Người
đăng: hoctran | 07.08.2012
Bài viết này thể hiện mong muốn đáp lại lời Đức Giáo Hoàng
Bênêđettô mời gọi các tín hữu gia tăng “suy tư về chính hành vi đức tin” (Porta
Fidei, 9). Có nhiều vấn đề cần phải đào sâu để hiểu hơn về đức tin như: đức
tin là ân sủng nhưng đồng thời cũng là hành vi nhân linh, đức tin là chắc chắn
nhưng cũng gắn liền với “đêm tối”, tính cá vị và tính cộng đoàn của đức tin,
diễn tả đức tin bằng ngôn ngữ và bằng hành động, v.v… Với đề tài được đưa ra là
nói về đức tin Kitô giáo trong tương quan với Đức Kitô – Đấng là nền tảng và
điểm quy chiếu của đức tin đó – người viết bài này chỉ xin trình bày ba
chiều kích liên hệ tới lý trí, tâm cảm và thực hành (nói tắt và nôm na là biết,
cảm, sống) của đức tin và cho thấy Đức Kitô là nguyên lý của đức tin Kitô giáo
thế nào trong ba chiều kích đó.
Việc chọn trình bày ba chiều kích trên của đức tin phát xuất từ
thực tế là đa số tín hữu Việt Nam gặp khó khăn trong việc xác định thế nào là
đức tin đích thực. Phải chăng việc ta học thuộc các kinh, nắm vững các giáo lý
là dấu chỉ cho thấy đức tin của ta đã mạnh mẽ rồi? Phải chăng ta có thể yên tâm
về đức tin của mình khi ta dạt dào cảm xúc yêu mến Chúa hay có thể khóc vì nhận
ra tình yêu của Ngài? Hoặc ngược lại, phải chăng việc giữ đạo quan trọng là ở
cái tâm, chỉ cần có cái tâm ngay thẳng, bác ái là đủ, việc đi nhà thờ, đọc
kinh, học giáo lý chỉ là hình thức bên ngoài, thậm chí là còn có ảnh hưởng xấu
là làm cho người ta “chấp nê” mà quên đi cái cốt lõi?
Việc chưa hiểu rằng đức tin bao gồm cả ba chiều kích biết, cảm,
sống còn được thể hiện qua khoảng cách thường thấy giữa việc tin và sống theo
những gì mình tin. Tại sao có người đi nhà thờ thường xuyên, đọc thuộc nhiều
kinh mà về nhà lại là hung thần của gia đình và của hàng xóm? Tại sao trong kỳ
tĩnh tâm, tôi cảm thấy dạt dào lòng yêu mến Chúa và quyết tâm cách rất xác tín
mà sau kỳ tĩnh tâm tôi mắc lại các thói xấu và không thể kiểm soát những cảm
xúc tiêu cực như tham lam, ganh ghét, nóng giận của mình? Nên chăng tôi chỉ cố
gắng sống công bình, bác ái, dấn thân vào các hoạt động xã hội là đủ, mà không
cần hoặc lơ là việc đi lễ, đọc kinh và học giáo lý?
Bài viết sẽ cố gắng trả lời các vấn nạn đó bằng cách chỉ ra, trong
phần I, rằng đức tin không chỉ là hoạt động của lý trí (theo kiểu “tôi tin là
ngày mai trời mưa”) hay của tâm cảm (theo kiểu “tôi thấy rất tin tưởng anh”),
mà bao gồm cả hai, cùng với chiều kích thực hành.
Trong phần II, bài viết sẽ trình bày Đức Kitô cung cấp nét độc đáo
cho đức tin Kitô giáo như thế nào trong ba chiều kích nói trên.
I. Ba chiều kích của đức tin Kitô giáo
Thông thường, chúng ta hay quan niệm rằng đức tin là tin một điều
gì đó, tức giới hạn đức tin vào hoạt động của tâm trí mà thôi. Quan niệm này
không sai, nhưng chưa đủ, và vì thế có thể gây ra một số lệch lạc trong việc
sống đạo. Nếu đức tin chỉ là tin một điều gì đó thì để trẻ em hoặc người tân
tòng có đức tin, chỉ cần dạy họ thuộc kinh hoặc biết các chân lý đức tin là đủ.
Thông truyền đức tin dưới dạng kiến thức dẫn đến tình trạng là tín hữu biết các
điều Giáo Hội dạy nhưng chưa hẳn là yêu mến những giá trị của chúng. Họ xem
những điều dạy đó chủ yếu như là luật lệ và cố gắng tuân giữ, nhưng cảm thấy
như gánh nặng. Thực hành tôn giáo vì thế được gói gọn trong việc chu toàn nghĩa
vụ cách sáo rỗng và vụ hình thức.
Để hiểu đức tin là gì, ta cần đặt đức tin trong tương quan với Mặc
Khải. Vì đức tin là hành vi đón nhận Mặc Khải, nên ta chỉ hiểu đức tin là gì
nếu ta có quan niệm đúng đắn về bản chất của Mặc Khải. Công đồng Vatican II nói
về Mặc Khải như sau:
Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính
mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài (x. Ep 1,9);… Vậy qua việc mặc
khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do tình thương chan hòa
của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15)
và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc
sống của chính Ngài[1].
Như vậy, Mặc Khải trước hết và trên hết là việc Thiên Chúa đi bước
trước đến với con người, ngỏ lời và trao ban chính Mình để thiết lập
tương quan bằng hữu với họ; cùng với món quà “Tự Thân” đó là các chân lý
diễn tả ý muốn cứu độ của Ngài.
Công đồng cũng nói về đức tin như sau:
Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr
10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do
ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc
khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí” [5], và bằng cách tự ý ưng thuận
mặc khải Ngài đã ban[2].
Vậy đức tin trước hết là phó thác bản thân mình cho Thiên
Chúa và sau đó là tự do chấp nhận những điều Ngài truyền dạy.
Một cách nôm na, có thể mô tả Mặc Khải như hành vi và tiến trình
Thiên Chúa “tặng quà” cho con người và đức tin là hành vi và tiến trình con
người “nhận quà” từ Thiên Chúa[3]. Khi phân tích hiện tượng
trao tặng và nhận quà, chúng ta thấy rằng hiện tượng này luôn hàm chứa một
tương quan liên vị. Một vật chỉ là quà tặng khi ở trong một mối tương quan liên
vị giữa người tặng và người nhận[4]. Người tặng quà, qua món quà,
mà thường thì có ý nghĩa biểu trưng lớn hơn chức năng hữu dụng, trước hết muốn
diễn tả tâm hồn mình và khao khát muốn thiết lập tương quan yêu thương với
người được tặng. Nói cách khác, món quà biểu trưng cho việc người tặng quà muốn
trao ban chính tâm hồn mình. Tuy nhiên, món quà cũng đóng vai trò quan trọng vì
là một sự diễn tả không thể thiếu của tấm lòng người tặng. Không ai có tấm lòng
ưu ái với người khác mà không tự nhiên bộc lộ ra hay tìm những cách thế khác nhau
để diễn tả tấm lòng đó[5].
Người nhận quà cũng vậy, khi quyết định nhận món quà là đã quyết
định nhận tấm lòng của người tặng và do đó cũng đã mở lòng mình ra, chấp nhận
thiết lập tương quan với họ, tức chấp nhận cho họ đi vào cuộc đời mình. Như
vậy, người nhận quà cũng thực sự đã mở ra và cho đi – cho đi chính tâm hồn
mình. Người không muốn cho đi không thể nhận quà. Tương tự như đối với người
tặng, món quà cũng rất quan trọng đối với người nhận. Người nhận chỉ thực sự
đón nhận tấm lòng người tặng nếu chấp nhận đón lấy món quà. Khi họ chấp nhận
tương quan với người tặng thì họ cũng chấp nhận món quà người ấy tặng. Món quà
trở nên biểu tượng thiết yếu của tương quan giữa họ với nhau[6].
Để có một cái nhìn loại suy về đức tin như hành vi “nhận quà”,
chúng ta tóm kết lại các đặc tính của tiến trình nhận quà như một hiện tượng
nhân sinh: người nhận quà, khi nhận món quà (2), phải mở lòng mình ra để đón
nhận tấm lòng của người tặng (1); sau khi nhận quà, người đó được biến đổi nên
khác (3), vì cuộc đời họ không như xưa nữa mà đã có sự hiện diện của và tương
quan ở cấp độ mới với một nhân vị mới.
Ta cũng có thể tìm thấy ba đặc tính trên nơi hành vi đức tin của
Kitô hữu (các đặc tính được đánh số 1,2 và 3 lần lượt tương ứng với chiều kích
tâm cảm, lý trí và thực hành của đức tin). Trở lại đối chiếu với định nghĩa của
công đồng Vatican II về Mặc Khải và về đức tin, ta có thể nói rằng đức tin
trước hết là mở lòng mình ra đón nhận quà tặng là chính Thiên Chúa trao ban
chính Mình, tức sẵn lòng đi vào trong tương quan mà Thiên Chúa thiết lập và mời
gọi con người có với Ngài. Một cách loại suy, có thể nói, như trong trường hợp
quà tặng, chỉ có đức tin khi có tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và
con người[7]. Việc mở lòng, chấp nhận đi vào trong tương
quan liên vị với Thiên Chúa như thế mang đồng thời ba chiều kích tương
ứng với ba đặc tính nêu trên của việc nhận quà.
1. Chiều kích tâm cảm
Đặc điểm dễ thấy nhất của tương quan liên vị là có một mối thân
tình giữa những người liên quan, họ mở lòng, đón nhận và tin tưởng nhau. Đức
tin, trong bối cảnh tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và con người, cũng mang
đặc tính này. Tín hữu cảm nghiệm thấy được Thiên Chúa ngỏ lời mời gọi thương
yêu và tin tưởng và vì thế đáp lại bằng tâm tình phó thác yêu thương.
Đức tin trong chiều kích này có thể được diễn tả bằng hai chữ “tin
vào”. Như trong tương quan giữa người với người, khi tin vào ai, chúng ta cảm
thấy an toàn khi ở bên họ, đức tin trong chiều kích này làm cho con người “tìm
đến nương ẩn” bên Thiên Chúa (Tv 7,1; 31,1), giao phó bản thân “trong vòng tay
Ngài” (x. Lc 23,46; Lời cầu nguyện của Charles de Foucauld).
Đây là lý do truyền thống gọi đức tin là nhân đức đối thần. Vì chỉ
có Thiên Chúa mới có thể là đối tượng của đức tin trong chiều kích này, mới
đáng là Đấng để ta tin vào và đặt để đời mình trong tay Ngài mà chắc chắn không
bị thất vọng. Kinh Tin Kính đã diễn tả điều này khi dùng động từ “tin vào”
(credo in) cho các tín khoản liên quan tới từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa,
không như các tín khoản khác vốn dùng động từ “tin có” (credo) hoặc “tuyên
xưng” (confiteor), “trông chờ” (expecto).
2. Chiều kích lý trí
Nhưng việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa hàm chứa việc biết
Thiên Chúa là Đấng thế nào (yêu thương, đáng tin, v.v…) và xác nhận Ngài là
Chủ Tể của vạn vật và của đời mình. Không ai có thể đặt niềm tin tưởng vào Đấng
mà họ không biết. Vì thế, đức tin luôn mang chiều kích lý trí. Khi tin, chúng
ta luôn chấp nhận một điều gì đó khách quan – một sự kiện hoặc một ý nghĩa – là
đúng.
Hơn nữa, cũng như khi tin tưởng ai thì ta cũng tin những điều họ
nói là đúng, việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa luôn hàm chứa và đi đôi với
việc chân nhận những điều Ngài truyền dạy là chân lý. Đức tin không chỉ
là cảm xúc mơ hồ không có hoặc không thể được diễn tả bằng một nội dung khách
quan. Đức tin cũng không chỉ là chuyện riêng tư, bên trong tâm hồn mỗi người
mà, vì có nội dung khách quan, cần được “tuyên xưng, cử hành, sống và cầu
nguyện” (Porta Fidei, 9).
Chính vì điều này mà các giáo phụ nói về “kho tàng đức tin” hay
“quy luật đức tin”[8]. Kho tàng hay quy luật này được tìm thấy
trong Thánh Kinh, trong giáo lý và đời sống của Giáo Hội, có thể được lưu
truyền, công bố, giảng dạy và học hỏi. Cũng như món quà là biểu tượng thiết yếu
của tương quan giữa người tặng và người nhận, kho tàng đức tin được lưu truyền
và diễn tả bằng ngôn ngữ, cử hành và các hình thức tổ chức trong đời sống Giáo
Hội đóng vai trò không thể thiếu trong tiến trình đức tin. Kho tàng này chứa
đựng những “món quà” thiết yếu cho mối tương quan giữa Thiên Chúa với con
người. Con người không thật sự đón nhận Thiên Chúa, không thật sự tin tưởng và
phó thác bản thân cho Ngài nếu không đón nhận những “món quà” khách quan này.
3. Chiều kích thực hành
Cuối cùng, đức tin đích thực luôn có và phải có chiều kích thực
hành. Đức tin không chỉ là hoạt động của tâm trí hay rung cảm của tâm hồn, mà
là hành vi nhân linh liên hệ tới toàn bộ con người. Liên quan tới chiều kích
này, chúng ta thường hiểu cách đúng đắn rằng đức tin đích thực phải dẫn tới
việc sống đức tin đó cách cụ thể trong đời sống. Nhưng ở đây chúng ta cũng cần
phải xác định xa hơn rằng chính hành động cụ thể góp phần vào việc hình
thành và củng cố đức tin, bằng cách cộng tác với ơn Chúa, chứ không chỉ là
hệ quả của đức tin.
Karl Rahner có thể giúp ta hiểu hơn điều này khi ông nói về ý chí.
Khi ta thực hiện điều ta muốn thì ý chí được diễn tả chính nó và trở thành xác
định. Vậy điều ta thực hiện đó không chỉ là kết quả của ý muốn mà còn là nguyên
nhân sinh ra ý muốn đó. Bởi vì ý muốn đó sẽ không tồn tại cách nghiêm túc và
bất khả thu hồi nếu nó không được thực hiện[9].
Nói cách khác, ta chưa thật sự muốn một điều gì đó nếu chưa thực hiện điều đó.
Tương tự, hành vi đức tin chỉ thực sự xác định và chín muồi khi
được thực hành trong cuộc sống. Các tri thức học được về đạo, các tâm tình sốt
mến chỉ đạt được độ chín muồi khi chúng được kéo dài và diễn tả trong cuộc
sống. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự biết Chúa và chỉ thực sự yêu Ngài khi
sống theo lời Ngài dạy. Như vậy, hành vi đức tin diễn ra không chỉ khi ta đọc
kinh hoặc cầu nguyện sốt sắng, mà cả khi ta thực hành những quyết định cụ thể.
Việc cố gắng giữ mình khỏi lỗi phạm một điều Chúa dạy là sự kéo dài tâm tình
của giờ cầu nguyện trước đó và có giá trị tương đương như một lời cầu nguyện.
Tóm lại, nếu hiểu hành vi đức tin bao gồm đồng thời cả ba chiều
kích biết, cảm, sống thì ta sẽ hiểu tại sao học thuộc giáo lý mà thiếu tâm tình
yêu mến Chúa (chiều kích 1) thì cũng chưa phải là có đức tin đích thực. Tương
tự, dạt dào cảm xúc yêu mến mà chưa thực hiện điều Chúa dạy (chiều kích 3) thì
cũng chưa thực sự yêu mến Chúa trong đức tin, mà chỉ mới yêu Chúa với cảm xúc
nhân loại chóng qua. Và cuối cùng, việc có cảm xúc dạt dào hoặc thực hành đúng
đắn lời Chúa dạy không miễn cho ta khỏi phải học hỏi các chân lý đức tin và
tham gia vào đời sống Giáo Hội (chiều kích 2), mà ngược lại, luôn giả định, đi
đôi và dẫn đến điều đó[10].
II. Đức Kitô – căn tính độc đáo của đức tin Kitô
giáo
Những điều nói ở trên liên quan đến hành vi con người đáp lại lời
mời gọi yêu thương của Thiên Chúa là những đặc tính chung của nhiều hình thức
đức tin kể cả ngoài Kitô giáo, nên chưa nói gì về tính độc đáo của đức tin Kitô
giáo.
Chúng ta chỉ có thể nhìn rõ căn tính độc đáo của đức tin Kitô giáo
và nhờ thế hiểu hơn về đức tin đó nếu nhìn vào Đức Kitô. Trong phần này chúng
ta sẽ tìm hiểu Đức Kitô cung cấp căn tính cho đức tin Kitô giáo như thế nào
bằng việc khảo sát vai trò độc đáo của Ngài liên quan tới ba chiều kích nói
trên của đức tin.
1. Chiều kích tâm cảm – Đức Kitô làm cho đức tin
khả dĩ xảy ra
Trong hành vi đức tin, cũng như các tín hữu của các hình thức đức
tin khác, Kitô hữu yêu mến phó thác bản thân mình cho Thiên Chúa; nhưng khác
với quan điểm và tâm tình của họ, Kitô hữu tín thác vào một Thiên Chúa hiện
thân nơi Đức Kitô. Thiên Chúa của Kitô giáo không chỉ là một thực tại siêu
việt, huyền bí và nội tại trong cõi sâu thẳm của lòng người nhưng còn làm người
trong lịch sử, nơi Đức Kitô Giêsu thành Nagiaret. Vì thế, đức tin Kitô giáo,
trong chiều kích tâm cảm, không chỉ là phó thác thân phận thụ tạo giới hạn của
mình cho Đấng Toàn Năng Siêu Việt ở ngoài thế giới này, mà còn là chấp nhận đi
vào trong tương quan cá vị, là yêu mến và phó thác bản thân cho Đức Kitô – một Đấng
đã sống trong lịch sử nhân loại, đã chết và đang sống trong vinh quang Phục
Sinh.
Điều này nói lên căn tính độc đáo của đức tin Kitô giáo, vì Đức
Kitô, tuy là một Ngôi Vị Thiên Chúa, có thể tương quan với con người trong mức
độ nhân loại. Ngài đến với chúng ta trong tư cách là Thiên Chúa nhưng cũng là
một con người. Ngài yêu chúng ta bằng tình yêu Thiên Chúa nhưng với một trái
tim nhân loại và Ngài cũng có thể là đối tượng của tình cảm nhân bản của
chúng ta, cũng như của những tiếp cận trên bình diện lịch sử của chúng ta.
Hệ quả là, đức tin Kitô giáo, trong chiều kích tâm cảm, tự bản
chất hàm chứa một mối căng thẳng và liên hệ biện chứng giữa tình yêu Thiên Chúa
và tình yêu nhân loại. Thiên Chúa đã làm người để có thể yêu chúng ta bằng một
trái tim nhân loại, nên đã làm cho tình yêu nhân loại của chúng ta có khả năng hướng
tới Thiên Chúa và tham gia vào tính chất thần linh của tình yêu của
Ngài. Điều này thật sự khả dĩ và đã xảy ra nơi Đức Kitô. Trong nhân tính của
mình, Ngài đã yêu mến Cha bằng trái tim nhân loại, và vì thế, đã thăng hoa tình
yêu đó, làm cho nó tham dự vào mối Hiệp Thông thần linh giữa Ba Ngôi.
Vì thế, khi yêu mến Đức Kitô trong đức tin, chúng ta không yêu Ngài
như yêu một Siêu Ngã, nhưng cũng không đơn thuần như một người khác. Tình yêu
nhân loại của chúng ta dành cho Ngài, trong đức tin, đã được nâng lên một tầm
cấp khác, có khả năng trở thành “đối tác”, đáp lại Tình Yêu đi bước trước của
Thiên Chúa. Điều này giải thích khả thể của đức tin nói chung và của đức tin
Kitô giáo nói riêng. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người nơi Đức Kitô đã cung cấp
câu trả lời cụ thể dứt khoát cho câu hỏi “Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt trong
khi con người là thụ tạo giới hạn, làm sao mà con người có thể trở thành ‘đối
tác’ của Thiên Chúa trong hành vi đức tin được?”
2. Chiều kích lý trí – Đức Kitô quy định nội
dung và hình thức diễn tả đức tin
Trong chiều kích lý trí, đức tin Kitô giáo nhận biết Thiên Chúa là
ai và chấp nhận những điều Ngài dạy bảo, nhưng tất cả những điều đó phải có nội
dung như Đức Kitô đã mặc khải bằng lời dạy và lối sống của Ngài. Mà nội dung
của lời dạy và lối sống của Đức Kitô thì có thể được xác định khá rõ ràng và cụ
thể: Ngài hiện thực hoá và rao giảng về Nước Trời, Ngài tương quan với Thiên
Chúa như Cha của Ngài, Ngài sống một cuộc sống vị tha mà tột đỉnh là cái chết
trên thập tự giá. Như vậy, nội dung đức tin Kitô giáo không bắt nguồn từ
một hệ thống suy lý nào, cũng không được rút ra từ một nguyên lý phổ quát nào,
nhưng bị quy định, một cách “võ đoán”, bởi chính lời dạy và lối sống đặc thù
của Đức Kitô[11].
Nội dung đặc thù này của đức tin Kitô giáo luôn cần phải được diễn
tả trong tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện, và chính Đức Kitô cũng cung cấp
tiêu chuẩn cho việc diễn tả này. Mọi khẳng định cũng như tuyên bố thần học, mọi
cử hành phụng vụ và cả các hình thức cầu nguyện đều lấy Đức Kitô làm trung tâm
và bị quy định bởi lời dạy và lối sống của Ngài.
Để thấy rõ Đức Kitô quy định các hình thức diễn tả đức tin
Kitô giáo thế nào, chúng ta chỉ cần xét vấn đề về vai trò của ngôn ngữ trong
kinh nghiệm đức tin. Theo Gadamer, ngôn ngữ là trung gian của kinh nghiệm và là
phương tiện để chúng ta hiểu thế giới[12]. Vậy kinh nghiệm đức tin luôn phải mang chiều kích ngôn
ngữ. Hay nói cách khác, chúng ta luôn cần tới ngôn ngữ để có thể có kinh nghiệm
đức tin đích thực, đó là chưa đề cập đến việc phải diễn tả và truyền thông kinh
nghiệm đó cho người khác. Vấn đề đặt ra là chúng ta dùng thứ ngôn ngữ nào trong
kinh nghiệm của đức tin. Chính ở đây mà chúng ta thấy vai trò thiết yếu của Đức
Kitô – Đấng là Ngôi Lời – đối với kinh nghiệm đức tin Kitô giáo.
Ngôn ngữ con người mang tính lịch sử và bị ảnh hưởng – kể cả theo
nghĩa xấu, tức bị nhuốm bẩn, trở nên hàm hồ, thô tục – bởi não trạng văn hoá và
các cảnh huống xã hội. Vì thế, nếu kinh nghiệm đức tin được tiếp cận và diễn tả
qua trung gian một thứ ngôn ngữ hàm hồ, mang nặng ảnh hưởng của tội thì chính
kinh nghiệm đức tin cũng bị bóp méo và tha hoá. Ngôn ngữ con người có thể là
biểu hiện của cái tôi đầy tham vọng bá chủ và ước muốn vận dụng, điều khiển
những cái khác ngoài mình. Chính Đức Kitô – Lời đích thực – sẽ cung cấp cho
kinh nghiệm đức tin một ngôn ngữ tinh tuyền, phù hợp và xứng đáng với kinh
nghiệm đó. Ngài là Ngôn Ngữ của Thiên Chúa đã “hoá ra không” (Pl 2,7) để “trở
nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngài là hiện thân cho ngôn
ngữ của tương quan liên vị, yêu thương và cho đi.
3. Chiều kích thực hành – Đức Kitô chịu đóng
đinh là lý tưởng cốt lõi của đời sống đức tin
Đức tin Kitô giáo nhất thiết phải được diễn tả, không chỉ trong
thần học, tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện mà còn trong cuộc sống. Vậy đâu là
những đặc tính của lối sống Kitô hữu? Có sự khác biệt thiết yếu nào giữa Kitô
hữu và tín hữu các đạo khác không? Phải chăng Kitô hữu cũng giống các tín hữu
theo các niềm tin khác trong việc “ăn ngay ở lành” mà thôi?
Chúng ta phải khẳng định rằng lối sống của con người có sự khác
biệt tuỳ thuộc vào việc họ tin hay không tin vào Đức Kitô. Và chúng ta chỉ thấy
được sự khác biệt đó khi ý thức về tầm quan trọng của Đức Kitô đối với đức tin
Kitô giáo.
Trước hết, lối sống Kitô hữu được rập khuôn theo lối sống đặc thù
của Đức Kitô, Đấng đã sống trong lịch sử này. Ngài không chỉ luôn sống vì người
khác – như bao vị thánh nhân khác trong lịch sử loài người – nhưng còn luôn vâng
phục Ý Cha. Toàn bộ cuộc sống, mọi ý nghĩa và hành vi của Ngài được nuôi
sống và thúc đẩy chỉ bởi một động lực duy nhất là Thánh Ý của Thiên Chúa mà
Ngài tương quan như Cha. Chính vì vâng phục Cha mà Ngài sống xả thân vì người
khác và vì nhân loại nói chung. Tình yêu thương đồng loại của Đức Kitô có nguồn
gốc và động lực thần linh, bắt nguồn và tham dự vào Tình Yêu vĩnh cửu giữa Cha
với Ngài.
Chính vì thế mà lối sống Kitô hữu, vốn cũng được đóng ấn bằng tình
yêu thương nhân loại, mang một nét rất độc đáo, vì có nguồn gốc và động lực
thần linh: chúng ta yêu thương người khác là bởi vì chúng ta yêu mến Đức
Kitô và vì họ là hình ảnh của Ngài (Mt 25, 31-46). Tình yêu thương phải mang
đặc nét này thì mới được gọi là tình yêu thương Kitô giáo. Câu hỏi được đặt ra
là, khi yêu thương người khác vì Đức Kitô như vậy thì ta có yêu thương họ thật
sự vì lợi ích của chính họ không hay chỉ dùng họ như bình phong để yêu mến Đức
Kitô? Câu trả lời đã được gợi ý trong phần nói về vai trò của Đức Kitô đối với
đức tin Kitô giáo trong chiều kích tâm cảm. Tình yêu thương Kitô giáo không mâu
thuẫn, bóp méo hay lạm dụng tình yêu thương nhân loại, mà ngược lại, làm cho nó
đích thực hơn, và hơn nữa, nâng nó lên một cấp độ mới hoàn hảo và có giá trị
hơn gấp bội. Làm sao ta biết ta yêu thương một người cách hoàn toàn tự do, vô
vị kỷ và mang lại lợi ích cho họ[13]? Chính tình yêu đối với Đức Kitô sẽ làm cho tình yêu
đồng loại của chúng ta tinh tuyền hơn, thoát khỏi những toan tính của cái tôi
quy kỷ và tội lỗi. Tình yêu đối với Đức Kitô cũng bảo đảm rằng khi yêu đồng
loại, chúng ta làm điều tốt cho họ và dẫn đưa họ tới hạnh phúc. Vì tình yêu
trong đức tin đối với Đức Kitô là tình yêu đã được ân sủng Thiên Chúa nâng lên,
được tham dự vào mối Hiệp Thông tràn đầy hạnh phúc, niềm vui và bình an giữa Ba
Ngôi Thiên Chúa (x. 1Ga 1,3).
Thứ đến, cũng chính động lực vâng phục Thánh Ý Cha đã mặc cho lối
sống của Đức Kitô một hình thức độc nhất vô nhị. Lối sống vì người khác của
Ngài không thể được xếp vào bất cứ phân loại nào mà người thời nay có kinh
nghiệm. Ngài đã không chữa lành người ta như một bác sĩ, đã không giúp đỡ người
nghèo như một nhà làm công tác xã hội, đã không cải hoá xã hội như một nhà cách
mạng, đã không chết một cái chết già bình thường, nhưng chết trẻ cách tức tưởi
như một tội nhân. Vì vâng phục Cha mà Ngài không chỉ sống vì người khác cách
chung chung, nhưng thể hiện lối sống đó bằng những hình thức đặc thù của sự
“hoá ra không” (kenôsis – x. Pl 2,7) của Mầu Nhiệm Làm Người: nghèo khó, khiêm
hạ, khiết tịnh và đặc biệt là cái chết nhục nhã trên thập tự giá.
Mầu nhiệm “hoá ra không” mà đỉnh cao là cái chết trên Thập Giá
làm nên căn tính độc đáo của lối sống Đức Kitô cũng như lối sống Kitô hữu.
Kitô hữu không đơn thuần chỉ là những người “ăn ngay ở lành”, mà là những chứng
nhân có lối sống được đánh dấu bởi Thập Giá. Làm chứng tá, ngay cả bằng cái
chết tử vì đạo (martyr – chứng tá) là tiêu chuẩn không thể thiếu của đời sống
đức tin Kitô giáo[14]. Hơn bao giờ hết, trong thời đại trần tục
hoá và đa nguyên tôn giáo này chúng ta cần phải ý thức sâu xa hơn đặc nét này
của đời sống đức tin Kitô giáo. Kitô hữu khi tìm cách hoà nhập vào xã hội họ
đang sống, có nguy cơ bị “hoà tan” đến nỗi hạt muối đức tin của họ không còn
mặn nữa (x. Mt 5,13) nếu họ quên đi dấu ấn của Thập Giá trên cuộc sống mình.
Chỉ khi ý thức mình là những môn đệ đi theo bước chân của Đức Kitô vác thập giá
và chịu đóng đinh thì Kitô hữu mới có đủ động lực và can đảm chịu dèm pha, chịu
gạt ra lề để sống sự khác biệt của lối sống Kitô giáo. Chỉ khi đó Kitô hữu mới
xác định chắc chắn được căn tính của mình để có thể đi vào cuộc đối thoại
đích thực, chân thành và bình đẳng với các tín hữu của các tôn giáo khác.
Cuối cùng, phải nói rằng, lối sống của Đức Kitô độc đáo không chủ
yếu ở hình thức, mà do chính Ngôi Vị Ngài. Không phải cái chết trên Thập Giá
làm cho lối sống Đức Kitô trở nên độc đáo, mà ngược lại, chính Ngài – với tư
cách là Con Thiên Chúa – làm cho cái chết trên Thập Giá mang đặc tính độc nhất
vô nhị – là biến cố qua đó Thiên Chúa cứu độ con người. Như vậy, đời sống Kitô
hữu có giá trị, trước hết không phải là vì mang những hình thức giống với lối
sống của Đức Kitô, mà là vì được Đức Kitô bảo đảm cho có giá trị độc
đáo. Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô, nên cuộc sống của họ là cuộc
sống của Nhiệm Thể, được Đức Kitô đảm nhận, thánh hóa và làm cho có giá trị cứu
độ.
Kết luận
Có nhiều cách để tìm hiểu và nhận ra vai trò thiết yếu của Đức
Kitô đối với đức tin Kitô giáo. Chúng ta đã làm điều đó bằng cách phân tích ba
chiều kích tâm cảm, lý trí và thực hành của đức tin Kitô giáo. Lựa chọn này
phát xuất từ mong muốn giải đáp những vấn nạn và hiện trạng thực tế của đời
sống Kitô hữu Việt Nam liên quan tới đức tin, cầu nguyện và thực hành đức tin.
Hiểu thấu đáo về ba chiều kích của đức tin sẽ giúp Kitô hữu sống
đức tin cách hội nhất và toàn diện hơn. Họ được mời gọi tiếp cận với Chúa cách
cá vị hơn, tham gia tích cực và toàn diện hơn vào đời sống và các hoạt động học
hỏi, cầu nguyện, phượng tự của Giáo Hội, và cuối cùng là nối dài tâm tình đức
tin ra cuộc sống hằng ngày, với xác tín của một môn đệ làm chứng tá cho Đức
Kitô chịu đóng đinh.
Tìm hiểu vai trò thiết yếu của Đức Kitô đối với đức tin, Kitô hữu
nhận ra căn tính độc đáo của mình cả trong tâm tình tôn giáo, lẫn trong tuyên
xưng cũng như cử hành tôn giáo để từ đó có xác tín và can đảm thể hiện lối sống
độc đáo của đức tin Kitô giáo trong thực tế xã hội đa tôn giáo và đang ngày
càng bị ảnh hưởng bởi trào lưu trần tục hoá.
03.06.2012
Nguyễn Hai Tính, SJ
Nguyễn Hai Tính, SJ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét