Trong
thời gian gần đây một bài được đăng trên một vài tờ báo ở Ý Quốc cho
thấy có sự đối chọi giữa hai khuynh hướng, – ở Ý Quốc cũng như ở nhiều
Quốc Gia khác có truyền thống Kitô giáo -, đối chọi giữa việc các vị mục
tử nhấn mạnh đến tầm quan trọng hay đúng hơn đến việc cần thiết người công giáo phải dấn thân vào chính trị, trong khi đó thi dường như lan tràn khắp đó đây dân chúng bỏ lơ lãnh vực vừa kể.
Tệ
hơn nữa, thái độ lơ đảng đó cũng lây đến lãnh vực các giáo lý viên, tức
là những người đặc trách đào tạo thế hệ công giáo mới (R. çombardi,
Per una educazione cristiana all’impegno politica, in A A:VV, Chiesa e
politica, Morcelliana, Brescia 2000: Città del Vaticano 2005, 79-112).
Bài báo có thể đưa đến hai nhãn quan đối ngược:
-
Thái độ bi quan: đó là các tín hữu Chúa Kitô, nhất là các giáo lý viên,
là những người có dịp tiếp xúc gần gũi với các lời huấn dạy của Giáo
Hội, mà lại không nhận thức được cần thiết phải có sự hiện diện của
người có cùng đức tin vào các lãnh vực trần thế, nhất là chính trị, thì
thật là uổng công để kêu gọi, tổ chức thêm nữa, tổ chức hội thảo này,
nhóm hợp kia. Các giáo lý viên là những người phải dạy dỗ đào tạo thiên
hạ, nhất là giới trẻ trong tương lai, mà còn thờ ơ đến như vậy, thì còn
phải nói gì với ai nữa?
-
Thái độ lạc quan: thái độ thờ ơ trong lãnh vực chính trị có thể được
dùng để kích thích thêm đối với việc huấn dạy liên quan trong lãnh vực,
cho thấy sự cần thiết phải hiện diện, và nhất là những đặc tính phải có
cho người hoạt động liên hệ. Cần phải kích thích học hỏi sâu đậm hơn,
không những là những đặc tính thuyết lý phải có, mà còn là những phương
thức áp dụng thiết thực và chính xác để có được kết quả mong muốn.
Về vấn đề vừa kể, chúng ta nên nhớ lại lời ĐTC Phaolô VI trong Thông Điệp Evangeli nuntinad: “Loan
báo Phúc Âm là một tiến trình phức tạp và đòi buộc nhiều yếu tố khác
nhau: đổi mới nhân loại, nhân chứng, loan báo rõ ràng, hiệp nhất bằng
tâm hồn, hội nhập vào cộng đồng, đón nhận những dấu chứng, các sáng kiến
tông đồ” (ĐTC Phaolô VI Evangelii nuntiandi, 08.12.75, n. 24).
Như
vậy cả việc loan báo Phúc Âm trong xã hội cũng đòi buộc các yếu tố đó
cần được đào tạo trí não để biết phải hành động thế nào; canh tân hoá
tâm hồn để yêu mến, bền tâm thực hiện, nhân chứng, bằng động tác và bằng
lời nói, động tác chuyên cần dấn thân đó, động tác cá nhân hay tập thể
cũng vậy; lòng ao ước phổ biến cho người khác chính những lý tưởng về
chuyên cần dấn thân xã hội đó.
Để cho bài viết được phân chia rõ ràng, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta nên chia thân bài làm hai phần: quyền và bổn phận của người công giáo trước vấn đề chuyên cần dấn thân xã hội và một vài yếu tố giúp cho việc tiến hành công cuộc dấn thân đó được tốt đẹp.
Tất
cả những ai tham dự vào đời sống xã hội, nghĩa là tất cả mọi người, đều
có quyền và nhiệm vụ dấn thân vào lãnh vực chính trị. Dĩ nhiên, mỗi
người hành xử theo phương thức khác nhau, tùy theo tình trạng và năng
khiếu, nhưng không ai được dửng dưng, đứng ngoài, “ngồi chơi xơi nước” đối với bổn phận quan trọng này.
Điều
đó còn có giá trị cá biệt hơn nữa đối với người tín hữu Chúa Kitô, theo
ba nhãn quan khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau dưới đây: công trình Cứu Độ, hoàn hảo hoá cá nhân và hoàn hảo hoá đời sống xã hội.
Nhưng trước khi đề cập trực tiếp đến những phương diện vừa liệt kê, thiết tưởng chúng ta nên xác định rõ: quyền và bổn phận tham gia vào đời sống chính trị phát xuất từ quyền công dân trong một đất nước.
Với ý nghĩa đó và về phương diện công dân, người công giáo không ở
trong một trạng thái cá biệt nào để có thể được tăng thêm hay bị giảm
bớt quyền và bổn phận so với phần dân chúng còn lại trong xã hội.
Ngoài ra người công giáo, trước lương tâm mình, còn có thêm lý do để sống có trách nhiệm hơn trong việc chuyên cần dấn thân vào đời sống chính trị.
Nội
dung bài viết của chúng ta đặc tâm lưu ý hơn vào phương diện thứ hai
này, như là tiếng kêu gọi lương tâm của người tín hữu Chúa Kitô, chứ
không phải đến các công dân, đến các tổ chức cơ chế Quốc Gia, để họ cho
phép và dành mọi điều kiện dễ dàng cho việc chuyên cần dấn thân của
người Kitô hữu.
1) Phận vụ dấn thân chính trị của người tín hữu Chúa Kitô dưới nhãn quan công trình Cứu Độ
Đời
sống người tín hữu Chúa Kitô không phải là một học thuyết lý thuyết, mà
là một cuộc sống, cuộc sống trong Chúa Kitô, cuộc sống môn đệ đi theo
Người, biến đổi mình thành đồng nhất với Người. Cuộc sống môn đệ theo
Chúa như vậy, phải là cuộc sống thực sự sống trong mọi hoàn cảnh của
cuộc sống con người, cả trong lãnh vực chính trị. Bởi đó lời huấn dạy
của Giáo Hội liên quan đến lãnh vực chính trị gồm cả những gì vượt qua
bên kia lằn mức các nguyên tắc, các định chuẩn phán đoán và các chỉ thị
định hướng.
Lời
huấn dạy của Giáo Hội là lời mời gọi và trợ lực làm sao để có thể hoà
đồng được với Chúa Giêsu – tức là tìm kiếm sự thánh thiện – qua các động
tác chuyên tâm chu toàn các bổn phận xã hội của mình. Chúa Kitô đã cứu
độ con người, cả trong mối tương quan căn bản với người khác và với xã
hội.
Thực tế tự nhiên xã hội đã được đảm lấy trong đồ án cứu độ của Chúa, như những gì Tân Ước đã liên tưởng đến rõ ràng: “Xin
Thầy cho biết ý kiến, có được nộp thuế cho Cesare hay không? …Của
Cesare trả cho Cesare, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (cfr. Mt 22,
15-22).
Cũng
vậy, diễn từ của Thánh Phaolô ở Aeropago cũng nói đến: cho thấy nhân
loại từ một nguồn gốc duy nhất, cho thấy mục đích và các phương tiện họ
phải dùng để đạt được mục đích, mà mọi người được tiền định cho: “Từ
một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở
trên khắp mặt đất. Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những
ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra
họ dò dẫm mà tìm thấy Người; tuy rằng thực sự Người không đi xa mỗi
người chúng ta” (Act 27, 26-27).
Cũng
vậy, trong Thư gởi các tín hữu Colosseo, Thánh Phaolô cũng dạy chúng ta
nguồn gốc duy nhất của loài người được làm cho vững mạnh thêm bằng công
trình cứu độ của Chúa Giêsu: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô
hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người muôn
vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…” (cfr
Col 1, 15-20).
Như
vậy tất cả các động tác trần thế có thể được sống như là những đáp ứng
lại ơn gọi của Thiên Chúa, trong đó con người sống theo dấu vết của
Chúa. Công trình cứu độ, mà Chúa Giêsu đã thực hiện, chính yếu là giải
thoát khỏi tội lỗi, nhằm hướng con người đến đời sống bất diệt và nhân
loại chúng ta nhận được ơn cứu độ đó như là một quà tặng từ trời cao.
Tuy nhiên, trong kinh nghiệm của sự cứu độ, con người khám phá ra ý
nghĩa đích thực tự do của mình và được giáo dục dùng tự do đó một cách
chính đáng.
Như vậy một tầm mức luân lý (dimension éthique)
được thêm vào tầm mức cứu độ của sự giải thoát: con người được mời gọi
hành động tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc giải thoát khỏi những gì
nô lệ hoá con người, cả trong những gì có liên quan đến các mối tương
quan xã hội.
Mặc
dầu công trình cứu độ của Chúa Giêsu không thể chỉ hạn hẹp vào tầm mức
luân lý – xã hội, nhưng vì là một hậu quả của ơn cứu độ, việc phân tích
giữa tầm mức ơn cứu độ và luân lý – xã hội không đưa đến việc tách biệt
giữa hai tầm mức đó.
Thật vậy, ơn gọi con người đến sự sống vĩnh cửu không loại trừ, mà đúng hơn còn xác nhận, việc con
người có bổn phận phải dùng nghị lực của mình và các phương thế mình có
để phát triển tốt đẹp đời sống trần thế cho mình và cho anh em mình. Nói
cách khác, con người có ơn gọi phải dùng tài năng và nghị lực Chúa cho
tiếp tục công trình tạo đựng của Người, làm cho thế giới trở nên tốt đẹp
hơn về mọi mặt. Đó là lý do tại sao, sau khi dựng nên con người, “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai” (Gen 2, 15).
Hiểu
như vậy, chúng ta thấy không có lãnh vực nào của thực tiễn đời sống con
người, kể cả những gì thuộc lãnh vực chính trị (có mục đích tổ chức tốt
đẹp cho cuộc sống con người, từng cá nhân cũng như đoàn thể) là lãnh
vực bị loại ra bên ngoài, là xa lạ với đồ án cứu rỗi của Chúa và xa lạ
đối với việc loan báo Phúc Âm, đến sứ mạng của Giáo Hội và của mọi tín
hữu Chúa Kitô. Như vậy, lãnh vực trần thế, cả lãnh vực chính trị, không thể tách rời khỏi lịch sử cứu rỗi, bởi vì xã hội cùng với những gì hàm chứa trong đó, có liên quan đến đời sống thiết thực của mỗi con người, là “con đường tiên khởi và chính yếu của Giáo Hội” (ĐTC Gioan Phaolô II, Redemptor hominis, 04.03.1979, n. 23).
Chăm lo cho con người, đối với Giáo Hội và đối với người tín hữu Chúa Kitô, có nghĩa là lôi cuốn cả xã hội vào việc cứu rỗi.
Người
tín hữu Chúa Kitô, theo gương Chúa Giêsu, có phận sự phải chu toàn
trong những lãnh vực khác nhau của đời sống xã hội, và họ không thể có
thái độ hành xử dửng dưng vô trách nhiệm đối với lãnh vực chính trị. Làm
như vậy không khác nào họ tự tách ra khỏi thế giới và khỏi dòng lịch
sử, mà trong đó họ được Chúa đặt để vào và mời gọi chu toàn sứ mạng của
mình.
Bởi đó chúng ta cần mạnh mẽ xác nhận rằng: “Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội thuộc toàn phần quan niệm Kitô giáo về đời sống”
(ĐTC Gioan XXIII, Mater et Magistra, 15.05.1961: AAS 53, 1961, 453). “Tuy
nhiên nhiều khi chúng ta cũng gặp được những thái độ phát xuất từ việc
không có khả năng thẩm thấu được vào mầu nhiệm này của Chúa Kitô. Ví dụ
như tâm trí của những ai chỉ thấy được Kitô giáo như là tổng hợp các tác
động thiết thực và các tác động bác ái, mà không nhận ra được mối liên
hệ của Kitô giáo với các hoàn cảnh sống thường nhật, với việc khẩn thiết
phải đáp ứng lại các nhu cầu của người khác và với việc ra công gắng
sức để loại trừ những bất công. Tôi nghĩ rằng ai có tâm thức đó, là
người chưa hiểu được sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể có ý nghĩa gì,
Người đã nhận lấy thân xác, linh hồn và tiếng nói nhân loại, đã chia sẻ
số phận của chúng ta, đến nỗi kinh nghiệm được sự tàn phá rách nát tận
cùng của cái chết. Có thể vì vô ý, một vài người xem Chúa Kitô như là
người không liên hệ gì đến hoàn cảnh sống của con người.
Một
vài người khác, trái lại, có khuynh hướng tưởng tượng rằng để thực sự
sống cho ra người, cần phải bỏ ra ngoài tai một vài khía cạnh chính yếu
đức tin Kitô giáo. Bởi đó họ hành động như là đời sống cầu nguyện, tiếp
tục chuyện trò với Chúa, là thái độ lẫn tránh trách nhiệm của mình, là
thoát tục, lìa bỏ thế giới. Họ quên rằng chính Chúa Giêsu mạc khải cho
chúng ta tình yêu và phục vụ phải được đẩy đến cùng mức. Chỉ có khi nào
chúng ta tìm hiểu mầu nhiệm tình yêu thương của Chúa, mầu nhiệm tình yêu
cho đến kết thúc cuộc đời, lúc đó chúng ta mới sẽ có thể hy sinh hoàn
toàn chúng ta cho người khác, không để mình bị các khó khăn hay thái độ
dửng dưng đè bẹp” (San Josemaria escrivá, È Gesù che passa, / ed., Ares,
Milano 2003, n. 98).
Nhãn quan tổng thể của công trình Cứu Độ cho chúng ta thấy rõ rằng chân lý đích thực của động tác chính trị chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng “mạc khải hoàn hảo con người cho con người và ơn gọi tối thượng của con người” (Gaudium et spes, n. 22).
Các
động tác xã hội, mặc dầu bị tội lỗi làm cho trở nên nặng nhọc, nhưng đã
được Chúa Kitô làm cho trở nên vững mạnh như là nơi con người hội ngộ
với Chúa, và được nhắc lên một địa vị mới đáng ngưỡng mộ.
Trước
khi được Chúa Giêsu tuyên bố rõ rệt trong các lời giảng dạy của Người,
địa vị mới đầy hứng khởi và ngưỡng mộ đó, chúng ta có thể gặp được trong
hoàn cảnh sống của Chúa Giêsu.
Người
đảm nhận lấy một cuộc sống nhân loại hoàn hảo, thực hiện trọn hảo ơn
gọi tiên khởi cội nguồn của con người, qua thập giá Người thánh hoá
những gì khó nhọc trong cuộc sống chúng ta và với Phục Sinh Người mở
rộng ra viễn ảnh cuộc sống đời đời.
Còn
nữa, Chúa thiết lập nên tình huynh đệ nhân loại trên sự thông hiệp giữa
Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhờ đó nhân loại nhận lãnh được đẳng cấp chính đáng
hơn trong gia đình Thiên Chúa, trong đó việc tuân giữ trọn hảo lề luật
là tuân giữ trong tình yêu thương. Bởi đó không ai có thể triển nở hoàn
hảo con người của mình, nếu không qua động tác chân chính hy sinh, hiến
tặng mình cho người khác, cho anh em mình.
Chúa
Kitô đảm nhận dòng lịch sử nhân loại, bằng cách đánh động, thanh tẩy và
tăng cường thêm sức mạnh cho các ước vọng con người, để con người quản
trị các thực tại trần thế theo giới răn tình yêu (Gaudium et spes, n. 22.24.32.38; ĐTC Gioan Phaolô II, laborem excercens, 14.0.1981, n. 26-27).
Thật vậy, “việc
chuyên cần dấn thân để có được một xã hội công bình hơn và liên đới hỗ
tương hơn là một món nợ tình yêu mà mỗi người tín hữu Chúa Kitô mắc phải
đối với mỗi con người và đối với tất cả mọi người, trong mỗi con người
đó đều chiếu hiện lên diện mạo của Chúa Cha, mà anh đang tìm kiếm và cầu
nguyện” (G. crepaldi, Presentazione, in AAVV. Radicalità evangelica e
impegno politico, AVE, Roma 1994, p.7).
Nói ngắn gọn, mặc dầu việc tăng trưởng Vương Quốc của Thiên Chúa và việc thăng tiến con người không phải là hai việc đồng nhất nhau, nhưng giữa hai sự việc có một sự tiếp nối liên kết sâu đậm và bất khả phân.
Bởi
đó việc làm môn đệ theo Chúa Kitô đòi buộc bổn phận chu toàn các nhiệm
vụ chính trị và các nhiệm vụ chính trị vừa kể có thể được hoàn thành tốt
đẹp hơn, nếu là những nhiệm vụ được thúc đẩy năng động hoá bằng tinh
thần Kitô giáo.
Tất
cả những điều đó đặt ra cho người tín hữu Chúa Kitô những đòi buộc xác
đáng. Đó là người tín hữu Chúa Kitô không được xem các cấu trúc xã hội,
chính trị và kinh tế như là những gì không có gì liên hệ đến lịch sử cứu
rỗi, nhưng trái lại đó là những thực thể được Chúa giao phó cho chúng
ta như là bổn phận phải chu toàn và được thực hiện bằng việc chọn lựa tự
do và có trách hiệm của con người. Và đó là những sự lựa chọn tích cực
hay tiêu cực đối với các giá trị của Nước Trời.
2) Dưới nhãn quan hoàn hảo hóa con người
Đồ án của Đấng Tạo Hóa gồm cả đời sống xã hội của con người: “Chúa là Thiên Chúa phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ tạo cho nó một trợ tá tương xứng với nó’ (Gen 2, 18).
Như vậy bản thể của con người có khuynh hướng làm cho con người sống
đời sống trong xã hội và thông hiệp với người khác, như là phương thế
cần thiết để phát triển chính mình. Thiên Chúa kêu gọi con người đạt đến
quê hương thiên quốc bằng cách hành động nơi trần thế.
Như
vậy, các hoạt động của con người nhằm làm phát triển đời sống là những
gì đáp ứng lại ý định của Đấng Tạo Hóa và như vậy con người phải thực
hiện những hoạt động trần thế của mình một cách có trách nhiệm: “Người
tín hữu phải nhận biết bản tính nội tại của các tạo vật, giá trị và sắp
đặt chúng thích hợp để ngợi khen Chúa và giúp đỡ nhau để sống một đời
sống thánh thiện cả bằng các hoạt động trần thế của mình, để cho thế
giới được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt được một cách hiệu quả
cùng đích của mình trong công lý, bác ái và hòa bình” (Lumen gentium, n.
36).
Dưới
ánh sáng của chân lý vừa nêu, chúng ta hiểu được thế nào việc chuyên
cần dấn thân của con người cho việc phát triển vật chất và tinh thần của
cả xã hội. Đó là một phần chính yếu của ơn kêu gọi mà Chúa kêu gọi mỗi
người đạt được cùng đích của cá nhân mình, tức là cùng đích thánh thiện.
Như vậy, trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô, tác động chính trị chiếm
được phẩm chất mới, không phải chỉ một hoạt động “vô thưởng vô phạt”,
được làm cho trở thành tốt đẹp bởi một cái gì đó từ bên ngoài, mà là nhờ
hiệp nhất với Chúa Kitô, tác động đó trở thành một thực thể thánh
thiện, được thánh Hóa và có khả năng thánh Hóa lịch sử cứu độ. Đó là ơn
Chúa gọi, trong đó con người càng lúc càng kết hợp với Chúa Giêsu và
đồng Hóa với Chúa Giêsu (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, n. 519-521).
Hiểu
như vậy, chúng ta biết được việc thành đạt đến phát triển hoàn hảo con
người và đạt đến đời sống thánh thiện thúc đẩy mỗi người chúng ta đảm
nhận vai trò của mình trong đời sống công cộng.
Cần
nhấn mạnh rằng người tín hữu Chúa Kitô không thể đứng nhìn các thực
trạng xã hội như kẻ bàng quan, đứng nhìn từ bên ngoài, mà phải là người hiểu biết và suy luận, dưới ánh sáng đức tin, như
là ơn gọi mà Chúa Thánh Thần nói cho mỗi người, phải hành động thế nào
để có thể hiệp thông và trở nên đồng dạng với Chúa Giêsu.
Điều
đó đòi buộc người tín hữu Chúa Kitô phải học hỏi, phân tích và chuẩn
định các biến cố xã hội dưới nhãn quan Kitô giáo, dưới nhãn quan của
Chúa Kitô, để có thể đi đến tác động.
Thật
vậy, các đòi buộc xã hội là những trách nhiệm chính xác đối với mỗi
người, và chính trên trách nhiệm đó mà mỗi người chúng ta sẽ được Chúa
phán đoán: “… Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải
rằng: ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn
sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi
cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã
tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã
viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… Ta bảo thật các ngươi,
mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta… Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi không làm như vậy cho những người bé nhỏ nhất đây, là các
ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (cft. Mt 25, 31-46).
Như
vậy, không thể có một đời sống chân chính Kitô giáo (kể cả đời sống
thuần bản tính nhân loại), nếu chúng ta coi không ra gì các nhu cầu, lề
luật và cơ chế xã hội chính đáng.
Điều
đó càng trở nên đích thực hơn, trong các hoàn cảnh hiện đại, trong đó
các mối tương quan tùy thuộc vào nhau càng khẩn thiết mạnh mẽ hơn nữa,
cho thấy rằng tất cả mọi người chúng ta đều có trách nhiệm đối với tất
cả mọi người khác: “Ước gì tất cả mọi người hãy biết coi việc thực
thi các bổn phận chính yếu của con người hiện đại và tuân giữ những đòi
buộc xã hội như là những gì thiên thánh. Thật vậy, thế giới càng hiệp
nhất bao nhiêu, các đòi buộc của con người cành phải vượt thắng các phe
nhóm riêng tư và dần dần các đòi buộc đó trải rộng ta cả thế giới. Và
điều đó không thể xảy ra được, nếu mỗi con nguời riêng rẻ và phe nhóm
của họ không vung trồng trong tâm khảm mình các nhân đức luân lý và xã
hội và không loan truyền các nhân đức đó trong xã hội, như vậy để sinh
nở ra những con người mới đích thực, các kiến tạo viên của một nền nhân
loại mới, nhờ trợ giúp cần thiết của ơn Chúa” (GS, n. 30; cfr. ĐTC Gioan
Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis, 30.12.1987, n. 38). Bởi đó Công Đồng Vatican II cảnh cáo: “Người
tín hữu Chúa Kitô lơ đểnh các phận vụ trần thế của mình, lơ đểnh các
bổn phận của mình đối với người thân cận, đúng hơn là đối với chính
Chúa, là đặt cuộc sống đời đời của mình trong vòng nguy hiểm” (GS, n.
43).
Một
đôi khi chúng ta cũng nghe nói đến việc người tín hữu Chúa Kitô chỉ
biết lo lắng về thế giới bên kia làm cho họ quên đi các vấn đề của thế
giới hiện tại. Thực tế hoàn toàn trái ngược, bởi lẽ cuộc sống đời đời
tùy thuộc vào động tác của chúng ta trong thế giới hiện tại, và nói một
cách cá biệt, tùy thuộc vào động tác có lợi cho người khác của chúng ta.
Cần biết rằng đời sống Kitô
hữu là một sự thúc đẩy mạnh mẻ chuyên cần dấn thân một cách nghiêm
chỉnh trong việc xây dựng một xã hội công bằng hơn và huynh đệ hơn.
Bởi
đó chuyên cần dấn thân cho công lý, hòa bình, cho những kẻ nghèo khó
yếu hèn nhất, cho tình liên đới hỗ tương hoàn vũ, sẽ được chu toàn một
cách chuyên cần chí thú và trọn vẹn khởi đầu từ việc chọn lựa chính Chúa
Giêsu Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công bình của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).
Thật vậy, không thể thành thật chăm lo việc Chúa và việc Giáo Hội, mà không thành thật chú tâm đến các vấn đề của con người. “Tính
cách chính đáng và đáng tin cậy tình yêu đối với Chúa và Giáo Hội thế
nào cũng phải đi ngang qua tình yêu đối với con người và động tác chuyên
cần cho công lý và hòa bình (…). Bởi đó chuẩn định tình yêu thương đối
với con người, có thể trở thành cơ hội để chuẩn định tình yêu đối với
Giáo Hội và với Chúa” (Toso, Verso quale società?, LAS, Roma 2000, 178).
3) Dưới nhãn quan xã hội
Mục
đích chính yếu của chính trị là đạt được công ích. Và yếu tố căn bản
của công ích là cộng đồng tính, hay nói cách khác, là tính cách phổ quát
cho tất cả mọi người và cho tất cả mọi lãnh vực của xã hội: Mọi nguời,
tùy theo hoàn cảnh của mình, đều có bổn phận tham dự vào việc xây dựng
và có quyền hưởng thụ.
Tuy
nhiên bổn phận phải tham dự vào việc phát triển công ích không phải mọi
người đều bị bắt buộc phải tham dự cùng một mức độ và phương thức như
nhau. Đây là một phận vụ được khác biệt Hóa tùy theo vai trò xã hội của
mỗi người. Trách nhiệm đó, trước tiên là trách nhiệm của tổ chức cơ chế
và quyền lực Quốc Gia, bởi lẽ đó là lý do chính đáng cho sự hiện hữu của
họ và từ đó là phận vụ của họ.
Cơ
chế và quyền lực Quốc Gia có bổn phận hòa hợp theo công lý các lợi ích
của những lãnh vực, phận bộ, khu bộ, đẳng cấp, phe nhóm khác nhau trong
cộng đồng Quốc Gia. Đó là một trong những vai trò tế nhị nhất của công
quyền: điều hợp chính đáng lợi thú cá biệt của tầng lớp, phe nhóm và cá nhân.
Tuy
nhiên sắp xếp điều hòa không có nghĩa là cào bằng (tất cả đều bằng nhau
như công bình toán học, lý tưởng của Marx – Lenin, Cộng Sản chủ nghĩa),
mà là sắp xếp điều hòa “công ích”, cần phải trợ giúp nhiều hơn những thành phần yếu kém hơn, bị nhiều nhu cầu sống đòi buộc hơn: “Công
ích là một của cải gia sản, mà mọi thành phần cộng đồng chính trị đều
có quyền được tham dự vào, mặc dầu tham dự với tầm mức khác nhau tùy
theo phận vụ, công trạng, và hoàn cảnh của mỗi người. Như vậy các Quyền
Lực công quyền có bổn phận phát huy lợi ích cho tất cả, không dành đặc
quyền cho một vài công dân hay một vài phe nhóm giữa họ. Nhưng vì lý do
công bằng và bình đẳng, một đôi khi các cơ quan Công Quyền bị bắt buộc
đặc tâm chuyên lo hơn cho các thành phần yếu thế hơn trong cộng đồng xã
hội, vì họ đang bị ở vị thế trong các hoàn cảnh yếu kém hơn, để họ có
thể làm cho các quyền của mình có giá trị và có được những lợi thú chính
đáng của mình” (ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris, 11.04.1963: AAS 55,
1963, 272-273).
Nhưng
những gì vừa đề cập có liên quan đến tổ chức cơ chế Quốc Gia không miễn
trừ cho cá nhân hay đảng phái, phe nhóm, hiệp hội khỏi bổn phận cộng
tác chăm lo cho công ích. Bởi vì công ích là cùng đích của xã hội,
tất cả mọi thành viên đều có bổn phận xây dựng và bảo tồn. Không ai, dĩ
nhiên tùy theo phận vụ và khả năng của mình, có thể khước từ tham dự
vào việc phát huy công ích: “Tất cả đều phải, mỗi người tùy theo địa
vị mà mình có và vai trò mà mình đảm nhận, tham dự vào việc phát huy
công ích. Bổn phận đó liên hệ mật thiết với phẩm giá con người” (Sách
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 01.05.1991, n. 49).
Hơn nữa như Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội dạy chúng ta và lịch sử đã chứng minh, để bảo đảm cho công ích được bền vững, cần có các tổ chức xã hội trung gian (gia đình, học đường, hiệp hội, công đoàn, đảng phái) được sinh sôi nẩy nở sung mãn: “Những
tổ chức xã hội trung gian đó trở nên trưởng thành như là những thực thể
cộng đồng con người và đơm kết vào tổ chức xã hội, khiến cho xã hội
không trở thành vô danh tiểu tốt và thành một khối vô nhân tính, như rất
tiếc thường khi xảy ra trong xã hội hiện đại” (ĐTC Gioan Phaolồ II,
Centesimus annus, 01.05.1991, n. 49).
Cần
xác tín rằng việc chuyên cần lo cho công ích là điều kiện cần thiết để
cho các tổ chức xã hội trung gian có thể lớn mạnh được. Và các tổ chức
xã hội trung gian có phát triển, đó cũng là điều cần thiết để phát triển
cá nhân: “Thật vậy, công quyền can thiệp luôn luôn nhằm kích thích
tôn trọng công lý và chuyên cần hy sinh cho công ích, bởi lẽ đó là trách
nhiệm cuối cùng của công quyền. Tuy nhiên, điều đó không loại trừ lãnh
vực hành động và trách nhiệm của các cá nhân và các tổ chức xã hội trung
gian, bởi vì các tổ chức đó cũng góp phần thực hiện công ích” (ĐTC
Phaolô VI, Octogesima adveniens, 14.05.1971, n. 46).
Như
vậy, từ cá nhân đến các tổ chức xã hội trung gian và đến cả tổ chức
công quyền, tất cả đều có bổn phận phải chăm lo cho công ích, như vậy
tất cả đều có bổn phận trong cuộc sống chính trị.
Chúng
ta cũng đừng quyên rằng cuộc chung sống nhân loại có ảnh hưởng đáng kể
đến ý nghĩa đời sống cá nhân, đến cách con người hiểu biết về chính mình
và quyết định thái độ mình phải có, cũng như luật lệ phải như thế nào
và cơ chế xã hội nào là những phương thức thích hợp nhất.
Và
một khi được thiết định, luật pháp và tổ chức cơ chế công quyền xã hội
có tầm ảnh hưởng mạnh mẻ đến văn Hóa và cách hành xử phải có của con
người. Hơn nữa, cấu trúc và hoạt động chính trị thường là những thực thể
dài hạn và có tầm vóc hoạt động rộng lớn trên đời sống và trên sự phát
triển cá nhân và cộng đồng. Như vậy, hoạt động chính trị tự mình có tầm
vóc khá quan trọng trên đời sống con người và bởi đó đòi buộc phải có
một ý thức trách nhiệm trọng đại.
Những
lý do đó nói lên một cách hiển nhiên: các tín hữu Chúa Kitô có thể, hay
đúng hơn là phải, đặc tâm lưu ý đến biến chuyển của đời sống chính trị,
và nhất là trên thực tế đến phẩm chất luân lý của nó. Điều đó có nghĩa
là qua hoạt động chính trị, người tín hữu Chúa Kitô tạo điều kiện thuận
tiện cho việc phát triển toàn vẹn con người, cho chính mình, cũng như
cho anh em đồng bào và đồng loại với mình.
4) Bổn phận bắt buộc trong chính trị
Qua
những gì được đề cập trước đây, chúng ta thấy được tầm quan trọng của
chính trị trong việc tạo được một cuộc sống thăng tiến xứng đáng với
phẩm giá con người, hay biến cuộc sống con người thành cuộc sống mọi rợ,
súc vật.
Bởi đó Giáo Hội “rất ngưỡng mộ hoạt động chính trị chân chính; Giáo Hội nói: “đó là hoạt động đáng được khen ngợi và kính nể“ (Gaudium et spes, n. 76). “Xác nhận đó là hình thức cần phải có cho bác ái” (Octogesima adveniens, n. 46).
Giáo Hội nhận biết rằng: “việc cần phải có một cộng đồng chính trị và một tổ chức công quyền là những gì được ghi khắc vào bản tính xã hội của con người và bởi đó cũng là do ý Chúa muốn”
(C:E:I. HĐGM Ý Quốc), La verità vi farà liberi, Lib. Ed. Vaticana,
Città del Vaticano 1995, n. 1102). Từ đó đưa đến hậu quả là mọi người
đều được Chúa kêu gọi sống có trách nhiệm các bổn phận xã hội của
mình và thực hiện được mức triển nở hoàn hảo cá nhân và cộng đồng trong
việc thực hiện các bổn phận đó.
Chuyên
cần dấn thân đáp ứng lại ơn kêu gọi này góp phần tốt đẹp cho việc xây
dựng xã hội con người và loan truyền khắp thế giới, theo đồ án của Thiên
Chúa, những của cải tốt đẹp của chính đồ án đó. Đó là phẩm giá con
người, tình huynh đệ và tự do (Gaudium et spes, n. 39).
Từ
đó chúng ta thấy được quyền và bổn phận của người tín hữu Chúa Kitô là
phải chuyên cần dấn thân để làm cho đời sống công cộng trở nên tốt đẹp
hơn, bằng cách tổ chức đời sống đó xứng đáng vói phẩm giá con người. Đó
là một quyền mà ngày nay cả thế giới đều chấp nhận, ngoại trừ một vài
nơi do chế độ vô thần và đê tiện hoá con người còn ngốt ngáp cai trị.
Nhưng
đó cũng là một bổn phận, bởi lẽ tự do không có nghĩa chỉ là không có áp
bức hay dửng dưng trong hành động (ai muốn làm gì hay không làm cũng
được). Tự do là một năng lực tuyệt vời, nguồn mạch có sức mạnh thúc đẩy
để phát triển không thể nằm “án binh bất động”, nơi các cá nhân cũng như
trong các cộng đồng và nơi các quốc gia. Nói đúng hơn, “sức khoẻ của một cộng đồng chính trị được phát hiện ra bằng việc tự do tham dự và trách nhiệm của tất cả mọi người vào việc chung” (ĐTC Gioan Phaolô II, Sollecitudo rei socialis, 30.12.1987, n. 44).
Như
vậy chính trị đòi buộc sự chuyên cần dấn thân của mọi công dân: bởi lẽ
không có tự do, mọi phát triển công cộng, mọi toan tính cộng tác và mọi
đồng thuận xã hội nhằm đạt được sẽ là những điều không ai có thể tưởng
tượng được. Tự do là nền tảng và nguyên cội của các cùng đích chính trị
nhằm đạt đến vừa kể: “Các xã hội dân chủ hiện đại, trong đó một cách đáng khen ngợi mọi người đều được làm cho tham dự vào việc công trong một bầu không khí thực sự tự do (Gaudium et spes, n. 31; Catechismo della Chiesa Cattolica, n. 1915), đòi buộc phải có những hình thức mới mẻ và rộng rãi hơn nữa cho việc tham dự vào việc chung của các công dân, Kitô hữu và không Kitô hữu. Thật vậy, tất cả đều có thể cộng tác qua việc bỏ phiếu tuyển chọn các vị lập pháp và các vị lãnh đạo chính quyền và, cả trong những phương thức khác, cộng tác trong việc thiết định các định hướng chính trị và trong việc lựa chọn luật lệ, mà theo ý kiến họ có lợi ích nhiều hơn cho công ích (Gaudium et spes, n. 75). Đời sống trong một hệ thống chính trị không thể được thực hiện một cách có lợi ích, nếu không có sự can dự năng động, có trách nhiệm và quảng đại của tất cả“
(Congr. per la Dottrina della Fede – Thánh Bộ Đức Tin), Nota dottrinale
circa alcune questioni riguardanti l’impegno e il comportamentp dei
cattolici nella vita pubblica, 24.11.2002, n. 1).
Ngoài
ra những gì vừa được đề cập, thiết tưởng chúng ta cũng cần thêm rằng
việc đạt được một điều tốt đẹp – kể cả công ích – đòi buộc phải có một
động tác dấn thân tích cực. Chính trị không thể bị giới hạn trong lý
thuyết, bởi lẽ hiểu thế nào một động tác con người xấu hay tốt thôi,
chưa đủ để lại lợi ích cho công ích xã hội.
Mục
đích của chính trị gồm cả, nhất là, việc hướng dẫn động tác của con
người hướng về lợi ích tốt lành nhằm đạt được. Bởi đó chính trị có đặc
tính “thiết thực” khắn khít với những gì được tuyên bố. Khuynh hướng
thực định đó được cải hoá và nâng cao, theo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội,
bởi Lời Chúa, là Lời sống động và đầy hiệu lực: “Lời Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Heb 4, 12), chớ không bao giờ là lời rỗng không, không có kết quả: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống đất, không trở về trời, nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho dất phì nhiêu và đâm chôi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55,10-11).
Như
vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội sẽ làm cho người ta tin tưởng được bằng
việc chuyên cần dấn thân đích thực của các tín hữu đem ra thực hiện,
hơn là được tin cậy bằng lý luận hữu lý của các nguyên tắc. Như vậy,
nguồn lực thúc đẩy động tác đã hàm chứa ngay trong các nguyên tắc của
Huấn Dụ, đó là cùng đích mà Huấn Dụ chỉ thị xác định. Bởi đó Huấn Dụ
không phải chỉ là những gì cần phải hiểu biết, mà là mục đích cần phải
đạt được. Đó là con người và xã hội chiếm đạt được sự trọn hảo của mình,
khi họ đem ra thực hành những chỉ thị luân lý có liên hệ đến họ.
Ngoài
ra ngành thần học luân lý và từ đó là Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội,
không phải chỉ là một loại kiến thức trừu tượng và trường ốc: thần học
luân lý trực diện nói thẳng với người đang vung trồng học hỏi. Bởi đó
biết thôi, chưa đủ, mà cần phải sống, để hiểu biết được ý nghĩa muốn nói
với mình và có thể chuyển giao, phổ biến đến người khác.
Hiểu
như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội có một tầm mức thực tiễn không thể
tách rời được, bởi đó cần phải trách việc chia tách đức tin và đời
sống. Sự gắng sức chuyên cần dấn thân để thấm nhuần tinh thần xã hội
bằng tinh thần Chúa Kitô, là hậu quả phải có của việc quyết định, nhờ ơn
Chúa giúp đỡ, sống sứ điệp Phúc Âm một cách sâu đậm và trung thực.
Bởi đó cần phải can đảm xác nhận rằng, “một con người hay một xã hội mà không có phản ứng trước những cơn đàn áp, bách hại và bất công, và không tìm cách nào để làm giảm bớt đi những bất hạnh đó, thì con người đó hay xã hội đó không xứng đáng với mức độ lòng yêu thương của Chúa Giêsu Kitô. Người tín hữu Chúa Kitô - mặc dầu luôn luôn họ vẫn có trương độ rộng rãi tự do để học hỏi và đem ra thực hiện bằng những phương thức khác nhau và bởi đó vẫn có được cách giải quyết đa phương hợp lý – phải đồng thuận nhau trên lòng ước muốn chung phục vụ nhân loại. Nếu không nền Kitô giáo của họ không phải là Lời và Đời Sống của Chúa Kitô, thì chỉ là một Kitô giáo trá hình, một hình thức lường gạt, trước mặt Chúa và trước mặt mọi người” (San Josemaria Escrivá, È Gesù che passa, 7° ed. Ares, Milano 2003, n. 167).
Không
phải Kitô giáo, mà là thái độ sai lầm chia tách, coi những sự việc trần
thế như là những gì xa lạ đối với lợi thú của chính mình, cũng không
phải chỉ có thái độ đứng đó than phiền không có gì giải quyết được
hết. Người tín hữu Chúa Kitô phải mang đến cho đời sống xã hội yếu tố
sống động hoá của các nguyên tắc Phúc Âm, trong khi vẫn tôn trọng lãnh
vực tự lập của các thực tại trần thế, tự lập đó cũng là một nguyên lý
Phúc Âm.
Trong
cuộc chuyên cần dấn thân trong xã hội vừa kể, cũng như bất cứ chuyên
cần Kitô hữu nào khác, đời sống thực tế bằng hành động của người tín hữu
Chúa Kitô có tầm ảnh hưởng thật quan trọng. Điều tối quan trọng là
người tín hữu Chúa Kitô thực hiện bổn phận của chính mình bằng trách
nhiệm gương mẫu, như các Đức Giáo Hoàng đã dạy chúng ta ngay từ những
Thông Điệp tiên khởi về đời sống xã hội. ĐTC Leo XIII nhắc nhớ các tín
hữu rằng: “Việc khuất vắng hoàn toàn khỏi đời sống chính trị không có gì ít đáng trách hơn là bất cứ thái độ nào khước từ cộng tác cho công ích. Chính vì người công giáo trên nguyên tắc của mình, hơn bao giờ hết họ bị bắt buộc đưa vào các bổn phận chuyên cần của họ cả con người và lòng hăng hái của mình”
(ĐTC Leo XIII, Immortale Dei, 01.11.1885, “Leonis Acta” 5, 1885,
146). Về vấn đề dấn thân vào các lãnh vực xã hội như vừa kể, ĐTC Phaolô
VI mời gọi tất cả hãy nghiêm chỉnh xét mình: “Mỗi người hãy tự xét mình để xem cho đến nay những gì mình đã làm và những gì mình cần phải làm. Nhớ đến những nguyên tắc thôi, chưa đủ; xác nhận các ý hướng, ghi nhận các mối bất công độc ác và tiên đoán những tố cáo sẽ xảy đến trong tương lai. Tất cả những lời nói đó không có một trọng lượng thực hữu, nếu trong mỗi người không có một cuộc tự vấn lương tâm sống động hơn về trách nhiệm của chính mình và có một động tác thiết thực (…). Như vậy, trong các hoàn cảnh, các phận vụ, các tổ chức, mỗi người phải xác định rõ trách nhiệm của mình và chuẩn đoán được theo lương tâm, các động tác mà mình được kêu gọi hãy tham dự“ (ĐTC Phaolô VI, Octogesima adveneins, 14.05.1971, n.48.49).
Đề
cập trực tiếp đến người tín hữu giáo dân, những lời nói sau đây của ĐTC
Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến bổn phận trọng đại của người công giáo
ngày nay cấp thiết hơn bao giờ hết: “Các hoàn cảnh mới của Giáo Hội cũng như xã hội, kinh tế, chính trị và văn hoá, ngày nay đòi buộc với một sức mạnh cá biệt động tác của người tín hữu giáo dân. Nếu thái độ thờ ơ luôn luôn là điều không thể chấp nhận được, thời điểm hiện tại còn làm cho điều đó trở thành tội. Không ai được phép ăn không ngồi rồi” (ĐTC Gioan Phaolồ II, Christifideles laici, 30.12.1988, n.3).
Qua
những lời của các ĐTC vừa trích dẫn, người tín hữu Chúa Kitô phải quyết
định ảnh hưởng một cách tích cực vào đời sống chính trị, như vậy khỏi
bị cho thấy rằng sống đời sống Kitô giáo chỉ có bên ngoài.
Bởi lẽ đời sống Kitô giáo không thể nào chính đáng, nếu bỏ lơ những bổn phận xã hội của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét