Biết
mình là khởi đầu của mọi khôn ngoan. Ngày xưa, ở bên Đông, Lão Tử (604 TCN),
triết gia người Trung Quốc quả quyết rằng: “Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.” Nơi khác, chính ông khẳng định: “Biết người thì khôn, biết mình thì sáng.” Ở bên trời Tây, Socrate (469 – 399 TCN), một triết
gia nổi tiếng người Hy lạp, đã để lại một sứ điệp cho con người mọi thời khi
nói: “Tiên vàn bạn hãy biết
mình.”
Mục tiêu đầu tiên
của hành trình huấn luyện là giúp người thụ huấn biết mình. Vì thế, đào tạo là
một quá trình giúp người thụ huấn trở về với chính mình để nhận biết mình, khám
phá những tiềm năng và những giới hạn của bản thân. Đây là bước đầu tiên và rất
quan trọng cần phải thực hiện.
1. Biết
mình thật khó nhưng cần thiết
Trong cuộc sống,
có một điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ đó là chúng ta biết đủ thứ nhưng lại
rất ít biết mình. Chúng ta cố gắng học nhiều thứ nhưng lại ít học để nhận biết
mình. Chúng ta có thể khám phá vụ trụ, thế giới bao la, học hỏi nhiều môn khoa
học khác nhưng lại ít để tâm chinh phục chính mình.
Hơn nữa, việc nhận
biết chính mình là một công việc khó khăn và phức tạp vô cùng. Dù già hay trẻ,
đã nhiều lần chúng ta nói: “Thật sự, tôi không hiểu được tôi.” Điều đó
rất đúng và cũng chẳng lạ gì vì con người thường không hiểu chính mình. Con
người chỉ đi từ từ từng bước trong việc hiểu biết bản thân, tự mình nó và cùng
với nhân loại.[1] Các triết gia, thần học gia cũng như các bậc thầy
tu đức trong Giáo Hội đều công nhận: biết mình khó vô cùng. Người Việt Nam diễn
tả sự khó khăn đó trong câu ca dao: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai lấy
thước mà đo lòng người.”
Chúng ta không
hiểu hết chính mình bởi vì mỗi người là một thế giới vô cùng huyền bí, sống
động và phong phú, nếu không muốn nói là vô cùng phức tạp. Đối diện với con
người là đối diện với một huyền nhiệm lớn lao. Trong chúng ta, có những khoảng
không gian sâu thẳm, mà chúng ta ít khi để tâm khám phá tường tận, đó là thế
giới nội tâm của chính mình, là sự tổng hòa kỳ lạ giữa các tầng nấc thể lý,
tình cảm và tinh thần trong con người.
Quả thế, theo cái
nhìn của Kitô giáo về con người, mỗi người là một huyền nhiệm, một nhân vị, chứ
không phải là một sự vật, đồ vật hay như một “vấn đề”[2]. Mỗi người được Thiên Chúa tạo dựng một cách kỳ
diệu, nên mỗi người là một nhân vị hết sức độc đáo, duy nhất và không thể thay
thế. Mỗi người có những vẻ đẹp, sự phong phú, những tiềm năng, sở trường và sở
đoản riêng. Mỗi người có sự khác biệt, không ai giống ai. Mỗi người có một phẩm
giá vô cùng cao quý như Kinh Thánh cho biết: “Con người là hình ảnh Thiên Chúa”
(St 2,3).
Chính vì sự phong
phú đó mà chúng ta ít hiểu biết mình cách trọn vẹn. Nhưng biết mình là bước đầu
tiên và quan trọng để có thể đào tạo mình nên người tốt, nên một Kitô hữu
trưởng thành, trở thành một linh mục hay một tu sĩ thánh thiện. Đào tạo phải
giúp ứng sinh trở về với chính mình để nhận biết mình. Bởi vì, biết
mình là điều kiện tiên quyết của mọi thay đổi nội tâm, tinh thần và nhân cách.
2. Làm sao
để biết mình?
Hành trình huấn
luyện được bắt đầu từ khi ứng sinh biết được con người thật của mình. Nói một
cách cụ thể, đó là khi ứng sinh nhận biết những mặt mạnh và mặt yếu, những vùng
tự do và thiếu tự do, nhờ đó mà họ có thể quảng đại “xin vâng” khi đáp lại lời
mời gọi, đồng thời họ biết rằng giữa con người hiện thực của mình và dự phóng
của Thiên Chúa nơi họ vẫn còn một con đường dài.[3]
Để nhận biết mình,
trước hết cần phải nhận biết căn tính của mình và sau đó là khám phá sự thật
con người của mình.
2.1. Ý thức
mình là ai
Biết mình trước
hết là sự nhận biết mình là ai. Đây là sự nhận ra hay xác nhận căn tính mình để
sống đúng với căn tính đó. Nếu không ta sẽ bị vong thân hay vong ngã. Nghĩa là
ta đánh mất chính mình, không xác định được mình là ai, không hình thành được căn
tính của mình. Đây quả là một thứ đánh mất nền tảng! Ngày hôm nay có nhiều
người đánh mất ý thức về căn tính của mình. Có nhiều bạn trẻ sống trong tình
trạng mập mờ về căn tính nơi họ. Giáo dục tiên vàn phải giúp cho người thụ huấn
ý thức về căn tính của mình, nhận thức cái tôi hiện tại mà mình đang có và cái
tôi lý tưởng mà mình được mời gọi trở thành. Với tư cách là một con người, mỗi
người là một hữu thể có ý thức và tự do. Mỗi người được mời gọi lớn lên trong ý
thức, để làm chủ bản thân, và lớn lên trong tự do, để chịu trách nhiệm về bản
thân. Với tư cách là một Kitô hữu, để siêu việt bản thân, ta được mời gọi sống
trong tương quan liên vị mật thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Với tư cách
là người theo Chúa trong ơn gọi tu trì, ta được mời gọi yêu mến Thiên Chúa trên
hết mọi sự (x. Mc 12,29-30) và hiến thân phục vụ tha nhân theo gương của Đức
Kitô. Ý thức tôi là ai giúp ta xây dựng đời mình, thể hiện mình và phát triển
mình theo căn tính đó.
2.2. Nhận
biết sự thật về mình
Biết mình là một
quá trình trở về khám phá chính bản thân, đối diện với con người thật của mình,
khám phá hành vi, thái độ, tình cảm, những khuynh hướng, khả năng, tiềm năng,
tính tình, nhu cầu, động lực thúc đẩy và những giới hạn, khuyết điểm, tật xấu
cũng như những sự bất nhất và xung đột trong con người ta. Đây là sự hiểu biết,
sự khám phá càng ngày càng sâu về chính bản thân mình.
- Cách hành xử
và thái độ:
Trước hết, ứng
sinh phải chú trọng đến hành vi và thái độ của mình. Chúng ta biểu lộ mình cách
dễ thấy nhất qua hành vi và thái độ. Những tình cảm và động lực bên trong sẽ
thể hiện ra bên ngoài qua thái độ và cách hành xử của chúng ta. Ta phải lưu ý
đến các thói quen, các phát biểu, các mối tương quan, phản ứng, thái độ tích
cực hay tiêu cực trước cuộc sống, sự đồng nhất hay bất nhất giữa lời nói và
việc làm. Các hành vi và thái độ cần được nhận biết và phân định theo nguyên
tắc:“Ở đâu thiếu sự mạch lạc giữa giá trị mà họ tuyên xưng và hành vi họ
thực hiện, nơi ấy cần phải xem xét cẩn thận.”[4] Hành vi và thái độ của tôi có phù hợp
với Lời Chúa dạy không? Chúng có phù hợp với sự chân thật trong lòng mình
không? Hay chỉ là “ngoài miệng thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết
người không dao” như cụ Nguyễn Du diễn tả.
- Những tình
cảm và cảm xúc:
Tôi có trưởng
thành về mặt tình cảm và cảm xúc chưa? Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục trong tôi như
thế nào, có phù hợp với đời tu không? Huấn luyện con người và nhất là huấn
luyện linh mục – tu sỹ đòi hỏi quan tâm và huấn luyện cảm xúc, tình cảm và tâm
tình của ứng sinh. Cần phải giúp họ nhận biết, lớn lên và trưởng thành con tim.
- Các khuynh
hướng:
Khuynh hướng vị kỷ
hay vị tha, quy ngã hay quy xã hội, hoặc quá thích tiền bạc, quyền lực, hoặc
quá lập dị, cá nhân chủ nghĩa, gây hấn hoặc nhu nhược… Biết mình là biết các
khuynh hướng đó. Cái nào bị phình to ra, cần phải nhận biết để điều chỉnh cho
phù hợp và quân bình.
- Những động
lực thúc đẩy:
Một cách chung
chung, động lực thường được hiểu như một ước muốn, một khao khát thực hiện một
dự phóng, một mục tiêu nào đó của cuộc sống. Động lực này có những yếu tố bên
trong và những yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên trong nằm ở tầng sâu thẳm của
nội tâm mỗi người.
Nhận biết những
động lực thúc đẩy ta hành động đóng vai trò quan trọng trong giáo dục. Đó là sự
nhận biết giúp ta hiểu “tại sao ta hành động”.
Sự nhận biết này
giúp ta nhận diện và phân định các động lực thúc đẩy ta hành động. Có những
động lực thuộc ý thức, có những động lực vô thức và có những động lực siêu
nhiên. Chúng có phù hợp với đạo lý và lương tâm không? Nhất là chúng có phù hợp
với các tiêu chuẩn của Tin Mừng không? Ta cần phải xem xét các động lực thúc
đẩy. Một hành vi nhân linh có thể được thực hiện bởi rất nhiều lý do khác nhau.
Ví dụ: một hành vi bác ái giúp người nghèo, nhưng hành vi đó có thể được thúc
đẩy bởi lý do siêu nhiên như Chúa Giêsu dạy, hay bởi lý do tâm lý và nhân loại
như để được nhận biết, để quảng cáo mình hay gây sự chú ý của người khác; hoặc
giúp người nghèo để được người khác giúp lại mình theo kiểu “hợp tác nuôi cá,
cá nuôi xã mình” vv…
Khi chọn lựa đời
sống tu trì, ứng sinh có thể được thúc đẩy bởi nhiều động lực khác nhau. Có
những động cơ ban đầu rất trần tục và nhân loại. Ta có thể kể ra một số động
cơ:
Đi tu để thoát ly
đời sống gia đình bất hạnh; để tìm kiếm đặc ân; thỏa mãn tham vọng của cha mẹ;
cần có một người cha hay người mẹ; sợ đàn ông hay đàn bà (tương giao); tìm an
toàn; được kính trọng vv… Đây là những động cơ giống với trường hợp của hai anh
em Gioan và Giacôbê: theo Chúa để được ngồi bên hữu, bên tả Chúa trong vương
quốc Người (x. Mc, 10,20-37).
Có những động cơ
siêu nhiên. Đó là những động cơ phát xuất từ sự trưởng thành tâm linh khi bước
theo Chúa. Hoặc là từ chính ân sủng của Thiên Chúa lôi kéo và thúc đẩy một ứng
sinh theo Chúa. Đi tu vì tình yêu Chúa và dâng hiến chính mình phục vụ tha
nhân.
Các ứng sinh cần
thanh luyện những yếu tố “trần tục và nhân loại” trong ước muốn trở thành linh
mục hay tu sĩ. Tiếp đến, họ cần phải vun trồng động lực chính đáng của ơn gọi:
là muốn biết và yêu mến Chúa Giêsu, muốn giúp người khác cũng nhận biết và yêu
mến Chúa Giêsu. Đây là “ý hướng ngày lành” để theo Chúa, là động lực chính yếu
và căn bản của ơn gọi tu trì mà Giáo Luật đòi hỏi. Để xây dựng một ý hướng ngay
lành trong ơn gọi, các ứng sinh cần có xác tín như thánh Phaolô: “Tôi coi
tất cả là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của
tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác, để được Đức
Kitô” (Pl 3,8).
- Những xung
đột nội tâm:
Biết mình bao gồm
việc nhận biệt các xung đột nội tâm. Đây là sự xung đột giữa lý tưởng, giá trị
và sự thiếu trưởng thành, hoặc bệnh hoạn tâm lý, hoặc sự phình to các khuynh
hướng. Hay đúng hơn những xung đột nội tâm là hậu quả của sự rối loạn, thiếu
hòa điệu giữa tình cảm, động lực thúc đẩy và cách hành xử, đời sống luân lý với
các giá trị và lý tưởng mà mình theo đuổi. Cần phải nhận diện những nguyên nhân
gốc rễ của những sự bất nhất hay những xung đột đó. Nhận biết những sự bất nhất
và mảnh gãy giữa các tầng nấc thể lý, tình cảm và tinh thần trong con người
chúng ta để hòa điệu và hội nhập các yếu tố đó, hiệp nhất chúng nên một trong
cùng một bản vị duy nhất.
Tất cả những điều
này được khám phá trong sự liên hệ hiện nay giữa quá khứ và hiện tại, hay giữa
cái tôi hiện tại và cái tôi mà lẽ ra họ đã thể hiện và phải thể hiện, cùng với
những điều tích cực và tiêu cực trong cuộc mạo hiểm của mọi thụ sinh.
3. Từ chân
thành đến sự thật
Như đã nói ở trên,
biết mình thật quan trọng, vì nếu không biết mình thì không thể trưởng thành,
không thể có biến đổi trong huấn luyện. Nhưng việc biết mình phải được thực
hiện như thế nào?
Trước hết, chúng
ta cần phải làm sáng tỏ điều này: nếu người thụ huấn biết mình một cách chân
thành thôi thì chưa đủ, mà họ còn phải biết mình một cách chính xác. Vì chân
thành thì chủ quan, còn sự thật thì khách quan. Chỉ chân thành với mình mà thôi
chưa phải là điều kiện cần và đủ của sự chính xác. Và họ cũng không ngờ rằng
giữa sự chân thành và sự thật họ là ai còn có một khoảng cách dài thăm thẳm.[5]
Thật vậy, có những
sự hiểu biết về mình nhiều khi còn rất chủ quan và giới hạn, cần phải vượt ra
biên giới chủ quan để tiến tới sự hiểu biết về chính mình như mình đang là
một cách khách quan. Đó là sự hiểu biết chính mình dựa theo sự thật về mình,
không trốn tránh, không giả vờ, không phỏng chiếu, không đeo mặt nạ đối với
chính mình. Người biết mình theo sự thật là người nhận biết cả những nguyên
nhân ẩn bên trong các hành vi và tâm tư của mình. Ta không chỉ nhận biết và
thấu hiểu cảm xúc trong lòng mà ta dễ nhận ra, nhưng còn phải biết cảm xúc ấy
bắt nguồn từ đâu – cội nguồn đích thật – và điều đó không phải lúc nào cũng
hiển nhiên và dễ nhận thấy. Chẳng hạn: một người nhận mình thường có khuynh
hướng bám víu các mối tương quan, khao khát và tìm kiếm tương giao vv…, người
đó không chỉ nhận biết những điều đó nhưng còn phải khám phá cho biết chúng
phát xuất từ đâu, sự thật đó phát xuất từ nhu cầu nào (trong trường hợp này có
thể từ nhu cầu muốn được yêu thương)[6].
Thứ đến, họ phải
tìm ra nguồn gốc và sự phát triển của nhu cầu ấy trong cuộc sống quá khứ của
mình. Khi họ khám phá được gốc rễ của cảm xúc hay tìm kiếm sự thật của mình
trong quá khứ, điều đó thường giúp họ hiểu rõ một số nhu cầu nhất định trong
đời sống tinh thần và những tính khí, tâm trạng liên quan đến nhu cầu đó, hay
hiểu được vai trò năng động tâm lý của xu hướng nội tâm: ví dụ, nhu cầu yêu thương
quá mức có thể bắt nguồn từ một hình ảnh bản thân nghèo nàn, hay từ thói quen
lôi kéo sự chú ý của người khác, hay từ nỗi sợ cô đơn vv… Nếu họ nhận diện gốc
rễ của cảm xúc ấy một các chính xác, họ có thể can thiệp trên chính gốc rễ chứ
không chỉ can thiệp trên hành vi.
Giáo dục là giúp
ứng sinh có khả năng nắm bắt được sự thật, ngõ hầu họ có thể quản lý sự tự do
của mình. Quả là ngây ngô nếu xem việc biết mình như một chuyện đương nhiên. Ai
không muốn khám phá sự thật của mình, thì cũng không bao giờ có tự do. Nếu
trong thời gian đào tạo, ứng sinh không khám phá được sự thật của mình, thì
chẳng hy vọng gì trong tương lai họ sẽ khám phá được; trong khi đó tất cả tiến
trình huấn luyện hiện tại đã có nguy cơ rơi vào quên lãng hay đưa đến hậu quả
thiếu hữu hiệu và không có kết quả đối với họ.
Như thế, điều quan
trọng là người thụ huấn phải khám phá tất cả những điều ấy càng sớm càng tốt,
ngõ hầu họ tập trung sự khôn ngoan vào việc huấn luyện: chỉ khi nào họ ở trong
sự thật, họ mới có thể thực hiện cuộc hành trình của sự thật.[7] Vì như Chúa Giêsu nói: “Sự thật sẽ giải phóng các
con” (Ga 8,32).
Tạm kết
Như vậy, có thể
nói rằng: giai đoạn đầu tiên và nền tảng của quá trình huấn luyện là giai đoạn
khám phá bản thân để biết mình. “Giáo dục là đánh thức lương tâm người thụ
huấn để họ nhận ra sự thật đang hiện diện trong lương tâm mình, sao cho họ có
khả năng tự suy luận, tự phán đoán và tự do trong một thế giới mà tự do là một
sự mạo hiểm, một sự thủ đắc và không bao giờ là điều có sẵn hay một quà tặng
phú bẩm”.[8]
Giáo dục là đưa ra
những chỉ dẫn rõ ràng để giúp ứng sinh “lôi kéo” sự thật của mình ra. Nếu một
ứng sinh không bao giờ khám phá được sự thật của mình, thì chẳng bao giờ hy
vọng người đó sẽ khám phá được gì về mình hoặc họ sẽ có những thay đổi nào
trong tương lai.
LM
Pet. Nguyễn Văn Hương
Tài liệu tham khảo:
1. A. Cencini, Tâm Tình Chúa Con. Hành Trình Huấn Luyện
Đời Sống Thánh Hiến. Nxb Tôn Giáo, 2012.
2. Michel Quoist (Nguyễn Thị Chung dịch), Xây Dựng
Con Người Nhân Bản, Nxb Tôn Giáo, 2000.
3. E. Balduci, L’Insegnamento di don Milani, Roma 1995,
100.
4. Alessandro M. Ravaglioli, Psicologia. Studio
interdisciplinare della personalità, EDB, Bologna 2006.
______________
[1] Michel Quoist (Nguyễn Thị Chung dịch), Xây
Dựng Con Người Nhân Bản, Nxb Tôn Giáo – 2000, 11.
[2] Triết Gia Gabriel Marcel phân biệt: phạm trù
huyền nhiệm và phạm trù vấn đề. Phạm trù huyền nhiệm thì không thể cân đong đo
đếm được, cần phải kiên nhẫn khám phá và tiếp cận dần dần, càng khám phá, càng
thấy mới mẻ. Còn phạm trù vấn đề là thuộc phạm vi khoa học, có thể đo lường
được như 2 x 2 = 4.
[3] A. Cencini, Tâm Tình Chúa Con. Hành Trình
Huấn Luyện Đời Sống Thánh Hiến, Nxb Tôn Giáo – 2012, 235.
[4] A. Cencini, sđd, 248.
[5] A. Cencini, sđd, 141.
[6] Ibid.
[7] A. Cencini, sđd, 140; 224.
[8] E. Balduci, L’Insegnamento di don Milani,
Roma 1995, 100.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét