Người đăng: hoctran
Lời tuyên tín “Tôi tin Giáo Hội thánh thiện” có thể
gây phản ứng nơi nhiều người, nhất là những người không cùng tôn giáo với chúng
ta. “Thánh thiện”, cùng với “Duy nhất, Công giáo và Tông truyền” là bốn đặc
tính của Giáo Hội. Mỗi khi tuyên đọc bằng môi miệng, người tín hữu được mời gọi
suy tư để hiểu và sống chính điều mình tuyên xưng.
–
Giáo Hội thánh thiện: một thực tại nghiệt ngã
Lịch
sử Giáo Hội được đan xen bởi ánh sáng và bóng tối. Nếu Giáo Hội tự hào vì đã có
những người con thánh thiện, góp phần làm thay đổi thế giới, thì Giáo Hội cũng
đau lòng vì đã có nhiều lầm lỗi do con cái mình gây nên. Có những lỗi lầm do
một số người nắm giữ địa vị cao trong Giáo Hội là thủ phạm, gây nên nhiều tổn
thương và làm hình ảnh tốt đẹp của Giáo Hội bị biến dạng.
Giáo
Hội thánh thiện vì do Chúa Giêsu thiết lập, nhưng cũng còn nhiều tội lỗi vì
Giáo Hội bao gồm những con người còn mang nặng những đam mê. Thiên Chúa là Đấng
chí thánh, nhưng vì Ngài được loan báo bởi những con người còn nặng nề xác
thịt, nên hình ảnh của Ngài chưa được diễn tả cách trung thực. Giáo Hội thánh
thiện vì mang tính thần thiêng, nhưng cũng còn nhiều bất toàn vì nặng màu trần
thế. Trong lịch sử, đã có lúc những vụ bê bối xảy ra ngay tại giáo triều Rôma,
nơi những vị lãnh đạo cao nhất của Giáo Hội. Ngày hôm nay, trong Giáo Hội, vẫn
còn đó những bất toàn, tranh chấp và tội lỗi. Những yếu đuối và tội lỗi của con
cái Giáo Hội đã và còn đang gây khó khăn cho sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Giáo
Hội không phủ nhận những khuyết điểm của mình, nhưng can đảm nhìn nhận chúng,
như một thực tại đau buồn của Dân Chúa trong cuộc lữ hành trần gian. Giáo Hội
cũng thấy rõ bổn phận của mình là phải sám hối và thanh tẩy. Công đồng Vatican
II đã nhìn nhận: “Nhưng Chúa Kitô thánh thiện, vô tội và tinh tuyền, không
hề phạm tội chỉ đến để đền tội lỗi dân chúng, còn Giáo Hội, vì ôm ấp những kẻ
có tội trong lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó,
Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân” (GH 8). Thánh Ambrôsiô
đã viết: “Giáo Hội quả mang dáng dấp của một tội nhân, vì Chúa Kitô cũng
từng mang dáng dấp của một tội nhân như thế” (In Lucam VI, 21). Hình ảnh
thửa ruộng vừa có lúa vừa có cỏ lùng cho thấy một Giáo Hội thời nào cũng bao
gồm những người tốt và người chưa tốt và Giáo Hội phải đón nhận hết thảy với
lòng bao dung nhân từ (x. Mt 13,24-30).
Trước
thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi các
môn đệ của Chúa Kitô cùng thanh tẩy ký ức, sám hối vì một quá khứ đau thương do
tội lỗi của các phần tử Giáo Hội gây nên. Ngài viết: “Bởi thế, trong khi
thiên niên thứ hai gần hết, Giáo Hội càng cần phải hoàn toàn nhận thức được tội
lỗi của con cái mình, nhớ lại tất cả những lúc, trải qua theo giòng lịch sử, họ
đã xa rời tinh thần của Chúa Kitô và Phúc Âm của Người, thay vì hiến cho thế
giới một chứng từ của một đời sống được thúc đẩy bởi những giá trị đức tin, thì
lại tìm thỏa mãn bằng những cách suy tư và hành động dưới những hình thức thực
sự phản chứng tá và gây gương mù. Được tháp nhập vào Chúa Kitô, mặc dù là
thánh, Giáo Hội không hề mệt mỏi trong việc thực hiện việc thống hối: Trước
nhan Thiên Chúa và trước mặt con người, Giáo Hội luôn luôn công nhận
những người con nam nữ tội lỗi như là của riêng mình” (Tông thư Tertio
millennio adveniente, số 33).
Cũng
chính vị Giáo Hoàng này đã đi tiên phong trong việc khiêm tốn nhìn nhận những
lỗi lầm của quá khứ. Ngày 12-3-2000, ngài chính thức xin lỗi toàn thế giới về
những sai trái và lỗi lầm mà Giáo Hội đã vi phạm hoặc làm ngơ trong suốt 2000
năm lịch sử. Tiếp đó, từ ngày 20 đến ngày 26-3-2000, ngài thực hiện chuyến
viếng thăm Israel. Đây là cuộc hành hương về nguồn theo chân Môsê và Đức Kitô.
Trong nghi lễ được cử hành tại đài tưởng niệm Yad Vashem ở Giêrusalem, và tại
Bức Tường Than Khóc vào ngày 26-3-2000, Đức Gioan Phaolô II đã lặp lại lời xin
lỗi người Do thái về các sơ suất lầm lỡ mà Hội thánh khi xưa đã phạm.
Như
thế, khi tuyên xưng Giáo Hội thánh thiện, các tín hữu được mời gọi khiêm tốn
nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình. Trong tình liên đới chung chia trách
nhiệm, chúng ta cũng cần nhận ra những khuyết điểm của anh chị em đồng đạo trải
qua suốt bề dày của lịch sử Giáo Hội. Do cách ăn nết ở của một số tín hữu, thân
thể Giáo Hội đã bị bầm dập, đau thương, với những hậu quả tai hại khôn lường.
–
Giáo Hội thánh thiện: một giấc mơ chưa tròn
Khi
tuyên xưng Giáo Hội thánh thiện, chúng ta được nhắc nhớ lệnh truyền của Chúa: “Anh
em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt
5,48). Nên thánh là một ơn gọi, đồng thời cũng là một sứ mạng cao cả đối với
người tín hữu. Có những lúc chúng ta nghĩ đó là một mục tiêu không tưởng, xa
vời. Chúa không bảo chúng ta nên trọn lành theo mẫu mực của một con người trần
gian, nhưng trọn lành giống như Chúa. Trên đời này, chẳng có ai xứng
đáng làm mẫu mực cho sự thánh thiện, “chỉ có Chúa là Đấng Thánh, Chỉ có
Chúa là Đấng Tối cao”. Con đường nên thánh của chúng ta xem ra rất dài và
rất cam go. Hành trình nên thánh xuất phát từ dưới đất, mà đích điểm lại ở trên
trời. Vì thế, nên thánh là một chuỗi dài của những thao luyện phấn đấu không
ngừng. Ước vọng nên thánh gắn liền với cuộc đời chúng ta, như hơi thở, như
lương thực hằng sống. Lý tưởng nên thánh giống như một giấc mơ chưa tròn, nên
còn phải cố gắng mãi mãi.
Lời
gọi mời nên thánh được gửi tới hết mọi người. Thánh Anphongsô đã viết: “Mọi
Kitô hữu đều có thể nên thánh theo cương vị của mình: tu sĩ như là tu sĩ, giáo
dân như là giáo dân, linh mục như là linh mục, người lập gia đình như là người
có gia đình, thương gia như là thương gia, binh sĩ như là binh sĩ, và cứ như
thế đối với mọi giai tầng xã hội khác”. Công đồng Vatican II nhắn nhủ: “Tất
cả mọi người trong Giáo Hội – hoặc thuộc hàng Giáo phẩm, hoặc được hàng Giáo
phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh” (GH 39). Ngỏ lời với 80.000 bạn
trẻ tại sân vận động Milanô (Italia) ngày 2-6-2012, Đức Bênêđictô XVI nói: “Sự
thánh thiện không chỉ được dành riêng cho một số người, mà đó là con đường bình
thường của người Kitô hữu. Mọi người đều có thể nên thánh, với ánh sáng và sức
mạnh của Chúa Thánh Thần, dưới sự hướng dẫn của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu… Xin
Đức Nữ Trinh gìn giữ lời xin vâng tươi sáng mà chúng con đã thưa với Chúa
Giêsu, Con của Người, cũng là Bạn tín trung của đời sống chúng ta” (Zenit,
2-6-2012).
Một
cách cụ thể, thế nào là nên thánh, hay phải làm gì để nên thánh?
Như
Đức Giêsu là Đấng thánh, Kitô hữu là người mang danh Đức Kitô, có sứ mạng trau
dồi bản thân để trở nên giống như Người. Nên thánh là nên giống Chúa Giêsu, có
trái tim như trái tim của Chúa, có suy nghĩ và hành động như Chúa. Nhờ nên
giống Chúa, chúng ta không còn sợ hãi trước những thử thách gian nan của cuộc
đời, vì chúng ta tin chắc rằng Chúa đã chiến thắng, đã phục sinh. Trong hành
trình nên thánh rất dài và rất xa này, chúng ta được Lời Chúa khích lệ: “Ơn
của Ta đủ cho con, vì sức mạnh của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”
(2 Cr 12,9); “Hãy can đảm lên, Thày đã thắng thế gian!” (Ga 16,33).
Thánh Phanxicô Salê đã luôn đặt câu hỏi cho chính mình: “Ông kia bà nọ nên
thánh được, tại sao tôi không?” Câu hỏi ấy đã giúp ngài nên hoàn thiện.
Như vậy, nên thánh là một cuộc chiến đấu không ngừng để dần dần thuộc trọn về
Chúa, được Ngài chiếm hữu cuộc sống và mọi hành động của chúng ta.
Con
đường nên thánh rất đa dạng, mỗi người có thể chọn lựa phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh của mình. Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã đề nghị những phương
thế khác nhau để có thể đạt được hạnh phúc nước trời (x. Mt 5,1-12).
Đức ái
là một điều kiện không thể thiếu trong hành trình nên thánh. Công đồng Vaticanô
II đã viết: “Đức ái là mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn
của lề luật, nên đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình
thành và đạt được cùng đích”” (GH 42). Thiếu đức ái, những việc chúng ta
làm sẽ trở nên trống rỗng, vô giá trị. “Giả như tôi có nói được các thứ
tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi
cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi
được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay
có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi
cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả
thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi” (1Cr 13,1-3). Những cố gắng thực thi đức ái sẽ giúp chúng ta đến gần
Thiên Chúa hơn, đợi một ngày giấc mơ nên thánh của chúng ta được trọn vẹn, lúc
bấy giờ, chúng ta sẽ được gặp Chúa, mặt giáp mặt, trong tình yêu chan hòa.
–
Giáo Hội thánh thiện: một niềm hy vọng, cậy trông
“Làm
sao có thể nên thánh giống như Chúa Cha trên trời?” Nhiều người đã nản chí khi
thấy lý tưởng nên thánh quá xa vời. Phải chăng “nên thánh” chỉ là một thứ bánh
vẽ, một lý tưởng không thực, như một thứ mồi nhử nhằm ru ngủ con người? Chúng
ta tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn này nơi sự thánh thiện của Thiên Chúa
và sự thánh thiện của Giáo Hội.
Chúng
ta vững bước trong lý tưởng nên thánh vì có Chúa là Đấng luôn đồng hành, thêm
sức cho chúng ta. Ngài là Cha nhân hậu, luôn vỗ về ấp ủ như người mẹ nâng niu
con mình. Nơi Chúa, chúng ta tìm được niềm vui: “Như trẻ thơ nép mình lòng
mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv 130,2). Chúng ta cũng vững tin vì có
đông đảo các thánh nam nữ, là những người đã kiên trì trong thử thách gian nan
và đã đạt tới hào quang thánh thiện. Họ giống như những vận động viên khổ luyện
thành tài để đạt ngành nguyệt quế. Trong tiến trình nên thánh, chúng ta không
đơn lẻ một mình, mà có anh chị em, những người cùng chia sẻ với chúng ta niềm
vui đức tin, đỡ nâng chúng ta khi bi quan chán nản.
Mặc dù
chúng ta không thể nên thánh tự sức riêng mình, nhưng nhờ ơn Chúa thì mọi sự
đều có thể. Lịch sử Giáo Hội hơn hai ngàn năm qua đã chứng minh điều đó. Biết
bao người nam cũng như nữ, đã nhờ sức mạnh của Chúa mà đoạn tuyệt với quá khứ
xấu xa, vững vàng vươn tới ánh sáng, được Chúa đổi đời. Các vị thánh như
Phanxicô Xaviê, Phanxicô Assisi, Augustinô, Chân phước Charles de Foucauld… là
những người đã tỉnh cơn mê sau một thời hoang đàng và lầm lạc. Cuộc đời các
ngài là những bằng chứng hùng hồn cho quyền năng của Chúa, có sức hoán cải đổi
mới lòng người. “Không có Thày, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Nên thánh là cuộc gặp gỡ giữa ơn Chúa và nỗ lực của con người. “Lạy Chúa,
khi dựng nên con, Chúa không cần đến con, nhưng khi cứu chuộc con, Chúa cần con
cộng tác” (Thánh Augustinô). Những kết quả đạt được trong tiến trình hoàn
thiện không phải lý do để chúng ta kiêu ngạo hay khoe mình, trái lại, qua những
kết quả đó, chúng ta nhận ra sự quan phòng nhiệm màu và tình yêu thương bao la
của Chúa.
Lời
tuyên tín vào Giáo Hội thánh thiện nhắc chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày để làm
cho sự thánh thiện nơi cuộc đời chúng ta luôn tỏa sáng.
Lời tuyên
tín vào Giáo Hội thánh thiện thêm sức cho chúng ta khi chứng kiến những yếu
đuối của anh chị em mình trong gia đình Giáo Hội.
Lời
tuyên tín vào Giáo Hội thánh thiện giúp chúng ta yêu mến Giáo Hội hơn, cảm
thông và chia sẻ những lo âu và vui mừng của Giáo Hội. Trước những tội lỗi và
sai lầm trong lịch sử Giáo Hội, Henri de Lubac, nhà thần học và là hồng y, đã
đặt vấn đề “Tôi phải hiểu và đón nhận Giáo Hội này như thế nào?”, rồi
ngài đưa ra câu trả lời “Giáo Hội là Mẹ của tôi”.
Vâng,
Giáo Hội thánh thiện là Mẹ của chúng ta. Nếu biết trả lời như thế, chúng ta sẽ
dễ dàng vượt qua những khó khăn để tiếp tục bước đi trong con đường nên thánh.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: WHĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét