Lòng
sùng kính Thánh Tâm là dạng sùng kính đặc biệt đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta biết lòng sùng kính đó là gì và khi chúng ta xác định đối
tượng, nền tảng, và hành động đúng lòng sùng kính này.
Khách thể đặc biệt của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa
Bản
chất của vấn đề này phức tạp và thường trở nên nhiêu khê hơn vì những
khó khăn nảy sinh từ thuật ngữ. Bỏ qua những thuật ngữ mang tính kỹ
thuật quá, chúng ta sẽ tìm hiểu chính các ý tưởng, và chúng ta có thể
sớm tìm ra ý nghĩa, sẽ tốt để ghi nhớ ý nghĩa và dùng chữ “trái tim”
trong ngôn ngữ hiện hành.
(a)
Trước hết, chữ “trái tim” gợi ý tưởng về một trái tim vật chất, một cơ
phận chính đập nhịp trong lồng ngực, và chúng ta nhận thấy nó liên kết
không chỉ với thể lý, mà còn với cảm xúc và đời sống luân lý. Trái tim
bằng thịt này được chấp nhận là biểu tượn của cảm xúc và đời sống luân
lý, do đó mà chữ “trái tim” có trong ngôn ngữ hình tượng, “trái tim”
cũng chỉ định những thứ được hình tượng hóa là trái tim. Chẳng hạn, cách
diễn tả “mở lòng”, “trao tặng trái tim”, v.v… Có thể biểu tượng đó
không còn ý nghĩa vật chất. Như vậy, trong ngôn ngữ, chữ tâm hồn cũng
không còn chỉ mang ý nghĩa về hơi thở, và chữ “trái tim” làm chúng ta
nghĩ tới sự can đảm và yêu thương. Nhưng có thể đây là cách nói hoặc
phép ẩn dụ chứ không hẳn là biểu tượng. Biểu tưởng là dấu hiệu thật, do
đó mà phép ẩn dụ chỉ là dấu hiệu bằng lời nói; biểu tượng là cái thể
hiện một cái khác, nhưng phép ẩn dụ là chữ dùng để chỉ định cái gì đó
khác với nghĩa riêng của nó. Cuối cùng, trong ngôn ngữ, chúng ta luôn
chuyển một phần thành tổng thể, và bằng cách nói tự nhiên, chúng ta dùng
chữ “trái tim” để chỉ định một con người. Các ý tưởng này sẽ giúp chúng
ta xác định khách thể của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa.
(b)
Vấn đề nằm giữa ý nghĩa vật chất, ẩn dụ và biểu tượng của chữ “trái
tim”; khách thể của lòng sùng kính này là trái tim bằng thịt, hoặc Tình
yêu của Chúa Kitô được ẩn dụ hóa bằng chữ “trái tim”; hoặc trái tim bằng
thịt, nhưng là biểu tượng của đời sống tình cảm và luân lý của Chúa
Giêsu, và nhất là Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Chúng ta nói rằng
sự tôn thờ trái tim bằng thịt là đúng, vì đó là biểu tượng và nhắc nhớ
đến Tình yêu của Chúa Giêsu, đời sống tình cảm và luân lý của Ngài. Như
vậy, dù trực tiếp với trái tim vật chất, nhưng không dừng lại ở đó: bao
gồm tình yêu, khách thể chính, nhưng chỉ đạt đến và qua trái tim bằng
thịt, dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu. Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu, phần quan trọng nhất của Thánh Thể Chúa, kông là lòng sùng kính
Thánh Tâm Chúa Giêsu như được hiểu và được chấp thuận bởi Giáo hội, và
cách tương tự cũng được nói về lòng sùng kính Tình yêu của Chúa
Giêsu như tách khỏi trái tim bằng thị của Ngài, hoặc nối kết không bằng
hệ lụy nào khác hệ lụy của chữ theo nghĩa ẩn dụ. Do đó, trong lòng sùng
kính này có hai yếu tố: yếu tố nhận biết và yếu tố tinh thần, trái tim
bằng thịt biểu hiện và nhắc nhớ tới yếu tố tinh thần. Nhưng hai yếu tố
này không hình thành hai khách thể riêng biệt, cơ thể và linh hồn cũng
vậy. Do đó hai yếu tố đó là cần thiết cho lòng sùng kính này vì cơ thể
và linh hồn là cần thiết đối với con người. Hai yếu tố này tạo nên một
tổng thể, yếu tố chính là tình yêu, nguyên nhân của lòng sùng kính và lý
do hiện hữu là linh hồn, đó là yếu tố chính trong con người. Do
đó, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu có thể được xác định là lòng
sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu tới mức mà trái tim này biểu hiện và nhắc
nhớ tới Tình yêu của Ngài, hoặc lòng sùng kính Tình yêu của Đức Giêsu
Kitô, vì tình yêu này được nhớ lại và bày tỏ với chúng ta qua trái tim
bằng thịt của Ngài.
(c)
Do đó, lòng sùng kính hoàn toàn dựa vào biểu tượng của trái tim. Chính
biểu tượng này truyền đạt ý nghĩa và tính duy nhất, và biểu tượng này
được hoàn tất bằng sự biểu hiện của trái tim bị thương tích. Vì Thánh
Tâm Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bằng dấu hiệu của Tình yêu của Ngài,
vết thương ở Trái Tim hửu hình của Chúa Giêsu sẽ nhắc nhớ về vết thương
vô hình của Tình yêu này. Biểu tượng này cũng giải thích rằng lòng sùng
kính này, mặc dù dành cho Thánh Tâm Chúa Giêsu một vị trí cần thiết, vẫn
là nhỏ bé do liên quan với khoa giải phẫu trái tim hoặc khoa sinh học.
Nhưng, trong hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, cách diễn tả biểu tượng này
phải trổi vượt hơn mọi thứ, độ chính xác về giải phẫu học không được xem
xét; nó có thể làm tổn thương lòng sùng kính bằng cách đưa ra biểu
tượng ít hiển nhiên hơn. Rất đúng khi nói trái tim là biểu tượng được
phân biệt với trái tim theo giải phẫu học: Tính phù hợp của hình ảnh có
lợi cho cách diễn tả của tư tưởng này. Trái tim hữu hình cần thiết đối
với hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhưng trái tim hữu hình này phải là
một trái tim biểu tượng. Cách quan sát tương tự về sinh học, trong đó
lòng sùng kính này không thể hoàn toàn vô tư, vì trái tim bằng thịt được
tôn thờ để biết Tình yêu của Chúa Giêsu ở đó, là Thánh Tâm Chúa Giêsu,
là trái tim sống động thực sự, đã yêu thương và đau khổ; như chúng ta
cảm nhận, Trái Tim đó đã chia sẻ đời sống tình cảm và luân lý của Ngài;
tuy nhiên, như chúng ta biết, Trái Tim đó thô sơ về các hoạt động của
đời sống con người, có một phần như thế trong các hoạt động thuộc đời
sống của Ngài. Nhưng sự mặc khải về tình yêu của Đức Kitô không là dấu
hiệu thuần túy bình thường, như trong mối tương quan của từ ngữ đối với
một vật, hoặc của lá cờ đối với ý tưởng của một quốc gia; Trái Tim vẫn
liên kết với đời sống của các việc tốt lành và yêu thương. Tuy nhiên,
Trái Tm đó đủ đối với lòng sùng kính mà chúng ta biết và cảm nghiệm được
sự kết hiệp thân mật này. Chúng ta không có gì để do with physiology
của Thánh Tâm Chúa hoặc xác định các chức năng chính xác của trái tim
trong đời sống hằng ngày. Chúng ta biết rằng biểu tượng của trái tim
là biểu tượng dựa trên thực tế và nó cấu thành khách thể đặc biệt của
lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, lòng sùng kính này không có nguy cơ
sai lầm.
(d)
Trên tất cả, trái tim là là biểu tượng của tình yêu, và qua đặc tính
này, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là điều tự nhiên. Tuy nhiên,
hướng tới Trái Tim yêu thương của Chúa Giêsu thì sẽ gặp điều mà Chúa
Giêsu liên kết với tình yêu này. Tình yêu này không là không là lý
do Đức Kitô thực hiện và chịu đau khổ? Không là nội tại của Ngài, thậm
chí còn hơn là ngoại tại của Ngài, đời sống ảnh hưởng tình yêu này? Mặt
khác, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa, được hướng tới Trái Tim sống động
của Chúa Giêsu, như vậy đã trở thành quen thuộc với toàn bộ đời sống nội
tâm của Thầy Chí Thánh, với các nhân đức và tình cảm của Ngài, với tình
yêu vô biên của Chúa Giêsu. Từ đó, sự mở rộng đầu tiên của lòng sùng
kính này bắt nguồn từ Trái Tim yêu thương tới sự hiểu biết thân mật của
Chúa Giêsu, tới tình cảm và nhân đức của Ngài, tới cảm xúc và đời sống
luân lý của Ngài; từ Trái Tim yêu thương tới cách thể hiện yêu thương
của tình yêu này. Vẫn có cách mở rộng khác, dù cùng ý nghĩa, được làm
theo cách khác, bằng cách chuyển từ Trái Tim tới Ngôi vị, như chúng ta
thấy, cách này rất tự nhiên. Khi nói về trái tim to lớn, chúng ta ám chỉ
ngôi vị, như khi chúng ta nói tới Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vì
cả hai đều đồng nghĩa, nhưng khi chữ trái tim thường được nói tới con
người, vì một con người như vậy được coi là liên quan cảm xúc và đời
sống luân lý. Như vậy, khi chúng ta nói tới Chúa Giêsu là Thánh Tâm
Chúa, chúng ta có ý nói rằng khi Chúa Giêsu bày tỏ Thánh tâm Ngài, Chúa
Giêsu yêu thương và đáng yêu. Chúa Giêsu hoàn toàn được “tóm lược” trong
Thánh Tâm Ngài như trong chính Ngài.
(e)
Trong chính lòng sùng kính Chúa Giêsu, người ta không thể không thấy
Tình yêu Ngài bị khước từ. Tc luôn “than thở” trong Kinh thánh, và các
thánh cũng luôn nghe biết những lời than của
tình-yêu-không-được-đáp-lại. Một trong các lĩnh vực chính của lòng sùng
kính này là cân nhắc Tình yêu của Chúa Giêsu, vì chúng ta đã coi thường
và làm ngơ tình-yêu-Ngài-dành-cho-chúng-ta. Chính Ngài đã mặc khải tình
yêu này khi Ngài than thở với Thánh Margaritta Maria Alacoque
(1647-1690).
(f)
Tình yêu này được thể hiện mọi nơi trong Chúa Giêsu và trong cuộc đời
Ngài, tình yêu đó có thể giải thích về Ngài bằng những lời nói và hành
động của Ngài. Do đó, tình yêu này chiếu sáng hơn trong các mầu
nhiệm sinh ra cho chúng ta, trong đó Chúa Giêsu sinh ra nhiều điều tốt
và hoàn tất trong tặng phẩm là chính Ngài qua việc nhập thể, cuộc khổ
nạn, và bí tích Thánh Thể. Hơn nữa, các mầu nhiệm này có vị trí trong
lòng sùng kính này, ở bất kỳ nơi nào chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu và các
dấu hiệu yêu thương của Ngài thì chúng ta đều tìm thấy ở một mức độ
rộng lớn hơn trong các hành động vĩ đại của Ngài.
(g)
Chúng ta biết rằng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng là biểu
tượng của tình yêu, có trong tình yêu của Ngài dành cho nhân loại. Điều
này rõ ràng, vì điều này có trong tình yêu của Ngài dành cho nhân loại,
Thánh Tâm Ngài đã quá yêu chúng ta, như Ngài đã mặc khải cho Thánh
Margaritta Maria Alacoque.
(h)
Cuối cùng, vấn đề là tình yêu đó thể hiện qua lòng sùng kính Thánh Tâm
Chúa Giêsu, Ngài yêu chúng ta với tư cách một con người và yêu chúng ta
với tư cách Thiên Chúa, đó là lòng thương xót bao la của Ngài. Chắc chắn
đó là tình yêu của Thiên-Chúa-làm-người, tình yêu của
Ngôi-Lời-nhập-thể. Tuy nhiên, đó không là những con người sùng mộ nghĩ
về việc tách rời 2 tình yêu này như họ đã tách rời 2 bản tính trong Chúa
Giêsu. Ngoài ra, mặc dù chúng ta có thể muốn giải quyết phần này của
vấn đề bằng mọi cách, chúng ta có thể thấy rằng các ý kiến của các tác
giả đều khác nhau. Một số người cho rằng Trái Tim bằng thịt chỉ được
liên kết với tình yêu nhân loại, họ cho rằng đó không là biểu tượng của
Tình yêu Thiên Chúa. Hơn nữa, không riêng ngôi vị của Chúa Giêsu, do đó,
Tình yêu Thiên Chúa không là khách thể trực tiếp của lòng sùng kính
này. Một số khác cho rằng Tình yêu Thiên Chúa khác với
Ngôi-Lời-nhập-thể không là khách thể của lòng sùng kính này, họ tin như
vậy khi coi là tình yêu của Ngôi-Lời-nhập-thể, và họ không hiểu tại sao
tình yêu này cũng không thể được biểu tượng là Trái Tim bằng thịt, hoặc
tại sao lòng sùng kính này chỉ nên hạn chế là tình yêu sáng tạo.
Vấn đề này có thể được cân nhắc theo 3 phương diện: lịch sử, thần học và khoa học.
1. Nền tảng lịch sử.
Khi chấp thuận lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo hội không tin
thị kiến của Thánh Margaritta Maria Alacoque, coi đó là trừu tượng và
kiểm tra chính lòng sùng kính này. Thị kiến của Thánh Margaritta Maria
Alacoque có thể sai, nhưng lòng sùng kính này thì không sai, do đó xứng
đáng và vững chắc. Tuy nhiên, sự thật là lòng sùng kính này được truyền
bá chủ yếu do ảnh hưởng phong trào bắt đầu từ Paray-le-Monial; và trước
khi được phong chân phước, thị kiến của nữ tu Margaritta Maria
Alacoque đã được Giáo hội kiểm tra kỹ lưỡng, phán đoán những trường hợp
như vậy không liên quan tính không sai lầm của bà nhưng chỉ ngụ ý tính
chắc chắn con người đủ để bảo đảm tính tất nhiên của lời nói và hành
động.
2. Nền tảng thần học.
Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng như những thứ khác thuộc Ngôi vị của Ngài,
xứng đáng để chúng ta tôn thờ, nhưng điều này không như vậy nếu Ngôi vị
đó được coi là tách biệt và không liên kết với Ngôi vị này. Tuy nhiên,
trong “Auctorem Fidei” (1) năm 1794, ĐGH Piô VI đã xác nhận lòng sùng
kính này trong phương diện này để bác bỏ các lời vu khống của tà
thuyết Jansen (2). Mặc dù sự tôn thờ này dành cho Thánh Tâm Chúa Giêsu,
mở rộng vượt ngoài trái tim bằng thịt, hướng tới tình yêu mà Trái Tim
này là biểu tượng sống động và có ý nghĩa. Về điểm này, lòng sùng kính
không đòi buộc sự biện hộ, vì điều đó thuộc về Ngôi vị của Chúa
Giêsu được hướng tới, nhưng đối với Ngôi vị không thể tách biệt khỏi
thiên tính của Ngài. Chúa Giêsu thể hiện sống động điều tốt lành của
Thiên Chúa, của Tình Phụ tử yêu thương vô hạn, là khách thể của lòng
sùng kính Thánh Tâm, vì Ngài thực sự là khách thể của Kitô giáo. Cái khó
là sự hiệp nhất của trái tim và tình yêu, trong mối tương quan mà lòng
sùng kính giữa điều này và điều kia.
3. Nền tảng triết học và khoa học.
Về phương diện này cũng có sự không kiên định giữa các thần học gia,
không coi là nền tảng của mọi vật mà về vấn đề giải thích. Đôi khi họ
nói như thể trái tim là cơ phận của tình yêu, nhưng điểm này không có
nền tảng về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, đủ để nói rằng trái tim
là biểu tượng của tình yêu, và đối với nền tảng của biểu tượng,
sự-nối-kết-thực-tế hiện hữu giữa trái tim và các cảm xúc. Ngày nay, biểu
tượng của trái tim là một thực tế và mọi người đều cảm thấy trong trái
tim có một loại tiếng vang của tình cảm. Nghiên cứu sinh lý về tiếng
vọng này có thể rất thú vị, nhưng không cần đối với lòng sùng kính, vì
nền tảng của lòng sùng kính là sự kiện đã được kiểm chứng bằng kinh
nghiệm hằng ngày, sự thật mà nghiên cứu sinh lý xác định các tình trạng,
nhưng không đòi hỏi nghiên cứu này hoặc bất kỳ sự hiểu biết đặc biệt
nào với chủ thể của nó.
Hành động riêng của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu
Hành
động này được đòi hỏi bởi chính khách thể của lòng sùng kính, vì lòng
sùng kính tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta nên là lòng sùng kính
nổi trội về tình yêu đối với Chúa Giêsu. Lòng sùng kính này được thể
hiện bằng việc đáp lại tình yêu; mục đích của lòng sùng kính này là yêu
mến Chúa Giêsu, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng, để tình yêu đáp lại
tình yêu. Tuy nhiên, tình yêu của Chúa Giêsu thể hiện với linh hồn đạo
đức là tình yêu bị coi thường, nhất là qua Bí tích Thánh Thể, tình yêu
này đươc diễn tả trong lòng sùng kính này có tính đền đáp, và do đó có
sự quan trọng của việc đền tội, rước lễ để đền tội, và chia sẻ đau khổ
của Chúa Giêsu. Nhưng không gì có thể làm kiệt quệ sự phong phú của lòng
sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tình yêu là sự ấp ủ linh hồn, càng hiểu
biết tình yêu thì càng gắn bó với Chúa Giêsu, kết hiệp mật thiết vớ
Ngài, với Thánh Tâm Ngài.
Ý tưởng lịch sử về việc phát triển lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu
1.
Từ thời Thánh Gioan và Thánh Phaolô, trong Giáo hội cũng đã có những
cách sùng kính như lòng sùng kính Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu
thế gian đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài, và chính Chúa Giêsu
cũng yêu thương chúng ta đến nỗi hiến thân vì chúng ta. Nhưng, nói một
cách chính xác, đây không là lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì
không có lòng kính trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu như biểu tượng của Tình
yêu của Ngài dành cho chúng ta. Từ các thế kỷ đầu, phù ợp với gương của
của Thánh sử, cạnh sườn của Đức Kitô và mầu nhiệm Máu và Nước đã
được suy niệm, và Giáo hội chiêm ngưỡng những gì chảy ra từ cạnh sườn
của Chúa Giêsu, như bà Êva được tạo nên từ xương sườn của ông Adam.
Nhưng trong 10 thế kỷ đầu không có gì chứng tỏ điều đó, không có sự tôn
thờ nào dành cho Trái Tim bị thương tích ấy.
2.
Thế kỷ XI và XII, chúng ta thấy có những cách chứng tỏ lòng sùng kính
Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vết thương ở Trái Tim dần dần được đạt tới, và vết
thương đó là biểu tượng của tình yêu. Đó là trong không khí nhiệt thành
của Dòng Biển Đức hoặc Dòng Xitô, theo tư tưởng của Thánh Anselmô hoặc
Thánh Bênađô, rằng lòng sùng kính này tăng lên, dù không thể xác định
các văn bản hoặc những người sùng kính đầu tiên. Theo Thánh
Gertrude, Thánh mechtilde, và tác giả bản “Vitis mystica” (Cây nho Thần
bí) đã nổi danh, chúng ta không thể chắc chắn xác định ai đã có công
soạn “Vitis mystica”. Cho tới thời gian gần đây, lòng sùng kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu đã được quy cho Thánh Bênađô, nhưng cũng có thể quy cho
Thánh Bônaventura (“S. Bonaventura opera omnia”, 1898, VIII, LIII sq.).
Nhưng, có thể vậy, nó gồm một trong những đoạn ahy đã từng truyền cảm
hứng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thích hợp để Giáo hội có những
bài học về kinh đêm của ngày lễ. Đối với Thánh Mechtilde (qua đời năm
1298) và Thánh Gertrude (qua đời năm 1302), đó là lòng sùng kính tương
tự đã được chuyển thành nhiều lời nguyện và cách sử dụng. Điều đáng quan
tâm là thị kiến của Thánh Gertrude vào chính ngày lễ Thánh Gioan Tông
đồ, vì điều đó đã hình thành lịch sử của lòng sùng kính này. Được tựa
đầu vào ngực Chúa Giêsu, bà đã nghe nhịp đập của Thánh Tâm Chúa Giêsu và
hỏi Thánh Gioan rằng trong Bữa Tiệc Ly, ngài cũng nghe những nhịp đập
kỳ diệu như vậy mà sao ngài không nói gì. Thánh Gioan trả lời rằng mặc
khải này đã được giữ cho các hậu duệ, khi mà thế giới trở nên nguội
lạnh, họ cần nhen nhóm lại tình yêu này (Legatus divinae pietatis, IV,
305; Revelationes Gertrudianae, ed. Poitiers and Paris, 1877).
3.
Từ thế kỷ XIII tới XVI, lòng sùng kính này được truyền bá nhưng vẫn
không phát triển nhiều. Khắp nơi được thực hành bởi các linh hồn được
đặn ân, các thánh và các dòng tu như Dòng Phanxicô, Dòng Đa Minh, Dòng
Carthusians, v.v… có nhiều tấm gương về lòng sùng kính này. Vì thế, đó
là lòng sùng kính riêng của các dòng thần bí này. Không có gì khởi đầu,
chỉ có viêc truyền bá lòng sùng kính Năm Dấu Thánh, trong đó Dấu Thánh ở
Thánh Tâm được lưu ý nhất, và để xúc tiến điều đó, Dòng Phanxicô đã nỗ
lực nhiều.
4.
Khoảng thế kỷ XVII, lòng sùng kính tiếp tục phát triển và chuyển từ
lĩnh vực thần bí sang lĩnh vực khổ hạnh Kitô giáo. Điều đó cấu thành một
lòng sùng kính khách quan bằng những lời cầu nguyện được soạn sẵn và
các cách thực hiện đặc biệt mà giá trị và cách thực hành đó được ca
tụng. Chúng ta biết điều này nhờ các văn bản của các “sư phụ” về đời
sống tâm linh là Lanspergius đạo hạnh (qua đời năm 1539), Dòng
Carthusians ở Cologne, tu sĩ đạo hạnh Louis Blois (Blosius, 1566), Dòng
Biển Đức, và Tu viện trưởng Liessies ở Hainaut. Có thể kể cả Chân phước
Gioan Avila (qua đời năm 1569) và Thánh Phanxicô Salê, thế kỷ XVII.
5.
Từ đó, mọi thứ cho thấy rõ lòng sùng kính này. Các tác giả khổ hạnh nói
về điều đó, nhất là các tác giả Dòng Tên như Alvarez de Paz, Luis de la
Puente, Saint-Jure, và Nouet, vẫn có những thỏa thuận đặc biệt về vấn
đề này như tác phẩm nhỏ “Meta Cordium, Cor Jesu” của LM Druzbicki (qua
đời năm 1662). Trong số các nhà thần bí và các linh hồn đạo đức tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu có Thánh Francis Borgia, Chân phước Phêrô
Canisiô, Thánh Aloysiô Gonzaga, và Thánh Anphong Rodriguez, Dòng Tên; kể
cả Tôi tớ Chúa Marina de Escobar (qua đời năm 1633), ở Tây Ban Nha; Bậc
đáng kính Madeleine Thánh Giuse và Tôi tớ Chúa Margaritta Thánh
thể, Dòng Cát Minh, Pháp quốc; Jeanne de S. Mathieu Deleloe (qua đời năm
1660), Dòng Biển Đức, Bỉ quốc; Armelle ở Vannes (qua đời năm 1671);
thậm chí cả những người theo thuyết Jansen hoặc các trung tâm thế giới,
Marie de Valernod (qua đời năm 1654) và Angélique Arnauld; M. Boudon,
the great archdeacon ở
Evreux, Linh mục Huby, tông đồ ẩn dật ở Brittany, và đặc biệt là Bậc
đáng kính Maria Nhập Thể (qua đời tại Quebec năm 1672). Trực giác của
Thánh Phanxicô Salê, các bài suy niệm của Mẹ Huillier (qua đời năm
1655), các thị kiến của Mẹ Anne-Marguerite Clément (qua đời năm 1661),
và của nữ tu Jeanne-Bénigne Gojos (qua đời năm 1692) là những cái khởi
đầu. Linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu có ở khắp nơi, đó là nhờ lòng sùng
kính của Dòng Phanxicô đối với Năm Dấu Thánh và thói quen tốt lành của
Dòng Tên thường đặt linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu trên các cuốn sách và
trên tường nhà nguyện.
6.
Tuy nhiên, lòng sùng kính này vẫn là riêng tư cá nhân. Thánh LM Gioan
Eudes (1602-1680) đã công khai hóa để tôn kính bằng một Thánh lễ. LM
Eudes là tông đồ của Trái Tim Đức Mẹ, nhưng việc ngài tôn sùng Trái Tim
Vô Nhiễm có cả Thánh Tâm Chúa Giêsu. Dần dần lòng sùng kính Thánh Tâm
Chúa Giêsu trở nên lòng sùng kính riêng biệt, và ngày 31-8-1670, lễ
Thánh Tâm Chúa Giêsu lần đầu tiên được cử hành trọng thể tại Đại chủng
viện Rennes. Theo sau là ở Coutances vào ngày 20-10, vì thế ngày này có
liên quan lễ Thánh Eudes. Lễ này mau chóng lan rộng tới các giáo phận
khác, và lòng sùng kính này cũng xuất hiện tại nhiều dòng tu. Đây đó
cũng bắt đầu có lòng sùng kính này, khởi đầu từ Paray.
(7)
Chính Thánh Margaritta Maria Alacoque, một nữ tu khiêm nhường của Dòng
Thăm Viếng ở Paray-le-Monial, đã được Chúa Giêsu chọn để mặc khải những
mong muốn của Thánh Tâm Ngài và giao nhiệm vụ phổ biến cách sống mới đối
với lòng sùng kính này. Không có gì cho biết rõ rằng nữ tu đạo hạnh này
đã biết lòng sùng kính này trước những lần được mặc khải, hoặc là bà đã
chú ý tới điều đó. Các mặc khải này nhiều lắm, và những lần hiện ra
tiếp theo rất đáng chú ý: Chúa Giêsu hiện ra vào ngày lễ Thánh Gioan,
khi Ngài cho phép nữ tu Margaritta Maria Alacoque, như Ngài đã cho
phép Thánh Gertrude, được tựa đầu vào ngực Ngài, được nghe những nhịp
đập yêu thương của Ngài, được biết Ngài muốn bày tỏ lòng sùng kính Thánh
Tâm Chúa cho toàn nhân loại và loan truyền lòng nhân lành của Chúa.
Ngài bày tỏ cho bà điều này vào ngày 27-12, có thể là năm 1673. Ngài
hiện ra với lòng yêu thương và yêu cầu tôn sùng tình yêu cứu chuộc
(expiatory love) – rước lễ thường xuyên, rước lễ vào ngày Thứ Sáu Đầu
Tháng, và làm Giờ Thánh (có thể là tháng 6 hoặc tháng 7-1674); đó là lần
hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa
Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, khi Chúa
Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân laoị biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”,
và Ngài yêu cầu bà vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau
lễ kính Mình Máu Thánh, và nói bà cho LM Colombière biết, lúc đó
LM Colombière là bề trên Dòng Tên tại Paray.
Cuối
cùng, lòng sùng kính này là trách nhiệm loan truyền của Dòng Thăm Viếng
và các linh mục Dòng Tên. Vài ngày sau lần hiện ra quan trọng đó, tháng
6-1675, nữ tu Margaritta Maria Alacoque đã nói với LM Colombière, và
điều này được nhận biết là tinh thần của Chúa, LM Colombière đã tận hiến
cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, hướng dẫn nữ tu Margaritta Maria Alacoque
viết lại việc thị kiến, được dùng ở Pháp quốc và Anh quốc. Khi LM
Colombière qua đời, 15-1-1682, người ta phát hiện bản chép tay mà ngài
đã yêu cầu nữ tu Margaritta Maria Alacoque viết, cùng với vài nhận xét
về lợi ích của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bản giải thích lòng
sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được xuất bản tại Lyons năm 1684. Cuốn
sách nhỏ này được đọc nhiều, ngay cả ở Paray, dù vẫn có sự lầm lẫn về
Thánh Margaritta Maria Alacoque, người đã có công truyền bá lòng sùng
kính này. Moulins với Mẹ de Soudeilles, Dijon với Mẹ de Saumaise và nữ
tu Joly, Semur với Mẹ Greyfié, và thậm chí ở Paray, đã phản đối nhưng
rồi lại hòa nhập. Ngoài các tu sĩ Dòng Thăm Viếng, các linh mục, các tu
sĩ, và giáo dân đã tán thành, đặc biệt là một tu sĩ Dòng Phanxicô, hai
tu sĩ Dòng Thánh Margaritta Alacoque, và một số tu sĩ Dòng Tên, các linh
mục Croiset và Gallifet, đã hành động nhiều vì lòng sùng kính Thánh Tâm
Chúa Giêsu.
(8)
Sau khi Thánh Margaritta Maria Alacoque qua đời ngày 17-10-1690, lòng
nhiệt thành của những người này vẫn không giảm sút; ngược lại, năm 1691,
LM Croiset đã cho xuất bản cuốn “De la Dévotion au Sacré Cœur” (Về việc
tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu) để truyền bá lòng sùng kính này. Mặc dù
gặp nhiều trở ngại, sự trì trệ của Tòa thánh, năm 1693 đã có Huynh đoàn
Thánh Tâm Chúa (Confraternities of the Sacred Heart), năm 1697, đã giao
hội này cho các tu sĩ Dòng Thăm Viếng với lễ Năm Dấu Thánh (Mass of
the Five Wounds). Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu phát triển mạnh,
nhất là tại các dòng tu. Năm 1720, dịch bệnh ở Marseilles có thể là dịp
đầu tiên để tận hiến và công khai tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu bên
ngoài các cộng đoàn tu. Các thành phố khác ở miền Nam noi gương của
Marseilles, thế nên lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trở nên phổ
biến. Năm 1726, người ta xin ý kiến của Rôma về lễ Thánh Tâm, nhưng Rôma
vẫn từ chối vào năm 1729. Tuy nhiên, năm 1765, theo yêu cầu của Nữ
hoàng, lễ này chính thức được các giám mục Pháp đón nhận. Năm 1856, theo
yêu cầu của các giám mục Pháp, ĐGH Piô IX đã mở rộng lễ này cho Giáo
hội hoàn vũ bằng một nghi thức trang trọng. Năm 1889, lễ này được Giáo
hội nâng lên thành lễ bậc nhất. Việc tận hiến và chuẩn bị cho việc sùng
kính này. Nhất là từ năm 1850, các cộng đoàn và các nhà dòng được tận
hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, và năm 1875, việc tận hiến này được mở
rộng ra cả thế giới Công giáo. ĐGH vẫn không muốn can thiệp. Cuối cùng,
ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, và theo công thức ngài lập
ra, cả thế giới được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. ĐGH Lêô XIII gọi
điều này là “điều vĩ đại” trong triều đại giáo hoàng của ngài, điều mà
một nữ tu Dòng Chúa Chiên Lành ở Oporto (Bồ Đào Nha) đã nói rằng bà nhận
từ chính Chúa Giêsu. Bà là thành viên của cộng đoàn
Drost-zu-Vischering, và được biết đến là nữ tu Maria Thánh Tâm Chúa. Bà
qua đời vào đúng ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, 2 ngày trước khi tận
hiến, điều được hoãn lại vào Chúa nhật kế tiếp. Trong khi nói tới điều
này, chúng ta đừng quên nói tới lòng sùng kính riêng trong các linh hồn.
Vả lại, chúng ta đừng bỏ qua tính xã hội trong những năm sau. Nhất là
Giáo hội Công giáo Pháp bám sát điều này như niềm hy vọng mạnh mẽ nhất
của ơn cứu độ.
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ NewAdvent.org)
(*)
Auctorem Fidei là sắc chỉ của ĐGH Piô VI, vào năm 1794, lên án 85 luận
đề của Nghị hội phái Jansenist của Ý ở Pistoia, do giám mục Scipione
de’Ricci (1741-1810) cầm đầu. Trong các quan điểm khác bị lên án có
thuyết cho rằng các hội đồng giám mục cấp quốc gia có quyền cởi buộc độc
lập với Tòa thánh.
(1) Jansenism là thuyết của thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
(1) Jansenism là thuyết của thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét