Người
đăng: LamHong | 22.06.2012
Sống
giữa ngã ba cuộc đời đa dạng, con người luôn phải tranh đấu, phải luồn lách,
phải nhận định và phải chọn lựa một lối đi đúng đắn để mong đạt tới được mục
đích mong đợi sau cùng.
Các cảnh báo của Kinh Thánh
Trong
nhiều chỗ khác nhau trong phần Kinh Thánh Tân Ước, toàn thể nhân loại chúng ta
đã được cảnh giác một cách nghiêm trọng là cần phải tỉnh táo phân biệt, cần
phải xem xét các thần khí, chứ không nên nhẹ dạ vội vàng nghe theo ngay.
Thật
vậy, để giúp chúng ta phân biệt được rõ ràng đâu là Thần Khí Thiên Chúa và đâu
là thần khí thế tục nguy hại, thánh Phaolô đã nêu rõ trong Thư của ngài gửi
giáo đoàn Ga-lát đích danh các hoa quả tích cực của Thần Khí Thiên Chúa cần
thiết cho sự hạnh phúc chân thật của con người và hoa quả tiêu cực của thần khí
xác thịt chỉ đưa con người vào ngõ bí bất hạnh không lối thoáti (x. Gl
5,16-24).Còn trong Thư I của ngài, thánh Gioan Tông Đồ lại thẳng thắn cảnh giác
các tín hữu: „Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng
hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều
ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.“ (1Ga 4,1tt). Và chính Chúa Giêsu cũng
đã nhắc nhủ các Môn Đệ phải luôn cẩn thận trước các ngôn sứ giả, những người
không mang trong mình Thần Khí Thiên Chúa, nhưng là thần khí của tên Phản-Kitô,
nên đừng nghe theo những gì họ nói, nhưng hãy tỉnh táo nhìn hoa quả của các
việc họ làm, thì sẽ biết ngay họ là ai và họ thuộc thành phần nào (x. Mt
7,15-23).
Vấn
đề này cũng từng đã được đề cập tới trong phần Kinh Thánh Cựu Ước. Trong phần
này, người ta đã ghi nhận được rằng, các vị ngôn sứ chân chính của Thiên Chúa
đã từng phải đối mặt với bọn ngôn sứ giả, một bọn người đông đảo chỉ luôn
truyền bá sự dối trá và lừa bịp, hòng mong mua chuộc và lôi cuốn được những
người nhẹ dạ cả tin. Đó là trường hợp ngôn sứ Elija đã phải can trường chống
lại 450 ngôn sứ giả của thần Baal; ngôn sứ Micha Ben Jimla đã phải đối mặt với
400 ngôn sứ giả khác (x. 1 V, 22) và cả ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng đã một mình
chống lại ngôn sứ giả Kha-nan-gia, một người đã tự nhận là ngôn sứ và đã dùng
những lời ngon ngọt, bùi tai và mị dân để lừa bịp dân Ít-ra-el (x Gr 28).
Nỗi phân vân trước sự lựa chọn
Điều
đó muốn nói rằng, vấn đề này không phải là một hiện tượng mới lạ trong xã hội
loài người, nhưng đồng thời nó vẫn luôn mang tính cách thời sự và vì thế có
liên quan đến chúng ta. Bởi vậy, nhiều người đã phải tự hỏi: Khi nghe một người
nào đó, nhất là một người có danh giá trong xã hội hay một vĩ nhân, phát biểu
hay trình bày một vấn đề quan trọng nào đó, thì làm sao có thể phân biệt được
lời phát biểu của người ấy là do thiện ý đã được Thần Khí Thiên Chúa soi sáng
hướng dẫn, hay chỉ là ý kiến phóng đại vô căn cứ của cá nhân người ấy, hay còn
tồi tệ hơn nữa là để đánh lừa người nghe với một hậu ý ích kỷ nào đó? Khi nào
người ta có thể tin tưởng một người nào đó, hay nói đúng hơn, người ta phải để
ý quan sát những dấu chỉ cảnh báo nào? Và sau cùng, ai có thể phân biệt được
giữa thật và giả, sai và đúng một cách chắc chắn?
Sự
phân biệt cần thiết giữa thật-hư và đúng-sai không chỉ dựa trên sự kiểm tra của
những đặc sủng (Charismen) mà Thiên Chúa đã ban riêng cho Giáo Hội –tức những
khả năng nổi trội do Thần Khí Chúa tác động – ngõ hầu Giáo Hội chu toàn quyền
giáo huấn của mình trong lãnh vực đức tin và luân lý hoàn toàn phù hợp với chân
lý của Đức Kitô(*), nhưng cả trên sự phán đoán và đánh giá đúng đắn của mỗi
người về những sự kiện xảy trong đời sống của chính mình. Dĩ nhiên trong thực
tế, cả hai lãnh vực ấy không hoàn toàn tách biệt nhau một cách rõ ràng. Lãnh
vực thứ nhất có liên quan tới sự đòi hỏi chắc chắn về chân lý của giáo huấn của
Giáo Hội. Ví dụ: đứng trước những sự kiện xảy ra (kể cả những mặc khải tư) câu
hỏi đầu tiên bao giờ cũng được đặt ra là liệu những sự kiện ấy có hội đủ tính
chất xác thực khách quan hay không. Còn lãnh vực thứ hai liên quan trực tiếp
tới sự phán đoán về điều cần thiết phải có trong đời sống tâm linh. Ví dụ: làm
sao tôi có thể phân biệt được đâu là những suy tư đúng đắn và đâu chỉ là những
ảo tưởng hay những tư tưởng nguy hiểm, trong chính mình tôi hay nơi những người
khác, trong trường hợp có sự giúp đỡ tinh thần của một ai đó?
Sự phân biệt giữa đức tin và cảm tính
Trong
những trường hợp này còn phải kể đến các yếu tố khác nữa, chẳng hạn cần phải
xác định rõ ràng giới hạn các khả năng cá nhân: Những dấu chỉ nào có thể hoà
hợp với khả năng cảm hứng hay dự định của mình? Nhưng cả trong cuộc sống hằng
ngày: Những cảm xúc, những cảm nhận và những hứng cảm trong khi cầu nguyện có ý
nghĩa gì không? Và người ta có thể tự lừa dối mình vì những điều ấy không?
Để
nhận chân được vấn đề này, chúng ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể, chẳng hạn
một người nào đó mặc dù đã hết lòng ăn năn hối cải các tội lỗi của mình và đã
lãnh nhận Bí tích Cáo Giải một cách thành sự, nhưng vẫn cảm thấy lòng mình còn
áy náy, chưa được bằng an, thì trong trường hợp này đương sự không được phép hồ
nghi về tính cách thành sự hay sự hiệu nghiệm của Bí tích Cáo Giải mà người ấy
đã lãnh nhận, nếu không, người ấy đã coi trọng và đặt cảm xúc thuần tuý chủ
quan của mình lên trên đức tin Kitô giáo. Cảm xúc hay cảm nhận trong mỗi người
là điều cần thiết để cân bằng các sinh hoạt tâm lý của người ấy và làm cho cuộc
sống người ấy tăng phần hưng phấn, nhưng chúng không phải là tiêu chuẩn chính
để phê phán và nhận định một người hay một sự việc một cách chắc chắn được.
Chính lý trí mới là tác nhân các phán đoán của con người.
Ngay
từ thời Giáo Hội sơ khai, các vấn đề này cũng đã được đặt ra; và vào thời hậu
trung cổ các vị Tổ phụ các Dòng Tu và các nhà thần học đã đặc biệt phân tích
chúng với một sự hiểu biết và nhận thức thần học rất đúng đắn. Chẳng hạn thánh
Bernardin thành Siena đã tìm cách biện giải vấn nạn gai góc này, khi ngài đã tự
hỏi mình về những cảm nghĩ trong lòng: Tại sao và cho ai khi tôi muốn thực hiện
điều này điều nọ? Dự định ấy có phù hợp với các khả năng thể lý và tinh thần
của tôi không? Mỗi người đều đã biết rất rõ rằng „thần khí của chính mình“ có
thể đánh lừa họ, ví dụ: Khi một người bỗng cảm thấy lòng mình cháy bỏng – một
trường hợp mà người ta thường sử dụng cụm từ „một sức mạnh vô hình“ thúc
đẩy – mong ước theo đuổi và tìm cách đạt tới những trải nghiệm thiêng liêng
bằng mọi giá, nhưng theo tâm lý học thì hiện tượng ấy có thể mới chỉ là một sự
ép buộc các cảm xúc của mình mà thôi, tức mới chỉ là sự tác động và thôi thúc
của „thần khí“ đương sự.
Thái độ thận trọng cần phải có
Để
đánh giá đúng đắn sự khả tín của một người, và dù đã dựa trên các tiêu chuẩn
của Kinh Thánh, thì người ta cũng không được phép vội quả quyết là người ấy
hoàn toàn đúng hay sai trong các chi tiết được; hay nói rõ hơn, nếu một người
nào đó thực hiện được một sự kiện lạ lùng, thì sự kiện lạ lùng ấy cũng chưa thể
được hợp thức hóa hay được công nhận một cách chắc chắn, vì các phù thủy vua
Pharaon cũng có thể làm cho chiếc gậy biến thành con rắn hoàn toàn tương tự như
Tổ phụ Môsê vậy (x. Xh 7,8-13). Và chính Chúa Giêsu cũng nói là mấy tên ngôn sứ
giả, tức mấy tên Phản-Kitô, cũng có thể làm được các điều thiêng dấu lạ vĩ đại
có sức thuyết phục (x Mt 24,24).
Trong
khi việc tìm kiếm lợi ích vật chất cá nhân hay ý tưởng chỉ muốn làm vừa lòng
người khác một cách trần thế trong sứ mệnh phụng sự Nước Trời rõ ràng là những
dấu hiệu báo động quan trọng (x. 1Tx 2,3-7), vì chúng chắc chắn không do Thần
Khí Thiên Chúa tác động, thì chính nhịp độ và cách thức sống hợp lý cũng chưa
nhất thiết là tiêu chuẩn đích thực để phê phán một người nào đó là bạn tâm phúc
của Thiên Chúa. Một cuộc sống hoàn thiện chân chính mới là tiêu chuẩn đích thực
để được đánh giá là thuộc hàng ngũ các bạn hữu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, trước
tiên người ta không thể luôn luôn xác định cuộc sống ấy một cách chính xác
được, nếu không, Chúa Giêsu đã không cảnh giác trước cảnh „chó sói đột lốt
chiên“ (x. Mt7,15). Tiếp đến, trong suốt dòng lịch sử của Giáo Hội đã có
những người và những phong trào chủ trương đi tìm kiếm sự hoàn hảo thánh thiện
qua một lối sống chìm đắm trong kinh nguyện và trong chay tịnh khắc khổ, nhưng
đáng tiếc là các giáo huấn của họ lại hoàn toàn đi ngược với các giáo huấn
chính thức của Giáo Hội.
Ở
đây chúng ta có thể liên tưởng đến, ví dụ: Phong trào của những Kitô hữu
Katharer từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 14 tại miền Nam nước Pháp, sau đó lan tràn
sang cả Ý, Tây Ban Nha và Đức. Các Kitô hữu này cũng được gọi là Albigenser,
danh xưng này phát xuất từ tên của thành phố Albi ở miền Nam nước Pháp, bản
doanh của phong trào. Họ tự cho mình là „veri Christiani“: các Kitô hữu
chân chính. Họ là những người ngoan đạo, nhưng các chủ trương thần học của họ
lại hoàn toàn khác với giáo lý của Giáo Hội. Họ chủ trương thuyết Nhị Nguyên
(Dualisme), tức cho rằng hiện hữu song hành hai thế giới đối lập nhau – thế
giới sự dữ, tức thế giới vật chất đời này, và thế giới tinh thần là thế giới
thánh thiện và chỉ có trên Thiên đàng – và sự thiện hảo trong con người, tức
linh hồn, sẽ giải thoát con người thoát khỏi thế giới này và đưa về Thiên đàng.
Hay
trong thời đại ngày nay, chúng ta cũng có thể liên tưởng đến nhóm Công Giáo thủ
cựu của TGM Marcel Lefèbre. Họ bác bỏ các quyết định canh tân hợp lý và cần
thiết trong đời sống Giáo Hội của Công đồng Vatican II, vì cho đó không phải là
tác động của Thần Khí Thiên Chúa, nhưng là của thần khí thế tục, thần khí Tam
Điểm. Nhưng điểm quyết định ở đây là họ phê phán và chối bỏ các quyết định của
Công đồng như thế không dựa trên lý do pháp lý, tức tính cách hợp pháp hay bất
hợp pháp của các quyết định ấy của Công đồng, nhưng là dựa trên cảm tính thuần
tuý, tức dựa trên các cảm xúc và cảm nhận của họ. Họ tự cho mình là những người
Công Giáo chính thống, vì họ vẫn giữ nguyên cuộc sống Kitô hữu của mình như
thời trước Công đồng. Hơn thế nữa, xem ra họ không còn tự coi mình là con cái
của Mẹ Giáo Hội nữa, nhưng là đối tác ngang hàng với các yêu sách chủ quan khó
chấp nhận của họ trong các cuộc đối thoại tay đôi với Giáo Hội trong suốt mấy
thập niên vừa qua. Và hiện tại họ đang do dự, chứ chưa dứt khoát giữa hai sự
lựa chọn: hoặc tuân phục quyền giáo huấn của Giáo Hội, chấp nhận các quyết định
của Công đồng như là hoa quả của Thần Khí Thiên Chúa và đoàn tụ lại trong lòng
Mẹ Giáo Hội, hoặc vẫn tiếp tục bảo thủ quan điểm chủ quan lệch lạc của mình để
trở thành một lạc giáo mới!
Đây
là trường hợp hoàn toàn tương tự như trường hợp nhóm „Cựu Công Giáo“, tức những
người cũng đã phản đối tín điều „Bất khả ngộ“ của Đức Giáo Hoàng mà Công đồng
Vatican I đã thiết lập dưới sự soi sáng của Thần Khí Thiên Chúa, và họ đã tự
tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo. Họ tự gọi mình là những người „Cựu Công Giáo“
(Alt-Katholiken), vì họ vẫn giữ nếp sống Công Giáo như trước Công đồng Vatican
I. Ngày nay nhóm này chỉ còn sống rời rạc ở một vài nước Thụy Sĩ hay Hoà Lan,
còn đa số đã trở lại với Giáo Hội Công Giáo Roma.
Điểm nhận diện những người được tuyển chọn
Trên
đây là ba trường hợp tiêu biểu trong bao trường hợp khác đã từng xảy ra trong
lòng Giáo Hội, và đã làm cho trái tim của Mẹ Giáo Hội bao phen phải rớm máu.
Tất cả những hiện tượng và sự kiện ấy đều có một điểm gặp gỡ chung trong cuộc
sống tinh thần của họ, đó là: Họ tách biệt hoàn toàn sự xác tín chủ quan của
mình cũng như lý tưởng tìm kiếm một cuộc sống hoàn thiện và chay tịnh khắc khổ
ra khỏi tinh thần tuân phục và đức khiêm tốn. Trong khi hai nhân đức tuân phục
và khiêm tốn là dấu chỉ để nhận diện những người được tuyển chọn của Nước Trời,
chứ không phải là lòng kiêu căng và sự tự khẳng định mình một các chủ quan, vì
Kinh Thánh đã dạy: „Vâng lời thì tốt hơn của lễ!“ (x. 1Sm 15,22b). Và
đồng thời họ quên đi lời khẳng định của Chúa với Giáo Hội: „Thầy ở cùng các
con mọi ngày cho tới tân thế.“(Mt 28,20b).
Đàng
khác chúng ta cũng đừng quên nguyên tắc này: Điểm quyết định khi phán đoán về
một sứ điệp nào đó là phải dựa trên chính nội dung của nó, chứ không phải nhất
thiết dựa trên cách thức của những người sống theo sứ điệp ấy. Thật vậy, Tin
Mừng Cứu Độ của Đức Kitô đã được các thánh Tông Đồ rao giảng cho mọi dân tộc
trên khắp thế giới và các ngài đã lưu truyền quyền giáo huấn ấy lại cho Giáo
Hội Công Giáo, một Giáo Hội được nối tiếp liên tục từ các thánh Tông Đồ qua
dòng lịch sử trên 2000 năm và mãi cho tới hôm nay. Vì thế, trong số các Giáo
Hội thuộc Kitô giáo thì Giáo Hội Công Giáo được gọi là Giáo Hội Tông Truyền và
được ủy quyền giáo huấn và cắt nghĩa Tin Mừng Đức Kitô một cách hợp pháp, mặc
dù trong suốt hơn 2000 năm lịch sử của Giáo Hội đã không thiếu những thành phần
của Giáo Hội từng gây nên những xì-căng-đan bằng những lý thuyết chủ quan,
ngược lại với các giáo huấn chính thức của Giáo Hội và đã gây nên những cuộc
chia rẽ và ly giáo đầy đau thương, như đã từng xảy ra trong Giáo Hội.
Trong
đời sống thực tế, một kinh nghiệm cụ thể cũng chứng minh cho thấy rằng, trên
thế giới hiện tại chỉ có Giáo Hội Công Giáo là điểm tựa luân lý khả tín và chắc
chắn duy nhất cho toàn thế giới, cũng như tiếng nói của các Đức Giáo Hoàng luôn
vẫn còn gây được những ảnh hưởng tinh thần sâu rộng nhất định, và là tiếng nói
luân lý duy nhất còn được cả thế giới đánh giá cao và đón nhận.
Tiếp
đến, một kinh nghiệm khác cũng chứng minh cho thấy rằng, khi một người hay một
nhóm người nào đó vì bất cứ lý do gì mà lìa bỏ Giáo Hội Công Giáo, không còn
hay không được thông công với đời sống Giáo Hội nữa, thì cuộc sống đức tin của
họ không chóng thì chầy sẽ từ từ bị phôi phai, lệch lạc, rã rời và mất dần sức
sống; và nếu không trở thành lạc giáo và tiếp tục lún sâu vào những giáo lý sai
lạc và những lối sống phản luân lý Kitô giáo, thì cũng sẽ bị đồng hóa vào xã
hội trần thế. Đó là hiện tượng đang xảy ra cho các Giáo Phái hay các Giáo Hội
thuộc Kitô giáo ngoài Giáo Hội Công Giáo. Điển hình là trường hợp Giáo Hội Anh
Giáo: Vì các nguyên nhân sai lạc, như phong chức Giám Mục và Linh Mục cho các
người đồng tình luyến ái, cho các phụ nữ, làm phép hôn phối cho những người
đồng tính, v.v…, nên từ nhiều năm nay đã có hàng loạt các tín hữu Anh Giáo quay
trở về xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo, từ các Giám Mục, Linh Mục cho tới các
giáo dân.
Nhưng
một câu hỏi lại được đặt ra là: Liệu cách thức phê phán một sứ điệp phải căn cứ
trên nội dung của nó, như đã nói ở trên, có được tiếp tục áp dụng trong khi phê
phán các sự kiện mặc khải như Giáo Hội vẫn luôn xác tín, hay mỗi người „được
tự tiện giải thích Kinh Thánh theo ý riêng mình“ (x. 2Pr 1,20)? Ở đây,
chúng ta lại một lần nữa trích lời thánh Bernardin thành Siena: „Nếu như một
ai đó sống rất đạo đức thánh thiện, nhưng ngôn ngữ và cách ăn nói của người ấy
lại làm cho giáo huấn đức tin hay những chỉ dạy luân lý của Giáo Hội bị lu mờ,
thì người ta không cần phải quan tâm đến các kinh nghiệm thần bí hay các sứ
điệp của người ấy.“
Một
tiêu chuẩn khác cũng được áp dụng trong khi phê phán những kinh nghiệm của bản
thân, mà tất cả các tác giả đã được nêu danh, bắt đầu từ các Giáo Phụ qua thánh
Caterina thành Siena và thánh Tê-rê-xa thành Avila cho tới Hans Urs von
Balthasar, nhà thần học Công Giáo thời danh trong thế kỷ 20, đó là: Ai thực sự
muốn tiếp cận Thiên Chúa, thì không thể làm được gì khác ngoài việc phải nỗ lực
trở nên khiêm tốn hơn. Một sự trải nghiệm thực sự về ân sủng siêu nhiên và về
khả năng của mình cũng sẽ làm cho con người nhận chân được rằng, ơn nghĩa Chúa
và đức tin không phải là những điều con người có thể chiếm hữu hay kín múc được
bằng sức lực của mình, nhưng hoàn toàn do Chúa ban một cách nhưng không. Chính
sự khám phá và xác tín được những giới hạn của mình, người ta sẽ sống khiêm tốn
hơn.
Như
vậy, tinh thần khiêm tốn không hề là một tự ti mặc cảm và cầm chân sự phát huy
của con người, nhưng là nguồn mang lại niềm vui sâu thẳm cho tâm hồn, sự kiên
nhẫn và sức mạnh nội tâm. Bởi vì, tinh thần khiêm tốn không phải là luôn luôn
tự cho mình bé nhỏ, thấp hèn và vô dụng, nhưng là biết nhận chân được con người
thật của mình với các ưu khuyết điểm và các giới hạn của mình. Nhất là luôn
biết xác tín rằng, không có bất cứ quyền lực ngoại tại nào có thể ngăn cản được
Lời Chúa và các tác động của Thần Khí Người, vì Thần Khí Chúa cũng giống như
gió, muốn thổi đâu tùy ý (x.Ga 3,8). Tinh thần khiêm tốn còn là hoa quả của
lòng từ bi nhân hậu và lòng đại lượng bao dung, và vì thế là dấu chỉ để nhận
diện các ngôn sứ và các bạn hữu của Thiên Chúa, tức những người luôn biết liên
kết với người khác qua kinh nguyện của mình và không bao giờ chỉ tìm kiếm lợi
ích riêng mà quên các đồng loại của mình. Chính sự cảm nghiệm này sẽ làm nảy
sinh lòng khao khát cháy bỏng là chỉ mong muốn sống một cuộc sống hoàn toàn
theo sự an bài của thánh ý Thiên Chúa. Nghĩa là không bảo thủ sự cảm nghiệm ấy
như một kỷ niệm cho riêng mình, vì như thế sẽ làm cho nó không thể sinh ra được
các hoa quả bác ái hữu ích. Cuộc sống và các khả năng của con người chỉ thực sự
có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xã hội, khi chúng được sử dụng một cách đúng
đắn để phục vụ và mưu ích cho đồng loại mà thôi (x. Mt 25,31-46).
Kết luận
Khi
phải đối mặt với các thần khí khác biệt nhau và đối lập với nhau: một bên là
Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí của sự sống, của chân lý và của tình yêu; còn một
bên kia là thần khí thế tục, thần khí của sự dối trá, của bịp bợm, của ghen
ghét hận thù, của sa đọa phóng túng và của sự chết chóc, v.v… con người đòi
buộc phải có một sự phân biệt đúng đắn và rõ ràng, cũng như phải có một sự chọn
lựa dứt khoát, ngay cả khi phải hy sinh từ bỏ những lợi ích và những vinh dự
đời này hay cả đến mạng sống của chính mình nữa. Vì sự lựa chọn này có tác dụng
mang tính cách quyết định đến cuộc sống hạnh phúc và sự tiêu diệt đời đời của
con người (x. Gl 5,16-24).
Hay
cụ thể hơn, sống giữa một xã hội đa nguyên và đa dạng như xã hội ngày nay, con
người cần phải tỉnh táo để phân biệt được một cách đúng đắn các trào lưu tư
tưởng, các quan niệm và các lối sống không chỉ hoàn toàn khác biệt nhau mà còn
đối lập nhau nữa, hầu có thể chọn lựa cho mình được các tư duy đúng đắn và một
lối sống hợp lý, để nhờ thế con người mới có thể đạt tới được sự hạnh phúc chân
thật. Trên con đường dẫn tới sự hạnh phúc chân thật ấy chỉ có Thần Khí Thiên
Chúa, tức Chúa Thánh Thần hay Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng duy nhất mới có thể
soi dẫn và dìu dắt con người đi đúng đường và đạt tới đích bằng bảy Ơn Thánh
cao cả của Người được, đó là:
1.
Ơn Khôn Ngoan: giúp ta phân biệt được phải-trái, thật-hư.
2.
Ơn Hiểu biết: giúp ta hiểu rõ được các Giới Răn của Chúa và của Giáo
Hội.
3.
Ơn Lo Liệu: giúp ta biết giải quyết đúng đắn các khó khăn của cuộc sống.
4.
Ơn Sức Mạnh: giúp ta vượt qua mọi khó nguy trong cuộc sống và chu toàn được
các bổn phận của mình.
5.
Ơn Thông Minh: giúp ta nhận ra được thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của
cuộc sống.
6.
Ơn Đạo Đức: giúp ta luôn biết yêu mến và tín thác nơi Chúa và nâng đỡ trợ
giúp các anh chị em đồng loại.
7.
Ơn Kính Sợ Thiên Chúa: giúp ta tôn thờ Chúa, kính trọng quyền năng của
Người và xa tránh tất cả những điều xúc phạm đến Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, Thần Linh Chân Lý, xin hãy đến và soi
sáng cho con cái loài người chúng con trong cuộc sống dương thế đầy gian nan
thử thách này, hầu chúng con luôn là những Kitô hữu chân chính, trung kiên và
nhân hậu, để nhờ thế chúng con thực sự là nhân chứng sống động của Đức Kitô
giữa lòng đời. Amen
__________________
(*)
x. Avery Dulles, A Church to Believe in (New York: Cossroad, 1982, trang 133,
Tín Điều vô ngộ của Giáo Hội đã được Công đồng Vatican I công bố, và Công đồng
Vatican II cũng đã xác quyết thêm một lần nữa trong Hiến Chế Lumen Gentium, số
25.
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét