Người đăng: DangTrinh | 17.07.2012
Sau ngày lãnh sứ vụ linh mục (chui) được ba năm, bề trên xét tình
hình đã cho phép tiết lộ và thế là hầu như lập tức cha Vinh Sang bị bên Công An
mời đi làm việc nhiều lần. Trong tất cả những lần làm việc ấy người ta chỉ muốn
truy vấn xem giám mục nào đã cả gan dám làm cái việc không phép ấy.
Ai cũng biết vào đầu những
thập niên tám mươi, chín mươi, việc truyền chức linh mục là phải có phép, nếu
không sẽ bị khép vào tội chống chính quyền. Sau khi nghe câu trả lời của cha
Vinh Sang rằng lương tâm không cho ngài làm điều ấy thì vị cán bộ đập bàn
và nói lớn tiếng “Vào đây mà còn nói lương tâm à?” (Nguồn Ephata 516).
Với câu nói này, vị cán bộ
có lẽ muốn cho cha Vinh Sang cũng như mọi người hiểu rằng trong những cái gọi
là làm việc với công an nói riêng và nhà cầm quyền nói chung thì chỉ có luật
thôi chứ chẳng có lương tâm lương đồ gì hết? Chúng ta sẽ phải hiểu ra sao qua
câu nói này, chẳng lẽ những việc làm của nhân viên công quyền từ chủ tịch nước
cho đến các công chức bình thường đều chẳng có lương tâm gì cả hay sao?
Thực tế cho thấy dường như
vậy, đừng nói chi đến những ngành tai tiếng như công an giao thông hay thuế vụ.
Ngay trong y khoa là nghề cao quý để cứu giúp người mà người ta còn vô lương
tâm đến độ bòn rút tiền tỷ từ Bảo Hiểm Y Tế để chia chác nhau một cách có hệ
thống. Vừa mới đây báo chí khui ra vụ trưởng khoa tại một bệnh viện lớn đã pha
nước chuyền dịch vào máu để bán cho bệnh nhân (Thanh Niên ngày 08/7/2012). Giáo
dục là một nghề được xã hội kính trọng gọi là thầy nhưng có ông hiệu trưởng lại
trở thành ma cô dắt gái là chính học trò mình cho các quan đầu tỉnh v.v… và
v.v…
Chúng ta phải công nhận là
chính quyền đã có rất nhiều nỗ lực cũng như đề ra nhiều biện pháp thích đáng để
ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Thế nhưng ai cũng biết đó chỉ là cái việc
đánh bùn sang ao chẳng những không có tác dụng gì mà còn khiến cho người dân
chẳng còn tý chút niềm tin. Niềm tin tuy vô hình nhưng nó là chất keo gắn kết
mọi thành phần xã hội. Không phải chỉ trong tôn giáo mới cần niềm tin, xã hội
cũng không thể thiếu. Chính vì niềm tin mà cuộc chiến đấu dành độc lập dân tộc
dù gian khổ khốc liệt đến đâu cuối cùng cũng đưa đến thành công. Trái lại có
độc lập mà niềm tin không còn thì độc lập ấy chỉ là vô nghĩa, tất yếu sẽ đưa
đến đổ vỡ về mọi mặt. Sự đổ vỡ ấy là tất yếu bởi nó đã không được xây trên nền
tảng của lương tâm.
Khi nói chỉ có luật chứ
không cần lương tâm thì luật ấy chỉ có thể là luật rừng, luật của kẻ mạnh hiếp
đáp kẻ yếu. Luật của mọi thứ luật đó là Hiến Pháp mà bất cứ quốc gia nào cũng
cần phải có. Hiến Pháp xét về mặt pháp lý cũng là một thứ Hợp Đồng gồm có Bên A
là toàn thể nhân dân của một quốc gia và bên B là chính quyền được trao
phó cho những trọng trách ấn định nơi những chương, những điều khoản bắt buộc
thi hành. Trọng trách ấy cần phải được nêu lên một cách vắn gọn nhưng đầy đủ
trong Lời Mở Đầu. Chẳng hạn Hiến Pháp 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa theo ý
của HP Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo Hóa đã
ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Có thể coi Lời Mở Đầu của
Hiến Pháp như là kim chỉ nam đồng thời là lương tâm mà quốc gia cần phải y
cứ vào đó để sống, làm việc và phát triển. Nhiều người cho rằng Hiến Pháp
VNDCCH năm 1946 là rất tiến bộ bởi vì nó là phản ảnh của lương tâm con người.
Thế nhưng trong chế độ xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa về sau, lời mở đầu của Hiến Pháp
đã không còn phản ảnh lương tâm nữa mà là chủ nghĩa Mác Lê “Dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước…”
(HP 1992 bổ sung năm 2001). Chủ nghĩa Mác Lê lấy đấu tranh giai cấp làm lý
tưởng nền tảng, bởi vậy nó không thể phản ảnh lương tâm con người. Luật cần
phản ảnh lương tâm bởi lẽ nó là cội gốc phát sinh đạo đức. Không có hoặc phủ
nhận nguồn gốc đó tất nhiên không thể có đạo đức.
Bằng chứng rõ nhất cho thấy
tại những nước CS một khi đã khởi xướng và theo đuổi chủ nghĩa duy vật vô thần
thì mọi giá trị đạo đức trở thành vô nghĩa, lương tâm không còn chỗ đứng. Cũng
vừa mới đây tại Hội thảo “Chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế” do viện
Nghiên Cứu Kinh Tế và báo mạng Tân Lãng (Sina com.cn) tổ chức tại Bắc Kinh (6/2012),
giáo sư Hà Quang Hộ viện triết học Nhân Dân Trung Quốc đã thẳng thắn phát biểu:
“Là người, phải có nhân tính, chúng ta đều là con người chứ không phải loài
dã thú sống trong rừng sâu. Trong quan hệ giữa người và người chúng ta phải
tính đến lợi ích của người khác” (Báo Tuổi Trẻ ngày 5/7/2012).
Phải tính đến lợi ích của
người khác có nghĩa là Trung Quốc không được ỷ thế xâm phạm quyền lợi chính
đáng của các nước lân bang như Việt Nam, Nhật bản, Philippin bằng cách vẽ ra
cái đường lưỡi bò chín khúc cực kỳ phi lý kia. Mình sống thì cũng phải để cho
người khác sống, đó không những là cách xử thế khôn ngoan nhưng còn là thể hiện
của lương tâm. Có thể hiện lương tâm mới là con người, trái lại chỉ là loài dã
thú sống trong rừng sâu!!! Giáo sư Hà Quang Hộ đặt vấn đề không phải chỉ cho
người Trung Quốc mà còn cho cả nhân loại hôm nay và cho mỗi một người chúng ta
kể cả người có hay không có tôn giáo. Nói rằng mình có đạo mà không sống
lương tâm thì cũng chẳng khác gì người không có đạo.
Tuy nhiên, ở đây có sự khác biệt mang tính căn bản thế này: người không có đạo
khi phạm tội, bị kết án chỉ biết hối hận, còn người có đạo thì hối cải
tội lỗi mình, xin Chúa thứ tha để trở về với Ngài.
I- Sống
lương tâm tức là làm hòa với Thiên Chúa
Hối hận là một thứ tình cảm
đặc trưng của con người bởi đó là sự kết án của lương tâm. Đối với người không
có tôn giáo thì hối hận đưa đến bế tắc bởi vì họ chỉ nhìn vào tội lỗi để tự
khinh ghét mình. Trái lại, người có niềm tin thay vì nhìn vào tội họ lại hướng
về Đấng Cứu Chuộc để xin tha thứ, bởi tin Ngài là Đấng đến để cứu kẻ tội
lỗi (Mt 18, 11). Ăn năn sám hối và tin vào lòng Chúa xót thương là hai điều
kiện thiết yếu cho bất cứ sự trở về nào. Trong dụ ngôn Người Con Hoang đàng
Chúa cho ta thấy tính chất quan hệ của sự hối cải “Ta sẽ đứng dậy trở
về cùng cha mà thưa rằng cha ơi con đã lỗi phạm với trời và với cha, thật chẳng
đáng được gọi là con cha nữa. Xin đãi con như đứa làm thuê của cha vậy” (Lc
15, 18 -19).
Xưng thú tội lỗi ăn năn sám
hối, nhận mình không xứng đáng đồng thời tin tưởng vào sự độ lượng nhân từ
của cha mình. Người con đã quyết tâm trở về và đã được đón nhận cùng với
tất cả sự yêu quý của người cha. Ăn năn sám hối và lòng tin, hai điều kiện cho
sự trở về ấy luôn bồi bổ cho nhau. Càng sám hối thật lòng bao nhiêu thì đức tin
càng tăng trưởng bấy nhiêu. Trái lại không có lòng ăn năn thì đức tin dù ban
đầu có đấy nhưng sớm muộn gì cũng sẽ lụi tàn. Lý do cần thiết của sự ăn năn và
lòng tin là bởi sự trở về ấy là về với thực tại ẩn giấu nơi tâm hồn. Thực tại
ấy có khi được gọi là Đấng Cha, khi khác là Nước Trời, Nước Thiên Chúa, chốn
nghỉ ngơi muôn đời v.v… Thiên Chúa cũng như Nước Chúa bởi vì là thực tại
ẩn giấu sâu kín ở nơi tâm nên mới cần sự ăn năn sám hối và lòng tin thì mới có
thể vào (ngộ nhập) “Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết, rồi từ đó Tin Mừng
Nước Thiên Chúa được rao giảng ra và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” (Lc 16,
16).
Do nơi ảnh hưởng bởi tội
nguyên tổ là tội phân biệt thế nên tâm trí con người luôn hướng ngoại, tìm cầu
đến nỗi đã trở nên phản nghịch chối bỏ cả Thiên Chúa là Đấng hay ghen: “Ngươi
chớ làm tượng chạm cho mình cũng chớ làm tượng nào giống như những vật trên
trời cao kia hoặc nơi đất thấp này hoặc trong nước, dưới mặt đất. Ngươi chớ quỳ
lạy trước các hình tượng đó và cũng đừng hầu việc phụng thờ chúng nó. Vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần kỵ tà. Hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân
tội tổ phụ (tội phân biệt) phạt lại con cháu các ngươi đến ba bốn đời và làm ơn
đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các giới răn Ta” (Xh 20, 4-6).
Bản xưa của nhà văn Phan
Khôi dịch là kỵ tà thì tà ở đây ám chỉ các thần tượng bằng gỗ đá do con người
tạo nên nhưng rồi họ lại vái van phủ phục lạy lục cúng tế cho những thứ đó là
thần, là linh. Thiên Chúa là Đấng vô sở bất tại không thể tri thức cũng như cảm
nhận nhưng Ngài lại luôn sẵn lòng và đầy đủ quyền năng để ban muôn ơn phúc lành
cho những ai yêu mến và vâng giữ các giới răn của Ngài. Thế nhưng con người vì
mê lầm không biết lại cứ quay ra cầu khẩn với những thần linh giả dối đó. Vì
vậy Thiên Chúa không thể không kỵ, không ghen. Chúng ta chỉ có thể hiểu được sự
ghen tương của Thiên Chúa một khi nhận ra tính chất nội tại của Ngài. Thiên
Chúa là Tình Yêu (1Ga 4, 8), là Đấng Cha nhân từ vô lượng vô biên chỉ muốn ban
mọi phước lành ân sủng cho những ai yêu mến trở về nhưng đồng thời cũng sẽ tru
diệt đến ba bốn đời cho kẻ nào ghét bỏ Ngài. Thực hiện con đường yêu mến, tức
làm hòa với Thiên Chúa, thì được sống và sống dồi dào, trái lại thì sẽ phải
chết. Yêu và ghét ở đây cũng được hiểu là sống theo lương tâm mình sẽ được
mọi an vui phúc lộc. Ngược lại không sống theo lương tâm tất không thể tránh
khỏi khổ đau bất hạnh.
II- Lương
tâm với tính chất nhân quả
Tại các phiên tòa sau khi
bị tuyên án chúng ta thấy hầu hết các tội phạm đều tỏ ra hối hận. Thế nhưng tất
cả đều đã muộn, tạo nhân nào thì sẽ phải lãnh quả đó. Tòa án đời chỉ có thể dựa
vào pháp luật để kết án và như thế không khỏi có những sai lầm. Trái lại tòa án
lương tâm thì không thể sai bởi vì nó căn cứ ở nơi động cơ của hành động. Động
cơ thế nào thì hành động thế ấy, động cơ xấu thì hành động phải xấu, động cơ có
tốt thì hành động mới có thể tốt được. Với động cơ tốt thì lương tâm không
bị cắn rứt, người kia vì muốn cứu người nhưng vô tình lại gây ra cái chết, thế
nên trước pháp luật có thể bị kết án nhưng lương tâm y thì thanh thản.
Hiểu như vậy thì động cơ
chính là cái nhân của hành động còn hành động là kết quả của động cơ. Thấu
triệt tính chất nhân quả này nhà đạo học Vương Dương Minh (1472 – 1528) đưa ra
thuyết Tri Hành Hợp Nhất thế này: “Người đời nay học vấn nhân vì đã phân tri
hành ra làm hai việc, cho nên khi có một cái niệm phát động tuy là bất thiện
nhưng bởi chưa thi hành thì không tìm cách ngăn cấm. Ta nói cái thuyết Tri Hành
Hợp Nhất chính là để người ta hiểu được chỗ nhất niệm phát động tức là hành
rồi. Hễ chỗ phát động có điều bất thiện thì đem điều bất thiện ấy trừ bỏ ngay
đi, cốt bỏ đến chỗ căn để, khiến cho cái niệm bất thiện không tiềm ẩn ở trong
tâm. Ấy cái đó là cái tông chỉ lập ngôn của ta” (Trần Trọng Kim, Nho
Giáo, quyển hạ).
Nói nhất niệm phát động thì
niệm ở đây chính là tư tưởng, tư tưởng tốt thì hành động tốt, ngược lại tư
tưởng xấu (ác tưởng) thì hành động xấu. Cứ chất chứa nơi lòng những tư tưởng
xấu ác tất sẽ phạm điều ác mà điều ác đã làm thì sẽ phải lãnh quả ác không sao
mà tránh khỏi được. Về lẽ nhân quả báo ứng này, Đức Kitô cũng nói không
khác khi Ngài quở trách dân Do Thái cứng lòng “Ớ dòng dõi rắn độc kia, các
ngươi vốn là ác, có thể nào nói điều thiện được. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà
miệng mới nói ra. Người thiện do chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do
chứa ác mà phát ra điều ác” (Mt 12, 34 -35).
Cứ chất chứa những tư tưởng
xấu xa bằng cách xem phim đồi trụy, bạo lực hoặc ngồi đồng tán dóc ngày này
sang ngày khác ở quán cà phê, các quán nhậu nhẹt tràn lan khắp hang cùng
ngõ hẻm thì không thể nào không đưa đến tội ác. Bởi đó cho nên muốn cải tạo xã
hội thì cần phải tìm ra tới tận nguồn cơn của tội ở nơi tư tưởng mà trừ khử đi.
Thế nhưng việc này xem ra hoàn toàn không thể chẳng những tại đất nước duy vật
vô thần này mà còn trên khắp thế giới. Ở đây chẳng có gì là bi quan cả nhưng là
thực tế. Ngay tại những quốc gia tự hào dân chủ nhân quyền như Mỹ, nếu quán xét
sẽ thấy bên trong nó chất chứa đầy sự bất công thiên lệch, đến nỗi HĐGM
đã phải phát động một cuộc đấu tranh phản kháng lương tâm nhân Đạo Luật
cải cách y tế.
Đời đã vậy còn đạo thì cũng
chẳng khả quan gì trong cái thời tục hóa cao độ này. Phần đông nếu còn giữ đạo
thì đó chỉ là cái vỏ hình thức bề ngoài: long trọng lắm, nhiệt thành sầm uất
lắm nhưng điều cốt lõi là lương tâm thì dường như không được biết đến. Trở về
với lương tâm cũng tức là làm hòa với Thiên Chúa nhưng ta chỉ có thể làm hòa
khi biết quay về với Đấng ở trong ta bằng cách hết lòng yêu mến và lắng nghe
Tiếng Ngài. Tiếng Chúa là tiếng lương tâm, ai làm theo lương tâm thì đã làm
hòa, tức sinh bởi Thiên Chúa. Trái lại không sống theo lương tâm thì không sinh
bởi Thiên Chúa: “Ai bởi Thiên Chúa mà sinh thì nghe Lời Thiên Chúa. Các
ngươi sở dĩ chẳng nghe là tại vì các ngươi không bởi Thiên Chúa mà sinh”
(Ga 8, 47).
Phùng Văn Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét