Trong viễn ảnh đón mừng Năm Đức
Tin của Giáo Hội Công Giáo, Toà Thánh sắp sửa phổ biến một số văn kiện trong
đó các tiêu chuẩn giúp lượng giá và khả dĩ vận dụng những mặc khải tư, những
cuộc hiện ra cho cá nhân này hoặc cá nhân nọ sẽ được nêu dẫn và xác định một
cách minh bạch. Để chuẩn bị đón nhận những văn kiện này, và trước sự nở rộ
hiện nay của một số phong trào đạo đức bình dân như chẳng hạn những tổ chức
du ngoạn tâm linh, những buổi tụ họp tôn sùng và khẩn cầu Lòng Chúa Thương
xót, những cuộc hành hương xin ơn nơi các trung tâm Đức Mẹ, những sinh hoạt
lôi kéo và vận dụng ơn Thánh Linh…thiết tưởng các giáo lý viên cũng nên khởi
sự đặt vấn đề, tìm hiểu và cầu nguyện làm sao để cho chính bản thân mình cũng
như các học viên giáo lý luôn được gìn giữ, bảo toàn và phát huy trong một
đức tin quân bình, trưởng thành và chính thống.
Nhân cơ hội này, ban giáo lý
Kontum xin mạo muội chia sẻ một vài bài giáo lý đã được soạn thảo và truyền
đạt trong khuôn khổ hạn hẹp tại giáo phận nhà, dựa theo tài liệu của Đức Hồng
Y Léon Joseph Suenens phát hành năm 1974 và tái bản năm 2001. Xin đặc biệt
giới thiệu bài “Đức Maria và Chúa Thánh Thần”.
Chúng ta đã đề cập tới sự hoà điệu
cần thiết giữa hai chiều kích cơ chế và đặc sủng của Giáo Hội. Bây giờ là lúc
chúng ta nên tìm hiểu kỹ lưỡng hơn chiều kích thứ hai, tức chiều kích đặc
sủng, trải qua lịch sử Giáo Hội, từ những buổi đầu cho đến thời của Vaticanô
II.
1. Chúa Thánh Thần, Đấng tạo sức
sống cho Giáo Hội sơ khai.
Hai tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận
ra những đặc sủng hay những biểu hiện của Chúa Thánh Thần chính là: phải khá
rõ nét và phải hướng tới mục đích phục vụ cộng đoàn nhằm xây dựng Nước Thiên
Chúa.
Các biểu hiện này được ghi nhận là
tưng bừng và ngoạn mục, tựa như những tia nắng bình minh, vào sáng ngày lễ
Ngũ Tuần; các biểu hiện này xuất hiện nơi từng trang sử một của Giáo Hội sơ
khai. Chỉ cần lướt qua sách Công Vụ Tông Đồ là chúng ta có dư tràn những dấu
chứng. Chọn sách Cvtđ, chúng ta không cố ý đưa sách này lên hàng tiêu biểu
bậc nhất. Thật ra, về phía người đọc, sách này cần được nhiều nguồn khác soi
sáng hơn là tự mình soi sáng cho những sách khác. Tuy nhiên, chúng ta không
vì vậy mà thờ ơ trước những ví dụ cụ thể được thánh Luca cung cấp ở đây.
Ngay từ trang đầu, Chúa Thánh Thần
tự tỏ lộ mà không khỏi gây ngỡ ngàng, thậm chí gây hoang mang, bởi lẽ những
can thiệp của Ngài quá nhiều, quá bất chợt và đôi khi quá hiển hách. Rõ ràng
là Ngài dìu dắt mọi sự và tạo sức sống cho các Tông Đồ cùng với cộng đoàn tìn
hữu. Ngài can thiệp vào trong từng chi tiết đời sống thường nhật của Giáo Hội
và cả vào tầm lan rộng của Giáo Hội trong đế quốc Rô-ma, đến nỗi người ta đã
có thể coi sách Công Vụ Tông Đồ như là quyển Tin Mừng thứ năm: Tin Mừng của
Chúa Thánh Thần.
Ngay khi ra khỏi phòng Tiệc Ly,
vào buổi sáng ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô tức khắc gợi lên sự tuôn tràn
Thánh Thần kỳ diệu mà ngôn sứ Gio-en đã tuyên sấm : “ Thiên Chúa phán :
Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm,
con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến,
bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả
trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. Ta sẽ cho xuất hiện
những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưỡi đất thấp, đó là máu,
lửa và những cột khói. Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng hóa thành máu,
trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại, vinh quang.” (Cv 2,
16-20; Ge 3, 1-5).
Chúa Thánh Thần hoạt động trong
khi chờ đợi ngày quang lâm sẽ vén mở cho chúng ta trọn vẹn uy nghi của Thiên
Chúa. Nơi mỗi trang sách Cvtđ, người đọc nhận thấy Chúa Thánh Thần hiện diện
nhiều hơn và hoạt động nhiều hơn là những con người mà tác phẩm mô tả lịch sử
và nêu danh tánh. Người mô tả vừa đoan chắc Ngài hiện diện vừa coi sự hiện
diện ấy là thiết thân. Ngay cả khi ngưới mô tả không xướng tên Ngài thì người
đọc cũng suy đoán có Ngài ở nơi mặt chìm và Ngài như thể toả sáng nơi mỗi
trang sách thánh. Ngài dìu dắt nhịp bước tông đồ và âm thầm kết dệt nền móng.
Chính Ngài nhắc bảo phải nói gì
trước vua quan, trước các vị lãnh sự và tổng trấn Rô-ma, cũng như nhắc bảo
phải rao giảng như thế nào mỗi ngày. “ Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng
lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí
và quyền năng của Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ
khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2,
4-5).
Ngài là Đấng gợi hứng để cho các
Tông Đồ nên gan dạ can trường: “ Thần Khí nói với ông Phi-lip-phê : “Tiến
lên, đuổi kịp xe đó”. (Cv 8, 29). Hoặc còn nữa: “ Khi hai ông lên khỏi
nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-lip-phê đi mất, và viên thái giám không còn
thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỷ.” (Cv
8, 39)
Ngài là sức mạnh của những vị tử
đạo: “ Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang
Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa..” (Cv 7, 55)
Ngài đưa dẫn Phê-rô đến nhà ông
Cornêliô: “ Ông Phêrô vẫn còn phân vân về thị kiến, thì Thần Khí bảo ông :
“Kìa, có ba người đang tìm ngươi. Đứng lên, xuống mà đi với họ, đừng ngần
ngại gì, vì chính Ta đã sai họ đến” (Cv 10, 19-20)
Ngài lựa chọn các Tông Đồ: “
Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán
bảo : “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu
gọi hai người ấy làm.” (Cv 13, 2)
Ngài là niềm vui và sự trấn an cho
những người bị bách hại:
“ Nhưng người Do-thái sách
động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong
thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai
ông ra khỏi lãnh thổ của họ. hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới
I-cô-ni-ô. Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.” (Cv 13,
50-52).
Ngài chủ trì những quyết định quan
trọng cho tương lai của Giáo Hội mới khai sinh và chính các Tông Đồ đệ đạt
các đường lối hoạt động lên Ngài: “ Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định
không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết
này...” (Cv 15, 28)
Cũng chính Ngài vạch đường vạch
lối cho các Tông Đồ, hướng dẫn các ông và níu kéo các ông: “ Các ông
đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao
giảng lời Chúa ở A-xi-a, Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền
Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giêsu không cho phép.” (Cv 16, 6-7)
Một cách đặc biệt, Ngài là Đấng
điều khiển hoạt động truyền giáo của thánh Phaolô: “ Giờ đây, bị Thần Khí
trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở
đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi
rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi
thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ
tôi đã nhận được từ Chúa Giê-su là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân
sủng của Thiên Chúa.” (Cv 20, 22-24).
Những biểu hiện trên đây chính là
những gì thíêt thực và cụ thể qua đó Giáo Hội sơ khai đã chuyển dịch và đã
sống đức tin mà Giáo Hội đặt để nơi Chúa Thánh Thần.
2. Chúa Thánh Thần và việc tuôn đổ
các ơn của Ngài
Chúa Thánh Thần tỏ lộ với tư cách
sức mạnh thúc đẩy Giáo Hội bước tới trên những nẻo đường thế giới và mang lại
cho Giáo Hội chiều kích truyền giáo, làm cho Giáo Hội trở thành Giáo Hội công
giáo (phổ quát).
Ngài cũng tạo nên sự hiệp nhất
sống động cho Thân Thể Huyền Nhiệm, bằng cách thánh hoá các Kitô hữu và thông
ban quyền lực cho họ. Nơi từng trang từng đoạn, thánh Phaolô cho chúng ta
thấy Chúa Thánh Thần hoạt động khắp mọi nơi.
Đức Giêsu cũng đã đích thân loan
báo rằng Thánh Thần mà Ngài gửi đến sẽ tỏ ra cho các môn đồ qua những ân sủng
và ơn ban kỳ diệu, đến nỗi các môn đồ sẽ có thể thực hiện những phép lạ còn
lớn lao hơn những phép lạ do chính Ngài.
Tuy toả rạng trong Giáo Hội sơ
khai tựa như những chồi lộc mùa xuân, tuy đa dạng và khác biệt nhau, các đặc
sủng đều là những biểu hiện hữu hình thuộc về cùng một thực tại duy nhất: đó
chính là sức sống trào tràn của Thánh Thần trong tâm hồn các Kitô hữu.
Các ơn ấy sở dĩ được ban là để xây
dựng Giáo Hội, ơn này bổ khuyết cho ơn kia, cùng đồng qui với nhau theo như
thánh Phaolô đã ghi chú : “ Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một
Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều
hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi
người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì
được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban
cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì
cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh.
Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn
phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa thì
lại được ơn giải thích các tiếng lạ. nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra
tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của
Người. ”(1Cr 12, 4-11).
Chúng ta vừa trích dẫn chương 12
là chương đi trước và mở lối cho chúng ta bước vào chương 13 trong đó thánh
Phaolô mô tả vẻ rạng rỡ độc nhất và tối thượng của đức ái đối thần, một nhân
đức sẽ một mình ‘còn mãi’. Nhưng nếu đức ái thống trị tất cả, nếu đức
ái là mặt trời của đời sống được phú ban Thánh Thần, ánh sáng của đức ái
không hề che khuất vẻ rực rỡ của những ngôi sao rọi chiếu trong đêm đen.
Chính theo nhãn quan này mà Thánh
Phaolô nói về các đặc sủng như chẳng hạn ơn hiểu biết và khôn ngoan
(1Cr 12, 8), ơn đức tin (1Cr 12, 9), ơn giảng dạy (Rm 12, 7; 1Cr 12, 28tt;
14, 26), ơn khuyên nhủ và an ủi (Rm 12, 8), ơn phục vụ (Rm 12, 7), ơn biện
phân thần trí (1Cr 12, 10), ơn trợ giúp và cai quản (1 Cr 12, 28), v.v…
Do vậy, cũng theo tinh thần thánh
Phaolô, Không bao giờ được coi Giáo Hội như một tổ chức thuần tuý hành chánh.
Giáo Hội chính là thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, ngôi vị hằng sống, được
tác động bởi Chúa Thánh Thần.
3. Kinh nghiệm đặc sủng trải qua
các thế kỷ
Người đọc Thánh Kinh không thể
không tự hỏi: một quang cảnh đặc sủng rực rỡ như thế tại sao lại đã chấm dứt
theo dòng thời gian? Thánh Gioan Kim Khẩu cũng đã nêu câu hỏi và cũng đã tìm
cách mon men giải đáp. Theo ngài, Giáo Hội mới khai sinh cần được xử đối một
cách ưu đãi để được nâng đỡ trong nhiệt tình truyền giáo và, nói tóm lại, đó
là một trường hợp ngoại lệ. Câu trả lời không tránh khỏi yếu ớt và lúng túng.
Thật ra, hiện tượng đặc sủng chưa bao giờ biến mất trong Giáo Hội! Bởi vì
Chúa Thánh Thần vẫn luôn mãi trung thành với Giáo Hội.
Cho tới cuối thế kỷ thứ II, theo
ghi nhận của thánh Irênêô, các đặc sủng lạ lùng vẫn thường đều diễn ra và
được công chúng biết đến : “Không ít anh em có được đặc sủng ngôn sứ, họ
nói hết các thứ tiếng, nhờ Thánh Thần, họ tiết lộ bí mật của một số người
nhằm giúp ích cho những người ấy và họ bày tỏ mầu nhiệm Thiên Chúa” (Adv.
Haer., V, 6, 1).
Dần dà, văn chương tôn giáo xem ra
dè chừng hơn đối với vấn đề này. Vì đức tin mỗi lúc một suy yếu và Kitô giáo
mỗi lúc một nặng chiều kích xã hội cho nên các biểu hiện của Thánh Thần cũng
bớt tỏ tường hơn. Các cuộc tỏ lộ của Ngài dường như chỉ còn được ghi nhận
trong những môi trường thu hẹp của các đan sĩ, đặc biệt nơi những nhân vật
sáng lập viên của các đan viện và dòng tu.
Đời sống tu dòng lúc ban đầu thật
ra là một phong trào đặc sủng. Nỗ lực khổ chế của các thành viên dòng tu được
quan niệm như là cuộc chiến thắng của Thánh Thần trên những mãnh lực đen tối
của thế gian, xác thịt và ma quỷ. Trong phạm vi này, khá nhiều trường hợp
được ơn ngôn sứ và được những quyền năng kỳ diệu, đặc biệt ơn chữa trị, đã
được tường thuật. Rõ ràng là vào thời ấy các Kitô hữu vẫn thường tin tưởng
rất mãnh liệt vào việc xức dầu Thánh Thần và vào các ơn ban của Ngài.
Các đan sĩ chính hiệu được ví như
những người cha thiêng liêng, có khả năng dẫn dắt người khác trên những lối
nẻo của Thánh Thần. Trong truyền thống đông phương, người ta còn coi các vị
này như những nhà hiền triết và rất thích tìm đến để tham vấn.
Về những đặc sủng, các tác giả
thiêng liêng thường tìm cách giúp người ta biện phân kỹ lưỡng các thần
trí và nhắc bảo người ta chớ coi các ơn ban như là cứu cánh nhưng như là
phương thế phục vụ nhằm làm cho đức ái được thắm đượm hơn. Không ai phản bác
sự có mặt của các đặc sủng. Dọc theo thời gian, ngoại trừ một vài giai đoạn
có nhu cầu phải cảnh cáo những lạm dụng đặc sủng mang tính bè phái, thái độ
chung chung của phẩm trật được kể là tích cực. Các vị mục tử như Athanaxiô và
Baxiliô đã không ngần ngại cậy dựa vào các đan sĩ để canh tân đời sống tôn
giáo.
Vào thế kỷ XI, một đan sĩ nổi
tiếng ở Conxtantinôpôli, thánh Symêon, mệnh danh là tân thần học gia, đã phát
biểu khá mạnh mẽ về chiều kích đặc sủng. Theo ông, Lễ Ngũ Tuần luôn mang tính
chất hiện đại. Ngay khi được khai mở để tiến vào ánh sáng bên trong của Thánh
Thần, chính Thánh Thần kết hiêp chúng ta với Đức Kitô và chính Thánh Thần đưa
dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Theo Symêon, chỉ những ai đã cảm nghiệm Thánh
Thần mới thât sự có khả năng hướng dẫn người khác.
Bên Tây Phương, tuy truyền thống
Thánh Thần ít được đẩy mạnh hơn nhưng niềm tin vào Ngài không vì thế mà không
hữu hiệu, đặc biệt trong đời sống của các vị sáng lập dòng và của các thánh.
Thánh Inhaxiô Lôyôla soạn thảo những trang sách cổ điển bàn về việc phân định
thần trí và ngài không phải là đơn phương. Trước và sau ngài, các nhà thần
học và các tác giả thiêng liêng cũng làm công việc phân tích các ơn ban và
hướng dẫn cách sử dụng các ơn ban ấy. Giữa thánh Gioan Thánh Giá và thánh nữ
Têrêxa Avila tuy có khác biệt quan điểm về những an ủi và về những hình tượng
khả giác trong đời sống thiêng liêng (thánh Têrêxa lựa chọn một hướng sống
Kitô giáo nhân bản hơn thánh Gioan Thánh Giá), nhưng cả hai vị đều sống kinh
nghiệm về Thiên Chúa đến mức sâu đậm tột bậc.
Thiết tưởng còn cần phải đọc lại
cuộc đời của các vị thánh gần hơn với chúng ta để có thể nhận rõ hơn sự có
mặt của các đặc sủng phi thường mãi cho đến thời đại chúng ta ngày nay. Đọc
lại chẳng hạn cuộc đời của thánh Gioan Vianey, của thánh Don Bosco hay của
bao nhiêu vị thánh khác, chắc hẳn chúng ta sẽ nhận ra được những ơn đặc sủng
không thể chối cãi : nào là ơn phân định thần trí, ơn ngôn sứ, ơn chữa bệnh…
Như thế, chúng ta không được quyền khẳng định rằng các đặc sủng đều là những
gì thuộc về một quá khứ đã sang trang.
4. Sự khôi phục vào thời Công Đồng
Đối với các đặc sủng, Công Đồng
lựa chọn một thái độ đon đả và cởi mở. Công Đồng cung cấp một bản văn rất
quân bình : một mặt vẫn bảo tồn thái độ thận trọng cần thiết nhưng mặt khác,
không ngần ngại nhìn nhận tầm quan trọng luôn luôn hiện đại của các đặc sủng.
Sau đây là hai phân đoạn cốt yếu
của các bản văn Công Đồng. Trong Hiến chế ‘Ánh sáng muôn dân’, đoạn 12
:
“Nhưng cũng chính Chúa Thánh
Thần không chỉ thánh hoá dân Chúa bằng các bí tích và các thừa tác vụ, và
trang điểm họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt
cho mọi cấp bậc các tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài” (1Cr
12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm
nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng
và phát triển Giáo Hội như lời chép rằng : “Thánh Thần hiển hiện trong mỗi
người hầu mang lại lợi ích” (1Cr 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này,
từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh nhận được, với
lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của
Giáo Hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng
vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong
Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sử dụng hợp lý
các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, .không phải
dập tắt Thần Trí nhưng thử luyện tất cả để giữ lại điều nào là tốt lành.”
(x. 1 Tx 5,12,19-21).
Trong Sắc lệnh ‘Tông Đồ Giáo
Dân’, đoạn 3, người ta cũng đọc thấy cùng một giáo thuyết :
“Để thi hành tác vụ tông đồ ấy,
Chúa Thánh Thần thánh hóa dân Chúa qua giáo vụ và các bí tích. Ngài cũng ban
cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x.1Cr 12,7), “phân phát những ơn đó cho
mọi người tùy ý Ngài” (1Cr 12,11) để “mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp
đỡ nhau” và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn
của Thiên Chúa” (1Pr 4,10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (x.Ep 4,16).
Do sự đon nhận những đoàn sủng này dầu là nhưng đoàn sủng thông thường, mỗi
tín hữu có quyền lợi và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như
giữa trần gian để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của
Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8) và đồng thời sử dụng
trong sự hiệp thông với anh em trong Chúa Kitô, nhất là với các vị chủ chăn
của mình. Chính các ngài có nhiệm vụ xét đoán về bản tính đích thực và việc
sử dụng thích hợp những đoàn sủng đó, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng
thử luyện tất cả để giữ lại điều nào là tốt lành (x. 1 Tx 5,12,19-21)”
Công Đồng mời gọi chú ý đến các
đặc sủng và qua đó thôi thúc dân Chúa gia tăng ý thức về sự hiện diện liên lỉ
và năng động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Công Đồng còn lặp lại lời
mời gọi này trong nhiều bản văn khác – người ta đếm được 252 lần quy chiếu
vào Chúa Thánh Thần trong các văn kiện công đồng – nhưng đặc biệt ngang qua
những cải tổ phụng vụ sẽ được thực hiện theo đà thúc đẩy của công đồng. Điểm
nổi bật, đó là phụng vụ đã nêu cao vai trò thánh hoá của Chúa Thánh Thần
trong các công thức cử hành phụng vụ và bí tích mới được sửa đổi từ sau Công
Đồng.
Lm Phaolô Đậu văn Hồng
Gp Kontum
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét