SUY NIỆM PHÚC ÂM (IV B
40);(12.08.2012);(Ga 6, 41-51)
CHÚA NHẬT XIX PHỤNG VỤ THƯỜNG
NIÊN, NĂM B
NGUYỄN HỌC TẬP - Phúc
Âm Chúa Nhật hôm nay là đoạn Phúc Âm thứ ba của chương 6.
Liên tiếp ba đoạn Phúc Âm của chương
6, Phúc Âm Thánh Gioan được Ủy Ban Phụng Vụ dùng trong Thánh Lễ, như là những
mủi tên hướng dẫn tuần tự để chúng ta tiến đến đoạn Phúc Âm thượng đỉnh của
Chúa Nhật tuần sau, đoạn Phúc Âm nói về phép Thánh Thể.
Chúng ta còn nhớ cách đây hai tuần,
đoạn đầu của chương 6 Phúc Âm Thánh Gioan nói về phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh và
cá ra nhiều (Ga 6, 1-15);
trong Phúc Âm của Chúa Nhật tuần vừa
rồi Chúa Giêsu tuyên bố với dân chúng đi theo Ngài rằng "Bánh trường
sinh, chính là Ta" (Ga 6, 24-35);
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 6, 41-
51) dạy chúng ta Chúa Giêsu là "bánh từ trời xuống", được Chúa
Cha ban cho chúng ta;
và Phúc Âm Chúa Nhật tuần sau là
đoạn Phúc Âm Thượng Đỉnh (Ga 6, 51-58) nói về Phép Thánh Thể, Chúa Giêsu ban cho
chúng ta "thịt và máu Ngài", ban cho chúng ta chính Ngài, Ngôi
Lời Thiên Chúa Nhập Thể là sức sống và niềm hạnh phúc của nhân loại.
Phép Thánh Thể là Thượng Đỉnh và là
Trung Tâm Điểm của đức tin Ki Tô giáo.
Trước khi suy niệm về đoạn Phúc Âm
của Phép Thánh Thể Chúa Nhật tuần tới, chúng ta dừng lại ở những gì Chúa Giêsu
muốn nói với chúng ta trong Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, việc dấn thân chuyên cần
phải có trong đức tin để được hướng dẫn đến tham dự vào phép Thánh Thể.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay được
mở đầu bằng những lời bàn tán và phản đối của những kẻ đến nghe Chúa Giêsu
giảng dạy, vì Ngài nói với họ rằng Ngài là bánh từ trời xuống:
- "Người Do Thái liền xì xầm
phản đối, bởi vì Chúa Giêsu đã nói: Bánh từ trời xuống, chính là Ta" (Ga 6, 41).
Có lẽ bản dịch Việt Ngữ chúng ta
dịch "người Do Thái" không được chính xác cho bằng "người
Galilê", tức là những người Do Thái cư ngụ ở Galilea, những người đồng
hương với Chúa Giêsu, bởi lẽ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong Hội Đường ở Capharnao,
xứ Galilea (Ga 6, 24).
Và cũng chính vì họ là người Galilê,
đồng hương với Người, nên họ biết rõ thân nhân của Người và từ đó họ nghĩ rằng
họ đã biết tất cả về Người, nên họ mới xì xầm phản đối:
- "Ông nầy chẳng phải là ông
Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ
ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?" (Ga 6, 42).
Đứng trước thái độ bất thân thiện và
cứng tin đó của những người đồng hương, đã có lần Chúa Giêsu đành xuôi tay,
không làm một phép lạ nào ở Nazareth và đã phải thốt ra câu dường như nản
chí:
- "Ngôn sứ có bị rẻ rúng,
thì cũng chỉ là ở quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia
đình mình mà thôi " (Mc 6, 4).
Trong Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa
Giêsu mở ra một con đường hy vọng, con đường Người đã chỉ cho ông Nicôđêmô: "được
tái sinh và bởi ơn trên":
- "Ta bảo thật ông: không ai
có thể thấy được Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa và bởi ơn
trên" (Ga 3, 3).
Điều đó có nghĩa là để được cứu rỗi,
chúng ta phải nhờ có ơn Chúa hấp dẫn và kích thích chúng ta tiến đến đức
tin.
Được cứu rỗi không phải chỉ là "khỏi
sa hỏa ngục lổ máu đầu", "khỏi bị đốt cháy như thịt nướng, bị qủy
Lucifer cầm chĩa ba đâm lụi để tra tấn cực hình, như quan niệm thông thường của
dân chúng về hỏa ngục, mà là tham dự vào bản tính thần linh của Thiên Chúa,
tham dự vào chính đời sống hạnh phúc tuyệt đỉnh và bất diệt của Ba Ngôi Thiên
Chúa, như Thánh Phêrô dạy chúng ta:
- "Nhờ vinh quang và sức mạnh
ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã
hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa" (2Pt 1,
4).
Điều đó cắt nghĩa tại sao Chúa Giêsu
căn dặn các Tông Đồ làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, khi nhận dân
chúng vào làm môn đệ Người. Làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa là nhận
chìm người trở thành môn đệ, như nghi thức rửa tội thời các Cộng Đồng Ki Tô
Giáo tiên khởi, vào nguồn mạch sống thần linh hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên
Chúa:
- "Vậy anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần, dạy họ tuân giữa mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt
28, 19-20).
Như vậy được "cứu rỗi
", "được lên thiên đàng, được hưởng mặt Chúa đời đời", là
được "tham dự vào bản tính Thiên Chúa", tham dự vào đời sống
thần linh nội tại mà Chúa Ba Ngôi đang sống.
Một đặc ân như vậy, con người không
thể có được, nếu không tự chính Thiên Chúa mời gọi và ban cho chúng ta. Do đó
Chúa Giêsu dạy những người Galilei xì xầm bàn tán về Ngài, về thân nhân gia phả
của Ngài:
- "Các ông đừng có xì xầm
với nhau! Chẳng ai đến được với Ta, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Ta không lôi
kéo người ấy, và Ta, Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết"
(Ga 6, 44).
Qua câu Phúc Âm vừa kể, chúng ta có
hai yếu tố quan trọng: a) "đến được với Ta", b)"Và Ta,
Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết".
- "đến được với
Ta".
Thành ngữ "đến được với
Ta" được Thánh Gioan dùng nhiều lần từ chương 1-12, và ngay trong
chương 6 cũng đã dùng đến 6 lần để chỉ cuộc khởi đầu của hành trình đức tin vào
Chúa Giêsu :
- "Ta bảo thật các ông, các
ông đi tìm Ta, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được
ăn uống no nê" ( Ga 6, 26),
- "Bánh trường sinh , chính
là Ta. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào Ta , chẳng khát bao
giờ" (Ga 6, 35),
- "Tất cả những người Chúa
Cha ban cho Ta, đều sẽ đến với Ta" ( Ga 6, 37),
- "Vì thế Thầy đã bảo anh em
: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho" (Ga 6,
65).
… Như vậy trong thành ngữ
"đến với Ta" hay "tin vào Ta" vừa đọc, chúng
ta thấy được động tác cần thiết phải có để thu ngắn khoảng cách giữa chúng ta
và Chúa Giêsu, chúng ta phải đứng dậy, ra đi, bỏ lại trạng thái thụ động, dấn
thân đi tìm đến Chúa Giêsu, nguồn mạch sự sống và hạnh phúc của nhân loại
:
- "ai đến với Ta không hề
phải đói, ai tin vào Ta, chẳng khát bao giờ".
Mỗi người chúng ta được dựng nên đều
mang một khoảng trống khao khát hạnh phúc vô tận trong tâm hồn. Và hể là con
người, ai trong chúng ta cũng quờ quạng đi tìm hạnh phúc.
Và chính để đáp lại niềm khao khát
hạnh phúc vô tận đó, mà Chúa Giêsu nhập thể mặc khải Thiên Chúa là cùng đích
của niềm khao khát hạnh phúc đó :
- "Ai đến với Ta không hề
phải đói, ai tin vào Ta, chẳng khát bao giờ"(Ga 6, 35),
- "Bánh từ trời xuống, chính
là Ta… Bánh hằng sống từ trời xuống, chính là Ta. Ai ăn bánh nầy sẽ được sống
muôn đời" (Ga 6, 41.51).
Nhưng để đến được với Chúa Giêsu,
chúng ta khởi đầu cuộc hành trình đức tin của chúng ta một cách quờ quạng, u
tối như ông Nicôđêmô bắt đầu "đến" với Chúa Giêsu ban
đêm:
- "Trong nhóm Pharisêu có một
người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái. Ông đến gặp Chúa Giêsu
ban đêm" (Ga 3, 1-2).
Dần dần niềm tin được sáng tỏ hơn,
khi ông bắt đầu tiếp xúc với Chúa Giêsu, và can đảm dứng ra bênh vực
Ngài:
- "Trong nhóm Pharisêu có
một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu. Ông nói với họ:
Luật lệ chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người
ấy làm gì không ?"
Và sau cùng đức tin được chiếu sáng,
ông trở thành người thân tính của Chúa Giêsu, lo mọi chuyện cho Ngài :
- "Ông Nicôđêmô cũng đến.
Ông nầy trước kia đã đến găïp Chúa Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm
cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vãi
tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do Thái" (Ga
19, 39-40),
Như vậy "đến với Ta
được" là tiến trình đức tin khởi hành và bước đi, đòi hỏi những
cố gắng và chuyên cần của mình, để đi về phía Chúa Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể
mạc khải tình thương của Thiên Chúa và nguồn sống hạnh phúc mà Thiên Chúa ban
cho con người.
Trong tiến trình đó, sức cố gắng
nhẫn nại và chuyên cần của con người được ân sủng Thiên Chúa soi sáng, hướng
dẫn và thu hút:
- "Chẳng ai đến được với Ta,
nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Ta không lôi kéo người ấy" (Ga 6,
44).
Như vậy tiến trình đức tin, con
người đi tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc bất diệt của con người là tiến trình
con người bước đi trong ân sủng và ánh sáng của Thiên Chúa.
- "Và Ta, Ta sẽ cho người ấy
sống lại trong ngày sau hết"
Đọc lại nguyên câu Phúc Âm :
- "Chẳng ai đến với Ta được,
nếu Chúa Cha là Đấng sai Ta, không lôi kéo người ấy, và Ta, Ta sẽ cho người ấy
sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 44),
chúng ta sẽ thấy được rằng đức tin, "đến
với Ta được », là khởi thủy cho sự sống đời đời, bởi lẽ chính Chúa Giêsu là bảo
chứng cho sự sống vĩnh viễn đối với những ai tin vào Ngài, "Ta sẽ cho
người ấy sống lại trong ngày sau hết".
Cuộc sống trần gian của mọi người
chúng ta sẽ kết thúc,
- "Homo mortalis est"
(Mọi người đều phải chết),
Nhưng nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu,
chính Ngài sẽ làm cho chúng ta "sống lại trong ngày sau hết",
để bảo đảm cho chúng ta cuộc sống vĩnh viễn tham dự vào bản tính Thiên
Chúa.
Như vậy cuộc sống hạnh phúc vĩnh
viễn, được tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, đối với Thánh
Gioan đã bắt đầu trong hiện tại, từ lúc chúng ta khởi hành cuộc hành trình đức
tin của chúng ta vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu sẽ làm cho chúng ta "sống
lại trong ngày sau hết" để sống cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn,
nhưng hạnh phúc bất diệt đó, ngay từ bây giờ, ngay từ lúc khởi đầu cuộc hành
trình niềm tin vào Ngài, Ngài đã bắt đầu cho người Tín Hữu Chúa Ki Tô được dự
phần ngay ở trần gian nầy, bởi lẽ Chúa Giêsu phán :
- "Bánh hằng sống từ trời
xuống, chính là Ta. Ai ăn bánh nầy sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta ban, chính
là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51).
Trong Thánh Thể, người tín hữu Chúa
Ki Tô thông hiệp với Chúa Giêsu, là Thiên Chúa Nhập Thể, thông hiệp với "bản
tính Thiên Chúa", với đời sống hạnh phúc bất diệt nội tại của Thiên
Chúa Ba Ngôi, ngay ở trần gian nầy.
Thánh Thể là Bí Tích Nhập Thể, trong
đó Thiên Chúa giáng trần làm cho con người có thể tiếp xúc với Người và được
Người ban cho đời sống hạnh phúc bất diệt của Thiên Chúa :
- "Và bánh Ta ban, chính là
thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51b).
Nguyễn Học
Tập - thanhnienconggiao blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét