Lời Chúa: Đn. 7, 13-14; Kh. 1, 5-8; Ga. 18, 33b-37
Tin Mừng Ga 18,33b-37
Khi
ấy, quan Phi-la-tô nói với Đức Giê-su rằng: “Ông có phải là vua dân Do-thái
không?” Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với
ngài về tôi?” Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của
ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” Đức Giê-su trả lời:
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng nay
Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”
Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi.”
► DOWNLOAD \"Các bài suy niệm & chú giải Tin Mừng Chúa nhật 34 TN - Chúa Kitô Vua, năm B\" (37)
► DOWNLOAD \"Các bài suy niệm & chú giải Tin Mừng Chúa nhật 34 TN - Chúa Kitô Vua, năm B\" (37)
1. Kitô Vua
Trong lịch
sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành
quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền
hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không
còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng
hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với
cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp
Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa
bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ
hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa
tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi
đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì
Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với
Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian
này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng
quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn
nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở
trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau?
Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước
tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các
môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước
Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi
vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn
uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có
nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa
lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần
gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa,
mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của
Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người
tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những
ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương
mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác
tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình
xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức
Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng,
không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi
khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết
trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy
chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc
Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây
thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn
cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của
vương quốc mở ra cho mọi người.
2. Vua tình yêu
Ngày nay, người
ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng
hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các
loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng
đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua,
thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết
mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì
Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy,
không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả
khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một
đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng
sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút
bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến
thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông
thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ
nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm
khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không
nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề
cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được
phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu
thương và phục vụ.
Và để cho việc
yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính
cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều
răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới
răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu
thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng
kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc
yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu
đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế.
Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa
Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là
đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực,
trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót
như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm
người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần
ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết,
điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu
của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
3. Một vị vua khác thường – Guy Marin
Vua chúa trần
gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô
không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang
hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy;
Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát,
bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ
có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời
này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm
chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể
dùng phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của
Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu
Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự
xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta… “vương quốc Ngài sẽ vô
cùng tận”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức
Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt
ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các
sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với
quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối.
Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu
lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền,
trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài
thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì
Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa
Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng
nhân cho sự thật.
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: “Tôi đến để làm chứng
cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của
Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng
lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi
quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả,
vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu
chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối
với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa
đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là
Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài
lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài
biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi
Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối
với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa
Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu,
bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là
những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc
bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt
ra vì con người…”. Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa
Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa.
Làm chứng cho
sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết.
Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm
chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc,
Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho
các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta
nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc
đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi cả”. Kinh sư này có lý, Chúa Giêsu
là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con người.
Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ các
giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị bách hại còn hơn
là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác
khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi
con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh
vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình
đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô
hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối
quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm
chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta
sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
4. Ai là vua của bạn? – Charles E. Miller
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’)
Vào năm 1925 Đức
Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày
chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là
Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập
một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ
nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng
Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận
biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công
đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ
như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn
còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến”. Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự
hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh
của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn
làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là
những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy
ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi
người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người
ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng
như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa”. Cuộc khủng hoảng vào năm
1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn
khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể
là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của
ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng
hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả
khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những
năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố
chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ
thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới
sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức
Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế
tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi
hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo
lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống.
Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến
thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm
nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước
Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn
con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm
bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối
còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng
ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời,
một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân
sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự
trị mãi mãi.
Một lời
nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật
hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo
hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ
trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài
xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài
xin sự trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con trân
trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người.
Chúng con nhận
biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự thánh
thiện và ân sủng.
Chúng con ước
mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại
cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình
yêu bình an.
5. Dung mạo của vương quyền Đức Kitô
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
– Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm
hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô
lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ
khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng ‘vua’, ông nghĩ đến một vương quyền chính
trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người.
Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng
rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình
ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng
Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của
người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc
về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết
án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến.
Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa
ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút
nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm
quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy
nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc
tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý
này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định xong
điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh
điều gì?
1)
Vương quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải
là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng
cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa ‘sự thật’ ở đây. Trong
Phúc Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp
với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con
người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn
được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng
trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng
cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ
một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới
một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ
Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều
phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón ‘lời chứng’,
nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm
ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy ‘thuộc về
sự thật’ là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem
đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở
ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc
Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa
chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó
trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời
sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với
Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại
nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình
yêu.
6. Vua Sự Thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu thật
là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi,
muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi.
Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường,
cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế
mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ
đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng
còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng
phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền
lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này
để làm chứng cho sự thật.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần
gian. Khi tự nguyện
chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc
đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của
Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng
dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận
kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không
thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống
trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất
cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên
ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm
thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền
năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng
từ thành công ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả
bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ
đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian
mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu
không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài
xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn
lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua
chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung
hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và
vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên
Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi
vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen
ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức
Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà
Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu
lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của
người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức
Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức
Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù
đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã
chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng,
Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những
ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến
thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần
gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta
mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự
là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu
là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước
Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý
CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu
cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu
cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu
cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống
trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
(Trích trong ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’)
Không còn nữa
hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày
nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không
ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi,
vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có
những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ
“Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự
hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa
khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ
là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm
tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến
cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa
Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý
cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã
không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi
khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều
đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng
kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô
không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có
lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh
của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng
trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ
hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là
Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình
còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn
thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người
vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô
không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên
Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải
giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới
vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên
giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa
Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất
cả.
Người là Vua
phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi
chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên,
Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.
Và nếu theo
nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây
trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các
vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất
cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả
nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô
tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính
trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái
nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng
thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là
Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu
đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian,
nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó
trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo
của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm
vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho
cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng
qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật
tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa
Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử
Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới
trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an
bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn
và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi
sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính
Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con
Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời
của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể,
Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào
mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận
cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được
khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người
Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi
Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng
chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh.
Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và
làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết
để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên
thành.
Thảo nào vương
quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà
thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà
bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc
trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không
phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng
cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát
và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy,
bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống
trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm
Vua muôn vua.
3) Ai
thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người
làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là:
“tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử
hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào
vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã
ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ
khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân
trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận
mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng
theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội
và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể
nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn
dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường
nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc
Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian
tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
Càng không thể
nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một
cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm
chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng
nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một
cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc
về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn
lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời,
chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà
cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và
tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương”
Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt
động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng
Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển,
đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những
khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió
họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng
dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn
đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong
Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy
Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào
Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để
khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng
nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
8. Đức
Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Truyện cổ
Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa
khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải
sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực
của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ.
Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần
dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia,
có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh
săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao,
và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy
trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh
dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống
đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ
ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần
dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em
thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng
Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta.
Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để
phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm
nay, khi bị Philatô tra hỏi: “Ông là Vua ư?” Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ
nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua”. Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây hiểu lầm
mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước của Ngài.
Ngài “sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài… trong Nước của Ngài” (Mt 16,27-28).
Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”
(Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh “khi Ngài đến trong Nước của
Ngài”, Chúa Giêsu đã không từ chối: “Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi”
(Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư
cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa
Giêsu là Vua vũ trụ.
Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18).
Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài
vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại.
Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ
không ngừng. “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm
quyền thì tự xưng là ân nhân… Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn
hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như
một người hầu bàn” (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như
một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa
Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng
cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy,
mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14).
Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính
đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền
bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng
sống.
Cử chỉ
phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên
thập giá. Cần
chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài.
Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: “Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái”,
được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một
vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng
gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ
có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền
lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả.
Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu
trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để
khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là con
đường dẫn đến vinh quang. “Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên với Ta” (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ
nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng
không ngừng nhờ có những người dám “đứng về phía sự thật” và “nghe được tiếng
Ngài mời gọi” (Ga 18,37).
Nước của Vua
Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy “ở trong thế gian này” nhưng “không
thuộc về thế gian này”. “Ở trong thế gian”, nghĩa là không xa cách, nhưng hòa
quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp thức ăn. Nhưng “không thuộc
về thế gian này”, nghĩa là không chạy theo những thần tượng của thế gian: quyền
lực, tiền của, khoái lạc… Thế gian sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và
cũng chống lại quyền lực của con người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây
dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện:
“Xin cho Nước Cha trị đến”, được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành
tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là
Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước Chúa Kitô là một. “Vào lúc tận thế, Chúa Kitô
sẽ trao lại Nước cho Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực
sự dữ, để cuối cùng, Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người” (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em
thân mến,
Chúa Kitô, một
vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn
của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang
khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món
quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực
là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho
đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị.
Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền.
Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của
Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
9. Nước Cha trị đến – Gm. Arthur Tonne
Thánh
Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông
minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng
làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối
với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang
trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài
còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được một
quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại,
đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp
ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả
tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay chúng
ta tôn thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với
Philatô: “Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian”. Chúa Giêsu nhận rằng
Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người không phải
là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu
có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu?
Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các
câu hỏi ấy.
“Người hiến
thân trên thập giá… Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại… Người đã
quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa. Một
vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một vương
quốc công bình, tình thương và hòa bình”.
Mỗi lần chúng
ta hành động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng,
sự công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm
cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
* Sự thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn hãy nói sự
thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
* Sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những
kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để
ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
* Thánh
thiện và ân sủng:
Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ: Tham
dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
* Công
bình: Khi chúng ta
cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng ta
bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình
yêu: Mỗi lần chúng
ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt
việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa
bình: Bạn hãy cố gắng
xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa bình
của Chúa Kitô. “Nước Cha trị đến” chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha. Trong
ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá nhân và
cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là
Vua.
Xin Chúa chúc
lành bạn.
10. Tôi là Vua – Noel Quesson
Đức Hồng Y
Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của
vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn
hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất,
các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế
là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục
vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới
Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục
và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã
nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta
đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông
có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua
có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một
vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị
và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên
Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến
thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa
Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt.
Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà
không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm
ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu
không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ
đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã
cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta
mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực
là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa đến để thiết lập một vương quốc
nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ
xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men… như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa
màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên
không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20;
58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho “Nước Chúa trị đến”.
Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. “Người cho
mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng
như cho các tín hữu” (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người.
Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi:
“Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với
quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: “Ông nói đúng, tôi sinh ra để
làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói
khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai
trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc
Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần
dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị
những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc không
tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát
khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức
Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô… Nhưng trước hết
là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã
hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là
Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa,
để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất
diệt. Amen.
11. Thuộc về Chúa
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về
thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước
Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước
Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước
thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm
hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng,
đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như
thế nào?
Chúng ta không
thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu
là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu
của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo
tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống,
thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh
nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để
ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin
Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô
là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh
em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ
chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên
ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong
thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ
quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ
giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là
những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một
loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với chúng ta thì khác. Giữa một xã
hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người Kitô
hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở
nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm cho
cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở
nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh sáng chiếu
trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng
mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể cẳm hóa được
thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống
này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng
lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi
chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với
chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có
thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được
hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm
lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi
tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu
trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những
người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt
thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng
ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo,
nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là
những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối
bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ
dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm
và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương
quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước
Trời.
12. Vua vĩnh cửu
Trong một ngày
lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu
bằng những tiếng chúc tụng và ca khen “Chúa Kitô muôn năm”. Khi tung hô ai như
vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời
chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một
cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta
nói: “Chúa Kitô muôn năm”, chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời
kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả
trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một
nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng
như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian
Morton có kể lại câu chuyện sau đây:
“Một nữ tu
trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng.
Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang
đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình
lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị
gặp một người”. Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái
giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ
xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy
nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa
ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ
gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu”.
Chúng ta cần mời
gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở
thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với
chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi
người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện
diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn
năm! Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
13. Vạn tuế Vua Giêsu
Cách đây hai
ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt
cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái,
những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận
diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới
sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước
bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối
nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng
tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập
quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ
luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất
nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô
song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện
đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi
đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước
Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt
kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như vậy, dân
chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng
như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu không cải
chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy.
Nhưng dân Do
Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối
việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng
Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người
Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa,
Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải
đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng
tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm
quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ,
Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào
thét và hỏi họ: “Các ngươi tố cáo người này về tội gì?”. Nếu họ tố cáo Chúa là
đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua,
nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho
Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: “Ông là vua à?”.
Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền
của tôi không đến từ thế gian này”, vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm
chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa
Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với
hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào
sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe
tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác
đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và
nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng
ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta
khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ
vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả
những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những lời
Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại
này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình,
hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa.
Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật
đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay
lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như người đàn bà trong câu truyện sau: Đức
giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của một
chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác người
chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế, trước
khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một người
con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một đống thịt
nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con
trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp
kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay
con mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho
chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua,
Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ
giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện
chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên
xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là
vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự
thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa
làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất
vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta
không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người,
muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa,
thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái,
yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có
lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính
việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm chứng
cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
14. Đứng về phía sự thật
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ sau vụ nổ
big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ
là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành
tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân
mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức
Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ
của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về
đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất
cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu
không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình, nhưng
Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó,
Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có
lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công
dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự
thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước.
Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua
Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực
thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn
ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng
về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không
nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như
Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị
băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của
mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức
Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô
nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng,
nghèo đói, lạc hậu, bất công… Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích
kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước
Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị,
xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí…
Càng làm cho sự
thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu
viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu
làm vua cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Các bạn trẻ
thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc
rock Michael Jackson… Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng
đó ra sao?
Vũ trụ vật chất
là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng
gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn…?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới
này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của
Chúa.
Chúa đâu muốn
đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng
con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui
tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người
và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng
nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì
chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
“Ta là
Vua…”
Lịch sử nước
Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là
vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót.
Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: “Thánh Thượng” là vua trên
hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe
vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước
đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và
trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn
dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà
vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện
đội lên đầu Chúa và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là
Chúa trên hết các Chúa”.
Hôm nay, Giáo
hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và
xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh
Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về
Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng
của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để
kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của
vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: “Mọi sự
đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Ga 1,3). Ngài là Vua
vũ trụ.
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: “Ta là Vua”. Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên
Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ,
nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài
không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực.
Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại
vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn
chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi,
nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng
Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua
vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy “như Con Người đến trong đám mây trời…
quyền năng vĩnh cửu” (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị
kiến: “Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có
và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa” (Kh 1,8). “Ngài làm cho chúng ta thành một vương
quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài”.
Christus
Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus
Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus
Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
16. Hoàng tử và người nghèo
Mark Twain
viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người
con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong
hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả:
“Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy
đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng… Mọi người giàu cũng như nghèo đều
nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng ngày
đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo
túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai
trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó
chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều
lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác
nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn
lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những
đứa con trai khác.
Một ngày nọ,
Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung
điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị
hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một
lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ.
Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom
vào trong cung điện để thăm quan.
Sau đó,
hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần
áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người
nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời
gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng
kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong
nhà tù.
Để rút ngắn
câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên,
trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những
nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ,
thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được
trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất
trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện
Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người
chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền
định là Vua của tất cả tạo vật.
Chúa Giêsu đã
thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính
của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như
hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế
nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên,
Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại
từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu
nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính
Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi
vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà
chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa,
chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng
con.
17. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vương quốc
Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm
phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách
dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau,
đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi
đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc,
nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng
dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người,
trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị
hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux
biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục,
giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi
hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo
vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc
ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết
gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông
lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa
những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và
dân chúng.
Năm nay,
thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi
người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải
quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự
do.
Cả đấu trường
hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh
mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt
như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến
kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt
nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường
ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả
tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu
thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương,
làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt… rất thân quen!
Anh kinh
hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra.
Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính
là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào
nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm
tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt
tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau
khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác
thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức
tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai
anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là
một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng
nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ
thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm
lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người – homo homini
lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem
người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm
cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều
không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã
say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến
đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu… Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ
dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi
bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau…
Vậy phải làm
thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho
đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất
không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của
họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua
Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi
đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật
quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người
Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột
thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt
rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa
Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận
sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể
giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi
da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một
đại gia đình huynh đệ.
18. Phục vụ
Thế
nào là một ông vua?
Dưới chế độ
quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền
hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng
cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc
dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp
tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào
đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua
thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng
lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng
trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có
nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay
không?
Lần kia, sau
phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi
một mình.
Còn đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: – Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô đã
không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: – Chính quan nói rằng tôi
là vua.
Thế nhưng rất
nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua,
thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua
chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh
ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn
đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua
không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực
Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của
vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến
để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài
cũng xác quyết:
- Thày sống giữa
anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng
cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất
chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được
tôn vinh:
- Ngày nào
Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh
Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng
phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng
ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta
thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh
thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con
gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải
rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài
cũng xác quyết:
- Vua chúa trần
gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai
trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh
thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột,
hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
19. Làm chứng cho sự thật – Lm. Tạ Duy Tuyền
Có 4 bà mẹ
ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một
bà khoe:
- Thằng Tí
nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó
cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì
nói:
- Thằng
Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi
cho bằng được!
Bà thứ ba
than:
- Thằng
con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không
có nốt vẽ của nó!
Bà cuối
cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ
nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao
giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con
thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình
mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành
danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều
gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt
cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài
trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu
hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không
còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư
vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép
mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức
không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau “có lý mà không
có tình”. Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được
thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân
tương ái, “tối lửa tắt đèn có nhau” mà chỉ là “đèn nhà ai – nhà ấy rạng” hay an
phận thủ thường theo chủ nghĩa “mackeno” cho xong.
Một xã hội
đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để
sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha
nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giê-su Ngài đã đến
không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp
nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ
suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của
Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp
nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp
nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những
tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người.
Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho
sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều
gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn
quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống
tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong
tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời
hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống
này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời
có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không
vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền
công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia
Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc
trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của
Ngài.
Vì thế, dù rằng
chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy
bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này.
Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác
ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao
dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần
tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn
dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần
có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng
tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống
đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người
tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân
cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
20. Vua sự thật
Chúa Giêsu có
phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho
chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử
là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì
lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa
Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi
Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài
tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Hỏi như vậy là
Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là
Philatô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính
quyền Rôma không?”. Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu
như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa
đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có
nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc
họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng
không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn,
Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo
nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng
liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực
của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể
cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô: “Tôi là
vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm
mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng
tôi”.
Như vậy, chúng
ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì?
Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng
chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của
tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu
chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là
sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh
trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như
vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa
Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã
được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn
khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương
bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ
dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của
chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn
khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ
nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn
được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa,
thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật
cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn
xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là
vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự
thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận
hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một
khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho
người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời
“không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa
và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một
lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ
đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn,
chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và
việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người
khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng
chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác… cũng đều lỗi
phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng
ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy
nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội
đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là một
người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội
ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi
người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng
thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
21. Trung tín
Chúng ta hẳn
đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu
tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của
họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến
nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành
công, danh vọng, quyền lực… Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến
một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện.
Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người
ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể
lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một
trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là “tôn thờ lãnh tụ”. Các lãnh tụ
đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh,
tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ
nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những
quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà
những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động.
Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện
xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một
tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng
bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết
bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ
huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ
huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô
đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng
trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người
khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho
chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn
một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn
binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để
bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù
Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực
chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả
năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm
giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn
ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền
bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc
những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi
khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có
quyền lực chính trị.
Chúng ta phải
phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy
người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không
có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ
có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một
cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc
Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm
tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm
cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải
là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng
gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không
đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý
về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
22. Danh hiệu
Trong mọi danh
hiệu mà chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích hợp
nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một
ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự
giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một
quân đội.
Khi chúng ta
nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện,
quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với
một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh,
những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại
người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào,
còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh
hiệu “Vua” vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu.
Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài,
Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán
xét mọi sự.
Nhưng ngay cả
trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao
cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm.
Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của
Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt
qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân
hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ
nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý
nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng
ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt
kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực,
và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh
hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức
Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của
Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng
trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã
nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể
hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là
tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc
Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được
thành tựu.
Mặc dù Vua
Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những
chiến sĩ – những người sẵn sàng “chiến đấu” cho công lý, sự thật, hòa bình. Có
một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với
vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
23. Xét xử
Chính trong
Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự
phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm
nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức
Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong
một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi
chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy
trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở
Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi,
Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã
tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc.
Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng
giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ
án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa
Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều
câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư
tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực.
Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không.
Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi
cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ
hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về
cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy
tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên
trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel
được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự
nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh
tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước
Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người
Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là
sai lầm.
Tuy nhiên,
Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước
nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính
trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà
họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú
ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có
thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên
dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa
Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố
làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng
roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp
lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết
điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch
khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một
cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của
mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái
chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức
Giêsu.
Ngày nay các
nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối
họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có
lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng
ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta
tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống
như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ
trung lập.
Ai xét xử
Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng
chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi
ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng
trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình,
theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều
gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên
chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở
trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó,
mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao
khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần
khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước
của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng,
công lý, tình yêu và hòa bình.
24. Suy niệm của JKN
Đức Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi tâm
hồn, Ngài thống trị bằng tình yêu
Câu hỏi
gợi ý:
1. Tại sao
Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì
trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài là
vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua
của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn
tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư
gợi ý:
1. Chú
giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức
Giêsu: «Ông có phải là vua dân Do Thái không?». Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy,
thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi,
thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn
không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc
ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân
Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại
Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi
loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng
truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ
không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để
làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô
nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại
Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi
cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp
Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải
một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của
một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: «Tôi được sinh ra để làm vua». Thật vậy,
có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã
có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một
vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành
Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức
Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu
không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua
của ai?
Làm vua có thể
có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều
đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá»,
v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu
không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo
nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết,
Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài
chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật
trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có
Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới,
nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư
cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này
có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ,
nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài
thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là
vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền
lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con
dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ
từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên
(xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa
là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một
cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền
cai trị.
4. Đức
Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu
không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi
người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người
để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt
đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không
còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta.
Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu
chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm
cho ta.
Để Ngài có thể
hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn
Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước tiên,
phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý
thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn
sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý
thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi
ta.
– Vì thế, ta
nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân
ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của
Ngài.
– Vì Ngài yêu
thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả
những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng
là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu
thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần
gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng
nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều
trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: «Thiên Chúa
làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người» (Rm
8,28).
Nắm vững điều
đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn
thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một
«người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng
cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức
mạnh cho tôi» (Pl 4,13).
CẦU
NGUYỆN
Lạy Đức Kitô,
Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó
thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn,
khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con,
v. v… Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự
theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền
năng của Chúa hơn. Amen.
25. Chú giải của Noel Quesson
Đây là Chúa nhật
cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng
trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn
thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của
người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của “Tin
Mừng” theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối
cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh
Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một
kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau
khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về “Vua”, “Vương quyền” (Ga
18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà
vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là “Vương quyền” của Đức
Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông
Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua
dân Do thái không?
Đức Giêsu bị
buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi
thời đại!
Thẩm phán là
ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền
của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự
trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy
Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc.
Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền
có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người
ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo
lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó;
đối với Philatô là một “ông Giêsu nào đó” Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ
mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không
biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm
hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi
lại ông ấy.
Thật là một điều
quá đáng? Bị cáo bây giờ lại “hạch hỏi quan tòa”. Có phải vai trò bị đảo ngược
không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức
Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật
tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông
có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để
bày tỏ một lập trường của riêng ông, “này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng
tôi là Vua không?”. Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa,
hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức
Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ “quan tòa – bị cáo” để bước
sang tương quan “người và người”. Chúng ta không ngừng đóng những vai trò” và
ưa đeo mặt nạ: Chủ – thợ, y sĩ – bệnh nhân, thông gia – khách hàng, trợ lý xã hội
với người được trợ giúp linh mục – con chiên, cha mẹ – con cái, thầy dạy – học
trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra!
Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những
bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải “tuyên xưng
Đức tin”.
Ông
Philatô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế
đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy
quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu
gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với “mặt nạ” của
mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. “Ông đã làm
gì?” Đức Giêsu đã cố gặp “một người”. Nhưng Philatô đóng vai trò “một nhân vật”
Dù sao thì Philatô cũng đang “thống trị “, chính ông mới có uy quyền. Người thợ
ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng,
không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở
nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau… nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh
khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức
Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế
gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái.
Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu
không trả lời câu hỏi của quan tòa “ông đã làm gì?”. Chính Đức Giêsu không có ý
thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn
bàn cãi.
Đức Giêsu giải
tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu “Vua” mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất
có ba cách làm “Vua”. 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống
trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo
nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi
Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng
cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết,
Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không
đè bẹp ai “bạn có muốn theo tôi không?” “Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Một
vương quyền mà lại để “Vua” bị “Giao nộp” cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng
thống mà không có “vê binh” để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước
đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ
Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu
sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn
hành động như Đấng có “Toàn quyền”: Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã
đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy
Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy,
Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy
đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự “Giao nộp” để cho chúng ta tấn
công Người. (Tôi suy niệm về từ “Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức
Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2
Cr 4,4). “Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã
thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta” (Ga 1,18).
Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức
Giêsu đã không ngừng nói về “Nước Trời”, “Nước của Thiên Chúa”, nhưng đó không
phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một
vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm
men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại
bông hạt. Đức Giêsu là “Vua”, vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng
Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa “trị vì”, Thánh Vịnh
đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức
Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha “Xin cho Nước Cha trị đến”. Thiên
Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải
tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất
lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín
hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà
Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là “Vua”! Không, tuyệt
đối không phải là “Vua”! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần
gian.
Nhưng không!
Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã
phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức
Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua…, bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể
hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với
những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết,
Vương quyền này từ “nơi khác” đến. Người cảm thấy không cần nói rõ “nơi khác”
mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển
trị. Cái nghịch lý của “nơi khác” thần thiêng này là Vinh quang của Người không
thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần
thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của
Người là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất” trên thập giá, và lên ngự bên
phải của Chúa Cha.
Ông
Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng
của Philatô, đại danh từ “ông” được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất
có ý nghĩa: “Vua ông”.
Sao? ông, người
mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp
cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức
Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian
nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến”. Người
đã nói “Tôi đã đến”, từ một ‘nơi khác’, đã đến thế gian.
Trong bài đọc
2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như
là “nhân chứng trung thực”. Chữ “Chứng nhân” này dịch từ chữ Hy Lạp “Martyr” do
đó có chữ Pháp là “Martyr” có nghĩa tử đạo.
Người đã trả
giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng
về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương
quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe “một
giọng nói” tất cả những ai thuộc về sự thật”. Người “trị vì” nhờ Đức tin mà
chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người,
nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với “Tiếng nói của Người.
Không ai có thể thoát khỏi “Vương quyền” này.
Là con người,
chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại “Sự thật”. Làm vinh danh Chúa
Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ
long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần
gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá
nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với “Tiếng nói đó”
6. Chú giải của Fiches Dominicales
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Đức
Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự
vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô
ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu
cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại
Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của
là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua
dân Do Thái không?”.
X. Léon-Dufour
giải thích: “Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường
xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng
Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn,
ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều,
đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy “vị Ngôn sứ” để tôn lên làm vua; bấy giờ
Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử
hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng
việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa
vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là “Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu
tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố
giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi.”
(“Lecture de l’evangile selon Jean”, tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa
Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết,
Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: “Ngài tự ý nói điều
đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc
tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: “Tôi là người Do Thái sao?
Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
- Sau đó, Chúa
đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần
gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước
khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của
Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần:
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
A. Marchadour
quảng giải: “Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như
Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh
quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi
khác, đến từ “xứ sở” nơi Đức Giêsu “sinh ra”, và từ đó Người “đã đến thế gian”,
vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh,
nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của
Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này” (“L’evangile de Jean”,
Centurion, trang 227).
2. Đức
Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô
gạn hỏi: “Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác
quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là “làm chứng cho chân lý” (từ
“làrn chứng” trong tiếng Hy lạp là “martyr”: tử đạo). Chân lý này chính điều đã
được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn (“Người Con duy nhất đầy
ân sủng và chân lý”): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai:
Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải,
Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần
linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng.
Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu “bất cứ ai thuộc
về chân lý”.
Sứ mạng của
Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó
hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào
Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng
lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường:
“ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi” Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính,
thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức
tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện
đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân
lý là gì?” (“Célébrer” tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang
42).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức
Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x.
Léon-Dufour, trong “Lecture de l’evangile selon St Jean”, cuốn 4, Seuil, trang
21).
Phụng vụ tung
hô Đức Kitô là “Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là “một
cuộc hiển linh của vi vua” Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà
Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống
của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi
này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức
Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng
trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian,
và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là “người”vừa bị đánh đòn, bị
khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này
ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa
không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của
Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì “chân lý” mà Người
công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả
trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua ” ấy
ở đâu: Vua vinh quang phán: “Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong
các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40): để có thể
tìm thấy “vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét,
vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu
4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân
Do Thái. Trưng bày danh hiệu “vua dân Do Thái” phản ánh theo cách thế của Chúa
sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về “vị
vua” đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi
Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức
Giêsu, phản vua (L’antiroi)
“Nước tôi
không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh
thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc
trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế
cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự
phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã
không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh
cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao
nhiêu.
Ngày nay cũng
vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó
hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng
(antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và
thân thiện.
Lòng tôn kính
đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là
những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực
của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời
gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân
lý… giống như Người.
Thành công của
Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất
bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ,
phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân
thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của
Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn
là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống
rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài – chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của
Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương
quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những
đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét