31. Chỉ cần có một người cũng đủ để chúng ta đi truyền giáo
32. Hãy mở rộng trái tim của mình để cứu các linh hồn
33. Truyền giáo bằng điện thoại
34. Thanh niên bệnh nhân nầy có ích cho con như hai cha phó.
35. Người ta trở lại một cách không ngờ!
36. Dấu chỉ thứ năm của Giáo Hội là bị bắt bớ
37. Hai cánh tay của Môisê giơ lên trời cầu nguyện
38. Gia đình đọc kinh sáng đã cứu được một Đức Cha
39. Cha học hành chưa dủ !
40. Sơ đòi bao nhiêu?
Đức Giáo Hoàng Piô XII nói với
các vị thừa sai sắp lên truyền giáo trên Bắc Cực:
“Nếu trên đó, chỉ có một người
cần được rao giảng Phúc Âm, thì cũng đủ để cho các con đi lên đó.”
Chị thánh Têrêxa Hài Đồng
nói: “Tôi là trái tim của Giáo Hội.”
Không phải chị thánh nầy muốn
nói chị là trung tâm điểm của Giáo Hội đâu. Trái tim của Giáo Hội phải là một
trái tim luôn luôn khắc khoải tìm đủ cách để đem các linh hồn về cho Chúa, hầu
thực hiện lời Chúa truyền: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.”
Chị thánh Têrêxa nầy ý thức
rằng mình thuộc về Giáo Hội thì trái tim mình cũng phải luôn luôn yêu mến các
linh hồn, luôn luôn khắc khoải đem Chúa đến cho các linh hồn, đó là khắc khoải
truyền giáo. Vì thế, chương trình của vị thánh bốn mạng các xứ truyền giáo nầy,
là : “ Trong quả tim của Giáo Hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu... Lúc đó, tôi
sẽ là tất cả !”
Năm 1939, tại Nữu Ước, một tối
kia, cha Hall nghe một cú điện thoại. Lạ thay, người đang nói với cha là một
người mà cha chưa hề quen biết. Ông nói ông đang có chuyện buồn trong gia đình.
Cho rằng ông nầy đã quay lầm
số điện thoại của mình, cha Hall định xin lỗi ông và gác máy.
Bỗng được ơn Chúa soi sáng,
cha Hall cầm chặt lấy cây Thánh Giá trên bàn viết và dịu dàng nói tiếp với người
đàn ông đang gọi mình: " Xin ông cứ vui lòng nói, tôi lắng nghe ông nói
đây”.
Sau một tiếng đồng hồ tâm sự,
ông khóc nức nở và cám ơn cha Hall rối rít.
Và từ đó, bắt đầu một cuộc
truyền giáo mới: truyền giáo bằng điện thoại. Mỗi tuần, cha Hall được gọi điện
thoại đến ba ngàn lần.
Cha Hall được Giáo Quyền cho
phép truyền giáo qua điện thoại để đem Lời Chúa đến cho bất kỳ ai cần được an ủi,
giải sáng và hướng dẫn bằng phương tiện truyền thông đại chúng nầy.
Trong một giáo xứ ở Ý, sau
Tuần Phúc Chuyến thành công rực rỡ, cha sở mời cha giảng Phúc Chuyến đi thăm
cha phó của ngài.
- "Cha phó họ nhánh
sao?"
- "Không, cha phó trong
họ con."
Cha sở và cha giảng Phúc
Chuyến đi vào nhà của một thanh niên hai mươi tuổi đang nằm trên giường bệnh, bất
toại.
Cha sở hỏi: "Phêrô, con
có khỏe không?"
- "Thưa cha, con luôn
khỏe theo như ý Chúa muốn."
Cha giảng Phúc Chuyến hỏi:
"Con có đau không?"
- "Thưa cha, con không
nghĩ đến điều đó. Còn có những kẻ đau hơn con nhiều."
Rổi hướng về cha sở, bệnh
nhân hỏi: "Thưa cha, ông đó đã đi xưng tội chưa?"
- " Đi rồi, ông đó làm
gương tốt lắm!"
- " Vậy thì con sẽ dâng
ba ngày sống của con để cám ơn Chúa Giêsu. Còn Phúc Chuyến có tốt không, thưa
cha ? "
- "Tốt lắm! Có cha giảng
đây làm chứng: kết quả lạ lùng!"
- "Vậy thì con sẽ dâng
những đêm không ngủ trong tuần nầy để cám ơn Chúa quá tốt lành đối với giáo xứ
chúng ta. Thưa cha, còn có gì lạ không?"
Cha sở đưa ra một danh sách
các ơn cần phải xin cho giáo xứ. Thanh niên bệnh nhân đọc nhỏ và nói: "Đây
là công việc của con. Con sẽ cầu nguyện và hy sinh thật nhiều để xin Chúa ban
những ơn nầy."
Cha sở hỏi: "Con có cần
gì không?"
Bệnh nhân nhắm mắt nói nhỏ:
"Thưa cha, không. Xin cha chúc lành cho con".
Trên đường về nhà xứ, cha sở
vui vẻ nói với cha giảng Phúc Chuyến: "Thanh niên bệnh nhân nầy có ích cho
con như hai cha phó. Anh ta là thu lôi của giáo xứ con".
Truyền giáo chẳng qua là nói
lên cho mọi người biết họ được Thiên Chúa yêu thương, và biết chứng minh điều nầy
trong cuộc sống. Nếu người ngoài công giáo thấy người công giáo thực thi luật
yêu thương bác ái thật của Phúc Âm đối với họ, thì thế nào họ cũng có thiện cảm
đối với Giáo-Hội, và một ngày kia, thế nào cũng có người xin trở lại. Câu chuyện
cảm động sau đây chứng minh điều nầy. Câu chuyện nầy do linh mục Cluny, cha sở
giáo xứ Taejou ở Nam-Hàn, kể.
Giáo dân Lôrăng, 26 tuổi, đến
nói cho ngài biết anh ta vừa rửa tội được một người ăn mày chết ngoài chợ.
Khi được tin nầy, các bạn
thanh niên công giáo trong giáo xứ liền hy sinh góp tiền lại để mua đồ liệm,
đóng hòm.
Anh Lôrăng xin cha sở cho
phép đem quan tài vào nhà thờ, cầu nguyện một đêm, sáng mai làm lễ an táng và
đưa đám. Cha sở rất bằng lòng trước sáng kiến đầy bác ái yêu thương của con
chiên mình.
Nghe được tin nầy, nhiều
giáo dân đến canh thức tối cầu nguyện.
Sáng mai, nhiều giáo dân
trong giáo xứ đi dự lễ an táng và đi đưa đám.
Vài ngày sau, - cha sở nói -
khi tôi đến một làng cách xa giáo xứ tôi ba mươi cây số, có hai ông lão đến gặp
tôi và nói lên câu làm tôi bỡ ngỡ: "Sự bác ái và kính trọng của người công
giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội
Công giáo đã làm cách đây mấy ngày đối với người chết nơi chợ. Vì thế, chúng
tôi muốn xin trở lại Đạo Công giáo."
Và cha Cluny kết luận:
"Thật là tuyệt diệu ! Các thanh niên trong giáo xứ của tôi đã làm cho Giáo
Hội được thiện cảm và được hấp dẫn nơi con mắt của những người ngoài Công giáo
và ngay cả nơi con mắt của những người Công giáo ".
Trong một buổi triều yết
chung, Đức Giáo Hoàng Piô IX hỏi một chủng sinh đứng gần:
- “Giáo Hội có mấy dấu chỉ?
"
- " Tâu Đức Thánh Cha,
Giáo Hội có bốn dấu chỉ: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền
".
Đức Thánh Cha hỏi tiếp:
- " Giáo Hội còn có dấu
chỉ nào nữa không?"
Không ai trả lời được câu hỏi
của Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha liền trả lời:
- "Dấu chỉ thứ năm của
Giáo-Hội là bị bắt bớ. Các con hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu phán: "Như người
ta đã bắt bớ Thầy, người ta cũng bắt bớ các con. Các con sẽ bị người ta ghét bỏ
vì Danh Thầy".
Khi nhấn mạnh về giá trị và
hiệu quả của sự cầu nguyện, Bossuet nói rằng hai cánh tay của Môisê giơ lên trời
cầu nguyện đã tiêu diệt được nhiều địch quân hơn những binh sĩ Do Thái đang chiến
đấu mgoài mặt trận.
Làm sao cho giáo dân có tinh
thần cầu nguyện trong gia đình là điều rất quan trọng để giúp giáo dân giữ vững
đức tin.
Kinh nghiệm cho thấy nhiều
giáo xứ không có linh mục nhưng đã giữ vững được đức tin suốt nhiều năm nhờ sự
đọc kinh cầu ngụyện tối sáng trong gia đình.
Trong thời kỳ Bắt Đạo tại Việt-Nam,
Đức Cha Bình (Sohier) chạy trốn ban đêm, và nhờ nghe một gia đình công giáo đọc
kinh sáng khi rạng đông mà xin vào núp, nên đã được thoát chết.
Thánh Salêsiô ví sự thông
thái như con mắt của linh mục để thấy đường mà đi và để dẫn đường cho kẻ khác
thấy mà đi.
Công Đồng Tôlêđô, đầu thế kỷ
VII, khẳng định rằng: "Linh mục phải là kẻ không được ngu dốt”.
Muốn có một nền giáo lý vượt
trổi, linh mục nào cũng cần phải hằng ngày học hỏi thêm luôn. Và điều nầy, Đức
Giám Mục giáo phận phải hết sức nâng đỡ các linh mục trong giáo phận phận ngài
thực hiện cho được, kẻo các linh mục của ngài bị tụt hậu.
Đức Hồng Y Tổng Giám Mục
Mercier bắt buộc các linh mục trong giáo phận ngài mỗi ngày phải ngồi vào bàn
làm việc trong ít nữa là hai tiếng đồng hồ để học hỏi thêm, để nghiên cứu thêm.
Đức Giám Mục Bossuet tuy rất
thông thái, nhưng ngày nào cũng ngồi trong phòng làm việc để học hỏi thêm. Ngài
thường nói chơi với bổn đạo: "Cha học hành chưa đủ!". Vì thế, một
giáo dân kia thương hại ngài và ao ước: "Chớ gì giáo phận chúng ta có một
Đức Cha học hành cho đủ. Đức Cha chúng ta học hành chưa đủ, nên ngày nào, ngài
cũng phải học thêm!”.
Linh mục chúng ta hãy lợi dụng
thời giờ để học hỏi thêm, tìm tòi thêm, nghiên cứu thêm. Thời giờ rất quý báu.
Dầu đã đầu tư rất nhiều vào việc học, linh mục cũng không bao giờ được tự mãn,
tự cho những sự hiểu biết của mình là đủ. Linh mục nào cũng hãy tự nhủ: điều
tôi biết, thật là quá ít; điều tôi không biết hoặc chưa biết, thật là mênh
mông, bao la!
Một du khách Thệ Phản người
Mỹ du lịch qua Algérie và đi thăm một nhà thương phung.
Thấy một nữ tu người Mỹ làm
việc tại nhà thương nầy, ông nói với người đồng hương:
- “Một vạn đôla mỗi năm làm
việc tại đây, tôi cũng không muốn.”
Nữ tu trả lời một cách bí mật:
- “Ông nói có lý. Nhưng đối
với tôi, trả cho tôi mười vạn đôla mỗi năm, tôi cũng không chịu.”
- “Thế thì sơ đòi bao nhiêu
? ”
- “Thưa ông, tôi không đòi
gì cả.”
- “Thế thì tại sao sơ lại có
mặt giữa những người ghê tởm nầy?”
Vị nữ tu truyền giáo cầm lấy
cây Thánh Giá mang nơi mình và nói:
- “Ông thấy Chúa Giêsu chịu
đóng đinh không? Tôi làm mọi việc ở đây vì yêu mến Ngài. Trong các vết thương của
những người phung hủi đáng thương nầy, tôi đặt những vết thương của Chúa Giêsu
trên thánh giá vào đó. Để làm được những công việc nầy ở đây, mỗi ngày tôi cần
phải được rước Chúa Giêsu vào lòng; nếu không, tôi không đủ sức chịu đựng cuộc
sống ghê tởm ở đây. ”
Linh mục
Emanuel Nguyễn Vinh Gioang (Nguồn vietcatholic.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét