Khi nói đến Kinh Lạy Cha, các nhà thần học, các nhà giải thích Kinh thánh thường nhắc lại câu nói bất hủ của Tertulianô: “Kinh lạy cha chúng con là một bảng tóm lược tất cả Phúc âm”.
Qua
Kinh Lạy Cha, chúng ta thấy Đấng Thượng Đế mà Kitô hữu cầu nguyện được
mặc khải cho con người một cách đặc biệt qua Chúa Giêsu.
A- Hai bản văn
Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc là bản văn viết trong Phúc Âm Mathêu.
Ngoài
lời cầu nguyện khẩn thiết của Chúa Giêsu với Thượng Đế Chúa Cha, được
thánh Gioan chép lại trong Phúc Âm thứ tư đoạn 17 ở vườn Giệtsêmani
trước khi Ngài bị bắt và bị đem đi đóng đinh, chúng ta có hai bản văn
viết về Kinh Lạy Cha: một bản của Luca 11-2b-4 ngắn hơn, và một bản của
Mathêu 6-9b-13 được viết dài hơn.
Bản văn của Mathêu (Mt 6, 9-13):
9b. Lạy Cha chúng con Đấng (ở) trên trời
Nguyện danh Cha được thánh.
10. Nguyện nước Cha đến
Nguyện ý của Cha được thực hiện ở trên trời cũng như ở dưới thế.
11. Cầu xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.
12. Và cầu xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng đã tha cho kẻ mắc nợ chúng con.
13. Và cầu xin Cha đừng đưa chúng con vào chước cám dỗ
nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ.
Nguyện danh Cha được thánh.
10. Nguyện nước Cha đến
Nguyện ý của Cha được thực hiện ở trên trời cũng như ở dưới thế.
11. Cầu xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.
12. Và cầu xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng đã tha cho kẻ mắc nợ chúng con.
13. Và cầu xin Cha đừng đưa chúng con vào chước cám dỗ
nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ.
Bản văn của Luca (Lc 11, 2-4):
2b. Lạy Cha
Nguyện danh Cha được thánh, nguyện nước Cha đến.
3. Cầu xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày mỗi ngày.
4. Và cầu xin Cha tha tội của chúng con vì chính chúng con cũng tha cho bất cứ ai mắc nợ chúng con, và xin đừng đưa chúng con vào chước cám dỗ.
Nguyện danh Cha được thánh, nguyện nước Cha đến.
3. Cầu xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày mỗi ngày.
4. Và cầu xin Cha tha tội của chúng con vì chính chúng con cũng tha cho bất cứ ai mắc nợ chúng con, và xin đừng đưa chúng con vào chước cám dỗ.
B- Những khác biệt của hai bản văn
Hai bản văn có những khác biệt dễ thấy:
- Mathêu có chữ chúng ta.
-
Mathêu có thêm Đấng ở trên trời, (là một thành ngữ Do thái thường
dùng-và chỉ có ngài dùng đến 13 lần như thế trong Phúc âm của ngài).
- Mathêu có thêm lời nguyện thứ ba: Nguyện ý Cha được thực hiện ở trên trời cũng như ở dưới thế.
- Và tương ứng Mathêu có thêm lời cầu xin đối lại: Nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ.
- Mathêu dùng chữ Nợ, Luca dùng chữ tội.
-
Về mặt văn phạm, Luca ở 11.3 dùng động từ “xin hãy cho” ở thể hiện tại
kéo dài. (xin cho mỗi ngày). Mathêu 6.11 dùng một động từ của Hy lạp gọi
là (aoriste) – chỉ một hành động vào một thời điểm rõ rệt.
Hẳn nhiên chúng ta sẽ hỏi xem, đâu là bản văn ghi lại trung thực lời Chúa Giêsu đã dạy.
Các
nhà giải thích Thánh Kinh đưa ra nhiều phân tích khác nhau. Nhưng họ
đồng ý rằng, Mathêu ghi lại lời Kinh của cộng đồng người Do thái Kitô
hữu, còn Luca ghi lại lời Kinh của cộng đồng người Kitô hữu không phải
gốc Do thái. Dẫu sao thì toàn bộ lời Kinh của bản văn Luca đều có trong
bản văn của Mathêu.
Ngoài
sự khác biệt về chính các câu văn, vị trí của Kinh Lạy Cha trong hai
bản Phúc Âm cũng đặt vào hai khung cảnh khác nhau; Mathêu đặt bản văn
Kinh Lạy Cha trong khung cảnh bài giảng đầu tiên của Phúc Âm ngài, gọi
là “Bài giảng trên núi”. Theo tinh thần toàn khối của chương này, Chúa
Giêsu muốn đưa ra một mẫu mực cầu nguyện thật sự, ngược lại thái độ giả
hình của các người Pharisêu trong lối sống đạo hạnh hình thức phô trương
của họ. Còn Luca, thì đặt Kinh Lạy Cha vào một khung cảnh tích cực hơn.
Khi các môn đệ thấy Chúa Giêsu thường cầu nguyện, họ muốn làm như Ngài;
nên có một lần một người trong họ xin Ngài “Thưa thầy, xin thầy dạy
chúng con cầu nguyện, như Gioan Tẩy Giả đã dạy điều đó cho các môn đệ
của người”. Và Chúa Giêsu đã đưa ra lời Kinh này.
II. Mặc khải Kitô giáo trong Kinh Lạy Cha
A- Quan điểm Thượng Đế, Đấng chí tôn trong các truyền thống văn hoá nhân loại
Ý
thức về Đấng Siêu Việt, Đấng Chí Tôn, cảnh vực thần linh… đều được mọi
người cảm nhận qua các thế hệ, các thời đại khác nhau của lịch sử nhân
loại. Cảm nhận đó thường được diễn tả bằng nhiều phương thế biểu lộ khác
nhau. Qua cách diễn tả tượng trưng, người ta hình dung Thần Thánh bằng
hình ảnh to lớn của vũ trụ như Trời xanh, Vô tận, luật thường hằng của
Thiên nhiên… hoặc dựa vào nguồn gốc sinh thành vạn vật như Hóa công, Tạo
hóa, có lúc lại lấy mẫu mực điều hành xã hội con người để chỉ Đấng Siêu
Việt như Hoàng Thiên (Vua trời); trong tâm tình kính trọng người ta
diễn tả Đấng đó là bậc đáng kính hơn cả, gọi là Đấng Chí Tôn. Đến mức độ
cao hơn khi cảm nhận được những giới hạn nhận thức của mình trước Đấng
ấy, thì thông thường người ta lại dùng lời nói tiêu cực như: Đấng Siêu
Việt, Đấng không thể gọi tên, Đấng Tuyệt Đối, Đấng không thể hạn định
được trong thời gian và không gian đang ràng buộc con người và thiên
nhiên (= infini). Các triết gia Tây phương gọi là Hữu Thế tối cao, nguồn
suối mà các tham thể thông dự vào. Kinh Thư Trung Hoa gọi là Đạo Tâm
duy vi. Đặc biệt hơn hết người ta lấy mẫu mực tương quan cuộc sống gia
đình để gọi tên Đấng Siêu Việt. Người ta gọi Đấng ấy là Cha chung muôn
loài, cũng có khi còn gọi là Mẹ của muôn vật. Trong việc thờ cúng tổ
tiên của người Việt, tổ tiên ta gọi Đấng đó là Văn tổ, Tổ trên hết các
tổ.
Các
nhà cổ học truy cứu lại văn hoá cổ xưa của các vùng Tiểu Á, Ai Cập đã
khám phá rằng Đấng thiêng liêng được tôn kính có lúc được các thi gia
gọi tên là Mẹ hoặc là Cha.
Tuy
nhiên, giữa việc gọi Đấng Thiêng Liêng là Cha của các nền văn hoá nói
chung và chữ Cha là Thiên Chúa được dùng trong các bản văn Cựu Ước lại
có những nội dung khác nhau.
B- Thiên chúa là Cha trong Cựu ước
Thật
ra trong Cựu Ước, rất ít khi Thượng Đế được gọi tên là Cha; đặc biệt
nếu có dùng, thì chữ Cha không mang ý nghiã sinh thành tạo vật. Nhà thần
học Jean Pouilly viết rằng: “Trái ngược với các huyền thoại ngoại giáo,
phụ tính của Thiên Chúa hoàn toàn tách rời ý niệm về sinh thành và
không bao giờ xuất lộ ra trong các bản văn (theo nghĩa đó) để ta có thể
giải thích theo nghĩa mô phỏng về một đấng sinh thành hay tổ tiên. Thượng
Đế là Cha, không phải vì ngài là “Đấng đã sinh hạ ra các thần thánh và
con người”, nhưng trong khuôn khổ ý nghĩa của việc Ngài chọn lựa Abraham
và dân Do Thái mà Ngài nâng lên làm trưởng tử của Ngài khi cứu dân đó
khỏi sự hà hiếp của Ai cập. Do đó, đây là một lối giải thích tượng trưng
về phụ tính của Thượng Đế và trong khuôn khổ này lối giải thích đó
không nhằm nói lên nguồn gốc của vũ trụ, nhưng liên hệ đến lịch sử con
người” (Dieu Notre Père. Cahiers Evangile -số 68, các trang 9 và 11).
Nói
cách khác, ý niệm Thượng Đế là Cha trong Cựu Ước đi đôi với một Israel
là con, không phải là một hình ảnh huyền thoại, nhưng dựa trên một kinh
nghiệm lịch sử của Giao ước và Cứu độ. Qua ý niệm Thượng Đế là Cha, dân
Israel được mặc khải sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử của dân
này, một Thiên Chúa duy nhất đối thoại với mình và làm cho dân này bước
đi theo sự chỉ dẩn của Ngài.
Đến
thời kỳ Do thái giáo ở Palestin hầu như đương thời với Chúa Giêsu,
nhiều bản văn, Kinh nguyện của tôn giáo này đã kêu tên Thiên Chúa là Cha
chúng tôi; hơn thế nữa các nội dung của Kinh Lạy Cha cũng thấy rải rác
hiện diện trong các lời cầu xin của các tín đồ do thái giáo, đến nỗi sau
khi đối chiếu các bản văn R.Aron đã viết: “Kinh căn bản này của
Kitô Giáo, trong nhiều đoạn, trực tiếp phát xuất từ các kinh căn bản của
người Do thái mà bấy giờ Đức Giêsu đã đọc hoặc đã nghe đọc suốt những
năm Ngài sống ở Nazareth.” (Les Origines Juives du Pater, trong Mission-Dieu, 85, 1966- trang 38).
Những
sự kiện khách quan về các văn bản đó cũng không thể làm ta quên lãng
một sự khác biệt; khác biệt do chính hiện thân của Chúa Kitô khi mặc
khải Thượng Đế là Cha và là Cha của Ngài.
C- Thiên chúa là Cha chúa Giêsu và là cha chúng ta
Chúng
ta thường đọc trong Thánh lễ: nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong
Chúa Kitô, mỗi khi dâng lời nguyện lên Chúa Cha. Kinh Lạy Cha mặc khải
về Thiên chúa là Cha trong điều kiện đó. Trong Tân Ước, đặc biệt ở các
thư của Phaolô (Gn 4, 4-6; Rm 8,15), Kitô hữu gọi tên Thiên Chúa là Cha
với tinh thần là dưỡng tử.
“Anh em đã nhận một tinh thần là dưỡng tử, trong tinh thần đó, chúng ta kêu lên: Abba, Cha!”.
Dưỡng
tử vì Kitô hữu gia nhập vào Chúa Giêsu, con duy nhất của Chúa Cha. Và
nhờ phép rửa chúng ta Kitô hữu tham dự vào cuộc sống Thiên Chúa.
Từ
chương 14 đến hết chương 17, Phúc Âm Gioan đã nhấn mạnh rõ nội dung đó,
đặc biệt câu: “Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta” (Gioan 14-6).
Đặc biệt thứ hai trong mặc khải về Thượng Đế trong Kinh Lạy Cha, là trong Đức Kitô Thượng đế là Cha của chúng ta.
Chính
nhờ Đức Kitô và trong Ngài, Kitô hữu mới có thể kêu lên: Cha, và đồng
thời sống được chữ chúng con. Với Đức Kitô, trong Ngài, tất cả Kitô hữu
và nhân loại trở thành chúng con, tức là Giáo hội, cộng đồng huynh đệ.
Lời
cầu nguyện Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi kêu đến Thiên Chúa là
Cha chúng con. Trong thần khí của Đức Kitô, Kitô hữu không thể sống
riêng lẽ, cầu nguyện riêng lẽ một mình.
Mỗi lời Kinh của Kitô hữu đều phải là lời cầu nguyện của Giáo hội, của toàn nhân loại.
III. Cấu trúc của Kinh Lạy Cha (theo bản văn Mathêu)
Các nhà giải thích Thánh Kinh thường chia bản Kinh Lạy Cha làm 3 phần:
A. Xưng danh Thiên chúa:
(xin dịch theo nguyên bản văn việt ngữ đang sử dụng).
Lạy cha chúng con ở trên trời.
B. Ba lời nguyện kêu đến Thiên chúa và vì Thiên chúa:
Chúng con nguyện danh Cha cả sáng
Nước Cha trị đến
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Nước Cha trị đến
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
C. Ba lời cầu xin liên quan đến con người:
Xin cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.
A- Xưng danh Thiên Chúa
Lạy cha chúng con ở trên trời
Trong
các bản Phúc Âm, ta gặp lối nói thân mật lạ lùng của Chúa Giêsu đối với
Thiên Chúa Cha qua chữ Abba (Mc 14,36). Chữ Abba, là tiếng gọi thân mật
trong tiếng Aram (tiếng Chúa Giêsu nói lúc bấy giờ) để kêu tên cha
mình, như tiếng việt ta dùng chữ ba, hay tiếng pháp là papa. Lối xưng hô
lạ lùng đó mặc khải tương quan thân mật và duy nhất của Chúa Giêsu và
Thiên Chúa Cha Ngài. Trong Kinh Lạy Cha, chữ Cha được dùng như Cha việt
nam, tổng quát hơn, nhưng luôn hàm ngụ một mối tương quan thân mật, ưu
ái (xem đoạn Phúc Âm về “Người con hoang đàng trở về” Luca- 15,11-31).
“Các con là bạn hữu của ta. (Gioan 15-14)
“Ta đã gọi các con là bạn hữu vì mọi điều ta đã nghe nơi Cha ta Ta đã tỏ cho các con biết (Gioan 16-27).
Tuy vậy, người Cha thật gần gũi đó cũng là Đấng Siêu Việt: Đấng ở trên trời.
Hẳn
nhiên không phải trên trời là chốn thật xa, ở một nơi khác không ăn
nhập gì với con người trần thế. Chữ trên trời ở trong văn hoá Do thái,
cũng như ngay trong văn hoá Á đông chúng ta là lối nói tượng trưng nhằm
chỉ một cái gì vượt lên trên khả năng tiếp nhận thông thường của con
người vốn hữu hạn. Trên trời cũng có nghĩa là bao dung, chung cho
hết mọi người trong mọi thời đại, đối lại với “đất” nhằm chỉ những giới
hạn địa phương, thời kỳ lịch sử…
Một ý nghĩa nữa của trên trời là sự hiện diện ẩn kín mà con người trần thế có thể lãng quên hay không nhận ra.
Cha chúng con
Nhờ
Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa
là Cha và từ đó được sống trong cộng đồng huynh đệ: chúng con. Tình
huynh đệ “chúng con” không có trước hay ngoài mối tương giao với Thiên
Chúa ẩn kín qua Đức Kitô. Cuộc sống xã hội không tự mình làm nên tình
nghĩa huynh đệ giữa các phần tử, cũng không tạo nên thần thánh theo nhu
cầu sinh hoạt riêng của mình.
Con người cũng không thể là con Thiên Chúa khi tách rời khỏi cộng đồng “chúng con” trong Đức Kitô.
Lời
cầu nguyện của Kitô hữu cũng chỉ có giá trị chân thật khi kêu lên
“chúng con”, nói cách khác lời nguyện của mỗi Kitô hữu phải là lời cầu
nguyện của Giáo hội: Khi có hai, ba người họp nhau cầu nguyện, thì có Ta
ở giữa họ.
Qua
câu tuyên xưng: Lạy cha chúng con ở trên trời, Kitô hữu thấm nhập hai
điều răn gói trọn cuộc sống con người: Mến Chúa và yêu người.
B- Ba lời nguyện ước
Một
số nhà chú giải Thánh Kinh xếp ba câu kế tiếp thành một phần riêng gọi
là ba lời nguyện ước. Chúng ta cũng thấy một lối xếp khác, đưa toàn bộ
phần còn lại của Kinh Lạy Cha thành một phần duy nhất; trong cuốn Giải
lý của Giáo hội Công giáo, phần duy nhất này gọi là bảng: lời cầu xin.
Dẫu chia làm hai phần hay giữ lại một phần, thì các tác giả của hai lối
xếp đặt đều cảnh giác rằng: đừng nên xem ba câu đầu của phần này như nỗ
lực hòa lại với Chúa Cha với ý định là để dễ dàng xin Ngài chấp nhận
điều mình muốn xin sau này.
Kỳ
thực ba điều nguyện ước đầu cũng đã là những lời cầu xin. Và ba lời cầu
xin sau cũng chỉ có thể hiểu được trong khuôn khổ của Nước Chúa đang
đến với con người.
Lời nguyện thứ nhất
Chúng con nguyện danh cha cả sáng
Vì
cách dịch việt ngữ chúng ta đánh mất chữ thánh, và thay vào đó là hai
chữ: một là chữ cả theo lối nói xưa có nghĩa thật nhiều, thật lớn, thật
rộng khắp, và hai là chữ sáng nói lên sự tỏ lộ ra bên ngoài, và cũng có
nghĩa là được tôn vinh. Nhưng khi dịch như thế chúng ta giữ được một ý
quan trọng (như trong cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo đã mô tả: Sự thánh
thiện của Thiên Chúa là lãnh vực của mầu nhiệm đời đời của Ngài, ta
không thể thăm dò được. Điều được tỏ lộ ra trong tạo vật và lịch sử,
Thánh Kinh gọi đó là Vinh quang, là sự chiếu sáng của sự Cao cả của
Ngài. -2809), nhưng có điều bất lợi là chữ thánh với tất cả những nội
dung tín lý, thần học hàm ngụ trong đó không được gợi lên.
Danh cha
“Tên”
thông thường được hiểu là một tiếng gọi quy ước, nên trong sách của
Lão-Trang ta thấy có sự e ngại khi gọi “tên” của Đấng Chí Tôn. Sâu xa
hơn nữa sự lượng định giá trị con người theo các chức tước địa vị xã
hội, mà ngôn ngữ ta thường gọi là có tên tuổi với đời, đã che mờ sự hiểu
biết về phẩm giá thật của chính con người, vốn cao cả hơn tước hiệu phù
du đó. Sỡ dĩ các nền văn hoá nhân loại coi nhẹ cái “danh”, vì danh đó
phát xuất từ hoàn cảnh hữu hạn của con người. Lão Tử không bác danh,
nhưng cho rằng danh mà con người tự mình đặt ra thì không phải là Danh
chân thật. Trong Cựu Ước để “cho thấy sự siêu việt của Thiên Chúa, Đấng
ta không thăm dò được, Đấng mầu nhiệm, nên “Danh” đủ để chỉ Thiên chúa”
(Vocabulaire de théologie biblique. Ed. du Cerf, Paris, 1988. 6. éd. p.
829).
Còn
trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Ngài biết tên của Cha ngài
(Gioan, 17, 6. 26). Khi tự mình tỏ lộ ra như là “Con”, Ngài mặc khải
rằng “Cha” là tên gọi biểu lộ sâu xa nhất bản tính Thiên Chúa. Cha đó,
mà con Ngài là Giêsu (Mathêu 11,25..) cũng tràn ban phụ tính của mình
trên tất cả những ai tin vào con Ngài (Gioan 20,17). (sd-830).
Như
thế Tên, Danh là chính Chúa do từ chính Chúa. Nói cách khác Thiên Chúa
từ ý muốn của Ngài ban cho con người ân huệ gọi đến Ngài. Và gọi đến
Ngài là “Cha” nhờ đức Kitô, trong Đức Kitô, với Đức Kitô, con Ngài.
Cả sáng
Ngay
trong ngôn ngữ Tây phương, cũng có tác giả như J.Carmignac đề nghị dịch
chữ “được thánh hoá” là “được hiển vinh”. Chữ Thánh nói lên sư siêu
việt của Danh Chúa, chữ hiển vinh nói lên sự tràn lan đến cho mọi tạo
vật. Nói cách khác: Cầu mong cho mọi người, mọi thời đại nhận biết Thiên
Chúa là Đấng đáng tôn thờ. Nhưng Chúa đó không phải do con người tự bày
đặt ra, nhưng là Chúa được mặc khải cho con người qua Chúa Kitô.
Và
Danh đáng tôn thờ qua Chúa Kitô là Cha, Đấng Thượng Đế muốn con người
nhìn nhận Ngài là tình yêu, là Đấng đã hiến cả con mình cho con người.
Nên, cầu cho Danh cha được thánh, cũng là cầu xin Chúa ban cho mọi người
nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người trong Đức Kitô. Và
khi cầu xin như thế, thì chúng ta cũng biểu lộ ước muốn hợp tác với Chúa
Kitô để Thiên chúa là Cha được mọi người cảm nhận, Danh cha được
thánh: gặp gỡ, gọi đến Thiên Chúa siêu việt, Thánh, đó là chức phận của
Thầy Cả. Vị thầy cả duy nhất lại là Chúa Kitô, hiến tế chính mình để
con người có thể gọi đến tên Thiên Chúa, gần gủi, đối diện được với
Ngài. Vì vậy khi đọc “Danh cha được Thánh”, mỗi Kitô hữu thông hiệp với chức Tư Tế của Chúa Kitô qua lời cầu kinh của mình. Mỗi khi đọc câu khẩn nguyện này, chúng ta cùng với Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, tiếp diễn cuộc hiến tế trên Thánh giá.
Lời nguyện ước thứ hai
Nguyện nước cha đến
Nước cha
Trong
bốn Phúc Âm, chúng ta nghe nhiều lần Chúa Giêsu dùng đến chữ “Nước
Thiên Chúa”. Chữ đó được bốn thánh sử dùng đến 122 lần, và 99 lần do từ
lời nói trực tiếp của chính Chúa Giêsu. Đi đôi với từ ngữ này, Thánh
Kinh, nhất là Cụu Ước tôn vinh Thiên Chúa là Vua (xem Thánh vịnh 93,1;
96,10; 97,1; 99,1)
“Thiên chúa là Vua trên toàn cõi trái đất…
Chúa ngự trị trên các dân tộc; Chúa ngồi trên ngai thánh của Ngài” (Tv 47,8-9).
Chúa ngự trị trên các dân tộc; Chúa ngồi trên ngai thánh của Ngài” (Tv 47,8-9).
Theo
nội dung chữ Vua của Cựu Ước, dân riêng của Chúa có một vua duy nhất là
Thiên Chúa, nghĩa là dân đó được chọn để nhận biết Thiên Chúa là Đấng
dẫn dắt cuộc sống của mình, quyết định vận mệnh của mình. Trong ngôn ngữ
Trung Hoa, ảnh hưởng trên văn hoá Việt Nam, chữ Vương Đạo theo nghĩa
biểu tượng là sự nối kết Trời với con người. Trái lại với Vương đạo là
Bá đạo hay Vô đạo là việc quên đạo Trời, chỉ biết có quyền uy, bạo lực
của người. Vương đạo ở đây không phải là thể chế chính trị quân chủ,
nhưng là đạo lý của cuộc sống đầy đủ, chân thật của phẩm giá làm người
của mỗi một chúng ta khi có sự tôn trọng đường lối của Đấng Chí Tôn.
Trong Tân ước, việc loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, luôn được hiểu là
chính chúa Kitô đến với nhân loại. Nước Thiên Chúa là chính sự cứu độ của chúa Kitô.
Cầu
cho Nước Thiên Chúa đến là nguyện cầu cho mọi người nhận biết Thiên
chúa trong sự thông hiệp với khổ nạn và sự sống lại của chúa Kitô.
Ngài đã hạ mình thấp hèn,
trở thành vâng phục cho đến chết
và chết trên thập giá!
Bởi vậy, Thiên Chúa đã tôn vinh ngài!
và ban cho Ngài Danh hiệu
vượt quá mọi danh hiệu,
hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu
mọi gối đều phải qùy xuống bái lạy
ở chốn hoằng thiên,
trên địa cầu, dưới gầm đất;
và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng:
Giêsu Kitô là Chúa,
để Thiên Chúa Cha được vinh danh
(Thư gửi Philip. 2,8-11)
trở thành vâng phục cho đến chết
và chết trên thập giá!
Bởi vậy, Thiên Chúa đã tôn vinh ngài!
và ban cho Ngài Danh hiệu
vượt quá mọi danh hiệu,
hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu
mọi gối đều phải qùy xuống bái lạy
ở chốn hoằng thiên,
trên địa cầu, dưới gầm đất;
và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng:
Giêsu Kitô là Chúa,
để Thiên Chúa Cha được vinh danh
(Thư gửi Philip. 2,8-11)
Như
thế, trong Đức Kitô, cầu xin nước Chúa đến là cầu xin cho Danh Đức Kitô
được mọi người cảm nhận, là cầu xin cho mọi người được cứu độ nhờ Ngài.
Nhưng Nước của Chúa đến nơi trần gian không phải phô bày trong
quyền uy theo nghĩa thế tục con người, nhưng nơi sức mạnh của sự hạ
mình, vâng phục, chết trên thập giá vì yêu mến Thiên Chúa và đồng loại.
Nước
Thiên Chúa đến còn mang ý nghĩa chung mãn của lịch sử, biểu lộ nỗi
trông chờ của Kitô hữu vào buổi mặc khải vinh quang khi chúa Kitô lại
đến. Cầu xin cho nước Chúa đến là cầu xin cho mỗi người kết hợp với Chúa
Kitô, bước đi theo Ngài, cho toàn thể nhân loại thoát khỏi sự Ác, mang
lấy vinh quang của con Thiên Chúa.
Khi
cùng với Chúa Kitô, dâng lên lời nguyện cầu này, Kitô hữu thông dự vào
tước vị làm Vua, mà ngôn ngữ thần học gọi là tước vị vương giả của chúa
Kitô. Nhờ chúa Kitô, Kitô hữu nối kết mình và nhân loại với
Thiên Chúa (Vương đạo), tham dự vào niềm hy vọng Chúa Kitô lại đến trong
vinh quang, chế ngự được mọi điều gian ác.
Lời khẩn nguyện thứ ba
Nguyện cầu cho ý cha được thực hiện,
dưới đất cũng như trên trời
Ý của cha
dưới đất cũng như trên trời
Ý của cha
Đây là lời khẩn nguyện Mathêu đã chép lại. (Không có trong bản văn của Luca)
Trong
toàn bản Phúc Âm của Mathêu ta thấy có 6 lần vị thánh sử này nói đến ý
muốn của Thiên chúa. (6,10;7,21; 12,50; 18,14; 21,31; 26,42).
Trước
hết ta thấy ý muốn Thiên Chúa được biểu lộ trong cơn khổ nạn của Chúa
Giêsu ở vườn Giệtsêmani. (26,42) và được lặp lại 2 lần (26,39): “Không
phải điều con muốn, nhưng là điều cha muốn”.
Khi
nói đến ý muốn của Chúa, thì cũng khai mở thêm rằng Chúa đã cho con
người, mà Đức Kitô là người toàn hảo, một ý muốn tự do. Nói đến ý muốn
Thiên Chúa thì cũng nêu lên sự đáp trả tự do của con người. Sự đáp trả
đó đã được Chúa Giêsu thực hiện trong khổ nạn, như một chén đắng, hy
sinh đến chết nhục nhã trên thập giá.
Những lần khác, Mathêu nhắc lại ý muốn của Thiên Chúa là để nhấn mạnh đến việc thực thi các điều Thiên Chúa dạy làm.
7,21: “Không phải chỉ nói thế này là đủ: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” để có thể được vào nước trời ; nhưng phải thực hiện ý muốn của cha ta Đấng ở trên trời”
12,50: “Ai làm theo ý cha ta Đấng ở trên trời, thì nười đó là anh ta, chị ta, mẹ ta!”
21,31: “Ai trong hai người này đã thực hiện ý muốn của cha mình ?”
Như
thế chúng ta nguyện cầu cho ý Chúa được thực hiện thì cũng có nghĩa là
chúng ta xin Chúa thực hiện ý của Ngài nơi ta, và mặt khác chúng ta cũng
mong ước làm trọn thánh ý của Ngài bằng việc thi hành lề luật của Ngài.
Chúng ta cầu xin vì biết sức mình không những không biết được ý muốn
Thiên Chúa, mà nếu có biết thì cũng không đủ sức thực hiện. Nhưng mặt
khác cũng không phải chúng ta từ chối tự do của mình, chỉ cam tâm chịu
đựng như một số phận kẻ bị trị, kẻ tôi đòi, nhưng cầu mong đủ sáng suốt,
lựa chọn tự do và đáp trả một cách độ lượng lời mời của Thiên Chúa tình
yêu.
Khi khẩn nguyện “ý cha được thực hiện”, Kitô hữu thông dự vào tước vị Tiên tri của Chúa Kitô. Tiên
tri trong Cựu Ước là kẻ được sai đến để loan truyền ý muốn của Thiên
Chúa. Ý muốn nhập thể nơi chính công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Ai thấy ta là đã thấy Cha (Gioan 14.9)
Và ta sẽ xin Cha. Và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác để Ngài ở với các người luôn mãi (Gioan 14, 16)
Trong
sự sống của Thần khí Thiên Chúa, chúng ta biết được và được ban ơn để
thực hiện được thánh ý Thiên Chúa; Thánh ý đó là theo Chúa Kitô. Mọi
Kitô hữu, khi cầu xin ý Chúa cha được thực hiện, đều tham dự vào sự mặc
khải tiên tri của chúa Kitô, can cường vượt thắng chính con người của
mình và lên án, đẩy lui bóng tối của sự ác đang tồn tại trong lịch sử
nhân loại.
Dưới đất cũng như trên trời
Cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo năm 1992 đã giải thích:
“Chúng
ta còn có thể giải thích các lời này mà không làm thương tổn chân lý.”
Nguyện ý cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời”, bằng những lời
này: trong Giáo hội cũng như trong Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta ;
trong người vợ đã được đính ước cho ngài, cũng như trong người chồng đã
hoàn thành ý của Chúa Cha” (2827).
Dưới
đất là Giáo hội đang chiến đấu với sự ác, đang hoàn thành sự nghiệp của
Chúa Kitô, nghe theo lời Ngài như Ngài đã làm theo thánh ý Cha Ngài.
Văn hoá ngày nay đang phân cách một cách tuyệt đối Đất và Trời, cuộc
sống trần tục và giá trị thần thánh, tôn giáo và chính trị. Người ta
muốn dành đất cho người; và trời cao được xem là ý tưởng vu vơ dành cho
những tâm hồn bịnh hoạn, lạc hậu, u mê. Nhưng Đức tin giúp ta nhận ra
rằng:
Đức Giêsu Kitô đã làm người, đã chết và đã được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Trong
Đức Kitô con người trần thế thể hiện ý Thiên chúa trong lịch sử để mọi
người nhận biết Thiên Chúa ẩn kín (trên trời) đang ở giữa cộng đồng nhân
loại.
Ba
lời nguyện ước tuyên xưng niềm hy vọng trông đợi ngày hoàn tất lịch sử
trong sự trở lại vinh quang của Chúa Kitô, đồng thời nói lên ý nguyện
truyền bá Tin Mừng của ơn cứu độ của Ngài mà mình muốn thực hiện.
C. Ba lời xin liên quan đến con người
Xin Cha ban cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày
Xin ban cho
Xin Cha ban cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày
Xin ban cho
Cũng
trong Tin Mừng Mathêu, ta đọc được câu này “Ngài làm mặt trời rạng lên
chiếu soi kẻ ác cũng như kẻ lành và để mưa xuống trên kẻ công chính cũng
như trên kẻ gian ác” (Mt 5, 45). Hẳn nhiên câu nói này giúp ta hiểu sự
tốt lành của Thiên Chúa và sự công chính của ngài vượt lên trên tiêu
chuẩn phán xét theo luật nhân quả của trí năng con người. Nhưng cũng có
kẻ lại thêm rằng, nếu không van xin thì sự việc cũng xảy ra như thế; hơn
nữa nếu Chúa đã được tuyên xưng là Cha, thì Ngài đâu phải đợi đến ta
kêu xin mới ban cho. Trước hết lời van xin của Kitô hữu có nghiã là sự
nhìn nhận toàn cuộc sống của mình và nhân loại là ơn của Thiên Chúa ban.
Lời cầu xin cũng là lời chúc tụng tạ ơn. Chúng
ta cũng biết rằng nếu Thiên Chúa đã ban cho nhân loại con một của Ngài
để cứu độ, thì không còn có gì mà Thiên Chúa còn không ban cho con
người được. Nhưng thật nhiệm mầu! Chính Chúa Kitô đã dạy chúng ta hãy gõ
cửa cầu xin, và khẳng quyết với chúng ta là khi chúng ta gõ cửa thì cha
ngài sẽ mở cho chúng ta. Cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáo định nghiã
đó là một cách biểu lộ giao ước giữa Thiên chúa và con người.
“Xin cho chúng con” còn là một biểu thị của Giao ước: Chúng ta thuộc về Ngài và Ngài là của chúng ta, cho chúng ta. (2829).
Giao
ước đó là Đức Kitô Giêsu. Nên cầu xin Chúa cha cũng là nhìn nhận con
một Ngài là Chúa Giêsu Kitô, đấng nối kết chúng ta với Thiên Chúa trong
Ngài. Chúng ta xin tức là nhân danh chúa Kitô thực hiện giao ước
về phần của mình, vốn đã được tạo dựng làm con người tự do để kết ước.
Nói tóm lại, tuyên xưng câu “xin cha cho chúng con” là nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa của mình nhờ ơn cứu độ của chúa Kitô.
Chúng con
Cũng
như khi khởi đầu của lời Kinh “Lạy Cha chúng con”, lời cầu xin của Kitô
hữu luôn là lời cầu của toàn Giáo hội và cho Giáo hội, cộng đồng những
người con Thiên Chúa.
Bánh của chúng con
Bánh
nuôi sống thân xác và cũng là bánh nuôi đời sống siêu nhiên. Bánh siêu
nhiên là Lời Thiên Chúa, tức là chính Chúa Kitô: Lời Ngài dạy và chính
mình và máu của Ngài trong Thánh Thể.
Nói
cách khác bánh là cuộc sống của mình. Khi dịch chữ bánh là lương thực
chúng ta có khuynh hướng chỉ xem đây là đồ ăn có thể đưa vào miệng. Hẳn
nhiên đó là nỗi âu lo khẩn thiết nhất để cuộc sống thân xác tồn tại;
nhưng ngay cả cuộc sống thân xác cũng còn nhiều nhu cầu khác như khí
thở, áo quần che thân, thiên nhiên bao quanh chúng ta… đó là chưa kể nhu
cầu học biết, tình cảm gia đình, bằng hữu…
Bánh siêu nhiên là lời Thiên Chúa, tức là chính Chúa Kitô. Lời Ngài dạy và chính mình và máu của Ngài trong Thánh Thể.
Nên bánh trong Kinh Lạy Cha phải hiểu là sự sống toàn diện Thiên Chúa ban cho con người trong Chúa Kitô.
Chúng con
Chữ
chúng con ở đây giúp chúng ta hiểu những gì Chúa ban là của chung của
tất cả con cái chúa. Không thể tuyên dương, nhìn nhận Thiên Chúa là
Chúa, mà không thực hiện tình liên đới đồng loại, về cuộc sống thân xác
cũng như siêu nhiên. Nói cách khác kính thờ Thiên chúa không thể tách rời khỏi sự thể hiện tình liên đới huynh đệ trong chúa Kitô.
Hằng ngày
Nguyên
tĩnh từ Hy lạp là épiousios có nghiã là “cần thiết để sống”. Điều cần
thiết trước hết để sống từ vật chất đến siêu nhiên tinh thần là Thiên
chúa ở cùng con người. Vì sự sống thật là Chúa Kitô như Ngài đã dạy. Nên bánh hằng ngày cũng là sự hiện diện của Đức Kitô trọn đầy trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Hôm nay
Chữ
này trong bản văn Luca viết là mỗi ngày. Mathêu nhấn mạnh ý tưởng hôm
nay qua động từ “xin cho” ở thì aoriste của ngôn ngữ Hy lạp. Theo cách
dùng chữ này, đây là một hành vi có tính cách cụ thể trong một thời gian
nhất định. Nhà thần học Jean Pouilly giải thích:
“Việc
trình bày của Mathêu trong lời xin bánh hoàn toàn ăn khớp với lời dạy
của chúa Giêsu khi Ngài kêu gọi ta tin tưởng hoàn toàn vào sự tốt lành
của Cha trên trời”,”Các con đừng âu lo mà nói rằng: “Chúng ta sẽ ăn gì?
chúng ta sẽ uống gì ?… Cha các con trên trời biết các con cần tất cả
những cái đó… Các con đừng lo âu cho ngày mai ; hãy để ngày mai tự lo
cho có” (Mt 6,25-34). Và đó cũng là bài học của thời kỳ ban bánh Ma-na
lúc Chúa nuôi dân ngài hằng ngày trong sa mạc. Khi chúng ta trông cậy
vào sự tốt lành của Thiên chúa, chúng ta chỉ xin ngài những gì cần thiết
cho chúng ta trong ngày đó.” (Dieu Notre Père. Cahiers Evangile, Cerf, trang. 45).
Cuốn
Giáo lý của Giáo hội Công giáo còn dạy rằng: “Ngày hôm nay đó không
phải chỉ là ngày của thời gian hữu hạn ; nó là Ngày hôm nay của Thiên
chúa” (2836)…
“Con là con ta hôm nay, chính ta đã sinh ra con” (TV 2,7). Hôm nay có nghiã là: Khi chúa Kitô phục sinh” (2836).
Khi đọc lên chữ Hôm nay, Kitô hữu được đưa vào thời gian của Chúa, tức là cảnh vực của sự sống Đức Kitô. Nên
chữ này giúp ta hiểu toàn câu xin: “Xin cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày” là xin Chúa Kitô hiện diện trong cuộc sống của tất cả
nhân loại, vì Ngài là sự sống thật.
Lời cầu xin thứ hai
Và tha nợ chúng con như chúng con
cũng tha kẽ có nợ chúng con
Và tha nợ chúng con như chúng con
cũng tha kẽ có nợ chúng con
Câu này ở Mathêu và Luca có một số chữ dùng khác nhau:
Mt 6,12: Và xá giải cho chúng con những món nợ như chúng con cũng đã tha giải cho con nợ của chúng con.
Lc 11,4: Và xá giải cho chúng con những tội lỗi của chúng con vì chính chúng con tha giải cho tất cả những ai có nợ chúng con.
Trong
lối dùng chữ aram mà đương thời chúa Giêsu dùng, chữ nợ được nói đến
cũng có nghĩa bóng là kẻ có tội, khi đối diện với Thượng Đế (Theo
P.Grelot trong cuốn Lõarrière-plan araméen các trang 546-547). Ngày nay
trong bản Kinh Lạy Cha của các bản dịch đại kết (các tôn giáo thuộc Kitô
giáo) người ta dịch thoáng là sự xúc phạm (xem bản dịch của cuốn Giáo
lý của Giáo hội Công giáo). Cũng như chữ hoán giải theo nghiã đen của nợ
nần, nay được dịch là tha, theo nghĩa bóng là tha thứ lỗi lầm.
Nhưng chữ được nêu lên nhiều để phân giải trong câu này là như.
Trước
hết, theo các nhà giải thích Thánh Kinh chữ như không có nghĩa theo lý
chứng nhân qủa. Nói cách khác,không phải hể chúng ta tha lỗi cho kẻ xúc
phạm đến ta, thì hậu quả đương nhiên là lỗi phạm của ta tự nhiên được
tha.
“Không
phải vì chúng ta tha cho kẻ khác mà chúng ta đáng được ơn tha thứ của
Thiên Chúa, nhưng đó là một điều kiện phải chu toàn để hưởng sự tha thứ”
(Jean Pouilly: Dieu Notre Père, Cahiers Evangile, trang 47).
Nói
rõ hơn, sự tha thứ tội lỗi con người là do ơn cứu chuộc của chúa Giêsu
Kitô, nhưng muốn hưởng ơn tha thứ đó điều kiện ta phải chu toàn là ta
cần tha thứ những xúc phạm của đồng loại đối với ta.
Để hiểu rõ hơn điều kiện cần hầu hưởng ơn tha thứ của Thiên Chúa, ta đọc lại những câu khác trong Phúc Âm Mathêu:
Mt
6,14-15 – “Thật thế, nếu các con tha cho người ta lỗi phạm của họ, cha
các con trên trời cũng sẽ tha cho các con; nhưng nếu chúng con không tha
cho người ta, cha các con cũng sẽ không tha thứ lỗi lầm các con.”
Mt
5,23-24 – “Nếu con đến dâng của lễ của mình ở bàn thánh và nếu ở đó con
nhớ rằng người anh em của con có cái gì chống nghịch với con, con hãy
để của lễ dâng ở đó trước bàn thánh và đi làm hòa với anh em con trước
đã; sau đó hãy đến dâng của lễ của mình”
Mt 18,35 – “Cha trên trời cũng sẽ xữ với các con như thế, nếu mỗi người trong các con không tha cho anh em mình tự đáy lòng.”
Cũng
trong đoạn này (Mt.18), Chúa Giêsu dạy không phải chỉ cần phải tha bảy
lần mà thôi, nhưng là bảy mươi bảy lần, nghĩa là tha không điều kiện và
dứt khoát.
Chữ
“như” cũng thường được nói đến trong Phúc Âm không phải là sự so sánh
về số lượng hay mức độ tuyệt đối giống nhau giữa hành vi con người và
Thượng Đế, nhưng là sự thấm nhập một cuộc sống mới nơi Thiên Chúa trong
Đức Kitô:
“Tự
đáy lòng” chúng ta tham dự vào sự thánh thiện, lòng nhân hậu, tình yêu
của Thiên chúa chúng ta” (Giáo lý của Giáo hội Công giáo. 2842).
Và
chính Chúa Kitô trên Thánh giá đã không nói tự mình tha, nhưng cầu xin
Cha Ngài tha cho kẻ xúc phạm đến mình: “Lạy cha, xin tha cho họ, vì họ
không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Chính
khi con người nói đến tha thứ lỗi kẻ khác, thì đó cũng là lời khẩn cầu
Chúa Cha tha thứ lỗi lầm của toàn nhân loại, vì lỗi lầm con người xúc
phạm đến anh em mình cũng là tội lỗi xúc phạm đến chính Thượng Đế.
“Đối với người môn đệ chúa Giêsu, sẵn sàng tha thứ, cũng có nghiã là giang tay cầu xin Thiên chúa thứ tha” (J. Jérémias. Paroles de Jésus. Cerf 1963-tr 75).
Cầu
xin này cũng gợi lên những vấn đề của xã hội chúng ta đang sống ngày
hôm nay. Hai khuynh hướng đè nặng trên lối sống đạo chúng ta. Thứ nhất,
quan niệm về tội lỗi con người đi đôi với một Thượng Đế quan toà khắt
khe luôn tra xét từng hành vi nhỏ nhặt của cuộc sống con người để sẵn
sàng trừng phạt thích đáng.
Hậu
qủa trái nghịch là quan điểm về tội lỗi như là một phản ứng tâm lý bịnh
hoạn của lớp người bạc nhược, không dám sống một cách tự do. Nói khác
tội lỗi không có thật, đó chỉ là sự biạ đặt của tôn giáo làm cho con
người nô thuộc vào một quyền lực giả tạo và ác độc.
Kitô giáo xác quyết tội lỗi có thật; và tội lỗi cũng chỉ có nghĩa khi chấp nhận có tự do con người và có Thượng Đế. Tội
lỗi là từ chối và chống lại tình yêu thương của Thượng Đế. Vì có Thượng
đế, có kẻ khác, nên trong tương giao giữa con người với Chúa, và với
nhau, những gì con người có thể làm phải lưu ý đến điều được phép làm.
Mất ý thức tội lỗi của thời đại chúng ta phát xuất từ nhận thức rằng mọi
cái ta có thể làm điều được phép thực hiện, làm như ngoài ta không còn
có Thượng Đế và tha nhân. Nên tội lỗi đối với Kitô hữu là đi ngược lại với hai điều răn căn bản: “Yêu mến Thiên chúa, yêu mến người khác”. Vì
thế tội lỗi trong Kitô giáo không phải là vấn đề luật pháp, cân đo đong
đếm các điều lầm lỗi của mình để tránh hình phạt, nhưng dược nhìn trong
khung cảnh của tình yêu và tha thứ.
Chúa
Kitô đến không phải gieo vào lòng con người mặc cảm tội lỗi, nhưng là
loan báo Tình yêu Thiên Chúa đối với con người và dạy con người thương
yêu nhau:
“Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã yêu mến các con. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến của Ta”. (Gioan. 15, 9).
“Này là lịnh truyền của Ta: các con hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con”. (Gioan. 15,12).
Và rõ hơn nữa Ngài nói:
“Con người không đến để hủy diệt mạng người ta, mà để cứu chúng” (Lc. 9-56)
Chính
vì tội lỗi con người đã phạm và có thể phạm mà chúa Kitô đến để cứu độ,
để con người làm hòa lại với Thiên Chúa và tha thứ yêu thương nhau;
Kitô giáo không bày đặt ra một Thượng Đế quan tòa, gieo vào lòng người
những mặc cảm tội lỗi bịnh hoạn.
Kitô
hữu cũng không ý thức tình trạng tội lỗi của mình để giam hãm mình
trong mặc cảm tội lỗi triền miên, hay hãi hùng lo sợ một Thượng Đế sẵn
sàng trừng phạt. Ý thức tội lỗi luôn đi đôi với niềm tin vào ơn Cứu Độ
của chúa Kitô và sự chiến thắng của Ngài khi Ngài được Cha Ngài cho sống
lại. Nghiã là ý thức tội lỗi hướng đến sự tha thứ của Thiên Chúa và
quyết tâm sống trong tình yêu thương của ngài, thực hiện Tình yêu đó nơi
đồng loại là con cái Ngài.
Lời cầu xin thứ ba
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ.
Câu
này chỉ có trong văn bản của Phúc Âm Mathêu, và chia làm hai vế. Hai vế
này diễn tả một nội dung; vế đầu có tính cách tiêu cực, vế sau có tính
cách tích cực.
Cám dỗ
Chữ
cám dỗ thông thường ngày nay ta hiểu là sự lôi kéo ta vào đuờng tội
lỗi. Nhưng nguyên chữ Hy lạp peirasmos còn có nghiã là sự thử thách con
người phải gặp để xem mức độ trung tín. Trong các bản văn Cựu Ước, các
tác giả Kinh Thánh không ngại viết rằng Thiên Chúa gửi đến một thứ ác
quỷ để dẫn đưa con người phạm tội (xem 1 S 18,10-11; 1 S 26,19; 2 S
24,1). Hoặc có khi dùng lối nói khá lạ lùng như “Thiên chúa làm cho lòng
vua Pharaôn cứng lại” (Xh 4,21; 7,3). Còn ý niệm Thiên Chúa thử thách
sự trung tín của con cái Ngài thì bàng bạc trong nhiều bản Cựu Ước. (St
22,1; Xh 15,25; Khôn ngoan 11, 9…). Nhưng ở đây Thiên Chúa không đưa
người vào dịp tội; các thử thách nêu lên chỉ là dịp đo lường sự trung
tín mà thôi.
ễ
sách Job lại xuất hiện nhân vật Satan đóng vai trò kẻ dụ dỗ con người
làm điều ác. Và ta còn gặp lại Satan cám dỗ chúa Giêsu trong sa mạc (Mt.
4,1-11; Mc 1 12-13; Lc 4,1-13). Thư của thánh Giacobê, lại nói rõ rệt
thế này: “Khi bị cám dỗ, đừng có ai nói rằng:”Việc tôi bị cám dỗ là do
Thiên Chúa, vì Thiên chúa không thể bị cám dỗ để làm điều ác và cũng
không cám dỗ ai” (Giacobê 1,13).
Xin đừng đưa chúng con vào cơn cám dỗ
Nguyên
động từ Hy lạp buộc phải dịch thế này: “Xin đừng làm cho chúng con đi
vào chước cám dỗ”, nhưng bản dịch việt ngữ của chúng ta thường dùng
trong Kinh Lạy Cha lại dịch: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Hai
lối dịch gợi lên hai cách hiểu và giải thích khác nhau của các nhà giải
thích Thánh Kinh.
Cách
thứ nhất giúp ta hiểu là chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta tránh khỏi
bị cám dỗ. Nhưng nếu cám dỗ là một cuộc thử luyện, chiến đấu giữa “Xác
thịt và Tinh thần”, giữa sự tự mãn và tình yêu, thì hầu như câu cầu xin
này trái với lời cầu khẩn của Chúa Giêsu với Cha Ngài trong vườn
Gietsemani: “Con không xin cha cất chúng khỏi thế gian nhưng xin gìn giữ
chúng khỏi sự dữ” (Gioan 17-15).
Nói
cách khác theo lối dịch này: “xin đừng làm cho chúng con đi vào cơn cám
dỗ”, nên hiểu chữ đi vào như là gặp phải cơn thử thách mà mình không đủ
sức lướt thắng.
Đây
là lời cầu xin chúa Thánh Thần soi sáng để giúp ta nhận ra con đường
phải đi và phân biệt được những lý chứng giả tạo khác với chân lý của
Chúa. Xin đừng gặp phải cám dỗ, là xin đừng u tối đi vào con đường lạc mà không hay.
Xin
đừng gặp cám dỗ, trong thời buổi ta đang sống, là xin đừng coi thường
những nguy cơ làm dịp cho ta vướng mắc vào tội lỗi. Đặc biệt khi nói đến
chúng ta, chúng ta nghĩ ngay đến trách nhiệm giáo dục. Ngày nay người
ta đánh giá quá cao tự do cá nhân bất chấp hoàn cảnh, tuổi tác và nhận
thức của các trình độ, mức trưởng thành của mỗi lớp người. Việc phô
trương các hình ảnh hung bạo, không lành mạnh qua báo chí, và các phương
tiện truyền thông, quảng cáo… đã đẩy đưa nhiều lớp người vào dịp tội.
Cách
dịch thứ hai là xin cho chúng ta thắng vượt được cơn thử thách và các
dịp có thể làm ta phạm tội. Lối dịch này tương ứng với lời chúa Giêsu
nói với Phêrô trong bữa tiệc ly: “Simon, Simon, Satan đã đòi con để xoay
con trong sàng như người ta sàng lúa. Nhưng ta đã cầu nguyện cho con để đức tin con không mất đi” (Lc 22,31-32)
Hoặc lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô:
“Không
cơn cám dỗ nào đến với anh em, mà vượt quá sức con người. Thiên chúa
trung tín ; Ngài sẽ không để anh em phải chịu cám dỗ quá sức mình. Khi
có cám dỗ, ngài sẽ cho anh em phương thức để thắng vượt và sức mạnh để
chịu đựng” (1Col,13).
Đặc
biệt các nhà chú giải Thánh Kinh đều nhấn mạnh đến cơn cám dỗ, thử
thách về đức tin đang hướng dân Chúa đến ơn cứu độ. Trong thời buổi hôm
nay, việc mất đức tin không phải là một nguy cơ tưởng tượng. Mất đức tin
không phải vì bị bắt bớ, giam cầm nhưng là mất hứng khởi trong cuộc
sống đạo; thay vào đó là chuyển niềm tin và hy vọng của mình vào tiến bộ
khoa học, kỹ thuật, quyền uy chính trị… nói tóm là tài sức của riêng
mình. Xin đừng sa chước cám dỗ cũng là xin đừng thoả hiệp với cơ cấu tội
ác, đang kéo lôi từng xã hội đi vào nguy cơ từ bỏ Thiên Chúa.
Xin
đừng sa chước cám dỗ cũng là xin đừng rơi vào tình trạng thụ động, câm
nín quên lãng sứ mạng rao truyền Tin Mừng cứu độ: Khốn cho tôi, nếu tôi
không rao truyền Tin Mừng Chúa Kitô.
Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ
Câu
này ăn khớp với lời khẩn nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Gietsemani
trong Phúc Âm của Gioan: “Nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi Thần Dữ” (Gioan
17, 15).
Thế
giới ngày hôm nay không muốn có một nền đạo lý phân biệt ác và thiện;
ác nay chỉ được dịnh nghĩa là sự lầm lẫn, sự thất bại hay không kiến
hiệu. Sự ác có thật, nó không chỉ là một sự chọn lựa của lương tâm cá
nhân mà thôi, mà còn là một sức mạnh có tổ chức, có chủ định, quyết tâm
thù nghịch với Thiên Chúa và ơn cứu độ của Chúa Kitô, chà đạp nhân phẩm
và mạng sống con người. Sự ác nói theo ngôn ngữ thần học hiện nay là cơ cấu của tội lỗi, cố tình làm cho chương trình cứu độ của đức Kitô thất bại.
Và
hơn bao giờ hết Kitô hữu hiệp thông với chính lời cầu khẩn của chúa
Kitô đã và vẩn luôn mãi hướng đến Cha Ngài cho nhân loại và mỗi một
người chúng ta.
Chúng
ta xin Chúa Cha cứu chúng ta khỏi sữ dữ vì trong niềm trông đợi đầy hy
vọng ngày trở lại vinh quang của Chúa Kitô, chúng ta biết trước có
Satan, Thần ác, các tiên tri giả, các cơ chế tội lỗi bủa vây cuộc sống
dân chúa:
“Xéo đi, Satan” (Mt 4,10), Đức Kitô đấng đã thắng Satan trong cơn thử thách của Ngài. Bởi
Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và trong Thánh thần của ngài, chúng ta,
toàn Giáo hội tràn đầy hy vọng kêu lên Thiên Chúa, Cha chúng ta: “Abba! Cha!”.
Amen
Là
lời nguyện cầu chung kết: “ước gì mọi sự được như thế”, hoặc còn có
nghĩa là “Fiat” = xin cho mọi sự được xảy đến theo ý của cha. Đây cũng
là lời nguyện của Maria, Mẹ chúa Giêsu, và mẹ của Giáo hội.
Trước khi rời khỏi cuộc sống trần thế, chúa Giêsu đã muốn trao Giáo hội cho Mẹ ngài nâng đỡ, Ngài đã nói: “Hỡi bà, này là con bà” (Gioan
19,26). Và khi Chúa đã lên trời, trong cuộc họp mặt cầu nguyện đầu tiên
của cộng đồng Kitô giáo, Maria mẹ Chúa Giêsu ở giữa mọi người và cùng
cầu nguyện với họ (Tđcv 1,14).
Amen, toàn thể Giáo hội cùng với Maria mẹ của mình liên lỉ cầu xin: Nguyện ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét