Trong kinh
Tin kính, chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, tạo dựng nên trời
đất muôn vật. Tuy vậy, lời tuyên xưng vào Chúa và ca ngợi vinh quang của Ngài
không giống như lời ca tụng một tác phẩm nghệ thuật hay một công trình kiến
trúc. Bởi lẽ, một tác phẩm hay một công trình, dù có hoàn mỹ đến đâu chăng nữa,
thì cũng chẳng liên quan gì đến người chiêm ngưỡng, có chăng chỉ là gợi lên sự
thán phục đối với tài năng của các họa sĩ hay kiến trúc sư. Sau khi tuyên xưng
Chúa Cha là Đấng sáng tạo muôn loài, Chúa Con là “Ánh sáng bởi Ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, người tín hữu nói lên mối tương quan
giữa mầu nhiệm Thiên Chúa với cuộc sống con người: “Vì loài người chúng tôi,
và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Lời tuyên xưng này
giống như một điểm kết nối giữa Thiên Chúa cao cả với con người tội lỗi. Nếu
loại bỏ ý niệm “vì loài người chúng tôi”, lời tuyên xưng đức tin của
người tín hữu chỉ còn là sự chiêm ngưỡng và thán phục Thiên Chúa từ xa mà chẳng
có liên quan gì đến đời sống của họ.
1- Một
Thiên Chúa vì con người
Lời tuyên
xưng đức tin làm thành mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người. Chính Thiên
Chúa đã có sáng kiến tạo nên những mối tương giao với mọi loài thụ tạo, trước
hết qua công trình sáng tạo, rồi sau đó qua công trình cứu độ. Qua những mối
tương giao ấy, Ngài thông ban cho con người vinh quang và sự thánh thiện của
Ngài. Hành động sáng tạo của Thiên Chúa cho thấy mối tương giao giữa Thiên Chúa
với con người thật rõ ràng: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, con người là tạo vật.
Sự thân tình không dừng lại ở mối liên hệ khô khan như giữa người thợ và sản
phẩm, mà tiến tới tâm tình Cha–con. Thiên Chúa là Cha, loài người là con. Con người
mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa và được Ngài chiều chuộng hơn tất cả
những tạo vật khác. Những trang đầu của sách Sáng thế diễn tả mối tương quan
này thật thân thương trìu mến, gần gũi và an bình.
Khi mạc
khải cho Môisen về chính mình, Thiên Chúa cũng nhấn mạnh tới mối tương quan của
Ngài đối với con người. Chúa phán cùng ông Môisen: “Ngươi
sẽ nói với con cái Israel thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em,
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh
Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ
đến đời kia” (Xh 3,15). Qua lệnh
truyền này, dường như Ngài muốn nói với Môisen: Danh xưng của Ta, loài người
không thể hiểu thấu, vì bản tính của Ta không chỉ được thể hiện qua một tên
gọi. Muốn tìm hiểu về Ta, cần phải nhìn lại những gì Ta đã làm trong lịch sử.
Thực vậy, khi nói đến Abraham, Isaac và Giacóp, bất cứ
người Do Thái nào cũng liên tưởng đến một lịch sử ghi dấu bởi những điều kỳ
diệu Chúa đã làm vào thời các Tổ phụ. Thiên Chúa không phải là một khái niệm,
nhưng là một “Ai đó”, một “Đấng” luôn gần gũi với Dân của Ngài. Những gì Ngài
đã thực hiện với các tổ phụ người Do Thái đã cho thấy Thiên Chúa của họ hoàn
toàn hơn hẳn khi so với các thần của dân ngoại. Khi nhấn mạnh đến tên của các
tổ phụ, Thiên Chúa muốn những người Do Thái đang sống đời nô dịch tại Ai Cập
nhận ra nơi Ngài là Đấng Trung tín, sẽ thực hiện lời hứa của Ngài với các tổ
phụ. Ngài sẽ giải phóng dân riêng của Ngài khỏi cuộc sống nô lệ, dẫn họ tới bến
bờ tự do. Khi những nỗ lực kiếm tìm Thiên Chúa bằng lý trí đã thất bại, ý niệm
một Thiên Chúa trong tương quan với con người sẽ giúp chúng ta khám phá ra sự
hiện hữu của Ngài: đó là Thiên Chúa của lịch sử. Pascal đã viết lại khám phá và
kinh nghiệm cá nhân của mình: “Lửa, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của
Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, chứ không phải là Thiên Chúa của các bậc triết
gia và của các bậc trí giả” (Được trích dẫn trong Đức tin Kitô giáo, hôm
qua và hôm nay, của Đức hồng y Ratzinger, tr. 146).
2- Đức
Giêsu, Ngôi Lời nhập thể vì con người
Khi tuyên
xưng “vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi”, người tín hữu
nhìn lên Đức Giêsu Kitô. Người đã thực hiện sứ mạng trong tình yêu thương phục
vụ. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng
là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Cũng như con người là chóp đỉnh tạo thành trong công trình sáng tạo của thời xa
xưa, thì nay con người cũng là đối tượng yêu thương của Con Thiên Chúa, Đấng
đến trần gian để thực hiện công trình tạo dựng mới. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống
thế làm người, mặc lấy thân phận con người, chia sẻ và cảm thông nỗi vui buồn
của cuộc đời nhân thế. Tất cả những điều đó để nhằm chứng minh cho con người
thấy tình thương bao la diệu kỳ mà Thiên Chúa dành cho con người. Đấng từ trên
cao đã cúi mình xuống nhận lấy thân phận thụ tạo thấp hèn để làm cho con người
được trở thành con Thiên Chúa. Đức Giêsu là Thiên Chúa đích thực và cũng là con
người đích thực. Người là Thiên Chúa để giúp con người đến gặp gỡ Đấng Tối cao.
Người là con người để đưa Thiên Chúa đến kết thân với thụ tạo. Vai trò trung
gian của Đức Giêsu phải được hiểu trong khía cạnh này. “Vì loài người chúng
tôi và để cứu rỗi chúng tôi”, lời tuyên xưng này đã diễn tả chiếc “cầu nối”
kỳ diệu giữa Thiên Chúa và con người. Đề tài tình thương của Thiên Chúa là một
trong những điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Đức Giêsu. Người đã dùng
những hình ảnh “con chiên lạc”, “đồng tiền bị mất”, “người cha nhân hậu”… đề diễn
tả tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Tình thương này xem ra đôi khi
hào phóng quá mức, như “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người
tội lỗi ăn năn sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải
sám hối ăn năn” (Lc 15,7). Thiên Chúa đã
sai Con của Ngài đến trần gian vì yêu thương con người. Đối với Chúa, con người
không chỉ là “một hạt bụi hóa kiếp”, mà họ đáng quý trọng: “Các con đừng sợ:
các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần” (Mt 10,31). Cũng vì con người mà
Đức Giêsu trong giờ hấp hối đã chọn ý Cha thay vì chọn ý riêng mình, để rồi,
khi bước vào lễ tế hy sinh trên thập giá, Người vẫn còn thều thào trước khi
trút hơi thở cuối cùng: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ
làm” (Lc 23,34).
3- Một
Giáo Hội vì loài người
Tiếp nối
công việc của Chúa Giêsu, cộng đoàn tín hữu ngay từ ban đầu đã hướng tới sứ
mạng dấn thân phục vụ con người. Cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem đã diễn tả
rõ nét sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Qua những việc tốt lành của Giáo Hội,
người ta nhận ra hình ảnh của Đức Giêsu. Chính vì thế mà “Giáo Hội được gọi
là Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa
và của sự hợp nhất toàn thể nhân loại” (Công đồng Vatican II, Hiến chế tín
lý về Giáo Hội, số 1). Như một định hướng cho Dân Chúa tại Việt Nam, Hội đồng
Giám mục Việt Nam trong Thư năm 1980 đã đề nghị xây dựng một Giáo Hội phục vụ
con người như sau: “Sứ mạng của Giáo Hội là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu
Kitô, Đấng đã đến không phải để người ta hầu hạ, nhưng để phục vụ tất cả loài
người. Đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giải thích trong Thông điệp
“Đấng Cứu chuộc con người” rằng: ‘Con người là con đường của Giáo Hội’ (Thông
điệp số 14). Đây cũng là điểm gặp gỡ giữa Giáo Hội và xã hội trần thế, vì ‘dù
tin hay không tin, con người đều phải góp phần xây dựng thế giới cho hợp lý, vì
họ cùng chung sống trong thế giới này’ (MV 21)” (Trích Thư chung HĐGM Việt
Nam 1980, số 7).
Một “Giáo
Hội vì loài người” không thể thờ ơ với hoàn cảnh xã hội và những nỗi ưu tư trăn
trở của cộng đồng xã hội. Giáo Hội không phải một lâu đài khép kín, nhưng là
một căn nhà mở rộng cánh cửa để ai cũng có thể ra vào, tìm thấy niềm vui, sự
chia sẻ và ủi an nâng đỡ. Một trong những sứ mạng hàng đầu của Giáo Hội là thực
thi bác ái. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết: “Giáo Hội không được chuẩn
chước cho mình khỏi việc thực hiện công tác bác ái như là hoạt động tập thể có
tổ chức của giáo dân, mặt khác, không có hoàn cảnh nào, trong đó người ta không
cần đến bác ái của từng người Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công
bằng, luôn cần đến tình yêu” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 29).
“Vì loài
người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi”, câu tuyên xưng đơn sơ mà ý nghĩa sâu
xa là thế. Vì chúng ta mà Thiên Chúa sáng tạo và tiếp tục quan phòng nâng đỡ vũ
trụ tạo vật. Vì chúng ta mà Ngài sai con Ngài xuống thế. Vì chúng ta mà Ngài
thổi sức mạnh Thần Khí của Ngài vào vũ trụ và vào lòng mỗi người. Vì chúng ta
mà Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội, để qua Giáo Hội, Người ở với chúng ta mọi
ngày cho đến tận thế. Vâng, Thiên Chúa đang ở đây, giữa chúng ta. Ngài đã trở
nên gần gũi con người qua Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. “Nơi Đức Giêsu Kitô,
Thiên Chúa đã thực sự trở thành Đấng mà chúng ta có thể kêu gọi. Nơi Ngài,
Thiên Chúa mãi mãi đi vào trong cuộc sống với chúng ta” (Hồng y Ratzinger
Đức tin Kitô giáo, hôm qua và hôm nay , tr. 136). Nếu thời xa xưa của Cựu
ước, con người không thể kêu cầu Danh Thiên Chúa một cách rõ ràng, thì nay, qua
Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu, chúng ta có thể thân thưa với Chúa Cha, như người
con thảo tâm sự với cha hiền. Nếu thời xa xưa, hình ảnh Thiên Chúa như một vị
thần ở cao vời cách biệt cõi đất, thì hôm nay, qua Đức Giêsu, Đấng Tối cao đang
hiện diện giữa con người “Ai thấy Thầy là Thấy Cha” (Ga 14,9).
Nếu Thiên
Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ, luôn luôn hành động vì yêu thương con người, thì
con người lại xao lãng bổn phận sống vì tha nhân. Đức Giêsu đã nêu một mẫu
gương cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” (Ga 15,12). Khi tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa vì
loài người, chúng ta, các tín hữu được mời gọi đặt câu hỏi: “Tôi có sống vì
anh chị em mình hay không?”. Đó cũng là câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra với một
người luật sĩ. Liền sau đó là câu chuyện người người Samari tốt lành với lời
kết: “Ông hãy đi và cũng làm như vậy” (x. Lc 10, 25-37).
Hải Phòng,
28-7-2012
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét