Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

CHÚA NHẬT ĐẦU TIÊN





[Đó là buổi tối ngày mười sáu tháng tư năm Canh Dần (năm 30 Công Nguyên)]

 Mai Liên đi ra đi vào, đứng ngồi không yên. Mỏi mệt, chị lo âu nhìn qua cửa sổ hé mở. Trăng lên rồi. Trăng mười sáu mới mọc đỏ như máu; to, tròn như cái nia mẹ chị ngày xưa thường sẩy lúa mạch trước sân nhà ở một làng nhỏ bên hồ Tiberiad, miền Galilea. Từ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, trời đất tối tăm, ngày đêm âm u mù mịt. Đêm mười tư, rồi mới đêm rằm hôm qua thôi, mây đen che kín bầu trời, không một vì sao nào xuất hiện, trăng lặn trong mây… Vậy mà giờ đây trời trong vắt, không một gợn mây. Mặt trăng càng lên cao càng từ từ nhỏ lại, lững thững đi lên bầu trời, tung vãi triệu triệu ánh vàng, ánh bạc lên muôn vật, muôn loài.


Mai Liên dụi mắt. Chị không chịu nổi ánh trăng kia. Với chị, màu trăng vàng kia chỉ là màu vàng lá úa, hay thậm chí màu vàng da tử thi. Vì lòng chị đang ngổn ngang trăm mối. Và chị đang sợ.

Chị chép miệng:

- Ngày mai… Biết ra sao ngày mai!

Ngày mai chưa biết ra sao. Chứ còn ngày hôm qua thì chị biết rõ lắm, rõ như bàn tay mình. Chị biết rằng chị đẹp. Nhờ cái nhan sắc trời cho ấy, lại hát hay múa giỏi, chị nổi tiếng trong giới quý tộc, dần dà chị trở thành một con đĩ hạng sang, có thương hiệu chất lượng cao. Chị đã làm cho bao nhiêu gã đàn ông mê đắm chị. Sĩ quan Roma có, thuyền trưởng có, tư tế có, Phariseu có… Ai đến với chị cũng được, miễn là có tiền, thật nhiều tiền. Chị làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu đứa con mất cha, bao nhiêu người vợ mất chồng, bao nhiêu người đàn ông tán gia bại sản… Nhưng chị cô đơn. Không một ai hiểu chị, thương yêu chị thật lòng. Xã hội ruồng bỏ chị, công an ghi tên chị vào sổ bìa đen, giáo quyền dứt phép thông công chị. Đám phụ nữ căm ghét chị đã đành. Đám đàn ông thì cần thân xác chị để thỏa mãn dục vọng thấp hèn của họ. Nhưng họ khinh bỉ chị, xếp chị vào hạng người dưới đáy xã hội, hạng người ô uế, tội lỗi. Theo Lề luật, chị có thể bị ném đá bất cứ lúc nào. Chị không có tình yêu. Có ai yêu thương chị kia chứ. Mà thật ra chị có thương yêu ai bao giờ đâu.

Thế là chị trở thành kẻ vong thân. Đời chị xuống dốc không phanh. Chị bán linh hồn cho quỷ dữ. Bảy con quỷ Kiêu Căng, Bủn Xỉn, Dâm Ô, Oán Hờn, Say Sưa, Ghen Tị và Nuông Thân được sai đến thống trị tâm hồn chị, dìm chị xuống tận đáy trụy lạc. Chị trở thành nô lệ cho tiền tài, nô lệ cho xác thịt của chị, nô lệ cho tội lỗi. Tất cả mọi dự phóng thời thanh xuân của chị bị phá sản. Đời chị sụp đổ hoàn toàn, vô phương cứu chữa.

Nhưng rồi chị gặp Chúa. Ngài tha thứ cho chị. Ngài đã xua đuổi bảy con quỷ dữ ra khỏi chị. Ngài đã trả lại phẩm giá con người cho chị. Và Ngài đã giải phóng toàn diện con người chị, Đáp lại, chị cũng đã hết lòng thống hối ăn năn… Nói đâu xa, mới hơn tuần lễ nay chứ mấy, hôm ăn mừng Lazaro sống lại, chị đã không cầm được nước mắt. Chị khóc như mưa để lấy nước mắt rửa chân Chúa. Cầm lòng không được, chị còn đổ lên chân Ngài chai dầu thơm giá ba trăm đồng (số tiền tương đương một năm lương của một công nhân bậc trung ở Việt Nam 21 thế kỷ sau), rồi chị còn xõa tung mái tóc óng ả của chị để lau chân Ngài. Chị đã chạm đến Ngài. Chị đã yêu và được yêu. Chính tình yêu của Ngài đã thanh tẩy chị, đã trả lại cho chị sự trinh bạch còn hơn xưa, như bông huệ ngoài đồng.

Hy vọng đã vươn lên trong chị như một lằn tên.

Nhưng rồi Giuda phản bội, bán Chúa. Tòa án tôn giáo toa rập với tòa án chính trị, đạo đời đồng lõa với nhau, xét xử Ngài qua loa, lấy lệ. Chưa đầy hai mươi bốn giờ đồng hồ, họ kết án tử hình, đóng đinh Ngài trên thập giá. Chúa chết rành rành, và được mai táng rành rành ra đó.

Hy vọng đã tắt ngúm trong chị cũng như một lằn tên, rơi tõm vào trong mặt nước ao tù…

Có tiếng động. Có thể là tiếng lá cây rụng khe khẽ giữa đêm thanh vắng. Có thể là tiếng sao băng chạm vào ánh trăng. Nhưng cũng có thể là tiếng chân người. Rồi im lặng… Rồi có tiếng gõ cửa:

- Cốc cốc… cốc… cốc cốc…

Mọi người run rẩy lắng nghe. Hai tiếng liền, một tiếng rời, hai tiếng liền, đúng với mật hiệu định trước.

- Cốc cốc… cốc… cốc cốc…

Tiếng gõ cửa lần thứ hai, vẫn đúng với mật hiệu định trước.

Mai Liên rút thanh cài ngang. Cửa hé mở. Hai người đàn ông, đầu tóc lấm lem, áo quần bê bết bụi, lẻn vào như một cơn gió, nói không thành tiếng:

- Chúng… tôi… đã… đã… thấy…

Mai Liên vội vàng đem đến cho họ hai chén nước nho ép có pha một chút mật ong rừng, làm sẵn:

- Hai anh uống đi, nào uống đi!

Rồi chị đưa cho mỗi người một chiếc khăn nóng được tẩm vài giọt dầu thơm:

- Hai anh lau mặt đi. Rồi anh Lê Pha! Anh hãy kể cho chúng tôi nghe, các anh đã thấy gì?

Có vẻ như Lê Pha đã hoàn hồn, bình tĩnh trở lại:

- Khoảng cách từ Gia Liêm tới Emmau là mười một cây số, phải không? Chị Mai Liên! Chúng tôi đi được chừng hơn một cây số thì gặp Chúa, vậy mà không nhận ra, có chết không kia chứ! Ngài đi với chúng tôi suốt mười cây số còn lại, hơn hai tiếng đồng hồ đi bộ. Vừa đi, Ngài vừa nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng tôi, làm cho lòng chúng tôi nóng lên như lửa đốt. Thế mà chúng tôi vẫn không nhận ra Ngài. Tệ thế đấy…

Mai Liên ngắt lời:

- Còn tôi, sáng nay gặp Ngài, tôi cứ tưởng là người làm vườn.

Lê Pha nói tiếp:

- Đến khi Ngài bẻ bánh ban Thánh Thể, thì mắt chúng tôi sáng lên, trí khôn mở ra, chúng tôi nhận ra Chúa. Thế là chúng tôi bán sống bán chết chạy về đây báo tin cho Mẹ và các anh chị hay.

Họ đi vào phía trong nhà. Chưa ai ngủ. Người ta tụm năm tụm ba bàn tán với nhau quanh việc Chúa chỗi dậy. Phêrô thấy ngôi mộ trống thì chỉ ngạc nhiên. Tôma thì nhất định không tin nên đã bỏ đi. Các Tông đồ gặp Chúa thì tưởng là ma. Các môn đệ thất vọng, người thì về quê, người đi chỗ này chỗ khác. Có mấy ai tin Ngài đã sống lại. Mai Liên hoang mang tột độ. Chúa đã hiện ra với chị, nhưng có thật là Chúa không? Chị chẳng dám tin vào tai vào mắt mình, vào bản thân mình.

Rồi chị nhìn thấy Mẹ và Yoan. Từ chiều Thứ Sáu, Mẹ và Yoan ở bên nhau như hình với bóng. Anh chăm sóc Mẹ, còn Mẹ thì nâng đỡ, ủi an anh theo đúng như di ngôn của Chúa trên thập giá.

Mai Liên hỏi:

- Yoan! Cậu nghĩ sao?

Anh trả lời nhỏ nhẹ, rõ ràng, tự tin như nói với chính mình:

- Sống với Chúa mấy năm, em biết tính Ngài. Sáng nay ra mộ, nhìn khăn liệm, khăn đội đầu, dây băng được cuộn, xếp gọn gàng đâu ra đó là em biết rõ Ngài sống lại rồi. Có ai cẩn thận, chu đáo, ngăn nắp như Ngài đâu.

Mai Liên cười thật tươi, thật rạng rỡ. Chị quay sang Mẹ, Chị biết trong căn nhà này, Mẹ là nơi nương tựa cuối cùng của tâm hồn chị. Chị chưa kịp mở lời thì Mẹ đã dịu dàng nói:

- Không gặp Chúa thì Mẹ cũng hằng tin Chúa sống lại từ cõi chết. Hôm nay Mẹ đã gặp Ngài từ khi gà chưa gáy sáng. Mẹ đang suy niệm điều ấy trong lòng…

Nghe Mẹ nói, đôi mắt Mai Liên ứa lệ. Mới cười đấy rồi khóc đấy, chị nhìn quanh và thấy ai cũng vui mừng, xúc động đến rưng rưng. Lời Mẹ xóa tan mọi nghi ngờ.

Mẹ gọi mọi người:

- Hãy lại đây! Các anh chị đừng hoang mang. Hãy đến với Mẹ và cầu nguyện với Mẹ.

Mọi người quỳ xuống, ngước mắt lên, bắt đầu cầu nguyện và suy niệm từng chữ, từng câu:

“ Lạy… Cha… chúng con…, ở… trên… trời…

Chúng con… nguyện… danh… Cha… cả… sáng…

Nước… Cha… trị… đến…

Ý… Cha… thể…hiện… dưới… đất… cũng… như… trên… trời…”

Rồi Mẹ “chia sẻ Lời Chúa”:

- Các anh chị ạ! Ba mươi mấy năm trước, khi sứ thần Gabriel truyền tin, Mẹ đã cúi đầu xin vâng Ý Chúa. Mọi biến cố trong đời, Mẹ đều ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Các anh chị cũng hãy ghi nhớ, suy niệm, vâng phục, cầu nguyện, sống và yêu thương hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn; cho Danh Cha được tỏ hiện, Ý Cha được thực thi bắt đầu ngay ở thế gian này…

Mai Liên tha thiết nhìn Mẹ. Thế là chị đã vững tin, không còn nghi ngờ, lo sợ. Đúng hơn là chị không còn nô lệ sự sợ hãi, và không còn sợ hãi sự nô lệ nữa. Chị nói rất nhỏ, riêng với Mẹ, nhưng mọi người đều nghe thấy. Tiếng chị trong vắt như thuỷ tinh, thẩm thấu vào từng thớ thịt, rung động từng sợi thần kinh, choáng ngợp con tim mỗi người:

- Mẹ ơi! Đã vượt qua rồi những ngày của quyền lực tối tăm. Hôm nay là ngày Chúa sống lại, là ngày của Chúa, là Chúa Nhật, Chúa Nhật đầu tiên.
   ngulãonhân

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang