"Têrêsa
là vị truyền giáo lạ lùng của đời nay, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có
đời sống vui tươi và dịu ngọt mãi. Linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt
ấy quyết không còn muốn giam mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội
lỗi…"
Trích trong Lời Tựa truyện "Một Tâm Hồn"
Trích trong Lời Tựa truyện "Một Tâm Hồn"
TÊRÊSA
HÀI ĐỒNG : CHỊ LÀ AI?
Là một cái tên có
thể gặp thấy trong các ngôn ngữ.
Là một vị thánh được người ta kêu cầu ở khắp nơi trên thế giới.
Ngay khi hiểu về chị thánh này, người ta sẽ mỉm cười vui sướng. Hầu như ở bất cứ lúc nào, cũng có ai đó kể về một phép lạ do vị thánh lừng danh thế giới này chuyển cầu.
Vậy thì… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, chị là ai?
Có phải chị đã đi chu du khắp nơi khiến mọi người đều biết đến? Hay chị đã sống trường thọ và vinh quang?
Là một vị thánh được người ta kêu cầu ở khắp nơi trên thế giới.
Ngay khi hiểu về chị thánh này, người ta sẽ mỉm cười vui sướng. Hầu như ở bất cứ lúc nào, cũng có ai đó kể về một phép lạ do vị thánh lừng danh thế giới này chuyển cầu.
Vậy thì… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, chị là ai?
Có phải chị đã đi chu du khắp nơi khiến mọi người đều biết đến? Hay chị đã sống trường thọ và vinh quang?
Không, hoàn toàn
không! Đó chỉ là một cô gái nhỏ bình thường của miền Normandie, nhưng ngay từ
ấu thơ đã yêu Chúa hết lòng: Cô yêu Người đến độ muốn chứng minh hết sức cho
Người thấy tình yêu của mình bằng cách hiến dâng chính cuộc sống cô cho Người.
Cô mơ về những
vùng đất xa xôi mà chính mình có thể đi tời để làm cho người ta hiểu biết và
yêu mến Danh Chúa Giêsu. Nhưng rồi cô lại vào dòng Carmel lúc mười lăm tuổi
rưỡi sau khi suy nghĩ kỹ càng, vì cô xác tin rằng: Chính cách sống này, một khi
từ bỏ mọi sự, bỏ ngay cả niềm vui được hoạt động tích cực, sẽ giúp cô yêu mến
tha thiết nhất và cứu thoát được nhiều linh hồn hơn.
Trong suốt những
năm Têrêsa sống tại tu viện Carmel thành Lisieux, người ta không thể không chú
ý đến cách thức hoàn hảo cô đã thực hiện đồi với mọi việc cô phải làm. Tuy
nhiên, những việc này rất đỗi bình thường, chỉ là những việc nội trợ, dọn bàn,
giặt giũ… Ngay cả các nữ tu sống gần cô cũng không ngờ được mức độ hoàn thiện
mà cô đạt tới…
Trong đời sống
thân mật với Chúa Nhân Từ cũng thế. Cô chỉ muốn mình là một trẻ thơ luôn tìm
cách làm vui lòng người Cha trên trời của mình. Nhưng muốn đạt được trọn vẹn
như cô đã làm, phải trở nên một Vị Thánh.
Cô đã làm như vậy
ở tu viện suốt cả đời mình, lúc nào cũng đầy dũng cảm và nhất là đầy tình yêu.
Chính vì Chúa rất hài lòng về cô, một đứa con mãi mãi bé nhỏ của Người, nên
Người đã làm cho cô trở thành một vị đại Thánh.
Ngay khi vừa
chết, cô đã làm nhiều phép lạ để biểu lộ quyền năng lớn lao Chúa ban cho cô.
Chỉ vài năm sau, danh tiếng của người nữ tu dòng Carmel trẻ trung chưa hề bước
ra khỏi đan viện này, đã lan truyền đến tận cùng trái đất.
Cô giúp đỡ với
tất cả lòng nhân hậu cho người giàu cũng như người nghèo, người lớn cũng như
trẻ nhỏ và làm "mưa
hoa hồng" xuống khắp chốn
khắp nơi.
Điều cô mong ước
nhất là làm cho nhiều tâm hồn hiểu rằng: Yêu mến Chúa Nhân Lành hết sức mình…
AGNÈS
RICHOMME (Thu Ngô sưu tầm)
TÔI ĐI TÂY NGUYÊN
KỲ
2: THÁNH LỄ
Người J’rai đi lễ
bằng mọi phương tiện: đi bộ, xe đạp, xe máy, thú vị nhất là bạn có thể bắt gặp
trên đường đi những chiếc xe công nông có thể chở một lúc mười mấy người, có vẻ
như họ cùng một làng. Thậm chí hôm đến nhà thờ Chánh tòa KonTum, chúng tôi còn
thấy dọc bên hông nhà thờ (làm theo kiểu nhà sàn) là từng cụm người ngồi la
liệt, bên cạnh thấy có nhiều giỏ xách to khiến chúng tôi đoán những người này
lên đây trước để tham dự Thánh lễ vào Chúa nhật hôm sau.
Còn đến 15 phút
nữa mới đến giờ lễ, nhưng trong ngoài nhà thờ đã không còn một chỗ trống. Trước
Thánh lễ, một số người có lẽ là trong ban hành giáo theo cách gọi của người
Kinh, lên "sinh hoạt" với giáo dân, từ chia sẻ đời sống đạo, đến cách
lên rước lễ sao cho có trật tự nghiêm trang.
Thánh lễ kéo dài
gần hai tiếng đồng hồ do phải cử hành song ngữ: tiếng Kinh và tiếng J’rai.
Thánh lễ được tiến hành cũng theo trình tự thông thường như ở thành phố, nhưng
cha giảng (Ama – theo tiếng J’rai) phải nói hai thứ tiếng. Đa số người J’rai đi
lễ với hai cuốn Kinh Thánh trong tay, một bằng tiếng Kinh, một bằng tiếng
J’rai. Khi đọc Kinh Thánh, vị Ama và hai người đọc bài đọc 1 và 2 xướng chậm
đoạn Kinh Thánh sắp đọc, mọi người cùng giở Kinh Thánh và đọc chung cả cộng
đoàn. Thánh lễ là một sự kết hợp văn hóa rất tuyệt vời, một bài do người Kinh
đọc, một bài do người J’rai đọc. Ca đoàn rất đông bao gồm người Kinh và người
J’rai, hát xen kẽ bằng hai thứ tiếng, hoặc một bài có cả hai thứ tiếng. Đặc
biệt là Kinh Lạy Cha, được người Kinh và người J’rai hòa nhịp: cùng một điệu nhạc,
tiếng J’rai bè chính, tiếng Kinh bè phụ bằng hai tiếng "Abba, cha
ơi". Bạn cũng có thể nghe một số bài hát tiếng Kinh quen thuộc nhưng hầu
hết bài hát được viết theo điệu nhạc Tây Nguyên và đệm bằng các nhạc cụ của
người J’rai như cồng chiêng… rất đặc sắc. Kinh Thương Xót, Kinh Vinh Danh, Kinh
Lạy Cha được cả cộng đoàn hát múa theo các cử điệu của điệu múa truyền thống
người J’rai. Trong tiếng hát vang, mọi cánh tay đưa lên, giang rộng, nhịp nhàng
tạo nên một bầu khí thờ phượng thật đặc biệt. Trong Thánh lễ có ít nhất là hai
lần cả cộng đoàn cùng lớn tiếng cầu nguyện. Một là lúc ăn năn tội, và một là
sau khi cha giảng xong và đọc Kinh Tin Kính. Thay vì có ba bốn người đại diện
cộng đoàn lên "đọc" các lời cầu nguyện được soạn ra trước trên giấy
như ta thường làm, tất cả mọi người già trẻ lớn bé, chắp tay hay giang tay đều
lâm râm dâng lên Chúa những lời chân thật từ tận đáy lòng mình. Quan sát khuôn
mặt, cách biểu hiện, các cử điệu, hay qua giọng nói, chúng tôi cũng có thể đoán
được người nào đang ngợi ca chúc tụng, người nào đang cầu xin điều gì đó, người
nào đang xin Chúa thương xót. Thật đơn sơ mà mãnh liệt dường bao.
HOA QUỲNH
TỜ GIẤY TRẮNG
Có một lần, tại
một trường trung học, ngài hiệu trưởng đến gặp các em học sinh để nói chuyện.
Trong khi nói, ông giơ lên cho các em thấy một tờ giấy trắng, trên đó có một
chấm tròn đen ở một góc nhỏ, và hỏi:
- Các em có thấy đây là gì không?
- Các em có thấy đây là gì không?
Tức thì cả hội
trường vang lên:
- Đó là một dấu chấm.
- Đó là một dấu chấm.
Ngài hiệu trưởng
hỏi lại:
- Thế không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng cả ư?
- Thế không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng cả ư?
Và ngài kết luận:
- Thế đấy, con người luôn luôn chú ý đến những lỗi nhỏ nhặt, mà quên đi tất cả những phẩm chất tốt đẹp còn lại. Khi phải đánh giá một sự việc, hay là một con người, thầy mong các em sẽ chú ý đến tờ giấy trắng nhiều hơn là những vết bẩn có trên nó.
- Thế đấy, con người luôn luôn chú ý đến những lỗi nhỏ nhặt, mà quên đi tất cả những phẩm chất tốt đẹp còn lại. Khi phải đánh giá một sự việc, hay là một con người, thầy mong các em sẽ chú ý đến tờ giấy trắng nhiều hơn là những vết bẩn có trên nó.
LƯU LY
trích từ www.hoathuytinh.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét