Người đăng: hoctran
A. BẢN VĂN (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23):
Khi ấy,
những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu,
và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa
là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái
và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng
về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác
nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật
sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa
với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã
nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài
môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó
dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới
răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Và
Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta.
Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ
có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì
từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm
ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu
khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm
cho người ta ra ô uế”.
B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI
Bài
1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ: TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI PHÀM VÀ ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA
Trái
tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về
Thiên Chúa, và nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài.
1-
Ngữ cảnh
Bản
văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật
hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này
như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong
sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài
người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không
biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã
đến gần” (1,15).
2-
Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành hai phần:
1)
Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
2)
Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
3-
Vài điểm chú giải
- tay
còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ
của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh
tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến
phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl
14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng
tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4
là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong
não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết
với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy
do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ
nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”.
Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao
Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau
khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục
sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải
là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như
thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người
ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm
về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với
các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ
Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của
cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng
tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng
các nền phượng tự ngoại quốc).
- rửa
tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê
(“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với
nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ:
“jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”;
NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus
/ pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”.
Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của
người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo
đúng nghi thức.
-
truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của
Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc
giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái
bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng
mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch
sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không
quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế
vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp
dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải
giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
- rửa
chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng
văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào
danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố
tình bỏ đi vì nghe không thuận.
- đạo
đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”,
“người đeo một mặt nạ”.
-
Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX,
chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc
(hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
- Các
ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa… (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ
những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ
cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong
công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực
tiễn và cụ thể!
-
Không có gì từ bên ngoài… (15):
Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên
ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”,
Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con
người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ,
mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con
người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm
của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
- những
ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội
lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl
5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc,
có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục”
là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới
Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
-
Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ
hai.
4-
Ý nghĩa của bản văn
*
Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề
hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà
là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có
một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên
Chúa?
Đức
Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của
chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều
răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
*
Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước
tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian
tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong
sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên
Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng
xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài
ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch,
tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra
(tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng
với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo
trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài
bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải
thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng
Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên
Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không
sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+
Kết luận
Ngày
hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi
lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn
thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức
Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh
thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, và nhìn nhận với
lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay,
ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực
hành.
5-
Gợi ý suy niệm
1. Hôm
nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những
luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ
chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì
được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện
đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta
lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta
được sống muôn đời.
2. Đối
với chúng ta, điều quan trọng là ở trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa: sự
trong sạch đích thực hệ tại điều này. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là
sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên
Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính
trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa.
3.
Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì
các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ,
nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm. Chúng ta nghe Đức Giêsu nhắc
lại các điều răn của Thiên Chúa, chúng ta đọc các điều răn ấy ra trên môi
miệng, nhưng chúng ta có đưa các điều ấy đi vào trái tim chúng ta chăng?
4. Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài, và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng yêu mến. Chúng ta đi lễ, chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta nhận Mình thánh Chúa Kitô làm lương thực, chúng tat ham dự biết bao cuộc cử hành, thế nhưng khi gặp trên đường những người mà chúng ta đã ngồi bên cạnh, chúng ta đã bắt tay, có khi đã chia sẻ một chuyến hành hương, chúng ta giả bộ không quen biết họ! Vì vội chạy theo công việc làm ăn của thế giới tiêu thụ? Vì những con người ấy có thể làm nặng lòng chúng ta với những vấn đề của họ, nên cũng là có thể làm cho chúng ta mất những khoản lợi nhuận nào đó mà chúng ta đang theo đuổi? Thế thì chúng ta đặt Luật Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống chúng ta?
4. Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài, và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng yêu mến. Chúng ta đi lễ, chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta nhận Mình thánh Chúa Kitô làm lương thực, chúng tat ham dự biết bao cuộc cử hành, thế nhưng khi gặp trên đường những người mà chúng ta đã ngồi bên cạnh, chúng ta đã bắt tay, có khi đã chia sẻ một chuyến hành hương, chúng ta giả bộ không quen biết họ! Vì vội chạy theo công việc làm ăn của thế giới tiêu thụ? Vì những con người ấy có thể làm nặng lòng chúng ta với những vấn đề của họ, nên cũng là có thể làm cho chúng ta mất những khoản lợi nhuận nào đó mà chúng ta đang theo đuổi? Thế thì chúng ta đặt Luật Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống chúng ta?
Bài
2. Chú giải và gợi ý chia sẻ của Lm Inhaxiô Hồ Thông: Những huấn lệnh của Thiên
Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu
Đnl
4: 1-2, 6-8
Lề
Luật là cách diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người
phải lắng nghe và sống.
Gc
1: 17-18, 21b-22, 27
Người
tín hữu không chỉ tiếp đón Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời
sống nữa.
Mc
7: 1-8, 14-15, 21-23
Người
ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm
nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng,
thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI
ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác
phẩm nầy chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong
bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào
Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở
giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các
huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an
từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của
dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dể
dãi, thậm chí xa đọa.
Bối
cảnh hư cấu nầy cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được
đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
1.
Lề Luật là nguồn sống:
“Hỡi
Ít-ra-en, hãy nghe…” : Biểu thức nầy thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật,
thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi
Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của
người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”
(“Shema Israel”), được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như
vậy, anh em sẽ được sống”.
Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật nầy nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư
cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước,
vì thế đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay
sau những lời nầy là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm
hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”.
Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo
cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm nầy, những viễn
cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm
mồ chưa được dự kiến.
Đối
với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống
chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm
túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân
chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là
một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi
cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng
nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các
thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc
chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những
hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa nầy tính cách bi thảm. Quả thật,
có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được soạn
thảo bởi các tư tế của vương quốc phương Bắc. Với tư cách những chứng nhân về
những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối
cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo
quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương
Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn nầy được cất dấu trong Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 BC.), bị quên lãng
một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó,
nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622
BC.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi
ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những
huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sẽ sử
dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài
cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời
gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu
anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
2.
Lề Luật bất khả xâm phạm:
“Anh
em đừng thêm gì… cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép nầy nói lên nổi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu
thức nầy được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ
thứ mười tám trước Công Nguyên, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc.
Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách
Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy
những tai ương mô tả trong sách nầy! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm
ngôn nầy, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và
Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách nầy” (Kh 22: 18-19).
Nhưng
ông Mô-sê khéo léo hơn bất cứ ai công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật: ông
chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
3.
Lề Luật là lẽ khôn ngoan:
Lề
Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức
hạnh (đây là ý nghĩa của từ Hy bá To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong
toàn bộ đoạn văn nầy, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn ngữ của một
bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: là lời mời
gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe
đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ
khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật,
Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai
lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1)
4.
Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi
nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại nầy chỉ có
thể là một dân khôn ngoan và thông minh”.
Sứ
mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị
Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát nầy rất hiếm kể
ra trong tác phẩm nầy. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc nầy trở
nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”.
Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài
đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung
quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo
cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
5.
Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
“Phải,
có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng
ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”.
Lời
khẳng định nầy đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần
linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên
Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không
cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để để tôn kính Ngài. Thật ra,
Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu
nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả
lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân
Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng
hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời
rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực
hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo
huấn Tin Mừng.
BÀI
ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng
ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác
giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức
Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì
thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo
vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là
Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô”
(Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê nầy, người
ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và
Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê
Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15:
6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương
nhiệm vào thời đó.
Thư
được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới
Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào
khoảng giữa năm 58 và 62.
Những
lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không
có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và
những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các
sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
1.
Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành:
Thánh
Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân
huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ
đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ,
trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu
theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi
Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến
chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững
với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên
Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
2.
Người Ki tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người
đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa
trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân
lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì
thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải
chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân
muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn,
phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem
như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa”
gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
3.
Đức tin năng động:
Từ lời
nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết
luận thực tiển: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải
quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp
khúc xuyên suốt thư nầy.
Thật
có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu
gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11;
24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh
Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý
Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn
bản của bức thư nầy. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ
của thế gian”, cách nói nầy vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm
nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN
MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng
ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ
Bánh Trường Sinh được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh
luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến
việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
1.
Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo:
Khi
quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa,
những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài
đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề
họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng
tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh
sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên
thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất,
vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch
hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy
định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật
ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để
thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa,
điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả
hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp
xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ
nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể
đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng
chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ
phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế,
cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị
này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý,
và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó
là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống
thông thường (R. de Vaux).
Sau
cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó
hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức
cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những
nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được chọn và
tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Tác
giả chen vào cuộc tranh luận để giải thích dài dòng cho người đọc hiểu những
tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ
căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người
Ki-tô hữu gốc lương dân.
2.
Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su:
Chẳng
cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời
tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để
chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người
mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên
trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên
trong.
Vì
những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn
lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính
Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta
thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng
nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài
mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình,
Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13).
Đây là một lãnh vực dể bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị
luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời
Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới, để đạt được những tặng phẩm dâng
cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình
bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa
Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở
rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài
một cách có hiệu quả hơn. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ
bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”:
Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những
quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật nầy không chỉ chiếm nhiều
phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong
cuộc sống thường ngày của mình.
Sau
khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa
Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong
lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý
đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và
cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
3.
Ý nghĩa của cuộc tranh luận này:
Bản
văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm thần học mà tác giả nhắm đến
là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống
Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc
lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng
luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và
Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi
Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài
ra, đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động
của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một
lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch
và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài
người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không
biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên
Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức
Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn
ô uế, cuộc cách mạng nầy sẽ được tiếp tục bởi các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và
thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20). Việc mở ra cho thế giới lương dân
đòi buộc phải trả bằng giá nầy và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà
Đức Giê-su không ngừng công bố.
Bài
3. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux: CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA
BIỆT PHÁI
Ở đây
lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những
người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ
bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn
đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa
trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do
Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát
sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến
bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh
tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất
cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống
thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự
cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám
người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính
Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và
câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ
là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng
cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì
đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở
đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước
Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà
“chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán
xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính
cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm
trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh
luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c.
10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị
luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự
giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng
cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh
vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại
quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn
(c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể
hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị
Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra
(c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều
về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn
(c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì
cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta
chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ
nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư
tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản
liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy
nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống
như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu
đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không
phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt
trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu
tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân
giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở
đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là
lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ
xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách
biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng
về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã
hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây
ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái
điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng
trách của thời đại.
Maccô
đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công
kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm
mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn
uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù
họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của
các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công
vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng
còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông
gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn
khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và
tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em
gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng
đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và
họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này
thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và
có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 – 8,21) cũng như sẽ không ngạc
nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ
mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp
7,24-30).
Bài
4. Chú giải của Noel Quesson
Có
những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những
người từ Giêrusalem đến
Đối
với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối
Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ
Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ
Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích
đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử
hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa,
đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng
tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ
thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật
vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của
tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về,
cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa
chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là
vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”,
được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết
và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn
giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình.
Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi
tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự
thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ
cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy,
người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo
truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có
nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn
đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người
thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ
chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem
coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực
những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người
tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót
thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán
khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2)
Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường
hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành
thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền:
Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để
chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không
có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với
những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người
thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại
biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch
và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ
vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.
3)
Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người
đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của
những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người
trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ
đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng
chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng
giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Câu trả
lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh
để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng
thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải
những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ
phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau
đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và
hiểu cho rõ:
Đức Giêsu
kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay
tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không
có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế
được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong
Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với
chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì
bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc
17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái
và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo
tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp
cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều
thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo,
và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng,
trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì
từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố
làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều
người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi
nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên
tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự:
Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng
tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật
chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết
và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì
Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những
điều đó trong thái độ tạ ơn”.
Thánh
Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì
thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của
Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do
phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim!
Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó
ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản
của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ
nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó
ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô
nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng
ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được
tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì
từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết
người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng,
kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là
danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời
sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến
tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng
Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo
số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số
của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét
đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có
thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta
đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại:
Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân
lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng
người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị
vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ
quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản
này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình .
Hỡi
người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên
quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu
ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy
Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
Bài
5. Chú giải của Fiches Dominicales: “GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI
NGƯỜI”
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn
Maccô
có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh”,
giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp
theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc
tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch” và “ô
uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho
rằng dân ngoại thì “ô uế”, do đó không được đi lại với những người này.
-
Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến
điều tra “xì căng đan” do các môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông
“dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và
Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm
bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân
Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết: “Nhờ cả một
mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống
trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch
(pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh
tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội
dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự
chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch
(pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc
sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người
ngoại, người cùi,… Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy), luôn có một
bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem
“Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những
tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt
với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số
môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng
những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
- Sau
khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới
nói với các môn đệ.
-
Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những
người chống đối và đánh giá họ là “những kẻ giả hình”, khi dùng những lời tiên
tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng
chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là
những giới luật phàm nhân” (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công,
Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống”
của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm
chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ
tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ”, đó là giới luật
tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người
biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ
thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa
thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là
cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả
danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng
chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ
ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến
chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó
nữa”. (sách đã dẫn, tr.194)
- Rồi
Đức Giêsu quay sang nói với “đám đông”. Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch
sạch, ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý,
nơi xuất phát mọi kết định của con người: đó là “lòng” họ. Chỉ có một sự ô uế
thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người
xuất ra, là cái làm con người ra ô uế”.
M.
Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này
không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là
một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người
tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những
luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết hay một người cùi ăn
uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả
những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức
Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên
Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)
-
Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các
môn đệ “trong nhà”. Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài
kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con
người ra ô uế”.
2.
Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính
Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu
này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức,
Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người
tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền
thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người sạch, tức người
biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách biệt ra”) và bên kia là những
người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết
lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là
nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những
người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ
ô uế, “những kẻ bị loại trừ” (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v…) Chính
điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J.
Hervieux, “Tin Mừng thánh Maccô”, Centurion, tr. 103)
- Một
lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở
một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột
giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê
phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông
đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi
ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy một rổ những loài vật thiên thần
mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện
diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm
về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân
lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở
ra con đường của tự do Kitô giáo.
BÀI
ĐỌC THÊM
1.
Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân
Một
cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống trước những luật lệ phải
bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta
mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng
không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế.
Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này.
Thánh
Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ
luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín
hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt
ám chỉ đến vấn đề này.
Thư
gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình
nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người
ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông
lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã
cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã
kịch liệt đả kích thái độ “ỡm ờ” này (Galata 2,11-14)
Chương
10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những
khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên
bách quan dù theo luật như chính ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà
người ngoại giáo.
Một
vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt
bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định
về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không
phân vân.
Thánh
Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về
thức ăn, nên ông viết: “Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên
Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu
Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình: “Nước Thiên Chúa
không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc
trong Thánh Thần”. (14,17)
Tuy
nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối”,
Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa”
(14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với
người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn
giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông”
2.
Truyền thống là gì?
“Những
người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn”, nghĩa
là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong
đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ
(Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những
chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.
Đàng
khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy
cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là
dân tư tế”. Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những
luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải
phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống”.
Nhằm
phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ
nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và
ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài
trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ
con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.
Khi
bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý
nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ
là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi
một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc:
“Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra
ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra
ngoài”.
Chỉ có
một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con
tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có
những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.
3.
Đức Giêsu giải phóng chúng ta
“Đức
Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh
quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của
những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay
thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm
điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch
và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng
kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính
khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt
cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ
chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình,
với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó
chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng
ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những
điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…”.
C. CÁC BÀI CHIA SẺ
Bài
1. Phải Biết Kiểm Ðiểm
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Gặp
hoàn cảnh phải thức thời, con người thường hay do dự. Nhiều khi không phải vì
sợ hãi, ngại ngùng; nhưng vì lương tâm bất an và bị giằng co. Một bên là những
nguyên tắc luân lý và đạo đức trước đây; và bên kia là những đòi hỏi mới của
hoàn cảnh. Làm sao để không thái quá và cũng không bất cập, không cấp tiến cũng
không bảo thủ, mà chỉ tiến bộ hoặc tiên tiến? Chắc chắn phải vận dụng óc sáng
tạo. Nhưng có lẽ cũng không nên quên những bài học của lịch sử. Và Sách Thánh
cũng là một kho tàng khôn ngoan ngay cả về phương diện này. Những bài đọc Kinh
Thánh hôm nay là một thí dụ. Chúng ta sẽ thấy vừa phải trung thành với các
nguyên tắc đạo đức, vừa phải sáng suốt tiến bộ. Xin Chúa cho chúng ta biết hiểu
lời của Người.
1.
Phải Chọn Ðường Sống
Bài
sách Thứ luật gợi lên một lịch sử đầy biến cố. Bề ngoài đó là những lời Môsê
trối cho dân trước khi ông từ giã cõi trần. Ông đang ở bên kia sông Yorđan,
biết mình không được vào Ðất Hứa. Dân sẽ được vào. Nhưng ở đó họ sẽ có được
hạnh phúc không? Tất cả tùy thuộc ở thái độ của họ trung thành đối với Chúa…
Thế mà kinh nghiệm những năm lãnh đạo dân cho Môsê biết Israel không phải là
một dân vừa. Hơi gặp hoàn cảnh mới là họ đã sẵn sàng đi dệu dạo, chứ không nhất
mực ngay thẳng theo đường lối của Chúa. Thế nên lòng thương dân đã thôi thúc
Môsê nói lên những lời cuối cùng này, không phải để họ giữ ngày nay, ngày mai,
nhưng mọi ngày trong đời sống và mọi thế hệ trong lịch sử.
Ông có
thể làm được công việc ấy không?
Lời
khuyên của một người có thể có giá trị cho mọi thế hệ loài người không?
Môsê
đã không quá tự phụ ư?
Con
người của ông không phải như vậy. Ðây chỉ là những lời người ta gán cho ông. Và
chắc chắn ông sung sướng lãnh vinh dự này. Những lời đó hợp ý với ông. Và nhất
là chúng không phải là của riêng cá nhân một tác giả nào. Chúng là thành quả
của một tinh thần trung kiên qua nhiều thế hệ lịch sử của dân Chúa. Và tinh thần
này đã bắt đầu từ Môsê.
Quả
vậy, sách Thứ Luật là tác phẩm của tinh thần dân Chúa. Nó thu góp các suy tư
chân chính của nhiều thế hệ lịch sử. Người ta coi Môsê là tác giả chỉ vì mọi
suy tư ở đây đều phát xuất từ giao ước và chỉ muốn trung thành với giao ước
Sinai. Giá trị của nó nằm ở chỗ nó là những bài học rút ra từ nhiều kinh nghiệm
sống. Chúng ta có thể tin ở những lời khuyên của sách này vì có thể nói ngay
hoàn cảnh mới vừa đến với chúng ta, nó cũng đã trải qua.
Vậy,
mở đầu bài sách đó hôm nay, Môsê nói với mọi người: “Hãy nghe”. Ðó là tiếng nói
của người khôn, đầy kinh nghiệm. Và Môsê nói tiếp. Các ngươi hãy giữ lệnh
truyền để được sống và được đất hứa. Ðó là điều không được tranh luận bàn cãi.
Là vấn đề một sống một chết, có thế thôi. Giữ Luật Chúa thì sống, bằng không
thì chết. Mà chết và sống ở đây có ý nghĩa thực tế cụ thể chứ không bóng bẩy.
Thiên Chúa chỉ ban Ðất Hứa và các Lời Hứa của Người cho kẻ giữ Luật. Kẻ không
giữ Luật, không có chỗ đứng, không có nơi tựa, nó sẽ hư vong.
Ước gì
chúng ta không bao giờ quên nguyên tắc này. Gặp hoàn cảnh mới mẻ đến đâu đời
sống con người vẫn phải nắm giữ một số Luật điều. Vứt bỏ mọi sự, kể cả nguyên
tắc phải giữ luật và phải sống có kỷ luật, là biến mình trở nên bọt sóng để tùy
gió đánh đi. Con người sinh ra có gốc. Ðời sống con người phải có phương hướng.
Chúng ta phải chọn đường sống, như lời Môsê nói hôm nay.
Tuy
nhiên ông rất thận trọng. Ông nói: Không được thêm gì vào luật Chúa, cũng không
được xén bớt. Và đó là điều không dễ. Nó đòi người ta luôn luôn phải kiểm điểm
thành khẩn trước mặt Chúa. Tiếc thay, con người lại ít khi muốn đến trước nhan
Người. Họ luôn muốn lưu lại nơi thế giới tạo vật. Có khi lương tâm ray rứt,
thúc đẩy họ đi gặp Chúa, thì họ lại lười biếng lấy một tạo vật làm ngẫu tượng để
thay thế cho Người. Rồi họ nghĩ ra những yêu cầu của ngẫu tượng ấy. Dần dần họ
không còn nhớ và sống theo Luật chúa nữa nhưng đã lấy truyền thống và tập quán
loài người làm luật sống. Bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều
này. Nhưng Môsê, ngay từ đầu đã cảnh giác người ta. Ông dạy phải luôn luôn tìm
ra ý Chúa. Chỉ có nó là lẽ sống của con người và là đường dẫn họ đến sự sống.
Ai giữ
đúng luật Chúa sẽ luôn luôn có thể tự phụ. Họ sẽ là người “khôn ngoan minh mẫn
ở trước mắt các dân”, vì những điều họ giữ thật là những phán quyết công minh.
Hơn thế nữa, các dân sẽ thấy rằng sẽ trải qua các thời đại và cảnh đời tang
bồng mà luật pháp vẫn như vậy, thì là dấu nó không do lòng người thay đổi làm
ra, nhưng phải do Ðấng vĩnh cửu bất biến đã phán quyết. Và như thế thật là hạnh
phúc và vinh dự cho dân tộc, cho con người được Thiên Chúa ở gần và chăm sóc
như vậy.
Những
suy nghĩ của sách Thứ Luật rõ ràng rất sâu xa. Nó khiến chúng ta tin tưởng vào
nguyên tắc. Ðó là lẽ sống. Và đó là vinh dự. Không phải Môsê đã tự ý nói lên
được những lời chân thật trên đây. Ðó là kinh nghiệm của cả một dân tộc trải
qua cuộc đời bể dâu và sóng gió. Ðây còn là dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn và
hướng dẫn. Thế nên, những lời sách Thứ Luật hôm nay đúng ra là tiếng nói của
Chúa Thánh Thần và của chính Thiên Chúa. Người mạc khải cho chúng ta chân lý
này: nếu con người muốn sống và chiếm được đất hứa, tức là hạnh phúc, họ phải
giữ luật. Và phải giữ và chỉ giữ đúng luật của Người. Không những đó là đường
sống cho họ mà còn là vinh dự ở trước mắt các dân. Ai hiểu như vậy mà còn có
thể sống như không có nguyên tắc và phương hướng? Và gặp hoàn cảnh đổi đời, ai
tưởng rằng chỉ cần “cho de” những nguyên tắc cũ mà không chấp hành những lệnh
truyền mới? Mọi tình hình mới chỉ là cơ hội để khám phá ra nhiệm vụ mới. Ðó là
điều ít khi người ta muốn làm, như người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chúng ta hãy nghe lời Ðức Yêsu dạy.
2.
Phải Biết Kiểm Ðiểm
Người
lại đụng độ với bọn Biệt phái và Luật sĩ. Nói đúng hơn, bọn người bảo thủ và
lạc hậu này chỉ muốn riết Người vào kỷ luật. Họ thấy môn đồ của Người không rửa
tay trước khi dùng bữa. Thế là họ đùng đùng tấn công: “Vì lẽ gì mà môn đồ của
ông không giữ lệ truyền của tiền nhân?” Họ nói như ai cũng sống trong môi
trường của họ. Tiền nhân của họ là ai? Lệ truyền ấy có từ hồi nào? Môsê đã
chẳng nói trong sách Thứ luật rằng: đừng thêm thắt, xén bớt Luật Chúa sao? Ðức
Yêsu lại còn thấy bộ mặt giả hình, giả đạo đức, giả nhân nghĩa của họ nữa. Thế
nên Người trả lời và soi sáng cho họ hai điểm. Một là họ đã gạt lệnh truyền của
Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người. Và hai là họ chỉ chú trọng
rửa tay bên ngoài mà không thanh tẩy lòng trí bên trong. Nói đúng ra, Ðức Yêsu
đã hỏi quật lại họ hơn là chỉ trả lời cho câu hỏi. Người không cắt nghĩa vì sao
các môn đồ không rửa tay trước khi dùng bữa; nhưng lại vạch ra cho bọn Biệt
phái và Luật sĩ biết đời sống của họ không vô tội đâu. Nó còn xấu xa là khác.
Vì nó không giữ luật Chúa, một chỉ làm theo tập tục. Nó chỉ chải chuốt bộ mặt
bên ngoài và để yên ao tù dơ nhớp nơi tâm hồn.
Nhiều
người không thích câu Ðức Yêsu đã nói về điều gì tự bên ngoài mà vào bụng không
làm cho người ta ra ô uế, nhưng mọi điều xấu xa làm ô uế đều tự bên trong mà
xuất ra. Nhưng chúng ta hãy hiểu thái độ quyết liệt của Người… Ở thời bấy giờ,
người Dothái có những phân biệt rất vật chất về những gì sạch và dơ. Nếp sống
đạo của họ căn cứ vào những việc giữ luật lệ này. Ðến nỗi họ không còn để ý đến
tư cách của tâm hồn, mà chỉ còn quan tâm đến những cái hình thức. Ðức Yêsu gọi
họ là bọn giả hình, là có cơ sở. Chúng ta hãy nhớ đến một người như Phêrô. Một
ngày kia, gần đến giờ ăn trưa. Ông đói bụng và thiếp ngủ đi. Và ông mơ thấy
Chúa bảo phải ăn mớ ếch nhái trong tấm mền ở trên trời thả xuống. Phản ứng của
ông là của Dothái giáo. Ông lắc đầu bảo rằng đây là vật dơ, người đạo đức không
được ăn kẻo ra ô uế. Ông cũng cố thủ lệ truyền của loài người mà gạt lệnh
truyền của Chúa vừa bảo ông. Ðến nỗi Chúa phải nhắc nhở cho ông rằng: Những gì
Thiên Chúa đã tẩy sạch thì đừng gọi là dơ nữa!
Tựu
trung, óc vụ hình thức vẫn thật là khó chữa. Lâu ngày nó thi hành lệ truyền của
loài người và quên lệnh truyền của Thiên Chúa, thành ra có lúc nó dám vịn vào
lệ truyền của phàm nhân để cưỡng lại lệnh truyền của Ðấng Tối Cao. Kh6ng những
nó đa lấy ngẫu tượng thay cho Thiên Chúa mà còn đi đến chỗ dùng ngẫu tượng
nghịch lại Ngài.
Ðức
Yêsu hôm nay muốn mạc khải điều đó. Người muốn người ta phải kiểm điểm lại đời
sống tôn giáo và đạo đức của mình. Và để khỏi tiếp tục lầm lạc, người khuyên
mọi người hãy bắt đầu rửa sạch lòng mình, để nguồn có trong thì những dòng tư
tưởng chạy ra từ tâm hồn mới sạch. Công việc này ai cũng phải làm và phải làm
đi làm lại. Bài thư Yacôbê khi ấy sẽ có giá trị thiết thực.
3.
Phải Chịu Lấy Lời
Gọi
đây là một thư thì cũng chỉ là cách nói. Ðúng ra nó là một bản văn giáo huấn
các tín hữu. Người ta không nên tìm ở đây những tư tưởng độc đáo. Nhưng đọc
xong ai cũng cảm thấy tác giả bức thư này rất thành tâm. Ông đòi tin-hành nhất
thiết phải đi đôi; không được nhị tâm và đi dệu dạo, tức là đừng nghĩ rằng có
thể làm tôi Thiên Chúa mà lòng lại chiều theo thế gian được. Những câu đầu tiên
đọc trong phụng vụ hôm nay đã nói rõ vì sao như vậy. Tác giả viết: “Ơn tốt
lành, lộc trọn hảo, hết thảy đều do trên, xuống từ Cha các tinh sao sáng láng;
nơi Người không có biến dịch, hay vì xoay vần mà khuất bóng”. Mới đọc chúng ta
có thể thấy khó hiểu. Nhưng đây là những lời quan trọng. Tác giả nói đến nguồn
gốc, căn nguyên, cơ sở của lòng đạo đức chân thật.
Quả
vậy lòng đạo đức của chúng ta không xây trên những cái gì đổi thay, khi sáng
khi mờ. Không, nó là ơn Chúa ban. Người là Ðấng tạo hóa. Người đã dựng nên tinh
tú. Người là Ðấng hoàn toàn sáng láng, chẳng bao giờ có thể mờ tối vì Người
chẳng bao giờ thay đổi và khuất bóng. Nói rằng các nguyên tắc đạo đức căn bản
có thể thay đổi và châm chước được là nói đến một thứ đạo đức không lấy Chúa
làm nền tảng và nguồn gốc. Môsê trong sách Thứ luật đã nói: đừng thêm thắt bớt
xén luật Chúa cũng là nói theo nghĩa đó. Và cũng vì vậy trong bài Tin Mừng, Ðức
Yêsu bảo phải luôn thanh tẩy tâm hồn.
Ở đây
Yacôbê cũng dạy “phải khử trừ mọi thứ uế nhơ và khiêm nhu chịu lấy lời vốn đã
được gieo sẵn trong lòng”. Người muốn hết thảy hãy thanh tẩy mọi dục vọng và lệ
truyền để làm sáng tỏ Lời Tin Mừng cứu độ đã được gieo vào lòng tín hữu khi
lãnh nhận đức tin. Ðó không phải chỉ là Lời chân lý, nhưng còn là chính Ngôi
Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và bây giờ còn mầu nhiệm lưu lại trong
các tâm hồn trong sạch. Chính lời đó mới cứu được linh hồn chúng ta khi chúng
ta chỉ nghe tiếng Người.
Và
Người không chấp nhận cho chúng ta tin Người và mang danh hiệu Kitô hữu của
Người mà không thi hành lệnh truyền của Người. Và lệnh truyền ấy là hãy yêu
thương anh em, như lời Yoan viết; hay như lời Yacôbê nói hôm nay là: viếng thăm
cô nhi quả phụ… Chính nếp sống bác ái chân chính này giữ gìn chúng ta không
“bợn vết nhơ của thế gian”.
Như
vậy cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đã cho chúng ta phương hướng để sống đạo đức.
Dù hoàn cảnh có đổi thay và tình hình có mới mẻ, người tín hữu vẫn phải sống có
nguyên tắc. Dĩ nhiên không được bắt chước người Dothái lấy lệ truyền của loài
người làm chân lý bất di chuyển; và tệ hơn còn vịn vào nó để khước từ lệnh
truyền của Thiên Chúa. Không, hoàn cảnh mới chỉ đem lại cho chúng ta cơ hội
kiểm điểm lại đời sống của mình; không phải chỉ nhìn vào những cái bên ngoài,
nhưng phải đi sâu vào tâm hồn, để gạt bỏ những lớp bụi ô uế đầy gian tà hầu tìm
ra Lời Chúa và hình ảnh của Người đã được gieo sẵn và in sẵn trong tâm khảm.
Ánh sáng của Chúa sẽ lóe lên. Tiếng nói của Người sẽ trong trẻo. Chúng ta đi
theo ánh sáng đó và thi hành tiếng nói đó thì sẽ đạo đức chân thật. Và mọi
người sẽ thấy chúng ta bác ái hơn vì đạo Chúa là bác ái.
Giờ
đây chúng ta sửa soạn tâm hồn đón Chúa vào lòng để từ đó mọi giòng tư tưởng
biến ra hành động của đời sống chúng ta trở nên đạo đức, trong lành.
Bài
2. Cốt lõi của việc thờ phượng Chúa
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
Lắng
nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 7:1-8a,14-15,21-23)
Chúng
ta vẫn biết Chúa Giê-su có một lối đối đáp hoặc hóa giải sự tấn công và bắt bẻ
của đối phương rất là kỳ diệu, thí dụ trường hợp nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi
Người có nên nộp thuế cho vua Xê-da không. Hôm nay qua bài Tin Mừng, Chúa
Giê-su lột mặt nạ đạo đức giả của họ bằng cách trích dẫn lời ngôn sứ I-sai-a định
nghĩa thế nào là kẻ đạo đức giả. Hơn thế nữa Người còn dùng một thí dụ cụ thể
về ăn uống và tiêu hóa để bênh vực cho hành động của các môn đệ Người khi họ
chưa rửa tay mà đã dùng bữa.
Trước
hết chúng ta phải lấy làm lạ về thái độ thù nghịch của nhóm Pha-ri-sêu và các
kinh sư! Họ bám sát Chúa Giê-su để sẵn sàng tìm những sơ hở, từ lời nói cho đến
hành động của Người để bắt bẻ và làm cho Người mất uy tín. Vì thế, họ đã mất
công “từ Giê-ru-sa-lem đến”. Không tìm thấy được gì sai sót ở nơi Người, họ
liền quay sang các môn đệ Người và “họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà
tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa”. Và đây là cơ hội để họ tấn công Người. Họ
chất vấn Chúa tại sao không dạy dỗ các môn đệ giữ truyền thống của tiền nhân. Ý
của họ là cho người ta thấy nếu trò mà như vậy thì thầy sẽ thế nào. Đó chính là
bối cảnh Chúa Giê-su thẳng thắn đối đầu với họ, không phải với mục đích “hạ”
họ, nhưng là Người đưa ra lời kêu gọi khẩn thiết mong họ “bỏ đường lối gian ác
mà quay về với Thiên Chúa”.
Chúa
Giê-su đan cử lời ngôn sứ I-sai-a nói về kẻ đạo đức giả. I-sai-a không dùng lời
lẽ trừu tượng để nói thế nào là kẻ giả đạo đức, nhưng ngài lấy một việc làm
quan trọng nhất của dân Do-thái để diễn tả, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa.
Đúng vậy, bản chất của kẻ đạo đức giả bộc lộ rõ ràng qua sự kiện “tôn kính Ta
bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (I-sai-a 29:13). Cốt lõi của việc thờ
phượng là tấm lòng con thảo của chúng ta đối với Chúa, còn những cái
bề ngoài chỉ là phương tiện để chúng ta biểu lộ tấm lòng. Như thế, kẻ đạo đức
giả đã đảo ngược, bỏ đi cái cốt lõi để lấy phương tiện làm mục đích, nói khác
đi, dùng việc bề ngoài để tỏ ra mình đạo đức! Tóm lại, kẻ đạo đức giả không thờ
phượng Chúa, mà là thờ phượng chính bản thân mình, muốn làm cho danh mình được
cả sáng.
Dân
Do-thái, nhất là những kẻ đối nghịch với Chúa Giê-su, đã thiếu tấm lòng, tấm
lòng đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Do đó, Chúa Giê-su dùng một hình ảnh
cụ thể để nói lên tầm quan trọng của tấm lòng: việc ăn uống và tiêu hóa. Khi
ăn, đồ ăn từ bên ngoài qua miệng chúng ta mà vào dạ dày dĩ nhiên không làm cho
chúng ta thành dơ bẩn. Trái lại, những thứ đã được tiêu hóa thành phân và chúng
ta thải ra ngoài mới làm cho chúng ta ô uế! Đó là hình ảnh cụ thể để Chúa áp
dụng vào lãnh vực tâm linh. Những ý định xấu từ trong lòng chúng ta phát xuất
sẽ làm cho chúng ta thành ô uế, nghĩa là thành kẻ tội lỗi.
Chúa
Giê-su tích cực bênh vực các môn đệ. Ngài muốn nói rằng việc họ không rửa tay
trước khi ăn hay không giữ tập tục tiền nhân chỉ là những việc bề ngoài và không
thể làm cho họ thành những kẻ ô uế tâm hồn. Trong khi đó, Pha-ri-sêu và kinh sư
vỗ ngực là mình sạch bề ngoài bằng cách giữ truyền thống lại là những kẻ ô uế
tâm hồn vì những ác ý của họ!
Sống
sứ điệp Tin Mừng
Chất
“đạo đức giả” hầu như gặp thấy trong máu tất cả chúng ta và thường chúng ta
phải vất vả lắm mới làm chủ được nó. Nhiều khi chúng ta dự Thánh lễ, đọc kinh…,
chất độc đạo đức giả ấy vẫn hoạt động trong tâm hồn, nhẹ thì là làm cho chiếu
lệ qua lần hoặc như thói quen, nặng thì là nhắm mục đích phô trương cho người
khác thấy mình đạo đức! Làm sao bây giờ? Trước hết chúng ta phải biết Chúa
muốn điều gì nơi chúng ta. Người muốn tấm lòng chúng ta,
chứ không phải lễ lạt rềnh rang. Chúa không muốn đếm coi chúng ta “xem” bao
nhiêu lễ, “lần” bao nhiêu chuỗi, “đọc” bao nhiêu thứ kinh… Nhưng Người muốn
chính trái tim chúng ta, trái tim “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng”
(Gaudium et spes) được dâng lên Người để Người có cơ hội chạnh lòng thương
chúng ta. Chúa cần một điều nơi chúng ta thôi, đó là tấm lòng!
Bài
3. Sạch và bẩn
Trầm Thiên Thu
Trầm Thiên Thu
Sạch
và bẩn không chỉ có nghĩa đen mà còn có nghĩa bóng. Theo nghĩa đen, có những
thứ sạch quá cũng không tốt, nghĩa là đôi khi cũng cần bẩn một chút. Thật vậy,
có những loại virus thực sự “tốt” cho cơ thể. Cholesterol cũng có loại “tốt” và
“xấu”. Nhưng về nghĩa bóng thì phải tuyệt đối vệ sinh sạch sẽ, một chút bẩn
cũng nguy hiểm!
Nhóm
Pharisêu là “người đại diện” của những người ưa thói xu nịnh, đạo đức giả. Chúa
Giêsu rất ghét loại người này nên chỉ trích rất nặng loại ngời này: “Các
người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ
đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt
23:27).
Vậy
đó, thế nhưng người ta chỉ đọc cho biết, nghe cho vui, và người ta vẫn thích
thân thiện với những người có bề ngoài… “đặc biệt khác người”!
Sách
Đệ nhị luật nói về dân Ít-ra-en rằng “phải nghe những thánh chỉ và đem ra
thực hành” thì mới “được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức
Chúa hứa ban” (Ðnl 4:1). Tuyệt đối “không ai được thêm hay bớt gì,
nhưng phải giữ những đúng mệnh lệnh của Thiên Chúa”, nếu “tuân giữ và
đem ra thực hành thì sẽ được coi là khôn ngoan và thông minh” (Ðnl 4:2).
Nghe được thánh chỉ đó, người ta sẽ nói: “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là
một dân khôn ngoan và thông minh!” (Ðnl 4:6). Đúng vậy, “có dân tộc vĩ
đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng
ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ
và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh
em?” (Ðnl 4:7-8).
Dân
Ít-ra-en “người đại diện” cho chúng ta ngày nay, vì chúng ta cũng là dân riêng
của Thiên Chúa. Thật hạnh phúc cho chúng ta. Nhưng với điều kiện là “phải tuân
thủ mọi giới răn của Ngài”. Một trong các huấn lệnh của Ngài là “giữ lòng thanh
sạch”.
Thanh
sạch là “sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã”
(Tv 15:2-3). Không chỉ làm điều tốt mà còn phải tránh điều xấu: “Coi khinh
phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút
lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay”
(Tv 15:4-5a). Nghe chừng đơn giản, thế nhưng lại vô cùng phức tạp và khó khăn.
Ai sống và thực hành được như vậy thì sẽ “không hề nao núng chuyển lay bao
giờ” (Tv 15:5b).
Phải
cầu nguyện liên lỉ và nỗ lực không ngừng, vì không có Chúa thì chúng ta chỉ có
nước “bó tay” mà thôi: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga
15:5).
Thánh
Giacôbê xác định: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều
tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay
đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1:17). Tại sao?
Vì “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như
của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1:18). Thánh nhân giải thích
thêm: “Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan
tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức
cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông
mà lừa dối chính mình” (Gc 1:21-22). Vấn đề là thực hành, là hành động cụ
thể, chứ không thể chỉ nói suông hoặc đầu môi chót lưỡi. Thật không hề đơn giản
như chúng ta tưởng!
Con
người thường ưa hào nhoáng bề ngoài, thích được chú ý, thích bề nổi, dù biết đó
chỉ là hão huyền. Chúa Giêsu cực kỳ ghét thói giả dối, thói đạo đức giả. Và
Thánh Giacôbê cũng chỉ trích thói giả đối: “Ai cho mình đạo đức mà không
kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão”
(Gc 1:26). Thánh nhân giải thích cụ thể: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và
không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian
truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1:27). Thánh
Giacôbê đúc kết ngắn gọn: “Đức tin không có hành động thì quả là đức
tin chết” (Gc 2:17).
Ngày
hôm đó, có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là
những người từ Giêrusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Ngài dùng bữa mà tay còn
ô uế, nghĩa là chưa rửa. Vì người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm
giữ truyền thống của tiền nhân là “không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận, thức
gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn”. Họ còn giữ nhiều tập tục
khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vệ sinh là điều tốt. Nhưng
họ không chú trọng vệ sinh mà chú trọng các nghi thức, chú trọng “bề ngoài” mà
thôi. NGHI THỨC làm gì nếu không có TÂM THỨC?
Thấy
ngứa mắt nên ngứa miệng, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các
môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng
bữa?” (Mc 7:5). Ngài trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri
rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả,
khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6). Lời Chúa trách nhẹ mà đau điếng,
buốt tận tim như kim đâm vào óc! Đó là Ngài cũng đang trách chúng ta vậy.
Và
Ngài “láy” thêm: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng
giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa,
mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7:7-8). Họ câm họng không ú ớ
được gì, chắc là tức bầm gan tím ruột, nhưng Chúa Giêsu nói chí lý quá và cũng…
thấm thía thấu xương cốt. Thấy họ im như thóc thối, Ngài biết là “gãi đúng chỗ
họ ngứa” nên làm “liên khúc” luôn: “Các ông thật khéo coi thường điều răn
của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. Quả thế, ông Môsê đã dạy
rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử!
Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con
có để giúp cha mẹ đều là ‘co-ban’, nghĩa là ‘lễ phẩm đã dâng cho Chúa’ rồi, và
các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy
truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông
còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7:9-13). Đau ơi là đau!
Cũng đáng đời “kẻ giả hình” lắm!
Nói đi
cũng phải nói lại. Thấy người phải xem lại mình. Tục ngữ nói: “Cười người
hôm trước, hôm sau người cười”, còn ca dao cảnh báo: “Chân mình còn
lấm bê bê, mà còn cầm đuốc đi rê chân người”. Bằng cách này hay cách nọ,
qua cử chỉ, ngôn ngữ hoặc động thái, chúng ta cũng rất thường xu nịnh, tâng
bốc, luồn cúi, qụy lụy, chuộng bề ngoài, theo kiểu “cái đẹp đè bẹp cái nết”.
Liệu chúng ta có dám “vắt chân lên trán” mà suy ngẫm và can đảm đấm ngực “lỗi
tại tôi nhiều lần” hay không? Khó lắm!
Thẳng
thắn phê bình nhóm Pharisêu xong, Đức Giêsu gọi đám đông tới nói luôn một hơi
dài: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ
bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng
chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Ai
có tai nghe thì nghe! Vì từ bên trong, từ lòng người, phát
xuất những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc
ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những
điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”
(Mc 7:14-23).
Lời
Chúa nói quá rõ ràng, không gì khó hiểu. Lời Chúa có khi làm chúng ta vui mừng,
nhưng cũng có lúc làm chúng ta “nhức óc” lắm. Chỉ có SẠCH và BẨN, đơn giản vậy
mà sao nhiêu khê quá chừng!
Lạy
Thiên Chúa, xin hoán cải cuộc đời chúng con cho đúng Thánh Ý Ngài, và xin gìn
giữ chúng con luôn “sạch” trong từng ý nghĩ, từng ánh mắt, từng lời nói, từng
cử chỉ, từng động thái,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên
Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Bài
4. DÂN CHÚA LÀ DÂN VĨ ĐẠI!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I.
DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Xét về
mặt xã hội, người Công giáo ở hầu hết các nước trên thế giới, chỉ là thiểu số;
ở nhiều quốc gia người Công giáo còn bị coi là những công dân hạng hai hạng
ba; thậm chí tại một vài nước người Công giáo còn là thành phần bị xem
thường, ghét bỏ, đàn áp và bách hại nữa.
Nhưng
Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết rằng: Không có dân tộc vĩ đại nào được
thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi
chúng ta kêu cầu Người? Không có dân tộc vĩ đại nào có được những thánh chỉ và
quyết định công minh, như Lề Luật và giới răn mà Mô-sê và Đức Giê-su Ki-tô
truyền lại cho chúng ta.
Vậy
thì chúng ta chẳng có gì phải mặc cảm cả. Trái lại chúng ta có quyền hãnh diện
về nhân thân (identity) của mình mà sống hiên ngang với thiên hạ.
II.
LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1
Trong bài đọc 1 (Đnl 4,1-2.6-8): Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh
em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa.
2.2
Trong bài đọc 2 (Gc 1,17-18.21b-22.27): Anh em hãy đem Lời ấy ra thực
hành.
2.3
Trong bài Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23): Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên
Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm.
III.
KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1
Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1
Bài đọc 1 (Đnl
4,1-2.6-8) là những lời ân cần của Ông Mô-sê nói với dân riêng của Thiên Chúa:
Dân Chúa thật hạnh phúc vì họ được có Thiên Chúa ở gần, họ có thánh chỉ của
Thiên Chúa hướng dẫn, nên được sống trong chân lý và bình an và được coi là
“khôn ngoan và thông minh”.
Trong
bài đọc 1 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ở cùng/với dân và Thiên
Chúa là Đấng đem hạnh phúc cho dân.
3.1.2
Bài đọc 2 (Gc
1,17-18.21b-22.27)là những lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ, gồm hai ý:
(1o)
Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa là Đấng
Tạo Dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta.
(2o)
Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ
đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
Trong
bài đọc 2 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành và
phúc lộc, nhất là lời chân lý là lời có sức mạnh cứu độ.
3.1.3
Bài Tin Mừng (Mc
7,1-8a.14-15.21-23) là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong những cuộc
“đụng độ” giữa Đức Giê-su và các Pha-ri-sêu và kinh sư, xoay quanh vấn đề người
ta phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ
là phàm nhân?
Cơ hội
thuận lợi là một số Pha-ri-sêu và kinh sư bắt gặp vài môn đệ của Đức Giê-su
không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục, một truyền
thống mà người Do-thái giữ gìn rất cặn kẽ, chứ không phải là giới luật của Thiên
Chúa, trong khi họ lại xem thường giới răn của chính Thiên Chúa.
Động
cơ của người Pha-ri-sêu và kinh sư là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su và
các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa là những người ấy thích sống giả hình và
nuôi ảo tưởng cho mình là đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết
án người khác. Chính thái độ và cách sống giả trá này của các kinh sư, luật sĩ
đã bị Đức Giê-su vạch trần và lên án.
Theo
nhận định lành mạnh của mọi người, cũng là của chính Đức Giê-su, thì cái cần
phải thanh tẩy là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của con người chứ không
phải là bàn tay hay chén bát. Bởi vì một khi tâm hồn con người bất chính, tư
tưởng con người tội lỗi, suy nghĩ con người lầm lạc thì con người sẽ gây đại
họa, không những cho chính bản thân mình mà còn cho cả gia đình và cộng đồng xã
hội nữa.
Trong
bài Phúc âm này, chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng
truyền dậy chân lý một cách trung kiên và dũng cảm.
3.2
Sứ điệp của Lời Chúa (Chúa muốn chúng ta làm gì?
Sứ
điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống theo Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay
Giáo Huấn của Thiên Chúa thì sẽ được hạnh phúc, vì:
*
Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành Vô Cùng Vô Tận nên Thiên Chúa chỉ có thể làm những
điều tốt lành cho chúng ta mà thôi.
* Thánh
Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn hay Giới Răn gì của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm
giúp chúng ta có được hạnh phúc đích thật mà thôi.
IV.
SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
4.1
Sống với Thiên Chúa
là có những tâm tình/lời/hành động chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa là
Đấng luôn ở với chúng ta, luôn có mặt bên cạnh chúng ta. Nếu Thiên Chúa ở với
chúng ta thì tại sao chúng ta lại không ở với Người? Vì thế điều đáng làm nhất
là chúng ta sống với/bên Chúa.
4.2
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta thực thi thánh chỉ, mệnh lệnh của Thiên Chúa
là những giới răn mà Mô-sê và Chúa Giê-su đã truyền lại cho chúng ta. Cụ thể là
“hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn” và “hãy khiêm tốn
đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em.”
V.
CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI
5.1
«Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân,
các nước trên thế giới này, để mọi dân mọi nước nhận ra giá trị thật của họ
không phải là ở chỗ giầu mạnh về kinh tế hay có nhiều vũ khí tối tân hiện đại
mà là ở chỗ có Thiên Chúa ở cùng hay không.
Xướng:
Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2
«Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả
Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho
Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục, cho các linh mục và các tu sĩ cùng toàn thể
Hội Thánh, để mọi thành phần Dân Chúa biết trân trọng nhân thân của mình mà
nghiêm chỉnh thực thi các thánh chỉ, các mệnh lệnh của Thiên Chúa được các ngôn
sứ và nhất là được Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, truyền lại.
5.3 «Mọi
ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng
dựng nên muôn tinh tú.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta,
cách riêng cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sống khiêm tốn
và biết ơn, đối với Đấng ban phát mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo cho con
người và vũ trụ.
5.4
«Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp,
giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ
báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người yếu đuối, đam mê, tội
lỗi, để họ nhận được sức mạnh của Thánh Thần mà hoán cải và thay đổi cuộc sống.
Bài
5. CỘI NGUỒN CỦA SỰ ÁC
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Trong
một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành
qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô
vang: “Hủy bỏ bom đạn giết người!”
Sau
đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom đạn
giết người! Bom đạn có giết ai bao giờ đâu? Chỉ có những người ác chế ra
bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên thảm họa giết người.”
Thế là
sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết
người!”
Nhưng
rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có
động cơ nào đó thúc đẩy mới có việc giết người chứ! Nếu không có lòng tham lam,
ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người!” Ý kiến
nầy được xem là chí lý.
Thế là
cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng
ghen tị! Đả đảo sự hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Chính
những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi
xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con
người là thứ phải truy diệt trước hết.
Vì
chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su
cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào
việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách
móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân
cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe
tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người
lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất
ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất
những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác,
xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những
điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
(Mác-cô 7, 14-15. 21-23)
Để
hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben.
Cain
và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà thuận với nhau.
Thế
rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu
mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của
Cain.
Thế là
từ đó, trong Cain phát sinh lòng ghen tị. Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình
anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính
lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết
Aben.
Một
trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời
ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Phi-li-tinh, một người khổng lồ có sức
mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en,
không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May
thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi
dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên
như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau
đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un
chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được
một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn”. (Samuen I, 18, 6-8)
Lời ca
tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un. Nhà vua tìm mọi cách
tiêu diệt Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu
toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng
là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn
sự ác nằm trong thâm tâm con người là điều mà người ta phải quan tâm tiêu diệt
trước hết.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào tận đáy lòng mình để phát
hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và
thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên
tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người.
Nếu
chúng ta không phát hiện và nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn
mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn mạnh lên, sẽ điều khiển chi phối đời sống chúng
ta và chúng ta sẽ trở thành những con rối trong bàn tay dục vọng.
Bài 6. TRỌNG TÂM CỦA LỀ
LUẬTLinh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trong
đời sống của con người không thiếu gì những chuyện xem ra mâu thuẫn và buồn
cười. Thời Chúa Giêsu, các người Pharisêu tỏ ra họ là những người chu toàn lề
luật một cách hoàn hảo, đồng thời họ cũng cho mình là mẫu mực của việc thực thi
lề luật. Nhưng xem ra họ lại tỏ ra quá lố bịch, và hì hỡm vì giữ luật bề ngoài,
giữ luật một cách thật máy móc. Đức Giêsu lại có một quan niệm khác về việc
tuân giữ lề luật, Ngài không đã phá việc giữ lề luật, và hủy bỏ lề luật nhưng
theo Ngài cốt lõi của Đạo là Tình Yêu, cốt lõi của việc giữ lề luật, thực thi
lề luật cũng là Tình Yêu. Vì thế, quan niệm và đường hướng của Chúa Giêsu là
một cuộc cách mạng đối với Do thái giáo…
Câu
chuyện hôm nay khởi đi từ một việc nhỏ: các môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay
trước khi ăn. Đối với người Pharisêu, khi đi ra phố chợ về nhà dứt khoát phải
rửa tay, bởi vì tay ô uế sẽ làm đồ ăn ra ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con
người ra ô uế. Chúa Giêsu đã khẳng định, đã minh xác một cách công khai, minh
bạch rằng: “Không có gì vào trong con người lại khiến con người ra ô uế” (Mc 7,
15). Lời xác quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Ngài là một con người tự
do, Ngài vượt ra khỏi những cấm kỵ, những cản ngăn, những bức tường xem ra rất
vô lý của những người Pharisêu và những người Do Thái lúc đó. Chẳng hạn họ cấm
cản việc ăn thịt heo, ở gần những người phụ nữ đang thời ở cữ, không được đụng
vào xác chết, không được sờ vào người cùi, không được đồng bàn với người tội
lỗi, những người ngoại giáo v.v… Tất cả những trường hợp đó đều bị cấm kỵ. Chúa
Giêsu đã phạm vào nhiều điều cấm của những người Pharisêu và đạo Do thái. Chúa
đã đến với những người nghèo, những người lang thang vất vưởng, những người bị
cho là tội lỗi, những người thu thuế và gái điếm. Chúa đến với những hạng người
ấy để làm cho họ nên tốt, trở nên sạch.
Chúa
Giêsu không phản đối việc rửa tay. Rửa tay để cho tay sạch sẽ là điều tốt cần
phải thi hành. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu thấy những người Pharisêu giả hình, rửa
tay vì sợ, vì giả hình là một điều cần phải tránh. Chúa muốn con người thực thi
lề luật vì yêu thương. Ngài dạy chúng ta phải tẩy sạch trái tim, nghĩa là làm
sạch bên trong. Do đó, Chúa kể ra 12 tội xấu phát xuất từ bên trong, phát xuất
từ trái tim của con người chẳng hạn như tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại
tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông
cuồng (Mc 7, 21-22). Chúa mời gọi con người, kêu gọi chúng ta tẩy sạch trái
tim, trở về với trái tim nghĩa là dám nhìn nhận những sai trái, những lớp vỏ,
mặt nạ của mình. Trở về với trái tim nghĩa là không bôi sáp, không trét phấn…
Trở về với cõi lòng nghĩa là biết sám hối ăn năn để làm cho cõi lòng trở nên
trong sạch, trở nên tinh tuyền. Ngôn sứ Êdêkiên đã viết một câu rất chí lý:
“Hãy tạo một trái tim mới cho mình”. Tuy nhiên, không phải con người, không
phải chúng ta dễ dàng thay tim, không phải chúng ta dễ dàng làm cho tim nên
trong sạch nếu không có Chúa: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi. Ta sẽ ban cho các
ngươi một trái tim mới” (Ed 36, 25 tt). Vâng, trở về, làm đẹp bên trong, đổi
mới trái tim là làm được mọi sự.
Chúa
căn dặn chúng ta lề luật, tập tục, truyền thống cũng rất cần thiết, nhưng đừng
nệ vào luật bề ngoài, tuân giữ và thực thi một cách máy móc lề luật mà quên đi
lời Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia: “Dân này thờ ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ
chúng thì quả thực xa Ta”. Như vậy điều cốt lõi trong đạo Công giáo không phải
chúng ta làm việc này việc nọ, nhưng chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những
việc ấy. Việc làm, điều chúng ta thực thi, hành động phải phát xuất từ tình
yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Chúng
ta hãy suy gẫm lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: “Giả như tôi được ơn
nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được
tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng
là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận
thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến
tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến
không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ
chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn” (1 Co 13, 2-8). “Anh
em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn
nói tiên tri” (1 Co 14, 1).
Lạy
Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu Chúa
và thương người. Amen.
Bài
7. CAO CẢ VÀ BI ĐÁT
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh
với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều
biết đến.
Cái
thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái
phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh
và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong
các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi
cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình
vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái
lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì
thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công
thức.
Trong
tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt
khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là
cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do
đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối
khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi
linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách
biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh
cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái
chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật
nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành
riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái
thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến
những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan
niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ
đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người
vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian
của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân
Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình
là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi
một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong
một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ
như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm
người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay
từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong
căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh
đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở,
lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp
làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa
những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi,
thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang
Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó.
Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các
người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt
khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải
tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ
chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền
nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức
Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế
nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người.
Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu
chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh
Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống,
trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi
giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô,
đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ
con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai:
những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy
đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên
Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức
Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người,
không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì
dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà
dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh
tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong
xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người
đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai
đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết
nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng
thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác
độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham
hiểm giết người không dao”.
Một
trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả,
tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả… Những thứ giả ấy đi vào
cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức
độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà
phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”,
thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã
lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn
của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên
Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh
em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”
(Ga 4,20).
Cõi
lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự
bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con
người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc
kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá
nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi
đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt
luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả
hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “Không
phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng
mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức
Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay.
Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng.
Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm
trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối
với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là
trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong
là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn
sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”. Tình thương chính là
sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là
Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu
luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà
văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn
chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và
hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng
những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là
dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ
vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào
nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc
chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu
gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ
đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ
dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin
vào Ðấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể
không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Ðấng họ thờ kính.
Thường
thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn
lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí
học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn
hậu của tuổi ấu thơ.
Đối
với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức
một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải “thánh thiện” trăm ngàn lần hơn:
“Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện”
(Mt 5,48); “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…Ánh sáng của anh em phải
chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà
tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Con
người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên
Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới”
(Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các
ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay
một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình
thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi,
rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong
đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay
lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng,
tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người
Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là
đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng
là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
Bài
8. SẠCH TỪ BÊN TRONG
P. Trần Đình Phan Tiến
P. Trần Đình Phan Tiến
“chiếc
áo không làm nên thầy tu”
Suy
niệm bài tin mừng hôm nay là điều không dễ, bởi vì nội dung chính là sự khiển
trách, chê bai, phê phán của Chúa Giêsu đối với cấp bậc lãnh đạo tinh thần của
người Dothái. “Lời “thật” thì mắc lòng, thuốc đắng thì đả tật”. Tuy nhiên,
“thương thì cho roi cho vọt, có yêu thương mới khiển trách phê bình.
Hôm
nay Chúa Giêsu thưc hiện vai trò của một vị thẩm phán, Người lên án thái độ giả
tạo, bên ngoài của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ.
Quả
thật sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu bao trùm mọi lĩnh vực, Người đến để kiện
toàn, chứ không phải phá vỡ, Người quả thật là tấm Bánh khi đói lòng, Người
thầy thuốc khi lâm bệnh, ốm đau, kể cả khi đã chết. Người sứ giả của Tin Mưng
đảm nhận hết vai tró của trần thế (Mt 5,17). Người môn đệ trung thành của
Giavê, Người Thầy của mọi thời đại, Người Mục Tử nhân lành chăm sóc cho đoàn
chiên đang vất vưởng, đói khát, ốm đau bệnh tật, Người Thầy khi dạy dỗ những
chân lý cao siêu bằng những dẫn dụ bình dân.
Suy
niệm sâu xa cho ta thấy Thiên Chúa là sức mạnh nội tâm, sự thánh thiện từ bên
trong, chứ không phải là bên ngoài, căn nguyên của sự sống, nếu thiếu chiều sâu
nội tâm con người dễ sống hời hợt, thiếu trách nhiệm, sẽ trở nên vô nghĩa lạc
lõng giữa sự chết. Vì thế, chiều sâu nội tâm là điều cần thiết cho con người
nói chung và cho người môn đệ của Đức Kitô.
Tôn
giáo Thiên Chúa, mà Đức Kitô-Giêsu rao giảng là kim chỉ nam cho tất cả mọi tín
ngưỡng, vì nó mang lại sự tốt lành từ trong sâu thẳm tâm hồn của con người.
Thật
vậy, tư tưởng thì quan trong hơn hình thức,muốn có tư tưởng tốt lành thánh
thiện, thì phải có sự tốt lành, thánh thiện ngự trị. Cái bên ngoài có thể lôi
kéo ta, nhưng một khi ta có Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn, thì ta sẽ tránh
được những cái bên ngoài, dù có vấp ngã, nhưng nội lực của ta là Sức mạnh của
Thiên Chúa sẽ giúp ta lướt thắng. Như vậy cái từ bên trong mới làm cho xấu, chứ
cái từ bên ngoài không làm cho bên trong xấu được (Mc 7,15). Đối với chân lý
của Chúa Giêsu là như vậy, điều nầy có đồng tình với tục ngữ dân gian “gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng”? Xin thưa, hoàn toàn phù hợp nhưng ở một mức độ cao
siêu hơn, vì khi ta phạm tội là chính từ bên trong con người ta phạm tội, chứ
không phải ta đụng vào người phạm tội là ta có tội. Chân lý của Chúa thật nhân
bản, sâu sắc hơn, bao dung hơn vì đó là chân lý từ Thiên Chúa.
Như
vậy, ô uế bên ngoài chỉ là sự vệ sinh hình thức, không đáng sự bằng ô uế bên
trong, rõ ràng khi ta phạm tội là ta quyết định gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài.
Nghĩa là bên trong con người ta không có nội lực của Thiên Chúa, thì ngay tức
khắc ta phạm tội. Như vậy tội là điều xấu từ bên trong ta muốn làm, chứ không
phải là từ bên ngoài làm cho ta phạm tội (Mc 7, 15).
Ví dụ:
như ta ăn phải ngộ độc mà chết, thì ta không mắc tội tự sát, nhưng nếu ta cầm
dao tự sát, thí ta mắc tội tự giết mình.
Vì vậy
chân lý từ Chúa Giêsu thì khác hẳn với chân lý từ các nhà lãnh đạo Dothái, nên
chi họ không thích Người và vì vậy Chúa Giêsu sẽ trở nên hy lễ cứu chuộc để
minh chứng điều Người giảng dạy. Thước đo lòng người là dựa vào sự nội tâm chứ
không phải là hình thức, đoạn Tin Mừng (Mc 7) hôm nay, cho thấy Chúa Giêsu lên
án sự giả tạo bên ngoài, ưa hình thức, nhưng bên trong thì thối tha, đúng với
câu tục ngữ Việt Nam “tốt khoe, xấu che”, như vậy chỉ che đậy được cái xấu bên
ngoài mà thôi. Còn cái độc dữ bên trong lấy gì che đậy. Đón nhận tin mừng của
Chúa là thực thi tin mừng chứ không phải là “NÓI” hay “HÓT” Tin Mừng.
Như
vậy, bên ngoài bị bẩn thì lấy nước mà rửa, nhưng bên trong mà bẩn, thì lấy gì
mà rửa. Đó là vấn đề mà Chúa Giêsu cần đưa ra…?!!! Qua câu
chuyện rửa tay, Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học nhớ đời. NỘI TÂM
CON NGƯỜI THÌ QUAN TRỌNG HƠN HÌNH THỨC (Mc 7, 21-23).
Lạy
Chúa Giêsu, Lời dạy của Chúa thật mầu nhiệm, qua lời dạy ấy con người của mọi
thời đại biết khiêm tốn và chân tình hơn. Nếu không sự hoang tưởng của loài
người thật là quỷ quyệt, vì họ chỉ biết chuộng hình thức còn bên trong tâm hồn
thật là rỗng tuếch. Xin Chúa thương ban cho những ai nghe Lời Chúa hôm nay,
biết đem ra thực hành theo Thánh Ý Chúa.
Lạy
chúa Giêsu xin thương xót con. Amen.
Bài
9. MẤT VỆ
SINH!
JM. Lam Thy ĐVD.
JM. Lam Thy ĐVD.
Đang
ngồi trước máy vi tính, tay thì sờ râu cằm lởm chởm, tay thì vuốt mái tóc bờm
xờm trắng xoá, nhăn mặt nhăn mũi tím ý tưởng cho bài viết, thì bất ngờ “sát
tinh” của tôi – ông bạn già tai quái chỉ thích “thọc gậy bánh xe” – xuất hiện.
Mới bước chân vào cửa, ổng đã oang oang: “Ái chà! E hèm! Triết gia lại đang
“suy sự Đức Chúa Trời”! Bái phục! Bái phục!”. Chăm chú ngó vô màn hình, ổng
thao thao bất tuyệt: “Gì nữa đây? “Tranh luận về những truyền thống
người Pha-ri-sêu: Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp
quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ
của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người
Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân:
họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải
rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát,
bình lọ và các đồ đồng.” (Mc 7, 1-4). Ủa! Sao các môn đệ của Đức Ki-tô lại mất
vệ sinh quá vậy, lỡ mắc bệnh “tay chân miệng” thì sao?”.
Tôi
lại phải thúc cho anh bạn một cùi chỏ nên thân về cái tật hay móc ngoéo cố hữu
đã trở thành cố tật của anh. Bệnh “tay chân miệng” đang hoành hành ở Việt Nam
và cũng đã làm chết nhiều người, nhưng dám nói các môn đệ của Đức Ki-tô mất vệ
sinh thì quả thật còn bạo gan hơn cả đám người kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu! Tuy
nhiên, nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nhận xét này cũng
không hẳn là phi lý. Và nếu chỉ chú trọng đến vấn đề vệ sinh trong truyền thống
Do thái, thì phải nói một điều là các kinh sư và người Pha-ri-sêu là
“năm-bơ-oăn”. Họ đã giữ luật lệ và truyền thống một cách rất chặt chẽ và nếu
những truyền thống ấy là tốt đẹp, thì chẳng có gì đáng chê trách cả. Thế nhưng
tại sao Đức Giê-su lại khiển trách họ nặng nề như vậy? Vấn đề đặt ra ở đây là
động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn
đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ
đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn
sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả,
khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,/ còn lòng chúng thì
lại xa Ta./ Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,/ vì giáo lý chúng giảng dạy
chỉ là giới luật phàm nhân.’ Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì
truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8).
Đức
Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có
thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là
cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô
dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp – Vd:
Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ
không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ
thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra
ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó
mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những
ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo
trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều
xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,
20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở
thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa
tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói
đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là
phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng
những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên
trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh
sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì
là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý,
lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì
không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt
con lạc đà”. (Mt 23,23). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề
Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người
nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”.
Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều quan yếu trong
Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một
cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những
tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là
cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân
giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo
Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu
tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con
đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung
cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại
Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng,
ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do-thái chính hiệu
là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm
hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người
như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi” (Rm 2, 29). Nếu
quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật,
thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói
như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không
cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là
những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật
của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa
yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết
“yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như
yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống
đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ
để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn
của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người,
nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự
là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công
lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải
làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ”.
Tóm
lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của
Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông
đồ khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh
tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác…
Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông…
Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong
cơn quẫn bách…” – (Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư
Pha-ri-sêu giả hình “… tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,/còn lòng chúng thì lại
xa Ta”. Người không hề bác bỏ Lề Luật, (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi
trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5, 18).
Ôi!
Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám
người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt
tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều
răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi!
Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của
Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì
Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông” (“Xin chỉ cho con” –
Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp
con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý,
lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Amen.
Bài
10. Sống vì đời hay cho Chúa?
AM Trần Bình An
AM Trần Bình An
Nhà
thần học William Barclay kể lại câu chuyện một kinh sĩ Do Thái (Rabbi) bị cầm
tù ở Roma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian
trôi qua, vị kinh sĩ ấy càng ngày càng yếu dần, buộc người ta mời bác sĩ đển
khám xem thế nào. Bác sĩ liền phán sau khi chẩn đoán rằng, cơ thể tù nhân bị
thiếu nước trầm trọng.
Họ
không hiểu tại sao vị kinh sư ấy lại thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày
tuy là tối thiểu, nhưng vẫn đủ dùng như các tù nhân khác. Thế là đám lính gác
được lệnh theo dõi kỹ hơn, để thử xem ông ta đã dùng số nước ít ỏi đó làm gì.
Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị kinh sư Do Thái ấy đã sử dụng phần
lớn lượng nước ấy để rửa tay, theo nghi thức cổ truyền trước khi ăn và cầu
nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Bài
Tin Mừng hôm nay, nêu lên sự xung khắc giữa hình thức bên ngoài như tập quán,
tục lệ và tinh thần bên trong, như Đức Tin, Cậy, Mến với Đấng Tối Cao.
1.
Hình thức thay cho tinh thần
Vị
kinh sĩ Do Thái kể trên đã sống thật trọn vẹn tập tục và luật lệ thay cho tinh
thần thờ phượng Thiên Chúa. Đây là xu hướng khá phổ biến hiện nay trong xã hội
quá đà khoa trương, phù phiếm và thực dụng. Lộng giả thành chân, lấy
cái ảo, cái phù vân khỏa lấp, che đậy cái tinh túy sâu sắc, sự thật và chân lý.
Cứ mãi
chạy theo hình thức bên ngoài, theo luật lệ thế gian, theo thị hiếu con người,
người ta quên mất đi ý nghĩa quý giá ẩn giấu bên trong, điều mà Thiên Chúa mong
đợi hơn cả. Như đi lễ, đọc kinh, ăn chay, làm từ thiện… vì thói quen, hay chỉ
vì muốn phô diễn lòng mộ đạo với tha nhân. Nếu vậy, theo phép công bằng của Thiên
Chúa, thì người ta đã được tiếng khen, lòng khâm phục của thế gian rồi, cần chi
được thưởng mai hậu nữa.
Hơn
nữa, Chúa Giêsu còn vạch trần trò ma mãnh xảo trá, xảo ngôn, xuyên tạc Lời
Chúa, để phục vụ bất chánh cho luật đời, cho thế quyền, cho hư danh. “Quả
thế, ông Mô sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ và kẻ nào nguyển rủa cha
mẹ thì phải xử tử! Còn các ông lại bảo: Người nào nói với cha mẹ rằng: Những gì
con có để giúp cha mẹ đều là “cô ban” rồi, nghĩa là lễ phẩm dâng lên cho Chúa,
và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy
truyển thống các ông đã truyền lại cho nhau, mà hủy bỏ Lời Thiên Chúa. Các ông
còn làm nhiều giống như vậy nữa!” (Mc 7, 10-13)
2.
Hình thức đối nghịch tinh thần
Để có
thể che đậy cái bề trong rỗng tuếch, mục nát, thối tha, người ta càng ra sức
trang trí cái hình thức bên ngoài thiệt hào nhoáng, thiệt hoành tráng, gây ấn
tượng mạnh cho người đời. Chả thế mà Chúa Giê su đã không giấu nổi bất bình:“Khốn
cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như
mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và
đủ mọi thứ ô uế. (Mt 23,27)
Trước
thói chuộng hình thức, Chúa Giêsu quá sức thất vọng, chua chát thốt lên sự thật
đáng xấu hổ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì
lại xa ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy,
chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7, 6-7).
3.
Hình thức hòa hợp tinh thần
Chúa
Giêsu là tấm gương tuyệt vời, phản chiếu sự kết hợp hài hòa giữa hình thức và
tinh thần. Trước tiên, Người chịu phép cắt bì. Khi đúng tuổi theo luật định,
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đưa hài nhi Giêsu lên Giêrusalem, để dâng Người vào
đền thánh. Rồi trước khi bước vào cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu dù vô tội, vẫn
chịu phép rửa do chính Thánh Gioan Baotixita thực hiện. Tóm lại, Người luôn
thận trọng tuân thủ các giới luật, kể cả nộp thuế thân cho đế quốc Roma.
Chúa
Giêsu còn nhấn mạnh hơn nữa tới sự hợp nhất giữa lời nói và hành động, giữa
hình thức và nội tâm:“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà
được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt
7,21).
Đỉnh
điểm của ngôn hành hiệp nhất, của hình thức kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần,
là cuộc khổ nạn bi thương của Chúa Giêsu Cứu Thế. Đích thân Người hoàn thiện
trung thực và mỹ mãn những lời đã giảng dạy cho thế gian.
Trước
tấm gương vĩ đại của Thầy Chí Thánh, vị môn đệ trung kiên Gioan đã tha thiết
khuyên nhủ tín hữu:“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu
thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc
làm.” (1Ga 3, 18)
“Cần
phải nói ít đi, điều rao giảng chưa phải là điều được đón nhận. Vậy ta phải làm
gì? Hãy cầm lấy cây chổi để quét nhà cho một ai đó, công việc ấy đã đủ để rao
giảng” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Lạy
Chúa Giêsu nhân ái, hãy giúp con thực hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi
nơi, mọi lúc, để con xứng đáng là Kitô hữu thật sự.
Lạy
Mẹ Maria, xin cho con luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa, dù có phải trả giá
thế nào đi nữa, xin giúp con luôn trung thành theo Thánh Ý nhiệm mầu. Amen.
Bài
11. Với cả tâm tình
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Truyện
thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên
vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư
liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn:
“Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên
vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện
ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức
và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu
nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình
đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật
tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội
tâm của mình.
Những
người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như
thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những
hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo.
Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế
những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại
đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ
vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị
ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không
được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát
bên ngoài cho sạch.
Đức
Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà
không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương
tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong
tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi,
sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa. Vì quá chú trọng
đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức
trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ
đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn
là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật
lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những
hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên
ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con
người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội
tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị. Đạo Chúa không phải là hình thức.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức
mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không
có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói
được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức
mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao
siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng
ích gì cho tôi”.
Vì
thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực.
Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến
chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành
thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của
người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn
chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối.
Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm
hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô
trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng. Với tất cả
tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình,
ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy
Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
Bài
12. Cái nết đánh chết cái đẹp
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có người
nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật”
mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người
hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành.
Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương
gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế
gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực
Thiên Chúa.
“Cứ ăn
đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để
cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn.
Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi
dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu
đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể
bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục
vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến
nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên
Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối
sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một
thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng
khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm
nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa –
Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường ngụy trang cho những ý đồ đen tối
đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời
Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa.
Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm
hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà
quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật
không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn
thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người
khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan
trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi
cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu
rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của
người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người,
cướp của… và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác
mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị
sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính
vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con
người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người
xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát
xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc
ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những
điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Thế
nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải
loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn
dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con
người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta
trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của
nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi
nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện
hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế
để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết
đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con
người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất
đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu
ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết
những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự
ác ngày một lan tràn.
Vâng,
vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là
sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa : “đói cho
sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con
người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không
chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã
hội.
Ước gì
mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ
tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh
khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm
giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống
đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình
an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.
Bài
13. Bỏ luật Chúa, giữ luật người
Lm. Vĩnh Tiến
Lm. Vĩnh Tiến
Tổ
tông loài người, ngay sau khi được tạo dựng, đã muốn cãi lệnh Thiên Chúa. Bằng
Thiên Chúa đâu chẳng thấy, chỉ thấy mình trần trụi. Ở thời đại nào, con người
cũng muốn loại trừ Giới Răn của Chúa, để tự làm luật, nhằm phục vụ lãnh tụ hay
chính cái tôi. Thời Chúa Giêsu, các Kinh Sư, Biệt Phái, những người lãnh đạo
trong dân, thấy các học trò Chúa ăn, không rửa tay, lau chén, tắm rửa. Họ chỉ
trích: “Sao các môn đệ cùa ông không theo truyền thống của tiền nhân?” Chúa đã
dùng lời các ngôn sứ đáp lại: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn
lòng chúng thì lại xa Ta.” Chúa còn nhấn mạnh: “Các ông gạt bỏ điều răn của
Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Và giải thích thêm: “Cái
từ bên trong con người, như những ý nghĩ xấu xa, những tư tưởng đồi bại mới làm
cho con người ra xấu, chứ không phải những đồ ăn thức uống người ta ăn vào.”
1.
Bỏ điều răn của Thiên Chúa
a/
Chính trong dân Chúa chọn
Chúa
đã từng phán: “Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp, hỡi các tướng lãnh
nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý và bẻ cong những gì ngay thẳng. Các
ngươi xây Sion bằng máu, dựng Giêrusalem bằng bất công. Các thủ lãnh của nó xét
xử dựa theo quà cáp, các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc.
Chúng ỷ vào Ðức Chúa mà nói: Ðức Chúa chẳng ở giữa chúng ta hay sao? Tai hoạ sẽ
chẳng giáng xuống chúng ta đâu! Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi mà Sion sẽ
thành ruộng cày, Giêrusalem nên chốn tan hoang, và núi Ðền Thờ hoá ra nơi cao
rậm rạp.” (Mika 3, 9-11)
“Các
ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc: Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng
hô: “Bình an”, còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng, thì chúng lại mở cuộc
thánh chiến tấn công họ.” (Mika 3, 5-6)
b/
Trong lòng Giáo Hội hôm nay: Thực ra, vì nhu cầu thực tế, Giáo Hội đã và đang
phải canh tân nhiều thứ, đặc biệt với Công đồng Vatican II. Thế nhưng, còn có
nhiều đòi hỏi vô lối, như cho phép linh mục lập gia đình, cho phụ nữ làm linh
mục, cho phép hồi tục dễ dàng. Có những đòi hỏi tháo thứ chống cả luật Chúa,
sống thử trước hôn nhân, ngừa thai, phá thai, ly dị, hôn nhân đồng tính, cái
chết êm dịu, duy tiện ích…
Thực
ra, còn có những việc xem ra nhỏ, nhưng có sức công phá lệnh truyền của Chúa
không nhỏ, mà hầu như đâu đâu cũng thi đua, đó là: Tập trung mọi nhân vật lực
vào việc xây dựng cơ sở, sao cho nguy nga, hoành tránh, vửa đáp ứng nhu cầu và
xứng tầm với thời đại. Bảo vệ đức tin, đặt nặng việc săn sóc các đoàn thể, các
giới, mừng lễ quan thầy, kỷ niệm ngân khánh, kim khánh, ngọc khánh, linh mục,
khấn dòng, thành lập giáo xứ, giáo phận. Nhưng truyền giáo, lệnh truyền khẩn
cấp của chính Chúa, thì lại sao lãng hay xem nhẹ, khoán trắng cho một nhóm nào
đó và lâu lâu mới thổi lên một lát cho an lương tâm rồi thôi ?
c/
Trong mỗi người tín hữu. Ai ai cũng muốn giảm nhẹ luật Chúa, luật Giáo Hội,
xuống mức thấp nhất có thể. Những người đã tự nguyện hiến dâng, dành trọn thời
gian tiền bạc và sức lực cho Chúa và những việc của Chúa, thế mà nhiều khi vẫn
bị cám dỗ, sợ dọn bài giảng, không muốn nghe ai giảng, sợ ngồi toà, làm các bí
tích, thích làm quan án. Việc dâng lễ, nếu không có bổng, có lẽ cũng bỏ, trừ
việc giữa luật ngày Chúa Nhật. Không ít nhà tu, ngại mặc tu phục ra đường, thậm
chí cả khi tham dự phụng vụ. Lại còn có nhà tu không muốn ai biết mình là người
tu hành. Việc thi hành mục vụ cho giáo dân thì chẳng đặng đừng, làm cho qua,
cho yên thân.
Người
có gia đình, chỉ muốn hưởng quyền lợi hôn nhân, và tìm mọi cách tránh né trách
nhiệm. Bạn trẻ tuần lễ một lần, thường đi trễ về sớm. Cha giảng cho ghế chúng
nghe, con ra hút thuốc, ngồi hè nghỉ ngơi. Nhiều khi còn trốn đi chơi, mặc ai
trách móc ông trời điếc tai. Người già nhắm mắt lai rai, câu kinh, tiếng hát
cho qua tháng ngày. Khi nào hấp hối ngất ngây, hãy mau gọi cụ, để ngài đến mau.
Con trẻ cắp sách tời trường, học nhồi học nhét những điều dối gian. Về nhà mẹ
hét, bố la, tai con điếc đặc đâu nghe Chúa truyền.
2.
Duy trì truyền thống người phàm
a/
Người có quyền trong xã hội: Người ta bày đủ thứ luật, lệ, nghị định, mong áp
đặt trên những người có đạo. Luật đăng ký hoạt động tôn giáo, kiểm soát ngày
lễ, giờ giấc việc thực hành các nghi lễ. Hạn chế mở địa điểm mới. việc
xây dựng cơ sở tôn giáo. Đăng kỳ người đi tu, việc truyền chức, thăng chức,
thuyên chuyển các chắc sắc…Không cho mở bệnh viện, trường học các cấp,
trừ nhà trẻ, mẫu giáo. Trong khi đó lại cho người ngoại quốc, tư nhân hay
tập thể mở trường, bệnh viện, cơ sở xã hội thoải mái. Người ta, khuyến khích, cưỡng
chế việc sinh sản bằng mọi biện pháp vô luân, để dù trai hay gái chỉ hai là đủ.
Chính vì thế, chúng ta mới thấy các nghĩa trang thai nhi mọc lên khắp nơi, ngày
càng nhiều những nấm mô vô tội. Hầu như có luật bất thành văn về luơng bổng
của công chức các cấp. Lương trên giấy tờ thì không đủ nuôi sống chính
bản thân người ấy, thế mà họ vẫn có nhà lầu xe hơi, thừa tiền nuôi vợ nọ con
kia, còn dư để mua đất, hay gửi ra nuớc ngoài và cho con cái đi du học. Tham
nhũng hối lộ, làm hàng gian, hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng, hầu như
mặc nhiên được khuyến khích.
Tivi,
báo, đài, lúc nào cũng quảng cáo vô tội vạ, chẳng ai chịu trách nhiệm về chất
luợng hàng quảng cáo. Sống chết mặc ai, miễn là ta thủ lợi.
b/
Người tín hữu chúng ta. Hầu như nhiều người tín hữu, cũng đang bị cuốn hút vào
vòng xoáy của ma lực tiền bạc, và lạc thú. Cách đây mấy tháng, nhà chức trách
đã bắt được mấy băng nhóm buôn bán xì ke, ma tuý, rượu ngoại, cho vay nặng lãi,
dùng gươm dao, thanh toán lẫn nhau, do những người đạo gốc đứng đầu, ngay giữa
vùng xóm đạo sầm uất. Luật người được đặt thay thế luật Chúa ắt thành luật
rừng, bởi vì như Jean Paul Chartre nói: “Con người là ác thú đối với con
người.” Adong, Evà thân thiết với Chúa và với nhau như vậy, nhưng khi ma quỷ
sen vào, tức khắc trở thành những kẻ chỉ biết đổ lỗi cho nhau.
Phải
làm gì đây? Đức TGM Charles Chaput bên kia đại dương, quả quyết: “Nếu ta muốn
có nên văn hóa tự do tôn giáo, ta cần phải khởi diễn nó ngay tại đây, hôm nay,
bây giờ. Ta sống nó bằng cách tận hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, cho Tin Mừng,
bằng cách yêu mến Thiên Chúa với lòng say mê và niềm vui, tin tưởng và can đảm;
không giữ lại cho mình bất cứ điều gì.
Thiên
Chúa đảm nhiệm việc còn lại. Thánh Kinh vốn dạy: “Trừ khi Thiên Chúa xây nhà,
những người xây dựng nó chỉ tốn công.” Cuối cùng, Thiên Chúa mới là người xây
dựng. Chúng ta chỉ là những viên đá sống. Đức tin ta càng vững mạnh, tình yêu
ta càng đậm đà, lòng nhiệt thành đối với Thánh ý Thiên Chúa càng tinh ròng, thì
căn nhà tự do càng vững chắc, nó sẽ xuất hiện trong đời ta và trong sinh hoạt
của đất nuớc ta.”
Lạy
Chúa, vì yêu thương Chúa đã ban luật lệ và còn cho Giáo hội quyền giải thích
chúng, để giúp chúng con đưa vào cuộc sống thường ngày, trong chốn riêng tư
cũng như nơi công cộng. Xin cho chúng con biết yêu mến và tuân giữ hết lòng.
Bỏ
Luật Chúa, giữ Luật người
(Mc 7, 1-8a.14-15.21-23…)
(Mc 7, 1-8a.14-15.21-23…)
Thấy
trò ăn chẳng rửa tay,
Pha Siêu, Luật Sỹ rỉ tai chê cuời:
Toàn là những kẻ biếng lười,
Bát ăn chẳng rửa, tắm thời cũng không.
Còn đâu truyền thống cha ông ?
Thế mà còn dạy truyện rông, truyền dài.
Chúa rằng: những kẻ nói dai,
Điều Răn Thiên Chúa chẳng hoài tuân theo,
Lại đi truyền dạy luật đời,
Mau qua, chóng chết. một thời ra tro?
Những gì đầu óc ươm trồng,
Mới làm ô uế từ trong ra ngoài.
Những gì ăn được vào lòng,
Chẳng sao gây hại, cõi lòng sạch băng.
Luật người, luật Chúa làm ra,
Đều nhằm phục vụ những ai tín thành.
Hết lòng ra sức thực hành,
Chứa chan hạnh phúc, kẻ làm con Cha.
Thiên đàng vĩnh cửu hoan ca,
Từng bừng nhẩy múa, reo vang đêm ngày.
Pha Siêu, Luật Sỹ rỉ tai chê cuời:
Toàn là những kẻ biếng lười,
Bát ăn chẳng rửa, tắm thời cũng không.
Còn đâu truyền thống cha ông ?
Thế mà còn dạy truyện rông, truyền dài.
Chúa rằng: những kẻ nói dai,
Điều Răn Thiên Chúa chẳng hoài tuân theo,
Lại đi truyền dạy luật đời,
Mau qua, chóng chết. một thời ra tro?
Những gì đầu óc ươm trồng,
Mới làm ô uế từ trong ra ngoài.
Những gì ăn được vào lòng,
Chẳng sao gây hại, cõi lòng sạch băng.
Luật người, luật Chúa làm ra,
Đều nhằm phục vụ những ai tín thành.
Hết lòng ra sức thực hành,
Chứa chan hạnh phúc, kẻ làm con Cha.
Thiên đàng vĩnh cửu hoan ca,
Từng bừng nhẩy múa, reo vang đêm ngày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét