ban cho các ông Thần Khí của Người. Tôi không biết chúng ta sẽ diễn tả hai biểu tượng này bằng cách nào – những vết thương và hơi thở.
Nhưng tôi chắc rằng một trong hai biểu tượng này đã được trưng bày đầy đủ trong nhà thờ hay nguyện đường của chúng ta – Đức Kitô bị thương tích treo trên thập giá. Đó là một hình ảnh chúng ta không thể bỏ qua trong dịp lễ lớn này. Những vết thương của Đức Giêsu luôn ở trước mắt khi chúng ta thờ phượng và sẽ luôn ở trong tâm trí khi chúng ta rời khỏi nơi thờ phượng để trở về với cuộc sống thường ngày. Các môn đệ Đức Kitô là những người mang thương tích của Đức Kitô, Đấng đã trao cuộc sống của mình vào tay chúng ta – và chúng ta đã đóng đinh Người vào thập giá. Hiện giờ, Người lại trao cuộc sống của mình vào tay chúng ta – lần này là với hơi thở của Thần Khí Người. Đó là Thần Khí chúng ta đã nghe biết ngay khởi đầu Tin Mừng của thánh Gioan, Đức Giêsu cho chúng ta biết Thần Khí ‘muốn thổi đâu thì thổi” (3,8).
Nếu không có hơi thở, chúng ta sẽ chết. Hơi thở của Đức Giêsu là biểu tượng tốt lành cho chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta ý thức hơn trong suốt những ngày sống của mình, thì khi hít thở, chúng ta sẽ nhớ rằng Thiên Chúa ở gần với chúng ta hơn là chính hơi thở của chúng ta. Vì thế, hãy tập trung vào hơi thở của mình ít phút mỗi ngày, hãy mời Thần Khí bước vào cuộc sống chúng ta đầy tràn hơn mỗi khi chúng ta hít thở. Chúng ta có thể cầu nguyện “Lạy Thần Khí của Đức Giêsu, xin ngự đến” khi chúng ta hít vào. Thần Khí không chỉ ngự đến “những nơi thánh” mà chúng ta họ nhau thờ phượng, nhưng còn hiện diện với chúng ta “ở ngoài kia”, Người thở trong chúng ta và hướng dẫn chúng ta đến những nơi chúng ta không mong đợi và đầy kinh ngạc để phục vụ Đức Chúa.
Thế giới chúng ta cần những chứng nhân cho tình yêu mà Đức Giêsu đã loan truyền và biểu lộ trên cây thập giá. Chúng ta là một Giáo hội đầy tràn Thần Khí và phải vượt trên những rào cản về chủng tộc, giới tính, tầng lớp kinh tế, ngôn ngữ và văn hóa. Thiên Chúa cần chúng ta và ban cho chúng ta Thần Khí để như Đức Giêsu, chúng ta có thể loan báo tình yêu và bình an của Thiên Chúa cho thế giới qua lời nói và hành động của mình. Sau hết, chúng ta có được hơi thở rất sống động và can đảm mà Đức Giêsu đã có – Thần Khí của Thiên Chúa.
Bài 14. Được sai đi trong quyền năng Chúa Thánh Thần
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
Chúng ta có thể hình dung khung cảnh Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Sau khi đã đánh tan đi mọi sợ hãi và làm cho tâm hồn họ vui mừng để sẵn sàng đón nhận lệnh truyền của Người, Chúa Giê-su nói với họ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Rồi Người tiếp: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, rõ ràng là việc sai đi liên kết chặt chẽ với việc nhận lấy Thánh Thần. Nói cách khác, không thể ra đi thi hành sứ mệnh nếu không nhận lấy Thánh Thần. Đó chính là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay.
Mệnh lệnh “được sai đi” bắt đầu từ chính kinh nghiệm bản thân của Chúa Giê-su. Đó là một khuôn mẫu Chúa Cha đã ấn định để áp dụng cho Chúa Giê-su và đến lượt Chúa Giê-su áp dụng cho các môn đệ Người. Tuy khác nhau về kẻ được sai đi, nhưng mục đích của việc sai đi thì vẫn là một, nghĩa là để “tha tội cho ai thì người ấy được tha, cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Để dễ hiểu hơn mục đích của việc sai đi này, chúng ta hãy đọc lại mục đích Chúa Cha xác định khi Người sai Con Một đến trần gian, là để “ai tin vào Con của Người thì không bị lên án [“được tha”] và kẻ không tin thì bị lên án rồi [“bị cầm giữ”] (Gio-an 3:18)”. Nói tóm lại, ý nghĩa của mục đích việc sai đi này là để cứu độ những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa nhập thể.
Vậy trước hết Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su đi xuống trần gian như thế nào? Thưa giản dị, đó là trong quyền năng và sức mạnh của Thánh Thần. Qua biến cố Truyền Tin, Chúa Giê-su đã được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a khi “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lu-ca 1:35). Tiếp đến, khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ, Thánh Thần luôn luôn khởi động và hướng dẫn Chúa Giê-su mọi nơi mọi lúc, khi Người chịu phép rửa của Gio-an (Mát-thêu 3:16), khi bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, rồi trở về Ga-li-lê và trong hội đường Na-da-rét (Lu-ca 4:1,14,18), cuối cùng khi trên thập giá Người “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Gio-an 19:30). Thánh Thần trở thành nguyên lý hành động của Chúa Giê-su, dẫn dắt Người suy nghĩ theo tư tưởng của Thiên Chúa (xem Mát-thêu 16:23), nhất là giúp Người luôn trung thành với thánh ý của Chúa Cha. Từ trên thập giá, Chúa Giê-su chỉ có thể tuyên bố “Thế là đã hoàn tất” (Gio-an 19:30) nhờ Thánh Thần đã đầy tràn tâm hồn Người trong suốt cuộc đời dương thế.
Bây giờ thì đến lượt chúng ta, các môn đệ Người, được chính Người sai đi. Cùng một phương thức như Người đã được Chúa Cha sai đi, nghĩa là cũng phải hoàn toàn tùy thuộc vào quyền năng và sự dẫn dắt của Thánh Thần. Vẫn tiếp nối cùng một mục đích, là để bản thân mình được cứu độ và giúp anh chị em chúng ta cùng được cứu độ. Là để “vui mừng vì được thấy Chúa” trong hạnh phúc đời đời bên cạnh Chúa Cha.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Phải thú nhận là ý thức “được sai đi” dường như quá mờ nhạt trong nhiều người chúng ta. Có lẽ chính vì thế mà chúng ta không nhận ra tầm quan trọng của quyền năng và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống mình. Nói khác đi, chúng ta sống đời Ki-tô hữu giống như là không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần vậy! Làm sao cứu vãn tình trạng nguy hiểm này? Làm sao làm sống dậy ý thức chúng ta là “đền thờ Chúa Thánh Thần” và cảm nghiệm được sự dẫn dắt của Người? Chúng ta hãy nhìn vào sinh hoạt và sự phát triển của Giáo Hội qua bao thế kỷ. Đầy dẫy những chứng tích ghi lại sự hiện diện và hành động của Người: từ công đồng Giê-ru-sa-lem cho tới Vatican II, từ những vị giáo hoàng vĩ đại cho tới những giáo dân khiêm tốn vô danh, từ những thành công cho tới thất bại, thậm chí cả trong những nhục nhã, đáng tiếc của lịch sử Giáo Hội. Đều là có bàn tay Chúa Thánh Thần cả! Chúng ta hãy nhìn vào đời sống cá nhân của mình, chắc chắn sẽ nhận ra những tình huống, những biến cố mang dấu vết Chúa Thánh Thần. Thí dụ một lần chúng ta vượt qua được cơn cám dỗ trầm trọng, một lần chúng ta có được một quyết định khôn ngoan, một lần chúng ta đã có thể tha thứ… Rất nhiều cơ hội nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Thánh Thần hằng ở trong chúng ta!

Bài 15. Như một lần Thêm sức
PM. CAO HUY HOÀNG

Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Tin Mừng (Ga 20, 19 – 23) gợi lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu ban Bí Tích Thêm Sức đầu tiên cho các Tông Đồ, và mời gọi chúng ta nhớ lại Bí Tích Thêm Sức chính chúng ta đã lãnh nhận, cùng mong ước mỗi chúng ta dùng ơn Thánh Thần mà sinh hoa kết trái trong đời sống Đức Tin.
Mỗi tín hữu được lãnh Bí Tích Thêm Sức như Ấn Tín Chúa Thánh Thần với nguồn Bảy Ơn cao trọng ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết, ơn Biết Lo Liệu, ơn Sức Mạnh, ơn Thông Minh, ơn Đạo Đức và ơn Biết Kính Sợ Chúa. Bí tích Thêm Sức chỉ lãnh nhận một lần trong đời, nhưng hiệu quả thì trường cửu, ấn tín không hư mất.
Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã ban sẵn sàng cho mỗi tín hữu như một vốn liếng quí giá, như gói tư trang thiêng liêng để mỗi tín hữu được trưởng thành hơn, vững vàng hơn khi bước vào cuộc đời để sống Đức Tin và làm chứng cho Thiên Chúa.
Thế nhưng, thiết tưởng, trong khi Chúa Thánh Thần không hề quên chúng ta, thì ngược lại chúng ta quên Chúa Thánh Thần. Bởi, ơn thì đã nhận, nhưng nhận rồi để đấy hay cất đâu đấy, không dùng, hoặc không ý thức mình cần phải dùng, nên mới có nguy cơ chuốc lấy những thất bại trong hành trình Đức Tin.
Còn tệ hơn nữa, đôi khi ta không dùng Ơn Khôn Ngoan của Chúa Thánh Thần để xua trừ sự dại dột trong ta, mà còn kiêu căng cậy dựa, khoe khoang tự đắc về sự khôn ngoan của mình, nên chi, chúng mình đã tự lao đầu vào vực trầm luân dại dột.
Các Ơn khác của Chúa Thánh Thần cũng vậy, phải là nguồn sức thiêng kỳ diệu giúp chúng ta vượt qua những thử thách gian nan và anh dũng bước đi trong ân sủng, trong bình an chứ ? Tại sao các tín hữu của Chúa lại vong ân bội nghĩa đến mức vô tâm vô tình với 7 Ơn cao trọng như thế ?
Mỗi khi làm việc gì, ta đọc, ta hát kinh Đức Chúa Thánh Thần, hoặc kinh “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm…” nhưng trong thực tế, chúng ta lại muốn làm việc chúng ta thích làm, hơn là chịu làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Đến khi vỡ chuyện rồi, thất bại rồi, có người vẫn chưa ngộ ra lý do vì chúng ta đã cậy sức mình quá lẽ, mà không cậy vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Mẹ tôi dặn: “Mỗi khi con cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và thinh lặng lắng nghe Ngài hướng dẫn, ấy là một lần con được thêm sức”.
Cụ thể hơn, trong suốt cuộc đời, từ trẻ làm Nữ Hộ Sinh ở Bệnh Viện Grall Qui Nhơn, cho đến lúc về già làm “Bà Mụ Vườn”, mẹ tôi vẫn thầm thĩ nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trong từng ca giúp người ta sinh nở. Có lần mẹ tôi kể cho chị em chúng tôi: “Bệnh viện thì xa, phương tiện không có, mà thai có dấu hiệu nguy tử trong bụng rồi, mẹ chỉ còn cách xin Chúa Thánh Thần giúp cho biết phải làm gì để cứu sống cả mẹ cả con. Và chỉ trong một thoáng rất nhanh, Người đã giúp Mẹ có giải pháp tức khắc. Kết quả là tốt đẹp. Mẹ tròn, con không được vuông lắm, nhưng cứu kịp. Chúa Thánh Thần tinh thông mọi nghề nghiệp, mọi công việc và Người có đủ giải pháp tốt nhất cho mọi tình huống con à !”
Lời mẹ tôi dặn ngày ấy, tôi nghĩ, đã được rút ra từ những kinh nguyện Chúa Thánh Thần và kinh nghiệm sống của mẹ trước những thách đố hết sức gay go của đời sống Đức Tin.
Vâng, bóng tối ngập tràn thế gian. Tội lỗi chồng chất. Đau thương ngút ngàn. Mỗi tâm hồn, mỗi gia đình đều có mảng tối đang bao vây, đang che chắn ánh sáng của Tin Mừng, ánh sáng thiêng liêng của nguồn Bình An. Nhưng dù cửa nhà ta, cửa cõi lòng ta có đóng kín như cửa nhà các môn đệ Chúa Giêsu vì sợ hãi hay vì một lý do nào khác, thì Chúa Giêsu vẫn có thể hiện đến và ban Thánh Thần của Thiên Chúa cho chúng ta.
Tại sao chúng ta đóng kín cửa, vô tâm với Chúa Thánh Thần, hoặc không màng đến nguồn trợ lực thiêng liêng, quí giá của Chúa Thánh Thần ? Vì cảnh nghèo khổ cơ bần chăng ? Hay vì những đau thương quá sức chịu đựng của kiếp người không còn phẩm giá, nhân vị, hoặc trong tình trạng thấp dưới mức bình thường ? Vì bị xem thường, đàn áp, có la đến khản giọng khàn hơi cũng không hề nghe được lời đáp cứu chăng ?
Trong phút giờ bi đát ấy, có bao giờ ta khẩn thiết kêu cầu đến Chúa Thánh Thần: Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến ! Và có lúc nào chúng ta nhận ra mình đang có được Chúa Thánh Thần “Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng, là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi” như một lần được thêm sức chưa ?
Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình, để khẩn khoản sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy thinh lặng cung kính đi vào lối sâu thẳm của thượng trí Thiên Chúa để nhận ra trí hiểu biết bé nhỏ nông cạn của mình. Hãy loại trừ tính chủ quan kiêu căng về khả năng, quyền lực của mình, để đón nhận Ánh Sáng Người soi dẫn.
Xin chia sẻ một chút, chúng tôi là một nhóm làm công việc hơi chuyên biệt và may mắn là chúng tôi có một anh trưởng nhóm rất đạo đức, quen gọi là anh Ba. Anh Ba có nhiều sáng kiến hay, kế hoạch mới, và cũng đã có nhiều sáng kiến, kế hoạch luôn thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là tất cả. Một lần, anh Ba đưa ra một kế hoạch, một dự phóng để anh em bàn bạc. Đa số không thuận vì thấy không khả thi. Anh Ba mời mọi người vào phòng cầu nguyện, xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sau một giờ thinh lặng cầu nguyện, anh Ba trở lại phòng họp và tuyên bố: “Như vậy là đúng ý Chúa Thánh Thần rồi. Chúng ta chỉ việc bắt tay vào thực hiện thôi”. Hơn một năm thực hiện, xảy ra bao điều bất ổn, có thể nói là kế hoạch ấy… thất bại ! Chúng tôi ngồi lại với nhau để rút kinh nghiệm: Đừng áp đặt ý chủ quan của mình thành ý của Chúa Thánh Thần. Nhưng cũng qua lần thất bại ấy, chúng tôi như được thêm một lần thêm sức.
Quả thực nếu thành tâm với Chúa Thánh Thần trong hành trình Đức Tin, cách nào đó, chúng ta được ơn nhận ra sự can thiệp kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống và mỗi lần ấy, như một lần thêm sức.
Anh N, hơn 30 năm ca trưởng nhiệt thành của một Giáo Xứ trong 5 Giáo Xứ kỳ cựu nhất Giáo Phận, có tuổi hơn một thế kỷ, tâm sự với tôi chuyện gia đình:
“Anh ơi, em bị cha sở phạt “thẻ đỏ” rồi anh H. ơi, phải “ra sân” Hội Đồng Mục Vụ, “ra sân” cả bên Ca Đoàn nữa, chỉ vì con gái em nó lỗi luật. Đã vậy, nhà trai không cho con họ theo Đạo, đòi cưới luôn, không phép tắc. Để giữ thai đứa cháu ngoại 4 tháng, vợ chồng em đành buông xuôi, mặc họ tổ chức đám cưới bên nhà họ. Mình không làm gì. Em đã trình bày với cha sở, nhưng cha khuyên em nên nhận… “thẻ đỏ” để làm gương ! Một tháng nay rồi. Phó thác hết cho Chúa, nhưng vẫn không thấy bình an. Mấy ngày đầu nản lắm, tủi nhục tư bề, đau khổ triền miên, vợ chồng em mất ăn mất ngủ. Sau một tuần kinh nguyện, em ngộ ra điều này: nơi đâu có tội lỗi, nơi đó có ân sủng. Ân sủng chắc chắn không qua con đường Bí Tích vì tình trạng tội lỗi của con gái em, nhưng em tin và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Người sẽ giúp con gái của em làm chứng cho Chúa trong gia đình nhà người ta. Vậy, em yên tâm được một chút rồi, mới gọi điện chia sẻ với anh đây”.
Ước gì mỗi chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay, như anh bạn ca trưởng đã khám phá chiều kích mới của ân sủng: Sự can thiệp Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống, như một lần thêm sức.
Lạy Chúa Thánh Thần, “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ, cho mỗi kinh mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Bài 16. Lửa Thần Khí
Lm Phạm Quốc Hưng
Trong lịch sử nhân loại nhất là trong những năm gần đây, đã có biết bao phát minh về khoa học kỹ thuật làm thay đổi và thăng tiến đời sống tự nhiên của con người. Chúng ta nói đến các phát minh đáng nhớ: điện, máy chụp hình, xe hơi, điện thoại, truyền hình, truyền thanh, máy bay, phi thuyền, bom nguyên tử, máy vi tính và gần đây ineternet, điện thoại di động, iphone, ipad… Nhưng người ta thường nói rằng phát minh lớn nhất của nhân loại là việc con người bắt đầu biết dùng lửa. Con người dùng lửa để sưởi ấm, soi sáng, thiêu hủy rác rến, nấu nướng đồ ăn thức uống, bào chế thuốc men, xua đuổi thú dữ, luyện kim… Chính từ việc biết dùng lửa, con người đã đi từ đời sống hoang dã đến cuộc sống ngày càng văn minh và chinh phục vạn vật trong vũ trụ.
Lửa còn giữ một vai trò và mang một ý nghĩa đặc biệt trong chiều kích tôn giáo và tâm linh của con người. Có những dân tộc vì nhận biết sức mạnh và tầm quan trọng của lửa đã thờ lửa như một vị thần. Lửa có mặt trong hầu hết mọi nghi lễ của các tôn giáo: trong việc hương khói, thiêu đốt của lễ, hỏa táng… Lửa cũng được nhắc đến nhiều lần trong Cựu Ước: Thiên Chúa đã hiện ra với Môsê trong bụi gai bốc lửa. Trên đường về Đất Hứa, ban ngày Chúa dùng cột mây và ban đêm Chúa đã dùng cột lửa để dẫn dân đi trong sa mạc. Tiên tri Êlia đã gọi lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ để chứng minh Thiên Chúa của ông là Thiên Chúa thật. 
Trong bài đọc một trích sách Tông Đồ Công Vụ của Phụng Vụ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, chúng ta được biết Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để ngự xuống trên các môn đệ: “Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban ho họ nói” (2:3-4). Sự kiện này đã hoàn tất lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ trước khi lên trời: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv. 1: 4b-5); và “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1: 7-8). 
Nếu việc nhân loại bắt đầu biết dùng lửa được coi như biến cố quan trọng nhất đánh dấu nền văn minh nhân loại, tách biệt con người khỏi thế giới hoang dã, thì biến cố Lửa Thần Khí ngự xuống trên các môn đệ phải là một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử Hội Thánh. Thật vậy, với biến cố này các môn đệ được chia sẻ cùng một sức mạnh của chính Chúa Kitô để tiếp tục sứ mạng cứu độ của Người, Đấng đã từng áp dụng lời ngôn sứ Isaia nơi chính Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).  
Chính nhờ được Chúa Thánh Thần ngự xuống, các môn đệ đã được biến đổi cách lạ lùng, được trở nên những “Kitô khác”, những người thực sự thuộc về Chúa Kitô và nên một với Người, những người con cái Thiên Chúa. Điều này được Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người…Những ai sống theo Thần Khí, thì là con Thiên Chúa” (Rom 8: 9b, 14). Từ những con người yếu hèn, ngu muội, các môn đệ đã trở thành những người can đảm, khôn ngoan, đầy hiểu biết để làm chứng cho Chúa Giêsu và chinh phục mọi người. Vì vậy, Lễ Hiện Xuống được gọi là sinh nhật của Hội Thánh Công Giáo.
Như lửa tự nhiên soi sáng giúp chúng ta nhận biết các sự vật trong bóng đêm, Lửa Thần Khí giúp chúng ta nhận biết các thực tại siêu nhiên, các mầu nhiệm đức tin, phân biệt tội phúc, nhất là nhận biết quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Kitô. Nói tắt, Thần Khí giúp chúng ta nhận biết toàn bộ nội dung đức tin: Thiên Chúa là ai, Người thương yêu ta thế nào và ta phải làm gì để đáp trả lòng thương yêu ấy.
Đây chính là điều Chúa Giêsu đã từng nói trước với các môn đệ: “Song, Thầy nói thật với anh em, Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xư: về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; về việc xét xử; vì Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử rồi. Thầy nói thật Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật” (16:7-13).
Cũng vậy, như lửa tự nhiên giúp con người được sưởi ấm, thanh luyện những gỉ sét của kim loại, thiêu hủy những rác rến, xua đuổi thú dữ, Lửa Thần Khí làm tâm hồn chúng ta đầy tràn an ủi, gia tăng ước muốn thánh thiện, lòng hăng hái nhiệt thành, xua đuổi ma quỷ và những đam mê tội lỗi, thanh tẩy linh hồn, tăng sức mạnh giúp chúng ta can trường thực hiện những gì là tốt lành thánh thiện, tuân giữ và thực thi Lời Chúa, Luật Chúa. Đặc biệt, vì là Thần Yêu Mến, Lửa Thần Khí làm tâm hồn chúng ta đong đầy lòng mến Chúa yêu người. Đây chính là Lửa Yêu Mến mà Chúa Giêsu đã mang đến trần gian và mong mỏi được bùng lên nơi tâm hồn mọi người: “Thầy đã mang lửa đến thế gian, và Thầy ước mong cho lửa ấy bừng cháy” (Lc 12:49). 
Như lửa tự nhiên làm biến đổi sự vật và giúp người ta chế tạo nhiều sản phẩm hữu ích, những thực phẩm bổ dưỡng và những thuốc men hiệu nghiệm, Lửa Thần Khí cũng biến đổi tâm hồn người ta từ tội lỗi trở nên thánh thiện, từ “xác thịt” nên “thần thiêng”. Mọi nhân đức trọn hảo đều là hoa trái của Thần Khí: “Còn hoa quả của Thần Khí là: yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5:22).
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ trong ngày Lễ Ngũ Tuần còn mang một ý nghĩa đặc biệt. Thật vậy, Lễ Ngũ Tuần chính là Lễ để người Do thái kỷ niệm việc Chúa ban cho họ Thập Giới qua trung gian Môsê trên Núi Sinai. Thần Khí chính là “Luật Mới” được Chúa Giêsu ban tặng các môn đệ trong Lễ Hiện Xuống. Thật vậy, chính nhờ sống theo Thần Khí là “Luật Mới” này, chúng ta được giải thoát khỏi sự bó buộc của luật cũ, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal 5:18). Cũng vậy, chỉ khi có sự hiện diện đầy quyền năng của Thần Khí nơi tâm hồn chúng ta, chúng ta mới có thể chu toàn giới răn của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con” (Ga 15:12). Chính Thần Khí giúp chúng ta “có được tâm tư như đã có nơi Đức Kitô” (Phil 2:5). 
Như Chúa Giêsu là món quà tuyệt quý tuyệt cần Chúa Cha đã thương ban cho nhân loại, Chúa Thánh Thần chính là món quà tuyệt quý tuyệt cần Chúa Giêsu đã thương ban cho Hội Thánh , cho các môn đệ của Người làm dấu chứng họ thuộc về Người. Vì vậy, có nhiều tác giả tu đức khuyên rằng khi cầu nguyện nếu không biết xin ơn gì, chúng ta hãy nài xin Chúa ban cho chúng ta Thần Khí của Người. Vì Thần Khí chính là Hồng Ân bao gồm mọi hồng ân, là chính Thiên Chúa, là Nguồn Mạch muôn ơn. Đây là điều Chúa Giêsu đã từng nói trước: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. Đức Kitô muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7:38-39).
Như xưa ngọn lửa đã dẫn dân Do thái vượt qua những đêm đen trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, từ ngày Lễ Hiện Xuống Thần Khí hằng hướng dẫn Hội Thánh vượt qua những đêm đen trần thế để tiến về Thiên Đàng. Chính Thần Khí sẽ dạy và giúp  mọi Kitô hữu chúng ta đạt được mục đích của đời sống con người: nhận biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa ở đời này và chia sẻ hạnh phúc với Chúa trong cuộc sống đời đời. 
Vậy nên, trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy sống theo Thần Khí, và như vậy anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gal 5:16) và “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gal 5:25). “Sống theo Thần Khí” hay “sống theo Thánh Ý Chúa” vì thế đã trở thành nguyên lý căn bản và bí quyết then chốt của đời sống người Kitô hữu. Điều này được xác định trong kinh “Bí Quyết Nên Thánh” của Đức Hồng Y Mercier như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, Hồn của hồn con. Xin soi sáng con, xin dẫn dắt con, xin thêm sức con, xin an ủi con. Xin dạy con biết việc con phải làm, và xin truyền khiến con thực hiện. Con hứa sẽ suy phục trong hết mọi điều Chúa cho phép xảy đến với con. Miễn là được biết rằng con đang thực thi Ý Ngài”.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã hiện diện với các môn đệ nơi nhà Tiệc Ly để giúp các ngài đón nhận Chúa Thánh Thần. Nay xin Mẹ cũng hiện diện trong cuộc đời chúng con, để không ngừng nài xin Chúa ban cho chúng con tràn đầy Lửa Thần Khí, để Người biến đổi chúng con nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô và những chứng nhân bất khuất của Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu của Người, trong thế giới hôm nay, một thế giới bị bao phủ bởi bóng đêm của “văn hóa sự chết”. Amen.
Bài 17. LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Lm Paul Nguyễn
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng hơn cả. Khi cầu nguyện, lời nguyện của hầu hết chúng ta là hướng về Chúa Cha, về Chúa Giêsu, về Đức Mẹ, hay về một vị thánh nào đó, chứ ít khi hướng về Chúa Thánh Thần. Và khi nói về Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm sức (không biết những người đã lãnh nhận bí tích thêm sức còn nhớ hết 7 ơn của Chúa Thánh Thần là 7 ơn nào không nữa). Chúng ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì lớn đến đời sống chúng ta. Nhưng qua giáo lý, chúng ta được biết Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa, ngài có vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo hội, nhất là trong cuộc đời của mỗi Kitô hữu. Chính ngài là Đấng khai sinh Giáo hội, ngài là nguồn sức sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo hội, là năng lực đổi mới thế giới, không có Ngài thì sẽ không có đạo công giáo và giờ này chúng ta không ngồi đây. Tại sao lại như vậy?
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Chúa Giêsu bị giết, các Tông đồ sợ hãi người Do Thái, sợ đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa lại. Thế mà ngay sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc, các ông đã dám tuyến bố trước mặt người do thái rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới thật văn minh, nhưng cũng tràn đầy những khó khăn phức tạp trong cuộc sống. Muốn cho cuộc sống được thoải mái một chút, thì cả vợ chồng phải đi làm, nhiều khi không còn có giờ để lo cho con cái. Thêm vào đó là những đau khổ phiền muộn trong đời sống gia đình. Nhìn thấy bao nhiêu vấn đề tuổi trẻ đang gặp phải tại nhà trường, nơi bạn bè, nhưng lại không có khả năng và sức lực để giúp đỡ họ. Đối với tuổi trẻ, hằng ngày họ phải đối diện với biết bao nhiêu những cám dỗ, những áp lực của bạn bè. Hơn thế nữa, là Kitô hữu, hằng ngày chúng ta còn cầm chu toàn bổn phận đối với Chúa, để mỗi ngày tiến hơn lên trong tình yêu mến Chúa. 
Nhưng làm sao có đủ sự khôn ngoan và sức mạnh để lướt thắng những khó khăn gặp trong đời sống thường ngày. Cũng như các Tông đồ xưa khi chưa được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ngài sống âu lo sợ sệt. Nhưng sau khi lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, được sự bình an Chúa ban, các ngài đã tìm được sức mạnh để chu toàn sứ mạng Chúa trao cho các ngài. Là những Kitô hữu sống trong ơn thánh, chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và Người vẫn luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta. Người vẫn hằng phù trợ, ban ơn, giúp sức cho chúng ta. Ai trong chúng ta lại không một lần được cảm nghiệm ơn phù trợ của Người khi được ơn soi sáng để làm một quyết định quan trọng, để giải quyết một vấn đề khó khăn, hay để làm một việc lành. Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong ta, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Người không.
Hôm nay Thánh Thần của đấng Phục Sinh đã đến. Ngài mở ra cho các môn đệ chân trời của cuộc sống mới, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín. Nguyện xin Ngài, cũng ban cho chúng ta ơn can đảm để vượt ra ngoài những sợ hãi nghi nan: sợ tha nhân đến làm phiền, nhờ vả; sợ mất thời gian; sợ phải đổi mới theo đúng tinh thần của phúc âm. Nguyện xin Ngài ban cho chúng ta sự bình an để có thể nở nụ cười, có thể giang tay nối kết với mọi người trong yêu thương chân thành, trong tha thứ và bao dung. Nguyện xin làn gió và ánh lửa của Thánh Thần thanh tẩy con người chúng ta nên khí cụ gieo giắc tin mừng yêu thương và ơn bình an của Chúa đến muôn tâm hồn và đến tận cùng thế giới. Amen.

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang