Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XXII TN – năm B


Người đăng: hoctran | 31.08.2012

A. BẢN VĂN (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23):

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ: TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHÀM VÀ ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA
Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, và nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài.
1- Ngữ cảnh
Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
3- Vài điểm chú giải
- tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về  thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như  thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).
- rửa tay cẩn thận (3):  Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.
- truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
- rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
- đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
- Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
- Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa… (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!
- Không có gì từ bên ngoài… (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
- những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
- Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
4- Ý nghĩa của bản văn
* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa? 
Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.   
* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+ Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, và nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.
5- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta được sống muôn đời.
2. Đối với chúng ta, điều quan trọng là ở trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa: sự trong sạch đích thực hệ tại điều này. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa.
3. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm. Chúng ta nghe Đức Giêsu nhắc lại các điều răn của Thiên Chúa, chúng ta đọc các điều răn ấy ra trên môi miệng, nhưng chúng ta có đưa các điều ấy đi vào trái tim chúng ta chăng?
4. Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài, và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng yêu mến. Chúng ta đi lễ, chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta nhận Mình thánh Chúa Kitô làm lương thực, chúng tat ham dự biết bao cuộc cử hành, thế nhưng khi gặp trên đường những người mà chúng ta đã ngồi bên cạnh, chúng ta đã bắt tay, có khi đã chia sẻ một chuyến hành hương, chúng ta giả bộ không quen biết họ! Vì vội chạy theo công việc làm ăn của thế giới tiêu thụ? Vì những con người ấy có thể làm nặng lòng chúng ta với những vấn đề của họ, nên cũng là có thể làm cho chúng ta mất những khoản lợi nhuận nào đó mà chúng ta đang theo đuổi? Thế thì chúng ta đặt Luật Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống chúng ta?
Bài 2. Chú giải và gợi ý chia sẻ của Lm Inhaxiô Hồ Thông: Những huấn lệnh của Thiên Chúa  là quy luật sống cho mỗi người tín hữu
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật là cách diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ tiếp đón Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm nầy chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dể dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu nầy cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
1. Lề Luật là nguồn sống:
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…” : Biểu thức nầy thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (“Shema Israel”), được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật nầy nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, vì thế đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời nầy là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm nầy, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa nầy tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được soạn thảo bởi các tư tế của vương quốc phương Bắc. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn nầy được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 BC.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 BC.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sẽ sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
2. Lề Luật bất khả xâm phạm:
“Anh em đừng thêm gì… cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép nầy nói lên nổi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức nầy được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách nầy! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn nầy, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách nầy” (Kh 22: 18-19).
Nhưng ông Mô-sê khéo léo hơn bất cứ ai công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật: ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
3. Lề Luật là lẽ khôn ngoan:
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Hy bá To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn nầy, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn ngữ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: là lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1)
4. Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại nầy chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”.
Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát nầy rất hiếm kể ra trong tác phẩm nầy. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc nầy trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
5. Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”.
Lời khẳng định nầy đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê nầy, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
1. Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành:
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
2. Người Ki tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa” gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
3. Đức tin năng động:
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiển: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư nầy.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư nầy. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói nầy vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ Bánh Trường Sinh được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
1. Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo:
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Tác giả chen vào cuộc tranh luận để giải thích dài dòng cho người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.  
2. Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su:
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dể bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới, để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật nầy không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
3. Ý nghĩa của cuộc tranh luận này:
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng nầy sẽ được tiếp tục bởi các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20). Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá nầy và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
Bài 3. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux: CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 – 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
Bài 4. Chú giải của Noel Quesson
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”, được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn”.
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
Bài 5. Chú giải của Fiches Dominicales: “GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh”, giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch” và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế”, do đó không được đi lại với những người này.
- Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan” do các môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết: “Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi,… Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy), luôn có một  bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
- Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
- Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là “những kẻ giả hình”, khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân” (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống” của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ”, đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa”. (sách đã dẫn, tr.194)
- Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám đông”. Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định của con người: đó là “lòng” họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế”.
M. Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)
- Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà”. Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách biệt ra”) và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại trừ” (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v…) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, “Tin Mừng thánh Maccô”, Centurion, tr. 103)
- Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ “ỡm ờ” này (Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình: “Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”. (14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối”, Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa” (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông”
2. Truyền thống là gì?
“Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn”, nghĩa là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế”. Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống”.
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.
3. Đức Giêsu giải phóng chúng ta
 “Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…”.

C. CÁC BÀI CHIA SẺ

Bài 1. Phải Biết Kiểm Ðiểm
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Gặp hoàn cảnh phải thức thời, con người thường hay do dự. Nhiều khi không phải vì sợ hãi, ngại ngùng; nhưng vì lương tâm bất an và bị giằng co. Một bên là những nguyên tắc luân lý và đạo đức trước đây; và bên kia là những đòi hỏi mới của hoàn cảnh. Làm sao để không thái quá và cũng không bất cập, không cấp tiến cũng không bảo thủ, mà chỉ tiến bộ hoặc tiên tiến? Chắc chắn phải vận dụng óc sáng tạo. Nhưng có lẽ cũng không nên quên những bài học của lịch sử. Và Sách Thánh cũng là một kho tàng khôn ngoan ngay cả về phương diện này. Những bài đọc Kinh Thánh hôm nay là một thí dụ. Chúng ta sẽ thấy vừa phải trung thành với các nguyên tắc đạo đức, vừa phải sáng suốt tiến bộ. Xin Chúa cho chúng ta biết hiểu lời của Người.
1. Phải Chọn Ðường Sống
Bài sách Thứ luật gợi lên một lịch sử đầy biến cố. Bề ngoài đó là những lời Môsê trối cho dân trước khi ông từ giã cõi trần. Ông đang ở bên kia sông Yorđan, biết mình không được vào Ðất Hứa. Dân sẽ được vào. Nhưng ở đó họ sẽ có được hạnh phúc không? Tất cả tùy thuộc ở thái độ của họ trung thành đối với Chúa… Thế mà kinh nghiệm những năm lãnh đạo dân cho Môsê biết Israel không phải là một dân vừa. Hơi gặp hoàn cảnh mới là họ đã sẵn sàng đi dệu dạo, chứ không nhất mực ngay thẳng theo đường lối của Chúa. Thế nên lòng thương dân đã thôi thúc Môsê nói lên những lời cuối cùng này, không phải để họ giữ ngày nay, ngày mai, nhưng mọi ngày trong đời sống và mọi thế hệ trong lịch sử.
Ông có thể làm được công việc ấy không?
Lời khuyên của một người có thể có giá trị cho mọi thế hệ loài người không?
Môsê đã không quá tự phụ ư?
Con người của ông không phải như vậy. Ðây chỉ là những lời người ta gán cho ông. Và chắc chắn ông sung sướng lãnh vinh dự này. Những lời đó hợp ý với ông. Và nhất là chúng không phải là của riêng cá nhân một tác giả nào. Chúng là thành quả của một tinh thần trung kiên qua nhiều thế hệ lịch sử của dân Chúa. Và tinh thần này đã bắt đầu từ Môsê.
Quả vậy, sách Thứ Luật là tác phẩm của tinh thần dân Chúa. Nó thu góp các suy tư chân chính của nhiều thế hệ lịch sử. Người ta coi Môsê là tác giả chỉ vì mọi suy tư ở đây đều phát xuất từ giao ước và chỉ muốn trung thành với giao ước Sinai. Giá trị của nó nằm ở chỗ nó là những bài học rút ra từ nhiều kinh nghiệm sống. Chúng ta có thể tin ở những lời khuyên của sách này vì có thể nói ngay hoàn cảnh mới vừa đến với chúng ta, nó cũng đã trải qua.
Vậy, mở đầu bài sách đó hôm nay, Môsê nói với mọi người: “Hãy nghe”. Ðó là tiếng nói của người khôn, đầy kinh nghiệm. Và Môsê nói tiếp. Các ngươi hãy giữ lệnh truyền để được sống và được đất hứa. Ðó là điều không được tranh luận bàn cãi. Là vấn đề một sống một chết, có thế thôi. Giữ Luật Chúa thì sống, bằng không thì chết. Mà chết và sống ở đây có ý nghĩa thực tế cụ thể chứ không bóng bẩy. Thiên Chúa chỉ ban Ðất Hứa và các Lời Hứa của Người cho kẻ giữ Luật. Kẻ không giữ Luật, không có chỗ đứng, không có nơi tựa, nó sẽ hư vong.
Ước gì chúng ta không bao giờ quên nguyên tắc này. Gặp hoàn cảnh mới mẻ đến đâu đời sống con người vẫn phải nắm giữ một số Luật điều. Vứt bỏ mọi sự, kể cả nguyên tắc phải giữ luật và phải sống có kỷ luật, là biến mình trở nên bọt sóng để tùy gió đánh đi. Con người sinh ra có gốc. Ðời sống con người phải có phương hướng. Chúng ta phải chọn đường sống, như lời Môsê nói hôm nay.
Tuy nhiên ông rất thận trọng. Ông nói: Không được thêm gì vào luật Chúa, cũng không được xén bớt. Và đó là điều không dễ. Nó đòi người ta luôn luôn phải kiểm điểm thành khẩn trước mặt Chúa. Tiếc thay, con người lại ít khi muốn đến trước nhan Người. Họ luôn muốn lưu lại nơi thế giới tạo vật. Có khi lương tâm ray rứt, thúc đẩy họ đi gặp Chúa, thì họ lại lười biếng lấy một tạo vật làm ngẫu tượng để thay thế cho Người. Rồi họ nghĩ ra những yêu cầu của ngẫu tượng ấy. Dần dần họ không còn nhớ và sống theo Luật chúa nữa nhưng đã lấy truyền thống và tập quán loài người làm luật sống. Bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này. Nhưng Môsê, ngay từ đầu đã cảnh giác người ta. Ông dạy phải luôn luôn tìm ra ý Chúa. Chỉ có nó là lẽ sống của con người và là đường dẫn họ đến sự sống.
Ai giữ đúng luật Chúa sẽ luôn luôn có thể tự phụ. Họ sẽ là người “khôn ngoan minh mẫn ở trước mắt các dân”, vì những điều họ giữ thật là những phán quyết công minh. Hơn thế nữa, các dân sẽ thấy rằng sẽ trải qua các thời đại và cảnh đời tang bồng mà luật pháp vẫn như vậy, thì là dấu nó không do lòng người thay đổi làm ra, nhưng phải do Ðấng vĩnh cửu bất biến đã phán quyết. Và như thế thật là hạnh phúc và vinh dự cho dân tộc, cho con người được Thiên Chúa ở gần và chăm sóc như vậy.
Những suy nghĩ của sách Thứ Luật rõ ràng rất sâu xa. Nó khiến chúng ta tin tưởng vào nguyên tắc. Ðó là lẽ sống. Và đó là vinh dự. Không phải Môsê đã tự ý nói lên được những lời chân thật trên đây. Ðó là kinh nghiệm của cả một dân tộc trải qua cuộc đời bể dâu và sóng gió. Ðây còn là dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn và hướng dẫn. Thế nên, những lời sách Thứ Luật hôm nay đúng ra là tiếng nói của Chúa Thánh Thần và của chính Thiên Chúa. Người mạc khải cho chúng ta chân lý này: nếu con người muốn sống và chiếm được đất hứa, tức là hạnh phúc, họ phải giữ luật. Và phải giữ và chỉ giữ đúng luật của Người. Không những đó là đường sống cho họ mà còn là vinh dự ở trước mắt các dân. Ai hiểu như vậy mà còn có thể sống như không có nguyên tắc và phương hướng? Và gặp hoàn cảnh đổi đời, ai tưởng rằng chỉ cần “cho de” những nguyên tắc cũ mà không chấp hành những lệnh truyền mới? Mọi tình hình mới chỉ là cơ hội để khám phá ra nhiệm vụ mới. Ðó là điều ít khi người ta muốn làm, như người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta hãy nghe lời Ðức Yêsu dạy.
2. Phải Biết Kiểm Ðiểm
Người lại đụng độ với bọn Biệt phái và Luật sĩ. Nói đúng hơn, bọn người bảo thủ và lạc hậu này chỉ muốn riết Người vào kỷ luật. Họ thấy môn đồ của Người không rửa tay trước khi dùng bữa. Thế là họ đùng đùng tấn công: “Vì lẽ gì mà môn đồ của ông không giữ lệ truyền của tiền nhân?” Họ nói như ai cũng sống trong môi trường của họ. Tiền nhân của họ là ai? Lệ truyền ấy có từ hồi nào? Môsê đã chẳng nói trong sách Thứ luật rằng: đừng thêm thắt, xén bớt Luật Chúa sao? Ðức Yêsu lại còn thấy bộ mặt giả hình, giả đạo đức, giả nhân nghĩa của họ nữa. Thế nên Người trả lời và soi sáng cho họ hai điểm. Một là họ đã gạt lệnh truyền của Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người. Và hai là họ chỉ chú trọng rửa tay bên ngoài mà không thanh tẩy lòng trí bên trong. Nói đúng ra, Ðức Yêsu đã hỏi quật lại họ hơn là chỉ trả lời cho câu hỏi. Người không cắt nghĩa vì sao các môn đồ không rửa tay trước khi dùng bữa; nhưng lại vạch ra cho bọn Biệt phái và Luật sĩ biết đời sống của họ không vô tội đâu. Nó còn xấu xa là khác. Vì nó không giữ luật Chúa, một chỉ làm theo tập tục. Nó chỉ chải chuốt bộ mặt bên ngoài và để yên ao tù dơ nhớp nơi tâm hồn.
Nhiều người không thích câu Ðức Yêsu đã nói về điều gì tự bên ngoài mà vào bụng không làm cho người ta ra ô uế, nhưng mọi điều xấu xa làm ô uế đều tự bên trong mà xuất ra. Nhưng chúng ta hãy hiểu thái độ quyết liệt của Người… Ở thời bấy giờ, người Dothái có những phân biệt rất vật chất về những gì sạch và dơ. Nếp sống đạo của họ căn cứ vào những việc giữ luật lệ này. Ðến nỗi họ không còn để ý đến tư cách của tâm hồn, mà chỉ còn quan tâm đến những cái hình thức. Ðức Yêsu gọi họ là bọn giả hình, là có cơ sở. Chúng ta hãy nhớ đến một người như Phêrô. Một ngày kia, gần đến giờ ăn trưa. Ông đói bụng và thiếp ngủ đi. Và ông mơ thấy Chúa bảo phải ăn mớ ếch nhái trong tấm mền ở trên trời thả xuống. Phản ứng của ông là của Dothái giáo. Ông lắc đầu bảo rằng đây là vật dơ, người đạo đức không được ăn kẻo ra ô uế. Ông cũng cố thủ lệ truyền của loài người mà gạt lệnh truyền của Chúa vừa bảo ông. Ðến nỗi Chúa phải nhắc nhở cho ông rằng: Những gì Thiên Chúa đã tẩy sạch thì đừng gọi là dơ nữa!
Tựu trung, óc vụ hình thức vẫn thật là khó chữa. Lâu ngày nó thi hành lệ truyền của loài người và quên lệnh truyền của Thiên Chúa, thành ra có lúc nó dám vịn vào lệ truyền của phàm nhân để cưỡng lại lệnh truyền của Ðấng Tối Cao. Kh6ng những nó đa lấy ngẫu tượng thay cho Thiên Chúa mà còn đi đến chỗ dùng ngẫu tượng nghịch lại Ngài.
Ðức Yêsu hôm nay muốn mạc khải điều đó. Người muốn người ta phải kiểm điểm lại đời sống tôn giáo và đạo đức của mình. Và để khỏi tiếp tục lầm lạc, người khuyên mọi người hãy bắt đầu rửa sạch lòng mình, để nguồn có trong thì những dòng tư tưởng chạy ra từ tâm hồn mới sạch. Công việc này ai cũng phải làm và phải làm đi làm lại. Bài thư Yacôbê khi ấy sẽ có giá trị thiết thực.
3. Phải Chịu Lấy Lời
Gọi đây là một thư thì cũng chỉ là cách nói. Ðúng ra nó là một bản văn giáo huấn các tín hữu. Người ta không nên tìm ở đây những tư tưởng độc đáo. Nhưng đọc xong ai cũng cảm thấy tác giả bức thư này rất thành tâm. Ông đòi tin-hành nhất thiết phải đi đôi; không được nhị tâm và đi dệu dạo, tức là đừng nghĩ rằng có thể làm tôi Thiên Chúa mà lòng lại chiều theo thế gian được. Những câu đầu tiên đọc trong phụng vụ hôm nay đã nói rõ vì sao như vậy. Tác giả viết: “Ơn tốt lành, lộc trọn hảo, hết thảy đều do trên, xuống từ Cha các tinh sao sáng láng; nơi Người không có biến dịch, hay vì xoay vần mà khuất bóng”. Mới đọc chúng ta có thể thấy khó hiểu. Nhưng đây là những lời quan trọng. Tác giả nói đến nguồn gốc, căn nguyên, cơ sở của lòng đạo đức chân thật.
Quả vậy lòng đạo đức của chúng ta không xây trên những cái gì đổi thay, khi sáng khi mờ. Không, nó là ơn Chúa ban. Người là Ðấng tạo hóa. Người đã dựng nên tinh tú. Người là Ðấng hoàn toàn sáng láng, chẳng bao giờ có thể mờ tối vì Người chẳng bao giờ thay đổi và khuất bóng. Nói rằng các nguyên tắc đạo đức căn bản có thể thay đổi và châm chước được là nói đến một thứ đạo đức không lấy Chúa làm nền tảng và nguồn gốc. Môsê trong sách Thứ luật đã nói: đừng thêm thắt bớt xén luật Chúa cũng là nói theo nghĩa đó. Và cũng vì vậy trong bài Tin Mừng, Ðức Yêsu bảo phải luôn thanh tẩy tâm hồn.
Ở đây Yacôbê cũng dạy “phải khử trừ mọi thứ uế nhơ và khiêm nhu chịu lấy lời vốn đã được gieo sẵn trong lòng”. Người muốn hết thảy hãy thanh tẩy mọi dục vọng và lệ truyền để làm sáng tỏ Lời Tin Mừng cứu độ đã được gieo vào lòng tín hữu khi lãnh nhận đức tin. Ðó không phải chỉ là Lời chân lý, nhưng còn là chính Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và bây giờ còn mầu nhiệm lưu lại trong các tâm hồn trong sạch. Chính lời đó mới cứu được linh hồn chúng ta khi chúng ta chỉ nghe tiếng Người.
Và Người không chấp nhận cho chúng ta tin Người và mang danh hiệu Kitô hữu của Người mà không thi hành lệnh truyền của Người. Và lệnh truyền ấy là hãy yêu thương anh em, như lời Yoan viết; hay như lời Yacôbê nói hôm nay là: viếng thăm cô nhi quả phụ… Chính nếp sống bác ái chân chính này giữ gìn chúng ta không “bợn vết nhơ của thế gian”.
Như vậy cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đã cho chúng ta phương hướng để sống đạo đức. Dù hoàn cảnh có đổi thay và tình hình có mới mẻ, người tín hữu vẫn phải sống có nguyên tắc. Dĩ nhiên không được bắt chước người Dothái lấy lệ truyền của loài người làm chân lý bất di chuyển; và tệ hơn còn vịn vào nó để khước từ lệnh truyền của Thiên Chúa. Không, hoàn cảnh mới chỉ đem lại cho chúng ta cơ hội kiểm điểm lại đời sống của mình; không phải chỉ nhìn vào những cái bên ngoài, nhưng phải đi sâu vào tâm hồn, để gạt bỏ những lớp bụi ô uế đầy gian tà hầu tìm ra Lời Chúa và hình ảnh của Người đã được gieo sẵn và in sẵn trong tâm khảm. Ánh sáng của Chúa sẽ lóe lên. Tiếng nói của Người sẽ trong trẻo. Chúng ta đi theo ánh sáng đó và thi hành tiếng nói đó thì sẽ đạo đức chân thật. Và mọi người sẽ thấy chúng ta bác ái hơn vì đạo Chúa là bác ái.
Giờ đây chúng ta sửa soạn tâm hồn đón Chúa vào lòng để từ đó mọi giòng tư tưởng biến ra hành động của đời sống chúng ta trở nên đạo đức, trong lành.
Bài 2. Cốt lõi của việc thờ phượng Chúa
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Mác-cô 7:1-8a,14-15,21-23)
Chúng ta vẫn biết Chúa Giê-su có một lối đối đáp hoặc hóa giải sự tấn công và bắt bẻ của đối phương rất là kỳ diệu, thí dụ trường hợp nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Người có nên nộp thuế cho vua Xê-da không.  Hôm nay qua bài Tin Mừng, Chúa Giê-su lột mặt nạ đạo đức giả của họ bằng cách trích dẫn lời ngôn sứ I-sai-a định nghĩa thế nào là kẻ đạo đức giả. Hơn thế nữa Người còn dùng một thí dụ cụ thể về ăn uống và tiêu hóa để bênh vực cho hành động của các môn đệ Người khi họ chưa rửa tay mà đã dùng bữa.
Trước hết chúng ta phải lấy làm lạ về thái độ thù nghịch của nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư! Họ bám sát Chúa Giê-su để sẵn sàng tìm những sơ hở, từ lời nói cho đến hành động của Người để bắt bẻ và làm cho Người mất uy tín. Vì thế, họ đã mất công “từ Giê-ru-sa-lem đến”. Không tìm thấy được gì sai sót ở nơi Người, họ liền quay sang các môn đệ Người và “họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa”. Và đây là cơ hội để họ tấn công Người. Họ chất vấn Chúa tại sao không dạy dỗ các môn đệ giữ truyền thống của tiền nhân. Ý của họ là cho người ta thấy nếu trò mà như vậy thì thầy sẽ thế nào. Đó chính là bối cảnh Chúa Giê-su thẳng thắn đối đầu với họ, không phải với mục đích “hạ” họ, nhưng là Người đưa ra lời kêu gọi khẩn thiết mong họ “bỏ đường lối gian ác mà quay về với Thiên Chúa”.
Chúa Giê-su đan cử lời ngôn sứ I-sai-a nói về kẻ đạo đức giả. I-sai-a không dùng lời lẽ trừu tượng để nói thế nào là kẻ giả đạo đức, nhưng ngài lấy một việc làm quan trọng nhất của dân Do-thái để diễn tả, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Đúng vậy, bản chất của kẻ đạo đức giả bộc lộ rõ ràng qua sự kiện “tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (I-sai-a 29:13). Cốt lõi của việc thờ phượng là tấm lòng con thảo của chúng ta đối với Chúa, còn những cái bề ngoài chỉ là phương tiện để chúng ta biểu lộ tấm lòng. Như thế, kẻ đạo đức giả đã đảo ngược, bỏ đi cái cốt lõi để lấy phương tiện làm mục đích, nói khác đi, dùng việc bề ngoài để tỏ ra mình đạo đức! Tóm lại, kẻ đạo đức giả không thờ phượng Chúa, mà là thờ phượng chính bản thân mình, muốn làm cho danh mình được cả sáng.
Dân Do-thái, nhất là những kẻ đối nghịch với Chúa Giê-su, đã thiếu tấm lòng, tấm lòng đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Do đó, Chúa Giê-su dùng một hình ảnh cụ thể để nói lên tầm quan trọng của tấm lòng: việc ăn uống và tiêu hóa. Khi ăn, đồ ăn từ bên ngoài qua miệng chúng ta mà vào dạ dày dĩ nhiên không làm cho chúng ta thành dơ bẩn. Trái lại, những thứ đã được tiêu hóa thành phân và chúng ta thải ra ngoài mới làm cho chúng ta ô uế! Đó là hình ảnh cụ thể để Chúa áp dụng vào lãnh vực tâm linh. Những ý định xấu từ trong lòng chúng ta phát xuất sẽ làm cho chúng ta thành ô uế, nghĩa là thành kẻ tội lỗi.
Chúa Giê-su tích cực bênh vực các môn đệ. Ngài muốn nói rằng việc họ không rửa tay trước khi ăn hay không giữ tập tục tiền nhân chỉ là những việc bề ngoài và không thể làm cho họ thành những kẻ ô uế tâm hồn. Trong khi đó, Pha-ri-sêu và kinh sư vỗ ngực là mình sạch bề ngoài bằng cách giữ truyền thống lại là những kẻ ô uế tâm hồn vì những ác ý của họ!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chất “đạo đức giả” hầu như gặp thấy trong máu tất cả chúng ta và thường chúng ta phải vất vả lắm mới làm chủ được nó. Nhiều khi chúng ta dự Thánh lễ, đọc kinh…, chất độc đạo đức giả ấy vẫn hoạt động trong tâm hồn, nhẹ thì là làm cho chiếu lệ qua lần hoặc như thói quen, nặng thì là nhắm mục đích phô trương cho người khác thấy mình đạo đức! Làm sao bây giờ? Trước hết chúng ta phải biết Chúa muốn điều gì nơi chúng ta. Người muốn tấm lòng chúng ta, chứ không phải lễ lạt rềnh rang. Chúa không muốn đếm coi chúng ta “xem” bao nhiêu lễ, “lần” bao nhiêu chuỗi, “đọc” bao nhiêu thứ kinh… Nhưng Người muốn chính trái tim chúng ta, trái tim “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” (Gaudium et spes) được dâng lên Người để Người có cơ hội chạnh lòng thương chúng ta.  Chúa cần một điều nơi chúng ta thôi, đó là tấm lòng!
Bài 3. Sạch và bẩn
Trầm Thiên Thu
Sạch và bẩn không chỉ có nghĩa đen mà còn có nghĩa bóng. Theo nghĩa đen, có những thứ sạch quá cũng không tốt, nghĩa là đôi khi cũng cần bẩn một chút. Thật vậy, có những loại virus thực sự “tốt” cho cơ thể. Cholesterol cũng có loại “tốt” và “xấu”. Nhưng về nghĩa bóng thì phải tuyệt đối vệ sinh sạch sẽ, một chút bẩn cũng nguy hiểm!
Nhóm Pharisêu là “người đại diện” của những người ưa thói xu nịnh, đạo đức giả. Chúa Giêsu rất ghét loại người này nên chỉ trích rất nặng loại ngời này: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23:27).
Vậy đó, thế nhưng người ta chỉ đọc cho biết, nghe cho vui, và người ta vẫn thích thân thiện với những người có bề ngoài… “đặc biệt khác người”!
Sách Đệ nhị luật nói về dân Ít-ra-en rằng “phải nghe những thánh chỉ và đem ra thực hành” thì mới “được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa hứa ban” (Ðnl 4:1). Tuyệt đối “không ai được thêm hay bớt gì, nhưng phải giữ những đúng mệnh lệnh của Thiên Chúa”, nếu “tuân giữ và đem ra thực hành thì sẽ được coi là khôn ngoan và thông minh” (Ðnl 4:2). Nghe được thánh chỉ đó, người ta sẽ nói: “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!” (Ðnl 4:6). Đúng vậy, “có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” (Ðnl 4:7-8).
Dân Ít-ra-en “người đại diện” cho chúng ta ngày nay, vì chúng ta cũng là dân riêng của Thiên Chúa. Thật hạnh phúc cho chúng ta. Nhưng với điều kiện là “phải tuân thủ mọi giới răn của Ngài”. Một trong các huấn lệnh của Ngài là “giữ lòng thanh sạch”.
Thanh sạch là “sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã” (Tv 15:2-3). Không chỉ làm điều tốt mà còn phải tránh điều xấu: “Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay” (Tv 15:4-5a). Nghe chừng đơn giản, thế nhưng lại vô cùng phức tạp và khó khăn. Ai sống và thực hành được như vậy thì sẽ “không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:5b).
Phải cầu nguyện liên lỉ và nỗ lực không ngừng, vì không có Chúa thì chúng ta chỉ có nước “bó tay” mà thôi: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Giacôbê xác định: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1:17). Tại sao? Vì “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1:18). Thánh nhân giải thích thêm: “Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1:21-22). Vấn đề là thực hành, là hành động cụ thể, chứ không thể chỉ nói suông hoặc đầu môi chót lưỡi. Thật không hề đơn giản như chúng ta tưởng!
Con người thường ưa hào nhoáng bề ngoài, thích được chú ý, thích bề nổi, dù biết đó chỉ là hão huyền. Chúa Giêsu cực kỳ ghét thói giả dối, thói đạo đức giả. Và Thánh Giacôbê cũng chỉ trích thói giả đối: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26). Thánh nhân giải thích cụ thể: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1:27). Thánh Giacôbê đúc kết ngắn gọn: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Gc 2:17).
Ngày hôm đó, có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Ngài dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Vì người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân là “không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn”. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vệ sinh là điều tốt. Nhưng họ không chú trọng vệ sinh mà chú trọng các nghi thức, chú trọng “bề ngoài” mà thôi. NGHI THỨC làm gì nếu không có TÂM THỨC?
Thấy ngứa mắt nên ngứa miệng, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7:5). Ngài trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6). Lời Chúa trách nhẹ mà đau điếng, buốt tận tim như kim đâm vào óc! Đó là Ngài cũng đang trách chúng ta vậy.
Và Ngài “láy” thêm: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7:7-8). Họ câm họng không ú ớ được gì, chắc là tức bầm gan tím ruột, nhưng Chúa Giêsu nói chí lý quá và cũng… thấm thía thấu xương cốt. Thấy họ im như thóc thối, Ngài biết là “gãi đúng chỗ họ ngứa” nên làm “liên khúc” luôn: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là ‘co-ban’, nghĩa là ‘lễ phẩm đã dâng cho Chúa’ rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7:9-13). Đau ơi là đau! Cũng đáng đời “kẻ giả hình” lắm!
Nói đi cũng phải nói lại. Thấy người phải xem lại mình. Tục ngữ nói: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười”, còn ca dao cảnh báo: “Chân mình còn lấm bê bê, mà còn cầm đuốc đi rê chân người”. Bằng cách này hay cách nọ, qua cử chỉ, ngôn ngữ hoặc động thái, chúng ta cũng rất thường xu nịnh, tâng bốc, luồn cúi, qụy lụy, chuộng bề ngoài, theo kiểu “cái đẹp đè bẹp cái nết”. Liệu chúng ta có dám “vắt chân lên trán” mà suy ngẫm và can đảm đấm ngực “lỗi tại tôi nhiều lần” hay không? Khó lắm!
Thẳng thắn phê bình nhóm Pharisêu xong, Đức Giêsu gọi đám đông tới nói luôn một hơi dài: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Ai có tai nghe thì nghe! Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:14-23).
Lời Chúa nói quá rõ ràng, không gì khó hiểu. Lời Chúa có khi làm chúng ta vui mừng, nhưng cũng có lúc làm chúng ta “nhức óc” lắm. Chỉ có SẠCH và BẨN, đơn giản vậy mà sao nhiêu khê quá chừng!
Lạy Thiên Chúa, xin hoán cải cuộc đời chúng con cho đúng Thánh Ý Ngài, và xin gìn giữ chúng con luôn “sạch” trong từng ý nghĩ, từng ánh mắt, từng lời nói, từng cử chỉ, từng động thái,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Bài 4. DÂN CHÚA LÀ DÂN VĨ ĐẠI!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Xét về mặt xã hội, người Công giáo ở hầu hết các nước trên thế giới, chỉ là thiểu số; ở nhiều quốc gia người Công giáo còn bị coi là những công dân hạng hai hạng ba;  thậm chí tại một vài nước người Công giáo còn là thành phần bị xem thường, ghét bỏ, đàn áp và bách hại nữa.
Nhưng Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết rằng: Không có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Không có dân tộc vĩ đại nào có được những thánh chỉ và quyết định công minh, như Lề Luật và giới răn mà Mô-sê và Đức Giê-su Ki-tô truyền lại cho chúng ta.
Vậy thì chúng ta chẳng có gì phải mặc cảm cả. Trái lại chúng ta có quyền hãnh diện về nhân thân (identity) của mình mà sống hiên ngang với thiên hạ.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 4,1-2.6-8): Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa.
2.2 Trong bài đọc 2 (Gc 1,17-18.21b-22.27): Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành. 
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23): Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 4,1-2.6-8) là những lời ân cần của Ông Mô-sê nói với dân riêng của Thiên Chúa: Dân Chúa thật hạnh phúc vì họ được có Thiên Chúa ở gần, họ có thánh chỉ của Thiên Chúa hướng dẫn, nên được sống trong chân lý và bình an và được coi là “khôn ngoan và thông minh”.
Trong bài đọc 1 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ở cùng/với dân và Thiên Chúa là Đấng đem hạnh phúc cho dân.
3.1.2 Bài đọc 2 (Gc 1,17-18.21b-22.27)là những lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ, gồm hai ý:
(1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa là  Đấng Tạo Dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta.
(2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
Trong bài đọc 2 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là lời chân lý là lời có sức mạnh cứu độ.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23) là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giê-su và các Pha-ri-sêu và kinh sư, xoay quanh vấn đề người ta phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là phàm nhân?
Cơ hội thuận lợi là một số Pha-ri-sêu và kinh sư bắt gặp vài môn đệ của Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục, một truyền thống mà người Do-thái giữ gìn rất cặn kẽ, chứ không phải là giới luật của Thiên Chúa, trong khi họ lại xem thường giới răn của chính Thiên Chúa.
Động cơ của người Pha-ri-sêu và kinh sư là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa là những người ấy thích sống giả hình và nuôi ảo tưởng cho mình là đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống giả trá này của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giê-su vạch trần và lên án.
Theo nhận định lành mạnh của mọi người, cũng là của chính Đức Giê-su, thì cái cần phải thanh tẩy là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của con người chứ không phải là bàn tay hay chén bát. Bởi vì một khi tâm hồn con người bất chính, tư tưởng con người tội lỗi, suy nghĩ con người lầm lạc thì con người sẽ gây đại họa, không những cho chính bản thân mình mà còn cho cả gia đình và cộng đồng xã hội nữa.
Trong bài Phúc âm này, chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng truyền dậy chân lý một cách trung kiên và dũng cảm.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Chúa muốn chúng ta làm gì?    
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống theo Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa thì sẽ được hạnh phúc, vì:
* Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành Vô Cùng Vô Tận nên Thiên Chúa chỉ có thể làm những điều tốt lành cho chúng ta mà thôi.
* Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn hay Giới Răn gì của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm giúp chúng ta có được hạnh phúc đích thật mà thôi.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI  SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là có những tâm tình/lời/hành động chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa là Đấng luôn ở với chúng ta, luôn có mặt bên cạnh chúng ta. Nếu Thiên Chúa ở với chúng ta thì tại sao chúng ta lại không ở với Người? Vì thế điều đáng làm nhất là chúng ta sống với/bên Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta thực thi thánh chỉ, mệnh lệnh của Thiên Chúa là những giới răn mà Mô-sê và Chúa Giê-su đã truyền lại cho chúng ta. Cụ thể là “hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn” và “hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em.”
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI 
5.1 «Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân, các nước trên thế giới này, để mọi dân mọi nước nhận ra giá trị thật của họ không phải là ở chỗ giầu mạnh về kinh tế hay có nhiều vũ khí tối tân hiện đại mà là ở chỗ có Thiên Chúa ở cùng hay không.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con! 
 5.2 «Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?»  Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục, cho các linh mục và các tu sĩ cùng toàn thể Hội Thánh, để mọi thành phần Dân Chúa biết trân trọng nhân thân của mình mà nghiêm chỉnh thực thi các thánh chỉ, các mệnh lệnh của Thiên Chúa được các ngôn sứ và nhất là được Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, truyền lại.
5.3 «Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, cách riêng cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sống khiêm tốn và biết ơn, đối với Đấng ban phát mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo cho con người và vũ trụ.
5.4 «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người yếu đuối, đam mê, tội lỗi, để họ nhận được sức mạnh của Thánh Thần mà hoán cải và thay đổi cuộc sống.
Bài 5. CỘI NGUỒN CỦA SỰ ÁC
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô vang: “Hủy bỏ bom đạn giết người!”
Sau đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom đạn giết người! Bom đạn có giết ai bao giờ đâu? Chỉ có những người ác chế ra bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên thảm họa giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có việc giết người chứ! Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người!” Ý kiến nầy được xem là chí lý.
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo sự hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello) 
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là thứ phải truy diệt trước hết. 
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mác-cô 7, 14-15. 21-23) 
Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben.
Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà thuận với nhau.
Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.
Thế là từ đó, trong Cain phát sinh lòng ghen tị. Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben. 
Một trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Phi-li-tinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át,  rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn”. (Samuen I, 18, 6-8)
Lời ca tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un. Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là điều mà người ta phải quan tâm tiêu diệt trước hết. 
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào tận đáy lòng mình để phát hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người. 
Nếu chúng ta không phát hiện và nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn mạnh lên, sẽ điều khiển chi phối đời sống chúng ta và chúng ta sẽ trở thành những con rối trong bàn tay dục vọng.
Bài 6. TRỌNG TÂM CỦA LỀ LUẬT
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Trong đời sống của con người không thiếu gì những chuyện xem ra mâu thuẫn và buồn cười. Thời Chúa Giêsu, các người Pharisêu tỏ ra họ là những người chu toàn lề luật một cách hoàn hảo, đồng thời họ cũng cho mình là mẫu mực của việc thực thi lề luật. Nhưng xem ra họ lại tỏ ra quá lố bịch, và hì hỡm vì giữ luật bề ngoài, giữ luật một cách thật máy móc. Đức Giêsu lại có một quan niệm khác về việc tuân giữ lề luật, Ngài không đã phá việc giữ lề luật, và hủy bỏ lề luật nhưng theo Ngài cốt lõi của Đạo là Tình Yêu, cốt lõi của việc giữ lề luật, thực thi lề luật cũng là Tình Yêu. Vì thế, quan niệm và đường hướng của Chúa Giêsu là một cuộc cách mạng đối với Do thái giáo…
Câu chuyện hôm nay khởi đi từ một việc nhỏ: các môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Pharisêu, khi đi ra phố chợ về nhà dứt khoát phải rửa tay, bởi vì tay ô uế sẽ làm đồ ăn ra ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ra ô uế. Chúa Giêsu đã khẳng định, đã minh xác một cách công khai, minh bạch rằng: “Không có gì vào trong con người lại khiến con người ra ô uế” (Mc 7, 15). Lời xác quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Ngài là một con người tự do, Ngài vượt ra khỏi những cấm kỵ, những cản ngăn, những bức tường xem ra rất vô lý của những người Pharisêu và những người Do Thái lúc đó. Chẳng hạn họ cấm cản việc ăn thịt heo, ở gần những người phụ nữ đang thời ở cữ, không được đụng vào xác chết, không được sờ vào người cùi, không được đồng bàn với người tội lỗi, những người ngoại giáo v.v… Tất cả những trường hợp đó đều bị cấm kỵ. Chúa Giêsu đã phạm vào nhiều điều cấm của những người Pharisêu và đạo Do thái. Chúa đã đến với những người nghèo, những người lang thang vất vưởng, những người bị cho là tội lỗi, những người thu thuế và gái điếm. Chúa đến với những hạng người ấy để làm cho họ nên tốt, trở nên sạch.
Chúa Giêsu không phản đối việc rửa tay. Rửa tay để cho tay sạch sẽ là điều tốt cần phải thi hành. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu thấy những người Pharisêu giả hình, rửa tay vì sợ, vì giả hình là một điều cần phải tránh. Chúa muốn con người thực thi lề luật vì yêu thương. Ngài dạy chúng ta phải tẩy sạch trái tim, nghĩa là làm sạch bên trong. Do đó, Chúa kể ra 12 tội xấu phát xuất từ bên trong, phát xuất từ trái tim của con người chẳng hạn như tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Chúa mời gọi con người, kêu gọi chúng ta tẩy sạch trái tim, trở về với trái tim nghĩa là dám nhìn nhận những sai trái, những lớp vỏ, mặt nạ của mình. Trở về với trái tim nghĩa là không bôi sáp, không trét phấn… Trở về với cõi lòng nghĩa là biết sám hối ăn năn để làm cho cõi lòng trở nên trong sạch, trở nên tinh tuyền. Ngôn sứ Êdêkiên đã viết một câu rất chí lý: “Hãy tạo một trái tim mới cho mình”. Tuy nhiên, không phải con người, không phải chúng ta dễ dàng thay tim, không phải chúng ta dễ dàng làm cho tim nên trong sạch nếu không có Chúa: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36, 25 tt). Vâng, trở về, làm đẹp bên trong, đổi mới trái tim là làm được mọi sự.
Chúa căn dặn chúng ta lề luật, tập tục, truyền thống cũng rất cần thiết, nhưng đừng nệ vào luật bề ngoài, tuân giữ và thực thi một cách máy móc lề luật mà quên đi lời Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia: “Dân này thờ ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực xa Ta”. Như vậy điều cốt lõi trong đạo Công giáo không phải chúng ta làm việc này việc nọ, nhưng chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc làm, điều chúng ta thực thi, hành động phải phát xuất từ tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Chúng ta hãy suy gẫm lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn” (1 Co 13, 2-8). “Anh em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn nói tiên tri” (1 Co 14, 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu Chúa và thương người. Amen.
Bài 7. CAO CẢ VÀ BI ĐÁT
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả, tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả… Những thứ giả ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Cõi lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay. Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”. Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Ðấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Ðấng họ thờ kính.
Thường thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn hậu của tuổi ấu thơ.
Đối với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải “thánh thiện” trăm ngàn lần hơn: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48); “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
Bài 8. SẠCH TỪ BÊN TRONG
P. Trần Đình Phan Tiến
 “chiếc áo không làm nên thầy tu”
Suy niệm bài tin mừng hôm nay là điều không dễ, bởi vì nội dung chính là sự khiển trách, chê bai, phê phán của Chúa Giêsu đối với cấp bậc lãnh đạo tinh thần của người Dothái. “Lời “thật” thì mắc lòng, thuốc đắng thì đả tật”. Tuy nhiên, “thương thì cho roi cho vọt, có yêu thương mới khiển trách  phê bình.
Hôm nay Chúa Giêsu thưc hiện vai trò của một vị thẩm phán, Người lên án thái độ giả tạo, bên ngoài của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ.
Quả thật sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu bao trùm mọi lĩnh vực, Người đến để kiện toàn, chứ không phải phá vỡ, Người quả thật là tấm Bánh khi đói lòng, Người thầy thuốc khi lâm bệnh, ốm đau, kể cả khi đã chết. Người sứ giả của Tin Mưng đảm nhận hết vai tró của trần thế (Mt 5,17). Người môn đệ trung thành của Giavê, Người Thầy của mọi thời đại, Người Mục Tử nhân lành chăm sóc cho đoàn chiên đang vất vưởng, đói khát, ốm đau bệnh tật, Người Thầy khi dạy dỗ những chân lý cao siêu bằng những dẫn dụ bình dân.
Suy niệm sâu xa cho ta thấy Thiên Chúa là sức mạnh nội tâm, sự thánh thiện từ bên trong, chứ không phải là bên ngoài, căn nguyên của sự sống, nếu thiếu chiều sâu nội tâm con người dễ sống hời hợt, thiếu trách nhiệm, sẽ trở nên vô nghĩa lạc lõng giữa sự chết. Vì thế, chiều sâu nội tâm là điều cần thiết cho con người nói chung và cho người môn đệ của Đức Kitô.
Tôn giáo Thiên Chúa, mà Đức Kitô-Giêsu rao giảng là kim chỉ nam cho tất cả mọi tín ngưỡng, vì nó mang lại sự tốt lành từ trong sâu thẳm tâm hồn của con người.
Thật vậy, tư tưởng thì quan trong hơn hình thức,muốn có tư tưởng tốt lành thánh thiện, thì phải có sự tốt lành, thánh thiện ngự trị. Cái bên ngoài có thể lôi kéo ta, nhưng một khi ta có Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn, thì ta sẽ tránh được những cái bên ngoài, dù có vấp ngã, nhưng nội lực của ta là Sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp ta lướt thắng. Như vậy cái từ bên trong mới làm cho xấu, chứ cái từ bên ngoài không làm cho bên trong xấu được (Mc 7,15). Đối với chân lý của Chúa Giêsu là như vậy, điều nầy có đồng tình với tục ngữ dân gian “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”? Xin thưa, hoàn toàn phù hợp nhưng ở một mức độ cao siêu hơn, vì khi ta phạm tội là chính từ bên trong con người ta phạm tội, chứ không phải ta đụng vào người phạm tội là ta có tội. Chân lý của Chúa thật nhân bản, sâu sắc hơn, bao dung hơn vì đó là chân lý từ Thiên Chúa.
Như vậy, ô uế bên ngoài chỉ là sự vệ sinh hình thức, không đáng sự bằng ô uế bên trong, rõ ràng khi ta phạm tội là ta quyết định gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Nghĩa là bên trong con người ta không có nội lực của Thiên Chúa, thì ngay tức khắc ta phạm tội. Như vậy tội là điều xấu từ bên trong ta muốn làm, chứ không phải là từ bên ngoài làm cho ta phạm tội (Mc 7, 15).
Ví dụ: như ta ăn phải ngộ độc mà chết, thì ta không mắc tội tự sát, nhưng nếu ta cầm dao tự sát, thí ta mắc tội tự giết mình.
Vì vậy chân lý từ Chúa Giêsu thì khác hẳn với chân lý từ các nhà lãnh đạo Dothái, nên chi họ không thích Người và vì vậy Chúa Giêsu sẽ trở nên hy lễ cứu chuộc để minh chứng điều Người giảng dạy. Thước đo lòng người là dựa vào sự nội tâm chứ không phải là hình thức, đoạn Tin Mừng (Mc 7) hôm nay, cho thấy Chúa Giêsu lên án sự giả tạo bên ngoài, ưa hình thức, nhưng bên trong thì thối tha, đúng với câu tục ngữ Việt Nam “tốt khoe, xấu che”, như vậy chỉ che đậy được cái xấu bên ngoài mà thôi. Còn cái độc dữ bên trong lấy gì che đậy. Đón nhận tin mừng của Chúa là thực thi tin mừng chứ không phải là “NÓI” hay “HÓT” Tin Mừng.
Như vậy, bên ngoài bị bẩn thì lấy nước mà rửa, nhưng bên trong mà bẩn, thì lấy gì mà rửa. Đó là vấn đề mà Chúa Giêsu cần đưa ra…?!!! Qua câu chuyện rửa tay, Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học nhớ đời. NỘI TÂM CON NGƯỜI THÌ QUAN TRỌNG HƠN HÌNH THỨC (Mc 7, 21-23).
Lạy Chúa Giêsu, Lời dạy của Chúa thật mầu nhiệm, qua lời dạy ấy con người của mọi thời đại biết khiêm tốn và chân tình hơn. Nếu không sự hoang tưởng của loài người thật là quỷ quyệt, vì họ chỉ biết chuộng hình thức còn bên trong tâm hồn thật là rỗng tuếch. Xin Chúa thương ban cho những ai nghe Lời Chúa hôm nay, biết đem ra thực hành theo Thánh Ý Chúa.
Lạy chúa Giêsu xin thương xót con. Amen.
Bài 9. MẤT VỆ SINH!
JM. Lam Thy ĐVD.
Đang ngồi trước máy vi tính, tay thì sờ râu cằm lởm chởm, tay thì vuốt mái tóc bờm xờm trắng xoá, nhăn mặt nhăn mũi tím ý tưởng cho bài viết, thì bất ngờ “sát tinh” của tôi – ông bạn già tai quái chỉ thích “thọc gậy bánh xe” – xuất hiện. Mới bước chân vào cửa, ổng đã oang oang: “Ái chà! E hèm! Triết gia lại đang “suy sự Đức Chúa Trời”! Bái phục! Bái phục!”. Chăm chú ngó vô màn hình, ổng thao thao bất tuyệt: “Gì nữa đây? “Tranh luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu: Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.” (Mc 7, 1-4). Ủa! Sao các môn đệ của Đức Ki-tô lại mất vệ sinh quá vậy, lỡ mắc bệnh “tay chân miệng” thì sao?”.
Tôi lại phải thúc cho anh bạn một cùi chỏ nên thân về cái tật hay móc ngoéo cố hữu đã trở thành cố tật của anh. Bệnh “tay chân miệng” đang hoành hành ở Việt Nam và cũng đã làm chết nhiều người, nhưng dám nói các môn đệ của Đức Ki-tô mất vệ sinh thì quả thật còn bạo gan hơn cả đám người kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu! Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nhận xét này cũng không hẳn là phi lý. Và nếu chỉ chú trọng đến vấn đề vệ sinh trong truyền thống Do thái, thì phải nói một điều là các kinh sư và người Pha-ri-sêu là “năm-bơ-oăn”. Họ đã giữ luật lệ và truyền thống một cách rất chặt chẽ và nếu những truyền thống ấy là tốt đẹp, thì chẳng có gì đáng chê trách cả. Thế nhưng tại sao Đức Giê-su lại khiển trách họ nặng nề như vậy? Vấn đề đặt ra ở đây là động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,/ còn lòng chúng thì lại xa Ta./ Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,/ vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.’ Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8). 
Đức Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp – Vd: Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà”. (Mt 23,23). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều quan yếu trong Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng, ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi” (Rm 2, 29). Nếu quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật, thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết “yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ”.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ  khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…” – (Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình “… tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,/còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Người không hề bác bỏ Lề Luật, (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5, 18).
Ôi! Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi! Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông” (“Xin chỉ cho con” – Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Amen.
Bài 10. Sống vì đời hay cho Chúa?
AM Trần Bình An
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một kinh sĩ Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở Roma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị kinh sĩ ấy càng ngày càng yếu dần, buộc người ta mời bác sĩ đển khám xem thế nào. Bác sĩ liền phán sau khi chẩn đoán rằng, cơ thể tù nhân bị thiếu nước trầm trọng.
Họ không hiểu tại sao vị kinh sư ấy lại thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn đủ dùng như các tù nhân khác. Thế là đám lính gác được lệnh theo dõi kỹ hơn, để thử xem ông ta đã dùng số nước ít ỏi đó làm gì. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị kinh sư Do Thái ấy đã sử dụng phần lớn lượng nước ấy để rửa tay, theo nghi thức cổ truyền trước khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Bài Tin Mừng hôm nay, nêu lên sự xung khắc giữa hình thức bên ngoài như tập quán, tục lệ và tinh thần bên trong, như Đức Tin, Cậy, Mến với Đấng Tối Cao.
1. Hình thức thay cho tinh thần
Vị kinh sĩ Do Thái kể trên đã sống thật trọn vẹn tập tục và luật lệ thay cho tinh thần thờ phượng Thiên Chúa. Đây là xu hướng khá phổ biến hiện nay trong xã hội quá đà khoa trương, phù phiếm và thực dụng. Lộng giả thành chân, lấy cái ảo, cái phù vân khỏa lấp, che đậy cái tinh túy sâu sắc, sự thật và chân lý.
Cứ mãi chạy theo hình thức bên ngoài, theo luật lệ thế gian, theo thị hiếu con người, người ta quên mất đi ý nghĩa quý giá ẩn giấu bên trong, điều mà Thiên Chúa mong đợi hơn cả. Như đi lễ, đọc kinh, ăn chay, làm từ thiện… vì thói quen, hay chỉ vì muốn phô diễn lòng mộ đạo với tha nhân. Nếu vậy, theo phép công bằng của Thiên Chúa, thì người ta đã được tiếng khen, lòng khâm phục của thế gian rồi, cần chi được thưởng mai hậu nữa.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn vạch trần trò ma mãnh xảo trá, xảo ngôn, xuyên tạc Lời Chúa, để phục vụ bất chánh cho luật đời, cho thế quyền, cho hư danh. “Quả thế, ông Mô sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ và kẻ nào nguyển rủa cha mẹ thì phải xử tử! Còn các ông lại bảo: Người nào nói với cha mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ đều là “cô ban” rồi, nghĩa là lễ phẩm dâng lên cho Chúa, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy truyển thống các ông đã truyền lại cho nhau, mà hủy bỏ Lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều giống như vậy nữa!” (Mc 7, 10-13)
2. Hình thức đối nghịch tinh thần
Để có thể che đậy cái bề trong rỗng tuếch, mục nát, thối tha, người ta càng ra sức trang trí cái hình thức bên ngoài thiệt hào nhoáng, thiệt hoành tráng, gây ấn tượng mạnh cho người đời. Chả thế mà Chúa Giê su đã không giấu nổi bất bình:“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. (Mt 23,27)
Trước thói chuộng hình thức, Chúa Giêsu quá sức thất vọng, chua chát thốt lên sự thật đáng xấu hổ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy, chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7, 6-7).
3. Hình thức hòa hợp tinh thần
Chúa Giêsu là tấm gương tuyệt vời, phản chiếu sự kết hợp hài hòa giữa hình thức và tinh thần. Trước tiên, Người chịu phép cắt bì. Khi đúng tuổi theo luật định, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đưa hài nhi Giêsu lên Giêrusalem, để dâng Người vào đền thánh. Rồi trước khi bước vào cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu dù vô tội, vẫn chịu phép rửa do chính Thánh Gioan Baotixita thực hiện. Tóm lại, Người luôn thận trọng tuân thủ các giới luật, kể cả nộp thuế thân cho đế quốc Roma.
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh hơn nữa tới sự hợp nhất giữa lời nói và hành động, giữa hình thức và nội tâm:“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
Đỉnh điểm của ngôn hành hiệp nhất, của hình thức kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần, là cuộc khổ nạn bi thương của Chúa Giêsu Cứu Thế. Đích thân Người hoàn thiện trung thực và mỹ mãn những lời đã giảng dạy cho thế gian.
Trước tấm gương vĩ đại của Thầy Chí Thánh, vị môn đệ trung kiên Gioan đã tha thiết khuyên nhủ tín hữu:“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1Ga 3, 18)
 “Cần phải nói ít đi, điều rao giảng chưa phải là điều được đón nhận. Vậy ta phải làm gì? Hãy cầm lấy cây chổi để quét nhà cho một ai đó, công việc ấy đã đủ để rao giảng” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, hãy giúp con thực hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc, để con xứng đáng là Kitô hữu thật sự.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa, dù có phải trả giá thế nào đi nữa, xin giúp con luôn trung thành theo Thánh Ý nhiệm mầu. Amen.
Bài 11. Với cả tâm tình
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa. Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị. Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng. Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
Bài 12. Cái nết đánh chết cái đẹp
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế  thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa.
“Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa – Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường ngụy trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của… và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa : “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.
Bài 13. Bỏ luật Chúa, giữ luật người
Lm. Vĩnh Tiến
Tổ tông loài người, ngay sau khi được tạo dựng, đã muốn cãi lệnh Thiên Chúa. Bằng Thiên Chúa đâu chẳng thấy, chỉ thấy mình trần trụi. Ở thời đại nào, con người cũng muốn loại trừ Giới Răn của Chúa, để tự làm luật, nhằm phục vụ lãnh tụ hay chính cái tôi. Thời Chúa Giêsu, các Kinh Sư, Biệt Phái, những người lãnh đạo trong dân, thấy các học trò Chúa ăn, không rửa tay, lau chén, tắm rửa. Họ chỉ trích: “Sao các môn đệ cùa ông không theo truyền thống của tiền nhân?” Chúa đã dùng lời các ngôn sứ đáp lại: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” Chúa còn nhấn mạnh: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Và giải thích thêm: “Cái từ bên trong con người, như những ý nghĩ xấu xa, những tư tưởng đồi bại mới làm cho con người ra xấu, chứ không phải những đồ ăn thức uống người ta ăn vào.”
1. Bỏ điều răn của Thiên Chúa
a/ Chính trong dân Chúa chọn
Chúa đã từng phán: “Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp, hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý và bẻ cong những gì ngay thẳng. Các ngươi xây Sion bằng máu, dựng Giêrusalem bằng bất công. Các thủ lãnh của nó xét xử dựa theo quà cáp, các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc. Chúng ỷ vào Ðức Chúa mà nói: Ðức Chúa chẳng ở giữa chúng ta hay sao? Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống chúng ta đâu! Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi mà Sion sẽ thành ruộng cày, Giêrusalem nên chốn tan hoang, và núi Ðền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp.” (Mika 3, 9-11)
 “Các ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc: Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô: “Bình an”, còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng, thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ.” (Mika 3, 5-6)
b/ Trong lòng Giáo Hội hôm nay: Thực ra, vì nhu cầu thực tế, Giáo Hội đã và đang phải canh tân nhiều thứ, đặc biệt với Công đồng Vatican II. Thế nhưng, còn có nhiều đòi hỏi vô lối, như cho phép linh mục lập gia đình, cho phụ nữ làm linh mục, cho phép hồi tục dễ dàng. Có những đòi hỏi tháo thứ chống cả luật Chúa, sống thử trước hôn nhân, ngừa thai, phá thai, ly dị, hôn nhân đồng tính, cái chết êm dịu, duy tiện ích…
Thực ra, còn có những việc xem ra nhỏ, nhưng có sức công phá lệnh truyền của Chúa không nhỏ, mà hầu như đâu đâu cũng thi đua, đó là: Tập trung mọi nhân vật lực vào việc xây dựng cơ sở, sao cho nguy nga, hoành tránh, vửa đáp ứng nhu cầu và xứng tầm với thời đại. Bảo vệ đức tin, đặt nặng việc săn sóc các đoàn thể, các giới, mừng lễ quan thầy, kỷ niệm ngân khánh, kim khánh, ngọc khánh, linh mục, khấn dòng, thành lập giáo xứ, giáo phận. Nhưng truyền giáo, lệnh truyền khẩn cấp của chính Chúa, thì lại sao lãng hay xem nhẹ, khoán trắng cho một nhóm nào đó và lâu lâu mới thổi lên một lát cho an lương tâm rồi thôi ?
c/ Trong mỗi người tín hữu. Ai ai cũng muốn giảm nhẹ luật Chúa, luật Giáo Hội, xuống mức thấp nhất có thể. Những người đã tự nguyện hiến dâng, dành trọn thời gian tiền bạc và sức lực cho Chúa và những việc của Chúa, thế mà nhiều khi vẫn bị cám dỗ, sợ dọn bài giảng, không muốn nghe ai giảng, sợ ngồi toà, làm các bí tích, thích làm quan án. Việc dâng lễ, nếu không có bổng, có lẽ cũng bỏ, trừ việc giữa luật ngày Chúa Nhật. Không ít nhà tu, ngại mặc tu phục ra đường, thậm chí cả khi tham dự phụng vụ. Lại còn có nhà tu không muốn ai biết mình là người tu hành. Việc thi hành mục vụ cho giáo dân thì chẳng đặng đừng, làm cho qua, cho yên thân.
Người có gia đình, chỉ muốn hưởng quyền lợi hôn nhân, và tìm mọi cách tránh né trách nhiệm. Bạn trẻ tuần lễ một lần, thường đi trễ về sớm. Cha giảng cho ghế chúng nghe, con ra hút thuốc, ngồi hè nghỉ ngơi. Nhiều khi còn trốn đi chơi, mặc ai trách móc ông trời điếc tai. Người già nhắm mắt lai rai, câu kinh, tiếng hát cho qua tháng ngày. Khi nào hấp hối ngất ngây, hãy mau gọi cụ, để ngài đến mau. Con trẻ cắp sách tời trường, học nhồi học nhét những điều dối gian. Về nhà mẹ hét, bố la, tai con điếc đặc đâu nghe Chúa truyền.
2. Duy trì truyền thống người phàm
a/ Người có quyền trong xã hội: Người ta bày đủ thứ luật, lệ, nghị định, mong áp đặt trên những người có đạo. Luật đăng ký hoạt động tôn giáo, kiểm soát ngày lễ, giờ giấc việc thực hành các nghi lễ. Hạn chế mở địa điểm mới.  việc xây dựng cơ sở tôn giáo. Đăng kỳ người đi tu, việc truyền chức, thăng chức, thuyên chuyển các chắc sắc…Không cho mở bệnh viện, trường học các cấp, trừ  nhà trẻ, mẫu giáo. Trong khi đó lại cho người ngoại quốc, tư nhân hay tập thể mở trường, bệnh viện, cơ sở xã hội thoải mái. Người ta, khuyến khích, cưỡng chế việc sinh sản bằng mọi biện pháp vô luân, để dù trai hay gái chỉ hai là đủ. Chính vì thế, chúng ta mới thấy các nghĩa trang thai nhi mọc lên khắp nơi, ngày càng nhiều những nấm mô vô tội. Hầu như có luật bất thành văn về luơng bổng của  công chức các cấp. Lương trên giấy tờ thì không đủ nuôi sống chính bản thân người ấy, thế mà họ vẫn có nhà lầu xe hơi, thừa tiền nuôi vợ nọ con kia, còn dư để mua đất, hay gửi ra nuớc ngoài và cho con cái đi du học. Tham nhũng hối lộ, làm hàng gian, hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng, hầu như mặc nhiên được khuyến khích.
Tivi, báo, đài, lúc nào cũng quảng cáo vô tội vạ, chẳng ai chịu trách nhiệm về chất luợng hàng quảng cáo. Sống chết mặc ai, miễn là ta thủ lợi.
b/ Người tín hữu chúng ta. Hầu như nhiều người tín hữu, cũng đang bị cuốn hút vào vòng xoáy của ma lực tiền bạc, và lạc thú. Cách đây mấy tháng, nhà chức trách đã bắt được mấy băng nhóm buôn bán xì ke, ma tuý, rượu ngoại, cho vay nặng lãi, dùng gươm dao, thanh toán lẫn nhau, do những người đạo gốc đứng đầu, ngay giữa vùng xóm đạo sầm uất. Luật người được đặt thay thế luật Chúa ắt thành luật rừng, bởi vì như Jean Paul Chartre nói: “Con người là ác thú đối với con người.” Adong, Evà thân thiết với Chúa và với nhau như vậy, nhưng khi ma quỷ sen vào, tức khắc trở thành những kẻ chỉ biết đổ lỗi cho nhau.
Phải làm gì đây? Đức TGM Charles Chaput bên kia đại dương, quả quyết: “Nếu ta muốn có nên văn hóa tự do tôn giáo, ta cần phải khởi diễn nó ngay tại đây, hôm nay, bây giờ. Ta sống nó bằng cách tận hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, cho Tin Mừng, bằng cách yêu mến Thiên Chúa với lòng say mê và niềm vui, tin tưởng và can đảm; không giữ lại cho mình bất cứ điều gì.
Thiên Chúa đảm nhiệm việc còn lại. Thánh Kinh vốn dạy: “Trừ khi Thiên Chúa xây nhà, những người xây dựng nó chỉ tốn công.” Cuối cùng, Thiên Chúa mới là người xây dựng. Chúng ta chỉ là những viên đá sống. Đức tin ta càng vững mạnh, tình yêu ta càng đậm đà, lòng nhiệt thành đối với Thánh ý Thiên Chúa càng tinh ròng, thì căn nhà tự do càng vững chắc, nó sẽ xuất hiện trong đời ta và trong sinh hoạt của đất nuớc ta.”
Lạy Chúa, vì yêu thương Chúa đã ban luật lệ và còn cho Giáo hội quyền giải thích chúng, để giúp chúng con đưa vào cuộc sống thường ngày, trong chốn riêng tư cũng như nơi công cộng. Xin cho chúng con biết yêu mến và tuân giữ hết lòng.
Bỏ Luật Chúa, giữ Luật người
(Mc 7, 1-8a.14-15.21-23…)
Thấy trò ăn chẳng rửa tay,
Pha Siêu, Luật Sỹ rỉ tai chê cuời:
Toàn là những kẻ biếng lười,
Bát ăn chẳng rửa, tắm thời cũng không.
Còn đâu truyền thống cha ông ?
Thế mà còn dạy truyện rông, truyền dài.
Chúa rằng: những kẻ nói dai,
Điều Răn Thiên Chúa chẳng hoài tuân theo,
Lại đi truyền dạy luật đời,
Mau qua, chóng chết. một thời ra tro?
Những gì đầu óc ươm trồng,
Mới làm ô uế từ trong ra ngoài.
Những gì ăn được vào lòng,
Chẳng sao gây hại, cõi lòng sạch băng.
Luật người, luật Chúa làm ra,
Đều nhằm phục vụ những ai tín thành.
Hết lòng ra sức thực hành,
Chứa chan hạnh phúc, kẻ làm con Cha.
Thiên đàng vĩnh cửu hoan ca,
Từng bừng nhẩy múa, reo vang đêm ngày.

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang