Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Em là Đại Dương… Từ tâm lý đến Mầu Nhiệm Giáo Hội

“Em là Đại Dương… Từ tâm lý đến Mầu Nhiệm Giáo Hội” của cố Linh mục GS. Nguyễn Văn Thành* do Nguyễn Đức Tuyên giới thiệu
Các bài liên quan:
Tác phẩm của Nguyễn Văn Thành khá đồ sộ, theo bản tin Công Giáo Việt Nam gồm 21 cuốn sách tiêu biểu:
1- Đường vào Nội Tâm với Phân Tâm Học của S.FREUD – 1997
2- Le projet pédago-éducatif – 1997
3- Phát huy Nhân Lực – 1998
4- Đối thoại với các tôn giáo – 1998
5- Đối Thoại, Quê Hương Tình Người – 1999
6- Lắng Nghe – 1999
7- Quan Hệ Mẹ Con – 2000
8- Tự Tin – 2000

9- Khung trời mở rộng – 2000
10- Trong Đức Kitô – 2001
11- Nguyễn Trãi, một tấm lòng Vạn Xuân và Đại Việt – 2001
12- Nguyễn Trãi và vấn đề giáo dục con cái -2001
13- Bản đồ tâm lý và tư duy sáu màu- 2002
14- Tư duy và hành động- 2002
15- Đồng Cảm để Đồng Hành – 2003
16- Sơn Tinh và Thủy Tinh, hai con đường một Nước Non – 2003
17- Nguy cơ tự bế nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi – 2006
18- Phát huy quan hệ xã hội trong vấn đề giáo dục trẻ em tự bế – 2007
19- Huyền Sử Việt Nam, con đường Luyện Vàng – 2004, 2008
20- Con đường Bao Dung – 2008
21- Lắng Nghe Chúa Thánh Thần, 2008
Ngoài ra, tôi còn thấy thêm 7 cuốn nữa của G.S. Thành là:
22- Em là Đại Dương, 1995
23- Chúng ta sống lại từ tâm lý đến Đức Tin, 1995
24- Chia sẻ, 1996
25- Mắt và Tim trên bàn tay, 1996
26- Đường vào Nội Tâm, Tập II, Lắng nghe giấc mơ, 1997
27- Phát huy năng lực con người, 1997
28- Em là quê hương.
Năm 1996, anh Trần Ngọc Báu gửi cho tôi cuốn “Chia Sẻ, Tính Yếu của Mầu Nhiệm Nhập Thể” của Nguyễn Văn Thành, và anh TNB ghi thêm câu tiếng Anh : The Essence of the Incarnation Mystery. Thật tình, nhờ câu ghi chú tiếng Anh mà tôi khỏi phải thắc mắc về phụ đề cuốn sách vì nếu ghi là “yếu tính = essence” tôi dễ hiểu hơn là “tính yếu”.
Trong bài viết này, tôi không có tham vọng viết về công trình sáng tác phong phú và đa dạng của G.S. Nguyễn Văn Thành qua 28 tác phẩm. Tôi chỉ xin đề cập đến cuốn “Em là Đại Dương. Từ Tâm Lý Đến Mầu Nhiệm Giáo Hội” mà tôi đã mắc nợ lớn với G. S. Thành, cho đến khi ông qua đời tôi mới biết.
Năm 1996, tôi nhận được cuốn sách của ông với lời đề trên trang đầu cuốn sách: Kính tặng Anh Nguyễn Đức Tuyên, “chúng ta cùng nhau chia sẻ Một Thánh Thần Chúa”. De Colores, Thành.
Tôi đã đọc cuốn sách một cách khá chăm chú, highlight nhiều đọan, rồi bỏ trong tủ sách. Cho đến hôm nay, 17 tháng 11, nhớ tới ông, tôi lấy những cuốn sách của ông ra, coi lại sơ qua từng cuốn, tôi lật cuốn “Em là Đại Dương” tới trang cuối cùng, tôi chợt giật mình vì một câu ghi chú: “Để kêu mời yêu thương Hội Thánh, Chừng nào đọc xong và có hứng, xin anh vui lòng viết cho một bài “đóng góp phản hồi” (feed back), nhờ anh Trúc đăng lên Định Hướng. Đa tạ. Thành”. Chữ viết nắn nót rất đẹp.
Tôi thật bối rối về lời yêu cầu của tác giả. Khi nhận được sách, tôi có viết thư cám ơn, nhưng vì không đọc phần ghi chú nơi trang cuối cuốn sách, tôi đã không làm như lời yêu cầu của tác giả. Biết đâu G.S. Thành chẳng nghĩ rằng tôi đã “vô tâm” với “gợi ý” của ông. Nay ông đâ về “cõi trên”, xin ông tha lỗi cho tôi. Thật tình, cuối cuốn sách của ông, còn một bản nhạc 2 trang và mấy trang trống, mà tôi thì dốt nhạc, có lẽ vì vậy, mà tôi đã bỏ quên những trang mà tôi tưởng là giấy trắng.
Hôm nay, xin ghi lại cảm nghĩ về cuốn “Em là Đại Dương” của G. S. Nguyễn Văn Thành, vừa là lời chia sẻ về cuốn sách vừa như một lời tạ lỗi với tác giả, cho dù quá muộn.
“Em là Đại Dương…” do tủ sách Tình Người ấn hành Mùa hè 1995, bìa mầu tím hồng đơn giản, trên 150 trang. Ngoài Lời Giới Thiệu của Trần Ngọc Báu và Lời Mở Đường cùng Lời Cuối của tác giả, tác phẩm  được chia ra 7 chương:
Trong Lời Mở Đầu, tác giả dùng Cây Trường Sinh để tâm sự.
Ông viết về Giáo Hội Công Giáo theo giọng văn kể chuyện, phân tích theo kiểu “đời thường” rồi đem ra những đề nghị khá sâu sắc và rốt ráo gắn bó với nhau như “một cuộc giao duyên nhiêm mầu” thay vì nói tới “Mầu Nhiệm Giáo Hội” theo ngôn ngữ thần học chính thống. Cuốn sách xoay quanh các chủ đề: “làm Giáo Hội” theo đường hướng nào? Làm bằng cách nào? Làm trong tâm tình nào? Làm với ai? Đâu là những khó khăn trước mặt v.v…
Xin được ghi lại theo những tóm lược “đóng khung” trên những trang sách của chính tác giả.
Chương 1: Chúng ta “làm” Giáo Hội, tác giả xác tín: Làm nên Giáo Hội với từng viên gạch bé mọn trong bản thân và cuộc đời, mỗi ngừơi một tay, làm nên một vòng tay lớn bao quanh mặt địa cầu. Mỗi người kitô hữu là một viên gạch làm nên Giáo Hội với anh chị em khác. Ngày ngày ta thắp sáng ngọn đuốc ý thức: Tôi là một Đức Kitô đang thành và sẽ thành. Tôi đang và sẽ sống lại như Ngài, với Ngài và nhờ Ngài. Nhiều người ở ngoài cộng đoàn tín hữu mà tin vào Đức Kitô, thì dù chưa nhận lãnh phép thánh tẩy cũng nhận được Thần Khí Chúa và thuộc về Giáo Hội.
Làm đồ đệ Đức Kitô là từ bỏ con người cũ, nhìn với hai con mắt của Ngài, suy tư theo cách của Ngài, chọn lựa và thực hiện con đường nhu hòa, khiêm hạ nhập thể và tại thế của Ngài, chia sẻ số phận của tuyệt đại đa số quần chúng.
Giáo Hội của Chuá Kitô là con đường đi ngang qua quả tim của mỗi người. Đến với mọi người. Lắng nghe mọi người. Thoa dịu vết thương của mọi người. Mang đến cho mọi người hạt mầm sống lại.
Làm Giáo Hội là chết và sống lại trong từng giây phút, ở đây và bây giờ. Là đi đường Thánh Giá. Không có con đường thứ hai nào khác, ngoài con đường cách tâm “mêtanôya”, nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân, theo Tin Mừng của Đức Kitô.
Làm Giáo Hội là học tập, tôi luyện thường xuyên mỗi ngày. Là phát triển liên tục, nhắm vươn tới tầm vóc của Đức Kitô: yêu thương, thứ tha, an lạc và thức tỉnh, nhờ Thần Khí Chúa phù trợ.
Chương 2: Chúng ta là Adong và Eva mới trong lòng của Giáo Hội
Con người là trung tâm và trọng tâm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Tất cả là vì Adong và cho Adong. Con đường của Đức Kitô đã vạch ra đậm nét trong Kinh Thánh. Để  trung thực với Ngài, hãy suy niệm Tin Mừng với toàn thể Giáo Hội.
Bộ mặt thứ nhất của Thiên Chúa: Ngài dùng Lời để tạo dựng vũ trụ, con người, Lời Ngài là sức sống, lẽ sống của chúng ta. Bộ mặt thứ hai của Thiên Chúa: Ngài hạnh phúc trước kỳ công của Ngài. Vì vạn vật giống như Lời Ngài: Thiên Địa Nhân là một khối hòa đồng, hòa hợp, hòa âm, hòa điệu, hòa thuận với nhau…Bộ mặt thứ ba của Thiên Chúa: Ngài tra tay vào việc tạo dựng con người. Bộ mặt thứ bốn của Thiên Chúa: là người thân, thăm viếng, lắng nghe, đối thoại, trao đổi, cảm thông và đồng hành với con người.
Giáo Hội là giải pháp để Chúa Kitô có thể ra đi, mà vẫn tiếp tục ở lại với loài người chúng ta.
Chương 3: Giáo Hội thể hiện con đường thứ tha của Đức Kitô
Đức Kitô tỏ cho thấy lòng Cha từ ái đối với đứa con hoang đàng, đối với con chiên lạc đàn, đối với người nữ ngoại tình, đối với kẻ đóng đinh Ngài. Ngài dạy phải tha thứ đến bẩy mươi bẩy lần, nghĩa là vô điều kiện, mãi mãi… Thật vậy, thứ tha là bản chất của Giáo Hội của Đức Kitô
Muốn nói và làm như Đức Kitô, chúng ta cần phải học tập có phương pháp, để có một lối nhìn, một tình cảm, một tư thế tâm linh giống Đức Kitô. Mẹtanôya là canh tân lối nhìn, là khuất phục được nỗi lo sợ để chia sẻ tâm tư với người khác, là thứ tha cho người cũng như được người thứ tha.
Chương 4: Giáo Hội là Mẹ
Mẹ Giáo Hội là một cấu trúc tổng thể, gắn bó với nhau. Giáo hội nào cũng phải là một giáo hội địa phương. Nhưng các giáo hội địa phương sẽ chết ngộp nếu không có cửa thông với nhau trong đại thể Giáo Hội hoàn cầu và thông với Quê hương, Nhân loại.
Mẹ là lời mời gọi con và cũng là tiếng đáp trả mỗi khi được gọi. Lời Mẹ có sức sáng tạo và định đoạt hướng đi lên của con.
Chuyên cần đào luyện, người giáo dân thường xuyên học tập sống Tin Mừng giữa lòng dân tộc và xây dựng giữa thanh thiên bạch nhật Đền thờ Chúa Thánh Linh. Vì Giáo Hội là một cấu trúc mở rộng, nếu cấu trúc không tiến là thối, không linh động là bị động, không mở ra là tự sát.
Sống Mầu Nhiệm Giáo Hội là mỗi tín hữu sống thật mối quan hệ  mẹ-con trong bản thân mình. Mỗi tín hữu vừa là Mẹ yêu thương mọi người và đồng thời làm con của Giáo Hội Mẹ chúng ta.
Chương 5: Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội
Linh hồn vô hình vô tượng, nhưng nhờ linh hồn mà ta sống được, nếu không, chúng ta chỉ là thây ma thôi. Chúa Thánh Linh là linh hồn nuôi sống và củng cố Giáo Hội suốt giai đoạn trầm luân cho đến ngày vinh hiển.
Hơn ai hết, Chúa Thánh Linh là người biết lắng nghe. Bản chất của Người là lắng nghe. Thánh Linh là quà tặng trọng đại và cao cả nhất mà Đức Kitô đã ban cho Giáo Hội, cho mỗi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta có hai nhiệm vụ nuôi dưỡng và củng cố anh chị em chúng ta, như Chúa Kitô đã nhắn nhủ Phêrô về Giáo Hội.
Chương 6: Mẹ Maria mẫu thức nguyên khai của Giáo Hội
Trong các nền văn hóa, “mẫu thức nguyên khai” đều có mặt trong ngôn ngữ hình tượng. Ví dụ hình tượng Trời và Đất đẻ ra hai loại hình tượng đông đúc: Trời là cha, ánh sáng, đường đi… Đất là mẹ, cung lòng, bầu sữa …Theo nghĩa hình tượng này, Mẹ Maria là mẫu thức nguyên khai của Giáo Hội và mọi người tín hữu.
Ngay sau khi phản bội, nguyên tổ loài người đã được loan báo Tin Mừng tha thứ. Và sau bao nhiêu thế hệ kế tiếp, cơ duyên đã đến với Mẹ Maria, người nữ cưu mang Tin Mừng Cứu Độ. Cửa huyền vi đã mở rộng với sự xuất hiện của “người nữ đạp đầu rắn phản loạn”.
Như Mẹ Maria, Giáo Hội có sứ mệnh chấp nhận vô điều kiện con người, yêu thương con người như Con đẻ từ xương thịt máu mủ của Mẹ. Có Đức Tin vào con người, vì có Đức Tin nơi Chúa Kitô. Đức Tin chưa phải là điểm đến. Đức Tin là con đường. Con đường dẫn hạt nước đi vào Biển Cả. Để từ từ trở thành Biển Cả.
Chương 7: Bóng đêm của Đức Tin trong lòng Giáo Hội
Theo tâm lý học Đức Tin xuất phát từ một bản đồ tâm lý gồm 4 chủ đề: khuynh hướng hơn và thua, khuynh hướng biện luận, duy lý, khuynh hướng ém nhẹm, dồn nén, và khuynh hướng đơn phương kiểm soát.
Bản đồ Đức Tin gồm tất cả những gì đảo ngược lại 4  khuynh hướng trên, 180 độ.
Một, theo cái nhìn của Đức Tin, chúng ta là một giá trị. Và người đối diện cũng là một giá trị.
Hai, Đức Tin là chia sẻ, ngồi lại với nhau, sống với nhau.
Ba, Đức Tin là nuôi dưỡng nhau, củng cố nhau bằng cách lắng nghe nhau để giúp nhau tìm ánh sáng.
Bốn, Đức Tin là nhận biết người anh em, bất kể họ là ai, họ làm gì, họ thuộc mầu da, chủng tộc và chính kiến nào.
Nhờ bản đồ Đức Tin, chúng ta phát huy khả năng cho và khả năng sống hạnh phúc.
*
Chúng tôi đã cố gắng dùng ngôn từ cô đọng của tác giả để tóm lược những gì ông đã chia sẻ trong cuốn sách của ông. Tuy nhiên, nếu độc giả tìm đọc cuốn sách “Em là Đại Dương” thì lại có một cảm nhận khác hẳn. Ông viết như một lời chia sẻ, ông rủ rỉ tâm tình. Ông dùng hai nhân vật Mây Hồng và Khánh Vân làm đối tượng để bộc lộ tâm tư và dùng khoa tâm lý thực dụng là sở trường của ông để phân tích ngọn nguồn. Ông coi tình yêu giữa Thiên Chúa và Giáo Hội như đôi tình nhân với những ẩn dụ ngoài đời. Có nhiều chỗ ông nói đến “Chàng” và “Nàng”.
Như ta đã biết, Nguyễn Văn Thành là một nhà thần học và một nhà tâm lý thực dụng. Với sở trường sẵn có, ông trình bầy vấn đề theo ngôn ngữ chuyên môn của ông, tuy khó nhưng lại dễ hiểu, mặc dầu đàng sau ẩn chứa những điều khiến ta phải suy nghĩ. Đọc ông ta thấy thích thú và kỳ lạ.
Theo tôi hiểu, cuốn sách “Em là Đại Dương…” được viết ra sau khi ông tham dự môt khóa tĩnh tâm khá đặc biệt dành cho giáo dân. Ở đó, người ta nói tới giáo dân “là” Giáo Hội thì với ông giáo dân “làm” Giáo Hội.
*
Trong Lời Giới Thiệu cuốn sách, Trần Ngọc Báu ghi nhận một cách hết sức nhiệt tình: “những cảm nghĩ riêng tư về tác phẩm lạ lùng có một không hai này’. Theo TNB “Em là Đại Dương muốn nói lên cuộc tình duyên kỳ ngộ của tôi của bạn với nhau và với những người khắp năm châu bốn bể cùng có chung một mối tình duyên với Đức Kitô”. Đây là: “cuộc giao duyên giữa “Em” là hạt nước với đòan thể người tin Chúa là “Đại Dương” nghe ra như có chút gì trơ trẽn bẽ bàng, trong cảm nghĩ cũng như trong thực tế, và vì thế mà xem ra có vẻ kỳ bí khó hiểu hơn”. Và ông ghi thêm để luận giải:”Bàn về Giáo Hội như là một “cuộc giao duyên thần kỳ giữa “Em” và “Đại Dương”, tác giả tỏ ra dứt khoát đưa chúng ta vào cái mà danh từ nhà đạo gọi là “Mầu Nhiệm Giáo Hội”, tức là cái mà trí năng loài người không thể thấu đạt được.”
Ông Trần Ngọc Báu tóm lược cuốn sách trong một đoạn súc tích như sau:
Giáo Hội chỉ có thựcsống thực khi cùng nhau “Chúng ta làm Giáo Hội” (Chương I). Chúng ta làm Giáo Hội theo đường hướng nào? Thưa, đó là góp công tái lập chương trình của Thiên Chúa đối với mỗi người trong chúng ta: “Chúng ta là Adong và Evà mới (Chương 2). Chúng ta làm Giáo Hội theo cách nào? Thưa, theo mẫu thức hay mô hình của Đức Kytô là Đấng đến để thứ tha: “Giáo Hội con đường thứ tha” (Chương 3). Chúng ta làm Giáo Hội theo tâm tình nào? Thưa, như một người con ăn ở hiếu thảo với mẹ mình, bởi “Giáo Hội là Mẹ” (Chương 4)… Chúng ta làm Giáo Hội với ai? Thưa, là với nhau… Ở đây, “Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội”( Chương 5). Hơn nữa, chúng ta làm Giáo Hội là nối dài và mở rộng con đường của “Mẹ Maria” (Chương 6)… Và chúng ta làm Giáo Hội cho dù phải đi trong “Bóng đêm của Đức Tin” (Chương 7) (trang 2).
Cũng vẫn Trần Ngọc Báu, “Nét độc đáo của “Em là Đại Dương” nổi bật ở chỗ tác giả không dùng những ngôn từ thuộc phạm trù thần học, cũng không dùng lối bố cục mạch lạc để biện luận thần học. Kỳ lạ là chính cái nét độc đáo ấy lại làm cho tác phẩm hóa nên rất thâm về thần học.”
*
Gấp tập sách lại, tôi bâng khuâng, không biết mình đã làm được những gì trong muôn một mà G.S. Nguyễn Văn Thành đã gửi gấm trong tác phẩm của mình. Nguyễn Văn Thành là một tác giả lớn.
Phải kể tới công lao của Định Hướng là nhiệt tình phổ biến sách và các bài viết của Nguyễn Văn Thành. Công của Định Hướng Tùng thư và Tập San Định Hướng được khai sinh và phát triển nhằm biểu hiện sự liên tục của giòng sinh mệnh văn hóa của người Việt bất chấp những khó khăn của hoàn cảnh lịch sử và xã hội. Cho đến nay, Định Hướng Tùng Thư đã ấn hành được trên 60 nhan sách đủ loại và Tập San Định Hướng đã có mặt trên 14 năm với 52 số.
Đọc tiểu sử của G.S. Nguyễn Văn Thành với một bề dầy được tôi luyện về thần học, tu đức, tâm lý, giáo dục cộng với sự dấn thân và lòng chân thành đối với Giáo Hội và Dân Tộc. Nay ông ra đi nhưng đã để lại cho đời những đóng góp đáng kính nể, thể hiện trên 28 tác phẩm, chưa kể đến những bài viết và bản thảo còn lưu trữ.
Trong Điếu Văn đọc ngày hạ huyệt, 17.11.2008, G. S. Nguyễn Đăng Trúc có nói: “Chính nhờ nguồn sinh lực sâu kín của tâm hồn, ngưồn sinh lực mà tác giả Nguyện Văn Thành gọi là Phật tính, là Thần Lực của Thánh Thần Thiên Chúa ban cho mỗi người, mà Nguyễn Văn Thành đã vượt qua, vượt lên được những dị dạng, vấp ngã, yếu hèn mà mỗi người, anh, tôi, tất cả chúng ta, đang mang trong người, để tìm gặp, tôn trọng, tha thứ, thân thương và khoan dung một cách thành thực đối với nhau.
Chính ngưồn sinh lực sâu kín của tâm hồn ấy thúc đẩy Nguyễn Văn Thành thể nghiệm những bước đường canh tân, đối thoại và thành thực yêu thương trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp văn hóa giáo dục của mình:
Không phải Nguyễn Văn Thành đã khai phá được con đường có thể gặp ggiữa văn hóa dân gian, văn chương quần chúng với kiến thức khoa học hàn lâm hay sao?
Nguyễn Đức Tuyên

* Lam Hồng xin được cung cấp đôi thông tin về cố Lm Nguyễn Văn Thành qua những phân ưu của thân bằng quyến thuộc trong lễ an táng của Ngài tháng 11 năm 2008.
Lm GS  Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thành thuộc Tổng Giáo Phận Huế
Nguyên Giám Đốc Trường Thiên Hữu (Institut de la Providence) Huế
Nguyên Tuyên Úy Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo Huế (1972-1973)
Nguyên Giáo sư dạy tại Đại Học Huế
Nguyên Giáo sư Trưởng Ban Tâm Lý, Phân Khoa Nhân Văn Và Nghệ Thuật, Đại Học Minh Đức Sài Gòn, trước 1975
Chuyên viên về tâm bệnh tại các bệnh viện tâm thần Saigon và miền Nam Việt Nam
Chuyên viên về tâm bệnh tại Lausanne, Thụy Sĩ
Thành viên sáng lập Trung Tâm Văn hóa Nguyễn Trường Tộ, Tập San Định Hướng, Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại
Thường xuyên viết trong Mạng lưới văn hóa
Liên Lạc Nhân Văn,
Dũng Lạc, Chứng Nhân Đức Ki-tô,
Công giáo Việt Nam
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&id=16

Nguyễn Văn Thành
  trong  http://ttntt.free.fr/
Tĩnh dưỡng tại Dòng Xitô Thánh Mẫu Fatima  Orsonnens, Thụy Sĩ
Tạ thế vào lúc 08 giờ ngày 14 tháng 11 năm 2008 tại bệnh viện Fribourg, Thụy Sĩ.
Đã xuất bản ở Hải ngoại hơn 20 tác phẩm.
Những cuốn sách chính yếu
1. Đường vào Nội Tâm với Phân Tâm Học của S. FREUD – 1997
2. Le projet pédago-éducatif 1997
3. Phát huy Nhân Lực – 1998
4. Đối thoại với các tôn giáo – 1998
5. Đối Thoại, Quê Hương Tình Người – 1999
6. Lắng Nghe – 1999
7. Quan Hệ Mẹ Con – 2000
8. Tự Tin – 2000
9. Khung trời mở rộng – 2000
10. Trong Đức Kitô- 2001
11. NGUYỄN TRÃI, một tấm lòng Vạn Xuân và Đại việt – 2001
12. Nguyễn Trãi và vấn đề giáo dục con cái  – 2001
13. Bản đồ tâm lý và tư duy sáu màu – 2002
14. Tư duy và hành động – 2002
15. Đồng Cảm để Đồng Hành – 2003
16. Sơn Tinh và Thủy Tinh, hai con đường một Nước Non – 2003
17. Nguy cơ tự kỷ nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi – 2006
18. Phát huy quan hệ xã hội trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ – 2007
19. Huyền Sử Việt Nam, con đường Luyện Vàng – 2004, 2008
20. Con đường Bao Dung – 2008
21. Lắng Nghe Chúa Thánh Thần – 2008

22. Hãy thắp lên một ngọn đuốc… – 2008.
Điếu văn của GS. Nguyễn Đăng Trúc
Hội trưởng Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ
Đọc trong ngày lễ an táng  Linh mục Giáo sư Nguyễn Văn Thành – 17/11/2008
Bạn Thành, Anh Thành, Thầy Thành, Cha Thành kính mến,
- Thay mặt cho người trong gia đình, thân quyến của Anh tại Việt-Nam cũng như đang sống rãi rác khắp thế giới,
- Thay mặt cho bạn hữu của anh, các giám mục, linh mục, các cựu chủng sinh xuất thân từ mái ấm chủng viện Huế, cho học sinh, giáo sư từ Trường Thiên Hữu nơi mà anh đã từng học và từng làm giám đốc,
- Thay mặt cho các sinh viên mà anh tận tụy phục vụ, các giáo sư mà anh luôn mãi là huynh đệ chân tình, tại các Đại Học Huế, Đại Học Minh Đức, Sàigòn, các Dòng Tu, các khóa huấn luyện cán bộ y tế, các khoá Đại Học Hè, các Tuần Lễ Văn Hóa Xã Hội Việt Nam Hải Ngoại,
- Thay mặt cho những người khuyết tật tâm thần mà anh đã hiến trọn mấy chục năm sống để yêu thương và đồng hành với họ,
- Thay mặt cho những người đang tích cực dấn thân phục vụ sinh hoạt văn hóa giáo dục trong và ngoài nước, chúng tôi xin nghiêng mình trước linh cửu của anh.
Giây phút nầy đây, tôi muốn học bài học của anh để có đôi lời về anh, với bà con, bạn bè đang quay quần bên anh trong nguyện đường đan viện Thánh Mẫu Fatima Orsonnens nầy, và với anh. Bài học đó là lòng thành thực mà suốt những ngày tháng cùng sống với anh tôi đã học được.
Những người có duyên gần gũi anh, trong mối tương giao Bạn Thành, Anh Thành, Thầy Thành hay Cha Thành…, hẳn đều đồng ý với tôi một điểm: con người của anh đúng là THÀNH.
Đúng như thế, thời gian 36 năm sát cánh bên anh, tôi chứng thực đã tìm gặp được nơi anh kho tàng quí giá nhất, đó là lòng thành thực của người ngay chính.
Tuy đồng hương Quảng Trị với anh, cùng xuất thân từ tiểu chủng viện thuộc địa phận Huế, cùng đã từng học trường Thiên Hữu, cùng dấn thân phục vụ trong lãnh vực văn hóa giáo dục như anh, nhưng mãi đến năm 1972, tôi mới thực sự gặp anh tại Văn Phòng của Viện Đại Học Minh Đức, Sàigòn. Và từ đó, trong 36 năm, tưởng chừng như chúng ta luôn đồng hành bên nhau trong cuộc sống cũng như trong sinh hoạt nghề nghiệp và văn hóa.
Nơi môi trường giáo dục đại học nầy, người giáo sư chuyên môn về tâm lý thực nghiệm Nguyễn Văn Thành đã giúp Hội Đồng Phân Khoa Nhân Văn và Nghệ Thuật Đại Học Minh Đức thiết lập lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt nam Ban Tâm Lý Thực Nghiệm.
Bước đường tiên phong của vị giáo sư Trưởng Ban Tâm Lý chưa đầy 35 tuổi nầy không những mở ra một bộ môn mới, nhưng, qua phong cách sư phạm đầy tình người của Thầy Thành, nó cống hiến cho đất nước Việt Nam một gương mẫu trong sinh hoạt của con người trí thức, của nhà giáo dục.
Giáo án, tài liệu, sách báo giáo sư Thành viết ra, lối giảng dạy của Thầy Thành, lời tâm sự chia sẻ với đồng liêu, cung cách cư xử với bạn hữu, cái nhìn, thái độ im lặng lắng nghe trong cuộc sống… thật kỳ lạ vì tưởng chừng tất cả như là lời tâm sự của mẹ nói với con, lời trìu mến giữa đôi tình nhân đang đắm đuối, và hơn hết là như lời cầu nguyện âm thầm vọng ở đằng sau chữ viết, ở nơi ánh mắt, ở trong nụ cười hiền hòa. Đúng thế, nơi Nguyễn Văn Thành, ai ai có duyên gặp gỡ hẳn nhận ra được một con người thành thực với một cuộc sống nội tâm kỳ diệu.
Chính nhờ nguồn sinh lực sâu kín của tâm hồn, ngưồn sinh lực mà tác giả Nguyện Văn Thành gọi là Phật tính, là Thần Lực của Thánh Thần Thiên Chúa ban cho mỗi người, mà Nguyễn Văn Thành đã vượt qua, vượt lên được những dị dạng, vấp ngã, yếu hèn mà mỗi người, anh, tôi, tất cả chúng ta, đang mang trong người, để tìm gặp, tôn trọng, tha thứ, thân thương và khoan dung một cách thành thực đối với nhau.
Chính ngưồn sinh lực sâu kín của tâm hồn ấy thúc đẩy Nguyễn Văn Thành thể nghiệm những bước đường canh tân, đối thoại và thành thực yêu thương trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp văn hóa giáo dục của mình:
Không phải Nguyễn Văn Thành đã khai phá được con đường có thể gặp gỡ giữa văn hóa dân gian, văn chương quần chúng với kiến thức khoa học hàn lâm hay sao?
Không phải chính Anh đã can đảm viết một chuyên khảo tựa đề từ tâm lý đến đức tin hay sao?
Không phải chính Anh là tác giả đã giúp người đọc nhân ra những nguyên nguồn của tâm thức tôn giáo làm cầu nối cho ngôn ngữ truyền thống Phật giáo và Kitô giáo gặp gỡ nhau hay sao?
Phải, Nguyễn Văn Thành là con người tài ba trong nhiều địa hạt, nhưng bên trên tài ba đó, Nguyễn Văn Thành là người trí thức, là nhà giáo dục chân chính, là hiền nhân, vì Nguyễn Văn Thành đã biết tiếp nhận và sống Thần Lực đến từ bên kia bờ, vì Nguyễn Văn Thành giữ được Đạo Tâm.
Nguyễn Văn Thành ấy luôn là người con thân yêu của Đất Nước và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, và mải là bậc thầy cho nhiều thế hệ mai sau.
Chúng tôi ngậm ngùi vĩnh biệt, Bạn Thành, Anh Thành, Thầy Thành, Cha Thành  kính mến.
Và xin được cùng Anh là người khiêm tốn, nhân hậu và đem lại an bình cho nhiều tâm hồn, xin được cùng Anh là kẻ tin vào sức mạnh yêu thương của Đức Kitô mà anh là linh mục của Ngài, và là người lữ hành của niềm hy vọng cứu độ mà Ngài mang đến cho Anh và cho chúng ta,
xin được cùng Anh lặp lại lời chúc phúc của Ngài:
Phúc cho người khiêm tốn hiền lành, vì họ sẽ nhận đất làm gia nghiệp.
Phúc cho người nhân hậu hay thương xót, vì họ sẽ được xót thương,
Phúc cho người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con của Thiên Chúa 
Mt  5,4.7.9
***
Bài từ biệt
Kính thưa Quý Cha, Quý Ông Bà và anh chị em bạn hữu,
Nhân dịp được tu nghiệp về ngành giáo dục đặc biệt ở Âu Châu 3 tháng, con được diễm phúc tham dự Thánh lễ An Táng Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành, và hôm nay con xin được hân hạnh chia sẻ cùng Quý Vị lãnh vực bác ái xã hội mà Giáo Sư Linh Mục đã thực hiện thời gian qua tại Việt Nam.
Kể từ 1993, suốt 15 năm Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành đã tình nguyện trở về Việt Nam vào những dịp Hè để huấn luyện và đào tạo các chuyên viên, giáo viên ngành giáo dục đặc biệt trẻ em khuyết tất về tâm thần cho cả nước. Đây là một ngành học mới đối với Việt Nam.
Ngoài lãnh vực chuyên môn là một nhà Tâm Lý, một nhà Phân Tâm Học Giáo Sư Linh Mục còn hết lòng phục vụ Giáo Hội Việt Nam qua các buổi chia sẻ về kiến thức Tâm Lý cho giới trẻ, giáo lý viên, cho nhiều Xứ Đạo. Các Dòng Tu … thuộc Giáo Phận Sàigòn.
Ba năm gần đây nhất kể từ 2005 đến 2007 Ủy Ban Bác Ái Xã Hội, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã mời Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành về hướng dẫn và đào tạo chuyên viên Giáo Viên, các Phụ Huynh có con em Tự Kỷ, Các Nữ Tu, những người trực tiếp làm việc với Trẻ Em Tự Kỷ thuộc 26 Giáo Phận, thuộc các vùng sâu vùng xa … tại Sàigòn, khoá học được tổ chức tại Học Viện Phaolô Nguyễn Văn Bình Giáo Phận Sàigòn. .
Các lớp đào tạo như trên cũng được sự cộng tác của Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành qua sự tổ chức của Toà Tổng Giám Mục Giáo Phận Hà Nội – Ủy Ban Bác Ái Xã Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Con được may mắn đồng hành với Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành trong suốt 15 năm qua tại Việt Nam và con cảm nhận Ngài là một người cha nhân hậu, khiêm tốn, sống tinh thần khó nghèo, nhiệt tâm và đạo đức trong cung cách phục vụ và đặc biệt hết lòng thương yêu  trẻ em khuyết tật tâm thần vô điều kiện…
Việc làm của Ngài đem lại nhiều hoa trái thiết thực tốt đẹp cho Giáo Hội Việt Nam nói chung và cho ngành giáo dục đặc biệt các trẻ em Tự Kỷ nói riêng tại quê nhà.
Võ Thị Khoái
Hiệu Trưởng Trường Chuyên Biệt Gia Định
Đọc trongThánh Lễ An Táng Giáo Sư Linh Mục Nguyễn Văn Thành tại Đan viện Orsonnens ngày 17.11. 2008
***
Thương tiếc GS Nguyễn Văn Thành
Ôi cát bụi tuyệt vời…
Lê Trân

Nguyệt San Ngày Mới, Paris, 14/11/2008
Vẫn biết bụi đất một mai sẽ trở về đất bụi.  Vẫn biết nơi đến, chốn về như nhau: tất cả chỉ là phù du, vô nghĩa. Nhưng sáng nay khi mở e-mail, tin Anh Thành vừa mất lúc 8 giờ, 14/11/2008, vẫn làm tôi bàng hoàng…
Mới thứ tư tuần trước (5/11/08), sáng, điện thoại thăm anh ở bệnh viện, anh cho biết trưa nay anh sẽ trải qua một cuộc giải phẫu lần chót, mong rằng sẽ tốt đẹp. Tôi định hỏi thêm về sức khỏe của anh, anh cười: “Tình trạng vẫn thế, từ ngày nhập viện mình không ăn uống gì cả, chỉ được truyền nước biển“. Anh xoay  ra hỏi: “Anh khỏe mạnh thế nào? Chị DT khỏe không?” Tôi báo cho anh biết, trưa nay tôi có hẹn với bác sĩ chuyên về “rythmologie” vì “con tim mình” cứ thích nhảy “Lambada”, không chừng cũng phải qua một cuộc phẫu thuật. Sau đó tôi và anh cùng hẹn sẽ gặp nhau một ngày nào đó… khi sức khỏe (của nhau) bình phục, như anh thường rủ tôi sang Thụy sĩ hàn huyên cùng anh.
Tôi, sau khi “được” chẩn bệnh, bác sĩ cho biết không cần phải giải phẫu để “khắc phục” điệu “Lambada”, chỉ cần điều trị bằng thuốc thì đâu lại vào đấy.
Mừng cho tôi, nhưng lại khắc khoải cho anh.
Mới hôm qua, tôi điện thoại vào bệnh viện thăm anh, hy vọng sẽ nhận được tin lành, nhưng ái nữ của anh cho biết, anh hiện còn chưa tỉnh hẳn, tuy vậy tôi vẫn mừng, nghĩ rằng cuộc giải phẫu thành công, bây giờ là hy vọng, đợi khi anh tỉnh dậy, sẽ bình phục và anh lại tiếp tục “lao động” trí óc như xưa.
Thế mà… “Cái hẹn” của chúng ta lại không bao giờ thực hiện được nữa… Anh vừa ra đi về Nhà Cha.
Phải chăng trong lòng Anh, “từ vực sâu nghe lời mời đã dậy” đang mong chờ một điều gì đó thâm sâu hơn, cao quý hơn những gì tầm thường đang cuốn hút hạt bụi xoay vòng trong cơn lốc đảo điên của trần thế !
Tâm hồn Anh đã nghe được lời mời gọi thiêng liêng nào đó.  À, thì ra cát bụi mệt nhoài sau những chuỗi ngày “mặt trời soi một kiếp rong chơi[1] sau những tháng năm hòa mình vào những “tiếng động gõ nhịp không nguôi” cuộc đời, sau “bao nhiêu năm làm kiếp con người Anh bỗng chợt nhận ra thiếu vắng một cái gì đó trong cuộc sống.  Hạt bụi nhỏ bé như giọt sương mai được mặt trời soi sáng để rồi trái tim khát khao tin yêu thổn thức “xin úp mặt bùi ngùi, từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.
Ngay khi còn sống, con người đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt. Thật là một tư tưởng cay đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần gian, nhưng lại là một viễn tượng đáng khát vọng cho những người sống cơ cực (x. Hc 41, 1).
Kiếp người cứ mãi chạy theo những nhu cầu của xã hội:  nhà cửa, xe cộ, tiền tài, sự nghiệp của mình, tương lai con cái…
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ..
1
Rồi mỏi mệt nhắm mắt xuôi tay mới chua chát nhận ra rằng “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”, và đôi tay đó đã bóp chết bao kiếp người trong những nhu cầu tầm thường.
Đi mà “chẳng biết nơi nào là chốn quê nhà“, đi mà không biết mình sẽ đi đâu, sẽ đến nơi đâu?
Hàng năm Giáo Hội Công Giáo dành tháng mười một, tháng nằm giữa mùa Thu – mùa lá vàng để cầu nguyện cho các người quá cố, Anh đã ra đi giữa mầu sắc rực rỡ của lá thu vàng điểm thêm những vùng lá đỏ ối để về Nhà Cha, cuộc sống bây giờ sẽ không còn là phù du vô nghĩa, không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng từ đáy vực sâu mà là những tiếng kêu ngạc nhiên hoan lạc, những bản tình ca bất tận ca ngợi tình yêu Thiên Chúa bao la: Anh đã sống trong Thiên Chúa là sống để yêu – Anh đã sống trong thời gian là yêu để sống.
Ôi Tình Chúa yêu Anh thật tuyệt vời !
Con người được sinh ra từ bụi đất nhưng con người không bằng bụi đất vì con người có hơi thở và hơi thở này là hơi thở Sự Sống của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Hạt bụi được hóa kiếp là nhờ tình thương của Thiên Chúa. Vì nếu không, muôn đời hạt bụi vẫn còn mãi mãi là hạt bụi. “Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật“. (St 2,7)
Ôi cát bụi tuyệt vời !
Cuộc đời con người chúng ta xuất thân từ bụi cát, một cách vô tình cứ để mặc cho dòng đời cuốn trôi không biết đâu là bến, đâu là bờ, đâu là núi cao, đâu là vực thẳm, để rồi cuối cùng cảm thấy mệt nhoài. Tuy nhiên, tự trong thâm sâu, một lời mời gọi không ngừng vang lên khiến cho hạt bụi dừng chân, Anh khắc khoải lên đường đi theo “tiếng gọi” bỏ lại sau lưng thân phận bọt bèo của kiếp người.
Vâng, Chúa ơi ! Mặc dù “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ” nhưng Anh biết vinh quang Thiên Chúa thì vô biên không bút mực nào tả xiết, Anh đáp lại lời mời gọi của Chúa khi “Hạt bụi nào hòa kiếp thân tôi …” thì hôm nay Anh được hội ngộ với Chúa. Hạnh phúc ngất ngây ở bên Chúa khi được mạc khải vẻ huy hoàng rực rỡ của Chúa, khiến Anh thật sự đã quên mất đường về. Ở đây không có cảnh “ta về lại nhớ ta đi” nữa !
Năm 2007 về Việt Nam, được biết rõ thêm những công trình Anh đã làm: thiết lập những Trung tâm điều trị các trẻ em tự bế ở Saigon và Hà Nội. Ngoài ra Anh còn mở ra nhiều khóa học đào tạo các chuyên viên chăm sóc và điều trị các trẻ em tự kỷ.
Những công việc Anh thực hiện cho quê hương cho dân tộc, quả tuyệt vời !
Không hẹn mà gặp, chúng ta đã gặp nhau ở Saigon, hôm đó Anh đã chẩn bệnh cho một cháu trai do tôi dẫn đến. Cháu lên bốn, thân thể phát triển bình thường, nhưng không nói được. Sau khi chẩn bệnh, Anh cho biết bệnh tình của cháu không có gì nghiêm trọng, chằng qua là cháu “lười nói”. Sau đó Anh giới thiệu qua trường dành cho các trẻ em tự kỷ ở Gia Định. Giám đốc trung tâm là học trò của anh. Nhờ Anh, cháu Khang đã nói được bình thường, mang niềm vui, hạnh phúc cho bố mẹ và gia đình.
Không chỉ duy nhất cháu Khang, đã có hàng trăm cháu nhờ phương pháp trị liệu của Anh đã khỏi bệnh.
Hiện nay ở Việt Nam số trẻ em bị chứng bệnh tự kỷ rất là nhiều, các em đang cần đến Anh để Anh đào tạo thêm nhiều chuyên viên điều trị.
Thứ tư tuần trước, điện thoại cho Anh, tôi đã nói: “Anh còn phải tiếp tục lao động !
Một người yêu đất nước, hăng say đóng góp cho sự thăng tiến của dân tộc trong các lãnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục như Anh. Sao anh bỏ cuộc sớm thế!
Bây giờ Anh không còn phải “...đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Chúa đã “thương gọi Anh về …
Về đi… Anh Thành !
Cám ơn Anh về những đóng góp Anh đã hiến cho đời, cho người.
Anh Thành, hãy nghỉ yên, người con yêu của Chúa !
***
Lời chứng về Lm Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thành
Ghi nhớ ngày an táng cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thành, 17.11.2008.
Fr. Martin Phạm Thanh Toàn, O.Cist.
Một con người khiêm hạ và “bị” Tình Thương của Thiên Chúa đeo đuổi.
1. Đó là một người được ghi dấu bởi những công trình nghiên cứu rất đồ sộ (trên 20 tác phẩm và nhiều bài viết có giá trị), nhưng con người này đã dùng cái học cái biết của mình để cống hiến mình cho dân tộc Việt Nam. Thường, người ta sẽ dễ dàng đánh giá giá trị của một người dựa theo những công trình người đó đã làm được. Đối với cha Phanxicô Xavie Thành thì khác. Giữa công trình của cha và con người của cha dường như là hai chuyện khác nhau. Những gì làm được chỉ là phương tiện để đạt được chính con người hoàn thiện là tác nhân của những công việc đó. Theo con được biết, suốt mấy chục năm sống tại Thụy Sĩ, vì là con người “rất đau đớn cho gia sản văn hoá và con người Việt Nam”, nên cha đã chuyên chú trong việc đào tạo người trẻ, viết lách nhiều cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó. Chính vì vậy, với số vốn hiểu biết chuyên môn về Tâm Lý Học, cha đã giúp rất nhiều trẻ em khuyết tật tâm thần (autisme) cả tại Lausanne,Thụy Sĩ và tại Việt Nam. Động cơ của cha để làm những việc này, không gì khác, chính là lòng nhân ái và khiêm hạ.
Lòng nhân ái và khiêm hạ đó đã thể hiện ra trong đời sống cộng đoàn với đan viện Thánh Mẫu Fatima-Orsonnens/Thụy Sĩ trong suốt một năm qua (từ tháng 12/2007): gần gũi và thân thiện với tất cả mọi người, những người lớn đã đành mà ngay cả những anh em chỉ đáng tuổi cháu đều được cha coi là “bạn bè” trong cư xử. Quả thật chúng con đã nói đủ thứ chuyện vui buồn với nhau, đã “triết lý” với nhau về những vấn đề xã hội bên Tây bên Ta. Và, nhất là một khám phá mới: trên giường bệnh suốt hai tháng, ưu tư lớn nhất của cha chính là những em khuyết tật tâm thần (autiste – tự kỷ). (Xem ra sự đau đớn kinh khủng của căn bệnh ung thư gan và mật này không đáng kể. Tất cả mọi anh em trong cộng đoàn đều không nghe thấy một lời kêu đau nào của cha. Ngay cả mấy ngày trước khi đi bệnh viện, cha vẫn đến lớp dạy cho ba Thầy kinh viện ở đây, mặc dù những cơn đau đã hoành hành từ mấy tuần trước rồi). Mỗi lần nhắc đến những em này cha lại khóc. Thì ra, trên giường bệnh, nhất là khi nghe được tin của bác sĩ cho biết bị ung thư, một thoáng thất vọng đã ập tới nhưng rồi cũng mau chóng đi qua, cho thấy những công việc của cha đang làm bị bỏ dở. Thì ra, hằng ngày với mạng Internet, cha thường xuyên liên lạc với những “khách hàng” của mình, nghĩa là những gia đình cha mẹ đang có con mắc bệnh khuyết tật tâm thần, giải thích cho họ cách chữa trị thế nào, vì đây là quá trình điều trị lâu dài. Thế mới hay, một con người trí thức thật cao nhưng đã trở nên nhỏ bé, nhỏ bé đến nỗi đã thẩm thấu vào được ngay cả những con người khuyết tật tâm thần, những người xem ra “bó tay” đối với những phương pháp khoa học tân tiến. Một lần cha đã cho biết: bí quyết chữa trị bệnh này chính là tình thương. Thì ra, khác với các loại bệnh khác, loại bệnh này chỉ được chữa trị hiệu quả do bởi tình thương của thầy thuốc mà thôi !
2. Chính vì vậy mà con đã cảm nhận nơi ngài: có một Tình Thương lớn quá đang đeo đuổi ngài. Một khi ngàí đã có trái tim liên đới như thế, những con người xấu số kia đã trở nên người nhà của ngài. Và chính vì đã đồng hình đồng dạng với Tình Thương của Thiên Chúa, nên Chúa đã tỏ Tình Thương của Ngài cho cha Phanxicô Xavier Thành. Rõ ràng Tình Thương quan phòng đó đã an bài cho cha Thành có được một năm sống trong đan viện Xitô Thánh Mẫu Fatima tại làng Orsonnens tỉnh Fribourg bên Thụy Sĩ. Chúng con đã chứng kiến nhiều lần những giọt nước mắt hạnh phúc lăn trên gò má chỉ vì cảm nghiệm được một Tình Thương lớn quá cứ trào tràn trên cuộc đời của mình. Hạnh phúc quá và cứ thế lan toả trong cuộc sống đời thường. Hầu như cha tham dự tất cả các Giờ Kinh với Cộng Đoàn, nhưng vẫn có giờ dạy học cho ba Thầy kinh viện mà cũng chẳng sao nhãng việc “chữa trị từ xa” cho các em khuyết tật tâm thần, đồng thời vẫn có thời gian nghiên cứu và viết sách.
Rồi như thể không buông tha, Tình Thương đó cứ đeo đuổi cha Thành cho đến chân giường bệnh, hai tháng trước khi qua đời. Trong thời gian này, một biến cố quan trọng đã diễn ra trong đời của ngài: phục hồi thiên chức linh mục. Cha Viện Trưởng Clêmentê Phạm Đăng Mẫn đã có ý âm thầm tiến hành việc đó cho cha Thành khi ngài về Việt Nam họp Tổng Hội của Dòng Xitô vào tháng 11/2008 này. Nhưng Chúa đã thúc bách ngài làm sớm hơn trước khi ngài về Việt Nam bằng cách liên lạc bằng điện thư cho Đức Tổng Giám Mục Stêphanô Nguyễn Như Thể và đã được trả lời bằng sự ưng thuận như bằng chứng của Tình Thương Thiên Chúa đối với cha Thành. Thì ra Tình Thương của Thiên Chúa không buông tha bất cứ ai và nhất là những người mà tình thương đã trở nên “đồng hình đồng dạng” với Tình Thương Thiên Chúa.
Sau cùng, con chỉ nói gọn lời này: cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thành đã kết thúc cuộc đời của mình một cách rất tốt đẹp và thánh thiện. Ngài là một vị thánh của Chúa chúng ta.
[1] Trích Cát bụi – Một cõi đi về  (Trịnh Công Sơn).

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang