Tác giả Krishnamurti
Nguyễn Minh Tâm và Đào Hữu Nghĩa dịch
NXB An Tiêm, Sài Gòn 1964
Nguyễn Minh Tâm và Đào Hữu Nghĩa dịch
NXB An Tiêm, Sài Gòn 1964
————————
“Chết
chính là vị thần gợi hứng và vị thần hướng dẫn của triết học… Thiếu cái
chết, thật khó mà triết lý. Vậy thiết tưởng ta nên viết một ý nghĩ đặc
biệt về nó vào đầu cuốn sách cuối cùng, đứng đắn nhất và quan trọng nhất
của chúng ta”
(Arthur Schopenhauer, Siêu hình tình yêu siêu hình sự chết, NXB Văn học, tr. 105).
(Arthur Schopenhauer, Siêu hình tình yêu siêu hình sự chết, NXB Văn học, tr. 105).
1.
Buổi hôm nay tôi muốn mở đầu câu chuyện là lưu ý các ngài về chỗ quan trọng phi thường của sự tự do. Phần đông chúng ta không muốn tự do. Có thể có gia đình, có những trách nhiệm, có những bổn phận, và cuộc sống của ta đều gồm toàn những điều đó. Những luật lệ xã hội, những phép tắc luân lý đã phủ vây đời sống chúng ta. Chúng ta gánh nặng biết bao khó khăn thường nhật cũng những vấn đề của ta, và nếu có tìm được chút an ủi nào, phương cách nào để tránh được những xung chướng và những khổ não ấy thì ta đã lấy làm tự mãn một cách quá dễ dãi rồi. Phần đông chúng ta không hề muốn được tự do gì cả. Đối với tôi, dù cách nào, lối nào, chiều độ nào đi nữa, dường như một trong những điều cốt yếu của cuộc sống là phải khám phá làm sao cho mình được hoàn toàn tự do, được tự do trọn vẹn. Nhưng có cách nào làm tâm thức con người – đã bị qui định trước quá nặng nề, đã bị trói buộc lệ thuộc quá chặt chẽ vào những công việc hằng ngày, đã bị chất đầy, quá đầy những nỗi sợ hãi xao xuyến, đã quá đỗi hoang mang về tương lai và quá đỗi thuỷ chung như nhất trong việc cầu an – có thể nào tâm thức như vậy mà phát khởi được nơi chính nó một cuộc chuyển hoá tận căn đế, một cuộc chuyển hoá chỉ có thể phát sinh từ sự tự do triệt để mà thôi chăng?
Buổi hôm nay tôi muốn mở đầu câu chuyện là lưu ý các ngài về chỗ quan trọng phi thường của sự tự do. Phần đông chúng ta không muốn tự do. Có thể có gia đình, có những trách nhiệm, có những bổn phận, và cuộc sống của ta đều gồm toàn những điều đó. Những luật lệ xã hội, những phép tắc luân lý đã phủ vây đời sống chúng ta. Chúng ta gánh nặng biết bao khó khăn thường nhật cũng những vấn đề của ta, và nếu có tìm được chút an ủi nào, phương cách nào để tránh được những xung chướng và những khổ não ấy thì ta đã lấy làm tự mãn một cách quá dễ dãi rồi. Phần đông chúng ta không hề muốn được tự do gì cả. Đối với tôi, dù cách nào, lối nào, chiều độ nào đi nữa, dường như một trong những điều cốt yếu của cuộc sống là phải khám phá làm sao cho mình được hoàn toàn tự do, được tự do trọn vẹn. Nhưng có cách nào làm tâm thức con người – đã bị qui định trước quá nặng nề, đã bị trói buộc lệ thuộc quá chặt chẽ vào những công việc hằng ngày, đã bị chất đầy, quá đầy những nỗi sợ hãi xao xuyến, đã quá đỗi hoang mang về tương lai và quá đỗi thuỷ chung như nhất trong việc cầu an – có thể nào tâm thức như vậy mà phát khởi được nơi chính nó một cuộc chuyển hoá tận căn đế, một cuộc chuyển hoá chỉ có thể phát sinh từ sự tự do triệt để mà thôi chăng?
Tôi
thiết tưởng mỗi người trong chúng ta nên lưu tâm thật sự vào vấn đề ấy,
ít ra là trong khi nghe những buổi nói chuyện này. Chúng ta phải tìm
xem, không phải chỉ ở mặt ngôn từ, mà phải đào sâu ý nghĩa của chúng để
nhập sâu vào tự thể mình, tìm xem coi chúng ta thực sự có thể được tự do
hay không. Không tự do thì không thể nào thấy rõ được đâu là chân lý và
đâu là sai lầm. Không tự do thì cuộc sống không có chiều sâu; không tự
do thì chúng ta chịu nô lệ tất cả mọi ảnh hưởng, mọi áp lực xã hội, và
vô số những yêu sách thúc bách cứ dồn dập liên miên vào chúng ta.
Trên
cương vị cá thể, có thể nào chúng ta thực sự thâm nhập tự thể, có thể
nào chúng ta quyết liệt đào sâu tự thể để tìm hiểu xem mỗi người chúng
ta có thể thực sự được hoàn toàn tự do toàn triệt chăng? Chỉ có cuộc
thay đổi nơi chúng là khi nào chúng ta được tự do thôi, điều ấy vốn dĩ
nhiên rồi. Và chúng ta phải thay đổi: không phải thay đổi hời hợt phơn
phớt, không phải thay đổi bằng cách ngắt tỉa đôi chút đây đó, mà bằng
cách phát dậy một cuộc chuyển hoá tận căn đế ngay trong cơ cấu của tư
tưởng và của tâm thần chúng ta. Thế nên tôi thiết tưởng rằng điều tối
trọng là nói về sự thay đổi, là thảo luận vấn đề này và tìm xem mỗi
người chúng ta có thể thâm nhập được vấn đề này đến mức độ nào.
Các
ngài biết tôi hiểu ý nghĩa của sự thay đổi là thế nào chăng? Thay đổi
là tư duy một cách hoàn toàn khác hẳn thường lệ, là khai mở một tâm thái
trong đó tuyệt chẳng có xao xuyến âu lo trong bất cứ lúc nào, chẳng có
mảy may gì xung chướng, chẳng có mảy may gì phấn đấu để chứng đạt chi
cả, để cho mình là – hay trở nên – một cái gì đó. Đó là xa lìa dứt khoát
mọi sợ hãi. Và để nhận hiểu thế nào là thoát ly mọi sợ hãi, tôi thiết
tưởng cần phải nhận hiểu cốt chỉ của những tương giao giữa những sư và
những đệ tử như thế nào, và do đó, thấy ra được ý nghĩa của sự tìm học.
Thế
thường, chúng ta tìm học bằng cách nghiêm tầm, qua sách vở, qua kinh
nghiệm hay bằng cách nhờ một người nào dạy dỗ. Đó là những cách thói
thường để ta tìm học. Ta phú thác cho ký ức những gì nên làm và những gì
không nên làm, những gì nên suy tưởng và những gì không nên suy tưởng,
phải cảm nhận thế nào, phải phản ứng thế nào. Bằng kinh nghiệm, bằng
nghiên tầm, bằng phân tích, bằng thí nghiệm, bằng những cuộc phản tỉnh
xem xét, chúng ta chứa vựa những trí thức để làm ký ức, rồi ký ức này
phản ứng lại những xúc sự và những thiết nguyện, thế rồi ta lấy đó để mở
mang sở học của ta. Tiến trình ấy ta đã quen lắm rồi: Nó là cách duy
nhất để ta tìm học. Chẳng hạn không biết lái phi cơ, thế là tôi phải học
lái. Có người dạy dỗ cho tôi, rồi thu hoạch kinh nghiệm mà ký ức phải
gìn giữ, rồi sau đó tôi mới lái được phi cơ. Tiến trình ấy là tiến trình
duy nhất mà phần đông chúng ta đều quen biết. Chúng ta tìm học bằng sự
nghiên cứu, bằng kinh nghiệm, chúng ta tự học hỏi, rồi những gì học được
đem ra phú thác vào ký ức để làm những sở tri và những sở tri này tác
động vận dụng ra mỗi khi xúc sự hay mỗi khi ta có việc gì cần phải làm.
Thế
mà tôi nghĩ rằng chúng ta có một cách học hoàn toàn khác hẳn và tôi sẽ
nói qua cách ấy với các ngài; nhưng để nhận hiểu và để tìm học bằng cách
khác hẳn ấy, ta phải hoàn toàn thoát ly khỏi uy lực, nếu không thì ta
chỉ được người dạy dỗ cho thôi. Và cứ lặp lại những điều ta đã được nghe
dạy. Đó là lý do tại sao điều quan trọng vẫn là phải hiểu bản chất của
uy lực. Uy lực gây chướng ngại, không cho ta tìm học – không cho ta tìm
học theo nghĩa không chứa nhóm các kiến thức sở tri để làm thành ký ức.
Ký ức luôn luôn ứng đáp bằng những khuôn đúc sẵn. Trong ấy chẳng có một
mảy may gì là tự do cả. Người nào mang nặng những sở tri, còng lực dưới
gánh nặng những gì học được thì không bao giờ được tự do cả. Họ có thể
rất đa văn, nhưng cái chứa nhóm sở tri đó lại làm cản trở không cho họ
tự do, và do đó, họ không thể học được gì cả.
Chúng
ta tích luỹ đủ thứ kiến thức – khoa học, sinh vật học, các kỹ thuật,
vân vân – các kiến thức này vốn cần thiết cho sự sống an lạc vật chất
của con người. Thế nhưng ta cũng tích luỹ các kiến thức để mà ẩn trú vào
đó, để tác động thế nào cho khỏi trục trặc, để luôn luôn hành tác trong
vòng giới hạn của các điều ta biết được mà thôi, và nhờ thế để tự cảm
thấy mình an toàn. Không bao giờ chúng ta chịu sống trong cái vô định,
ta khiếp sợ sự vô định, vì thế ta lại càng chấp chứa những kiến thức của
mình nhiều thêm lên. Chính sự chứa nhóm tâm lý này là điều tôi muốn đề
cập; chính sự chứa nhóm ấy ngăn ngại mất cả niềm tự do, tự tại.
Vậy
hễ bắt đầu tra hỏi tự do là gì, tất ta phải tra hỏi chẳng những về uy
lực, mà còn phải tra hỏi về tri thức nữa. Nếu chỉ ưng được người dạy dỗ,
nếu chi lo nội việc chứa nhóm những điều các ngài nghe được, đọc được
và chứa nhóm những thành quả của kinh nghiệm thì các ngài nghe được, đọc
được, và chứa nhóm những thành quả của kinh nghiệm thì các ngài sẽ thấy
rằng các ngài không bao giờ được tự do cả, vì các ngài chỉ hành tác
trong khuôn khổ của những điều đã biết. Và thực ra, phần đông chúng ta
đều như vậy đó. Thế thì ta phải làm sao?
Ta
có thể nhận thấy tâm thần và óc não tác dụng ra sao. Óc não là sự thể
thuộc về sinh vật, có tính cách tiến hoá, một sản phẩm của cuộc tiến
hoá, nó sinh hoạt và tác dụng trong vòng kinh nghiệm bưng bít của chính
nó, trong sở tri của nó, trong những ước mong cùng những sợ hãi của nó
mà thôi. Nó cứ luôn luôn mải miết lo tự bao bọc và tự bảo vệ không ngừng
– và tới một mức độ nào dĩ nhiên nó phải làm như vậy, vì không thế thì
nó chóng bị huỷ hoại mất. Nó cần được một mức độ an toàn, vì vậy để cầu
an, nó quen thói chứa nhóm đủ mọi thứ cần biết, quen thói tuân hành đủ
thứ huấn thị, và quen thói cấu tạo một nếp công thức y cứ để nó sống rập
theo, do đó thành ra nó không bao giờ được tự do cả. Nếu tự quan sát óc
não mình và cách thức tác dụng của nó ta sẽ nhận thức được cái nếp sống
y cứ công thức ấy. Trong ấy tuyệt chẳng có mảy may gì là tự tại hồn
nhiên cả.
Thế
thì tìm học nghĩa là gì? Có chăng một cách tìm học khác, không tích
trữ, không trở thành một hậu trường ký ức hay của sở tri, không cấu tạo
những kiểu mẫu để giam cầm tù hãm chúng ta? Có chăng một cách học không
tích tụ thành một gánh nặng, không bại hoại tâm thức mà trái lại để cho
tâm thức được tự do tự tại? Nếu các ngài có tự hỏi điều ấy, không phải
tự hỏi một cách thiển bạc phơn phớt, mà tự hỏi một cách thâm sâu, hẳn
các ngài thấy rằng mình phải tìm hiểu tại sao tâm thức lại bám víu vào
uy lực. Dù là uy lực của một đạo sư, một vị cứu thế, một quyển sách hay
chính kinh nghiệm sở đắc của mình, tại sao tâm thức lại bám víu vào uy
lực như vậy?
Uy
lực có nhiều hình tướng lắm. Có uy lực của những sách vở, có uy lực của
giáo hội, uy lực của lý tưởng, uy lực của kinh nghiệm sở đắc của các
ngài, và uy lực của sở tri mà các ngài đã thu thập. Tại sao ta bám víu
vào uy lực? Mỗi một kỹ thuật cần phải có những uy lực của nó, việc ấy
giản dị và dĩ nhiên. Nhưng đây chúng ta nói là nói về trạng thái tâm lý
của tâm thức. Bỏ ra ngoài mọi vấn đề khả năng có tính cách kỹ thuật, tại
sao tâm thức lại bám víu vào uy lực trong ý nghĩa tâm lý?
Dĩ
nhiên là bởi vì nó sợ sự bất định, sợ nỗi bất an. Nó sợ điều xa lạ,
những bất ngờ của ngày mai. Các ngài và tôi, chúng ta có thể nào sống mà
không phải chịu một mảy may uy lực nào cả, uy lực hiểu theo ý nghĩa áp
chế, xác quyết, tín điều cố chấp, hiếu chiến hung hăng, khao khát muốn
thành công, thèm khát danh vọng, mong muốn làm một nhân vật nào đó? Có
thể nào chúng ta sống trong thế gian này – vẫn đi làm việc thông thường,
vân vân – mà vẫn có được tâm thái hoàn toàn khiêm từ? Điều này rất khó
hiểu, phải thế? Nhưng tôi thiết nghĩ chỉ có tâm thái hoàn toàn khiêm tốn
ấy – tâm thái luôn luôn chấp nhận rằng mình không biết – thì ta mới có
thể tìm học được. Bằng không thì ta cứ vẫn luôn luôn đang làm việc chứa
nhóm, và thế là chẳng còn tìm học gì nữa.
Có
thể nào ta sống ngày ngày trong tâm trạng ấy không? Các ngài có hiểu
câu tôi vừa hỏi đấy không? Chắc chăn tâm thái thực sự tìm học tất nhiên
không có một mảy may uy lực nào cả. Mà tâm thái ấy cũng không cần có uy
lực nào cả, vì tâm thái ấy vẫn đang miệt mài tìm học, tìm học chẳng
những về các sự vật bên ngoài, mà cả về những gì thuộc vào một phe nhóm
nào, một xã hội nào, một chủng tộc nào hay một văn hoá nào. Nếu ta cần
thường xuyên tìm học như vậy về tất cả mọi sự mà không chứa nhóm chi
hết, thì làm sao có được một uy lực gì, một bậc thầy nữa? Làm sao ta có
thể làm đệ tử cho bất cứ người nào? Và đó là cách duy nhất để sống:
không phải bằng cách tìm học ở sách vở, mà bằng cách dùng lấy ánh sáng
soi rọi từ những ý muốn của chính mình, từ những cử động nội tại của tâm
niệm, từ bản thể hiện hoạt của mình. Bấy giờ tâm thức mới luôn luôn
được tươi nhuận, để nhận thấy mỗi sự vật bằng cái nhìn mới mẻ, chứ không
bằng cái nhìn cũ rích phát từ kiến thức, từ kinh nghiệm, từ những gì
mình đã học rồi. Nếu ta thực sự hiểu điều ấy cho thâm sâu, thì mọi nỗ
lực sẽ dứt bặt, và kẻ đang nói đây không còn chút quan trọng gì nữa hết.
Tâm
thái phi thường mà chân lý tỏ lộ, sự bao la của thực tại, không ai có
thể ban bố cho ngài được. Nơi đây vốn không có uy lực, không có người
hướng đạo. Chính ngài phải tự mình khám phá phát minh nhờ đó đưa được
chút ít lương thức vào cuộc hỗn loạn mà ta gọi là cuộc sống. Đó là một
cuộc viễn hành ta phải đăng trình hoàn toàn cô đơn không bè không bạn,
không vợ không chồng, không sách không vở. Chỉ có thể mở cuộc viễn du ấy
khi ta thực sự nhận thấy rằng mình phải hoàn toàn độc hành. Bấy giờ ta
đích thị là cô tịch, cô tịch chẳng phải do vì tủi hận cay đắng do vì yếm
thế, do vì thất vọng, mà cô tịch vì ta nhận thấy cô tịch là tuyệt đối
cần thiết. Chính điều ấy, và chính việc nhận thức điều ấy trao cho ta
niềm tự tại khai phóng để ta độc hành. Sách vở, vị cứu rỗi, bậc đạo sư
ư? Tất cả những thứ ấy đều là chính ngài. Chính ngài thăm dò thám hiểm
tự tâm, ngài phải tìm học chính mình, nói thế không có nghĩa là phải
chứa nhóm những tri thức về chính mình, cũng không có nghĩa là lấy đó để
quan sát những động niệm của tự tâm ngài đâu. Ngài hiểu chứ?
Để
tìm học chính mình, để tự biết chính mình, ngài phải tự quan sát mình
một cách tươi tắn ung dung, một cách thoải mái tự tại. Ngài không tìm
học chi được về chính mình, nếu ngài chỉ áp dụng những món sở tri, nghĩa
là nếu ngài tự xem xét mình thể theo những đều ngài đã học được ở một
giáo sư, ở một sách vở, hay ở kinh nghiệm sở đắc của chính mình.
Cái
“chính tự thể của ngài” là một thực thể lạ lùng một sự thể phức tạp và
sinh hệ linh động vô cùng, hằng hằng biến đổi và tiếp nhận đủ mọi thứ
kinh nghiệm. Đó là một cơn xoáy động của một tính lực vĩ đại, và không
ai có thể dạy cho ngài một điều gì về nó được, không một ai cả! Đó là
điểm thứ nhất mình cần phải nhận thấy. Và khi ta đã nhận thấy, khi thật
sự nhận thấy rõ đúng như vậy, tất ta đã thoát ly một gánh nặng này: ta
không còn tìm hỏi lời chỉ dạy khuyên lơn về những gì nên làm và hương vị
lạ lùng của niềm tự do đã phảng phất hiển nhiên ở đó rồi.
Thế
thì tôi phải tự biết tôi, vì khi mà tôi vẫn không tự giác, thì không
sao dứt được những xung chướng, không sao dứt được sợ hãi, thất vọng,
không sao nhận hiểu được gì về cái chết. Khi ta tự hiểu ta, ta mới hiểu
được toàn cả nhân loại, toàn cả những tương giao trong nhân loại. Tự
hiểu mình là tìm biết xác thân và những phản ứng của các hệ thần kinh,
là nhận thức mỗi một cử động của tâm niệm, là hiểu cái ta gọi là ganh
ghét, bạo hành, và nhìn thấy được thế nào là yêu mến, thế nào là tình
thương, thế nào là toàn bộ của “bỉ” và “thử”.
Tiến
trình ấy không cốt ở việc lập thành những nền móng của tri thức: mà tìm
học là việc phát sinh trong từng chặp từng chặp một: là cuộc vận dụng
để ta tự quan sát chính mình mãi mãi, không hề chê bỏ, không hề phê
phán, không hề so lường, chỉ nhìn xem thôi. Hễ vừa chê bo, diễn dịch,
hay so lường, là ta đã có một mẫu mực về trí thức, về kinh nghiệm. Mẫu
mực này làm chướng ngại việc tìm học.
Cuộc
chuyển hoá tận gốc rễ của quan năng tư tưởng chỉ có thể thực hiện là
khi ta tự hiểu chính mình, đó là một chuyển hoá, thay đổi cần thiết. Tôi
không dùng danh từ “thay đổi” trong ý nghĩa về những ảnh hưởng mà ta
lãnh thọ của xã hội, của phong thổ, của kinh nghiệm hay của những hình
thức áp lực khác. Các áp lực và các ảnh hưởng chỉ đưa đẩy ta vào một
đường hướng nào đó mà thôi. Mà đây tôi muốn nói tới một cuộc thay đổi
phát sinh không còn cố gắng, nhờ ta đã hiểu chính mình. Có chỗ khác biệt
lớn lao giữa cuộc thay đổi do cưỡng bách phát động, và thay đổi xuất
sinh một cách như nhiên, tự nhiên, tự tại.
Nếu
các ngài quả thật tỏ ra đôi chút nghiêm nghị – và kể ra, nếu chẳng
nghiêm nghị thì ai lại đành chịu đựng bao nhiêu khó nhọc đường xa đến
đây tham dự những cuộc nói chuyện giữa cơn nóng bức thế này – thì ba
tuần lễ này sẽ đưa cho các ngài một dịp tốt để tìm học, để thật sự quan
sát, để thám hiểm thâm sâu. Cố nhiên, các ngài thấy đấy, tôi nghĩ rằng
cuộc sống của ta rất là thiển cận. Ta biết rất nhiều điều, ta đã thu
hoạch nhiều kinh nghiệm, ta có thể nói năng rất lanh lợi, mà kỳ thực thì
ta không có chiều sâu. Ta sống phớt bề ngoài, thế mà ta lại cố gắng cho
cuộc sống thiển cận ấy thành một việc rất là nghiêm trọng. Nhưng nơi
đây tôi muốn nói cái nghiêm trọng ta không đạt được ở giai tầng thô
thiển cái nghiêm trọng sát tận trong những tầng sâu thẳm của bản thể.
Thật quả phần đông chúng ta không được tự do tự tại. Tôi nghĩ rằng khi
mà chúng ta không thoát ly khỏi các trói buộc, các thói quen, các nhu
nhược ở nội tâm, các sợ hãi của ta, thì cuộc sống của ta cứ vẫn mãi hoài
vô vị và rỗng tuếch mà thôi. Rồi ta sẽ già và chết đi trong thảm trạng
ấy.
Vậy
trong ba tuần này, ta hãy tìm xem coi có thể nào ta phá vỡ, xuyên thủng
qua cuộc sống thiển cận mà ta đã quá nhiều công phu vun vén và có thể
nào đào sâu vào một thực tại nào sâu thẳm hơn nữa chăng. Tiến trình khai
quật này không lệ thuộc vào một uy lực nào cả, vì đây không phải chúng
ta đến nghe ai chỉ dạy cho ta khai quật cách nào, bởi không một ai chỉ
dạy sự đó cho ta được cả. Việc chúng ta tới đây, là cùng nhau tìm học
những gì chân thật trong mọi sự đó. Hễ ta thật sự hiểu được thực tại,
thì mọi cuộc tầm cầu uy lực tất nhiên chấm dứt. Bấy giờ ta không cần
sách vở nào, không đến một giáo hội nào hay một miếu đường nào, ta đã
không còn làm đệ tr nữa. Cuộc đời này có một vẻ đẹp vĩ đại, một thực tại
hệ thậm thâm vi diệu một tình thương rộng lớn của tự tại tự do mà từ
lâu chúng ta không biết gì tới cả, vì chúng ta không được tự do tự tại.
Vậy để khởi sự, tôi thiết tưởng rằng sự chú tâm của ta phải đưa ta tra
hỏi về cái tự tại tự do ấy, chẳng những bằng sự phân tích ở văn tự, mà
phải bằng cách thoát ly văn tự.
Các
ngài hãy xem trường hợp trực khởi này: ở đây nóng bức quá, chúng ta đã
làm tất cả những gì ta có thể làm để cho trại này được đủ mát mẻ. Chúng
ta không thể họp nhau được sớm hơn, vì nhiều người phải đến từ những nơi
xa quá. Vậy ta phải chấp nhận sự nóng bức đây là thuộc vào cái bất tiện
không sao tránh khỏi. Thì đấy, ta phải tự chế ngự mình – không phải
bằng những ép buộc nhận hiểu và tìm học thế nào là sự chế ngự tự kỷ. Ta
có thể nhận thức sự nóng bức này và không lấy đấy bực bội, vì chủ đích
của chúng ta, vì cuộc truy tầm của chúng ta, là việc mà tôi gọi là tìm
học, vốn quan trọng hơn sự nóng bức, hơn sự thiếu tiện nghi về thân xác
nhiều lắm. Việc tìm học đòi hỏi một chế ngự tự chủ, tự nó đã là một sự
chế ngự, một giới hạn rồi. Nó không hàm một cuộc gạn ép nào cả, một cuộc
kiểm soát bề ngoài nào cả. Mà sự thể là thế này: tôi muốn nghe, chẳng
những nghe những lời nói thôi, mà còn nghe tất cả những phản ứng do các
danh từ đấy khởi nơi tôi; tôi muốn nhận thức mỗi một cử động của tâm
niệm tôi, mỗi một tình cảm, mỗi một hành vi. Tự việc ấy đã là một giới
hạn vô cùng uyển chuyển.
Thế
thì thiết tưởng điều trước nhất các ngài phải phát minh là thấy coi
ngài – với tư cách là một con người đang sống trong một văn hoá nào hay
trong một tập đoàn nào – quả thật sự ngài có cần được tự do tự tại như
ngài cần ăn uống, cần sinh lý, cần sung sướng hay không. Và ngài cũng
phải biết coi ngài sẵn sàng thuận hưởng tiến bước là bao xa và bao sâu
để ngài được tự do tự tại. Tôi cho đấy là việc duy nhất ta có thể làm ở
buổi họp đầu tiên – hay đúng hơn, đấy là việc duy nhất chúng ta có thể
làm trong suốt ba tuần lễ này, vì đấy là việc duy nhất ta có thể cùng
chia sớt với nhau: việc đó thôi chứ không việc gì khác nữa. Các ngài
hiểu chứ? Tất cả những điều khác đều trở thành tình cảm nhẹ dạ, là sủng
ái, là xúc động và đó đều là ấu trĩ. Nhưng nếu các ngài và tôi thật sự
chúng ta đang truy tầm đang tự hỏi thế nào là tự tại tự do, và thật sự
tìm học; tựu trung nếu chúng ta được tự do, thì cả thảy chúng ta đều sẽ
được tham dự vào nguồn phong phú của thực tại này.
Như
lúc bắt đầu tôi đã nói rồi, ở đây không có kể giáo chủ cũng chẳng có
người đệ tử. Cả thảy chúng ta ở đây đều đang tìm học, nhưng không phải
tìm học về người đang nói này, cũng không phải tìm học về những kẻ quanh
ta. Chính tự tâm mình là cái mà các ngài đang tìm học. Và nếu các ngài
là người đang nói, chính ngài là người ngồi bên cạnh ngài. Nếu ngài tự
học về mình thì ngài mới có thể thương yêu người ngồi bên cạnh ngài.
Bằng chẳng vậy, thì ngài không thể thương yêu gì cả, và tất cả mọi sự
rốt lại chỉ là những danh từ. Ngài không thể yêu thương được người ngồi
bên cạnh ngài nếu ngài có lòng ganh đua tranh chấp. Toàn cả cơ cấu xã
hội chúng ta – về kinh tế, về chính trị, về luân lý, về tôn giáo – căn
cứ ở sự ganh đua, tranh chấp, thế mà đồng thời ta lại bảo rằng chúng ta
phải yêu thương người thân cận mình. Việc đó thế nào mà có được, vì ở
đâu có sự ganh đua, tranh chấp thì ở đấy không sao có được tình thương.
Để
nhận hiểu thế nào là tình thương, thế nào là chân lý, thì sự tự tại tự
do là điều cần thiết, và không một ai có thể ban bố cho ngài được tự do
tự tại. Tự ngài phải khám phá cho chính ngài bằng cả lao lực gian nan
kiên trì.
2.
Hôm rồi, khi chúng ta họp mặt tại đây, tôi có nói về việc cần thiết phải có tự do, và tôi không dùng danh từ ấy ở nghĩa tự do bề ngoài hay phiến diện, tại một vài giai tầng của tâm thức, mà nói phải tự do một cách toàn triệt – tự do ngay tận ở gốc rễ của quan năng tư tưởng chúng ta, trong tất cả mọi động tác của chúng ta về mặt thân xác, mặt tâm lý và mặt tâm thần. Sự tự do ngụ hàm việc vong bặt trọn vẹn mọi vấn đề, có phải thế không? Vì khi mà tâm thức được tự do thì nó có thể xem xét và tác động một cách hoàn toàn tỏ suốt, nó có thể trả lại tự thể, không một mảy may gì mâu thuẫn. Theo tôi, cuộc sống đa đoan đầy những vấn đề – dù là vấn đề về kinh tế, xã hội, riêng tư hay công cộng – vốn tổn hại hay bại hoại sự sáng suốt. Và hẳn ta cần phải tỏ ra sáng suốt. Ta cần có cái tâm thức nhận thấy tỏ suốt mỗi vấn đề lúc nó vừa xuất hiện. Cần một tâm thức khả dĩ biết tư tưởng mà không rối loạn, trước nhiễm, một tâm thức có tư chất lưu luyến, yêu thương – lưu luyến và yêu thương ở đây không dính líu chi với tình xúc động và thói đa cảm.
Hôm rồi, khi chúng ta họp mặt tại đây, tôi có nói về việc cần thiết phải có tự do, và tôi không dùng danh từ ấy ở nghĩa tự do bề ngoài hay phiến diện, tại một vài giai tầng của tâm thức, mà nói phải tự do một cách toàn triệt – tự do ngay tận ở gốc rễ của quan năng tư tưởng chúng ta, trong tất cả mọi động tác của chúng ta về mặt thân xác, mặt tâm lý và mặt tâm thần. Sự tự do ngụ hàm việc vong bặt trọn vẹn mọi vấn đề, có phải thế không? Vì khi mà tâm thức được tự do thì nó có thể xem xét và tác động một cách hoàn toàn tỏ suốt, nó có thể trả lại tự thể, không một mảy may gì mâu thuẫn. Theo tôi, cuộc sống đa đoan đầy những vấn đề – dù là vấn đề về kinh tế, xã hội, riêng tư hay công cộng – vốn tổn hại hay bại hoại sự sáng suốt. Và hẳn ta cần phải tỏ ra sáng suốt. Ta cần có cái tâm thức nhận thấy tỏ suốt mỗi vấn đề lúc nó vừa xuất hiện. Cần một tâm thức khả dĩ biết tư tưởng mà không rối loạn, trước nhiễm, một tâm thức có tư chất lưu luyến, yêu thương – lưu luyến và yêu thương ở đây không dính líu chi với tình xúc động và thói đa cảm.
Để
được tâm thái tự do ấy – điều này khó hiểu vô cùng và đòi hỏi một công
phu quan sát rất tường tận – ta phải có cái tâm thức tịnh định và tịch
lặng, một tâm thức tác động vận dụng trọn vẹn, chẳng những ở mặt ngoài,
mà tận cả ở trung điểm. Sự tự do này không phải là một sự thể trừu
tượng, không phải là lý tưởng. Sự vận hành của tâm thức tự do là một
thực tại. Sự vận hành của tâm thức tự do là một thực tại, không mảy may
gì liên hệ với những lý tưởng và những sự thể trừu tượng. Sự tự do ấy
phát sinh một cách tự nhiên, như nhiên – tuyệt chẳng do cưỡng ép, giới
hạn, chế ngự, kiểm soát hay khuyến dụ gì, khi ta hiểu được toàn bộ tiến
trình của những vấn đề: hiểu rõ chúng xảy đến thế nào và dứt bặt thế
nào. Vì, thực sự, chúng khuấy loạn tâm thức và khi ta trốn tránh chúng,
ta vẫn còn mắc phải tổn thương, trói buộc, không tự do. Không giải trừ
được mỗi vấn đề vừa khi nó xuất hiện, dù ở một giai tầng nào cũng thế –
như về mặt thể xác, tâm lý, xúc cảm – thì tâm thức ấy không thể có tự
do, và tất nhiên tư tưởng tri kiến, nhận thức không thể tỏ suốt.
Phần
đông con người thường có những vấn đề, nghĩa là có những dao động trong
tâm thức, chúng trú tại hình thành ra vì sự ứng đáp của ta đã không đủ
sức tương nhập trọn vẹn với một hoàn cảnh bằng toàn thể bản chất của ta,
hay do vì ta đã quen thói chấp nhận hoàn cảnh đó và thuận chiều với nó,
cứ thế mà khiến cho ta hoá ra hôn trầm. Sở dĩ có vấn đề là vì ta không
đối mặt thẳng với mỗi hoàn cảnh và không soi chiếu nó chí tận tột cùng,
không phải đợi mai hẹn mốt, mà soi chiếu nó ngay khi nó vừa phát hiện
trong mỗi phút mỗi giờ, mỗi ngày.
Mọi
vấn đề đều góp phần vào việc huỷ hoại sự tự do. Dù vấn đề trú tại bất
luận giai tầng nào ở ý thức hay ở vô thức, nó cũng đều đưa vào đấy một
yếu tố mà ta vốn không hiểu được cho trọn vẹn. Khi thì đó là một nỗi khổ
đau hay một sự bất an ở thể xác, khi thì đó là cái chết của một người
nào, hoặc nữa là sự thiếu hụt bạc tiền, hay có lẽ đó là sự bất lực không
tìm ra Thượng đế quả là thực tại hay chỉ là một danh từ không thực
chất. Và cũng có khi là những tương giao với người trong đời tư hay giữa
đời công, trong cá nhân hay với đoàn thể. Không hiểu được toàn bộ các
mối tương giao ấy, là càng dấy sinh thêm những vấn đề gây nên nơi phần
đông chúng ta những bệnh tật ở thân và ở tâm có thể tổn hại tâm trí ta.
Rồi cưu mang những gánh nặng ấy, ta phải nương nhờ vào bao hình thức
thoát ly trốn tránh: chúng ta phượng thờ nhà nước, chúng ta chấp nhận
một uy lực nào đó, chúng ta cầu xin một người nào đó để họ giải quyết
giùm những nỗi khó khăn của ta, chúng ta buông thả vào việc lải nhải vô
ích là tụng đọc kinh kệ, chúng ta rượu chè, chúng ta dâm dật, chúng ta
thù ghét, chúng ta đâm ra tủi phận thương thân, vân vân.
Chúng
ta đã tạo dựng cả một hệ thống rặt đầy những lối thoát ly trốn tránh –
hoặc có tính cách hữu lý hoặc phi lý, hoặc có tính cách tâm loạn hay có
vẻ trí thức – có thể khiến ta chấp nhận được hết tất cả mọi vấn đề nhân
sinh phát hiện đến, tức là khiến ta cứ thuận chiều theo chúng. Nhưng kỳ
thực là chúng dấy sinh bao rối loạn trong tâm ta thành thử tâm ta không
hề được tự do bao giờ cả.
Không
biết các ngài có cảm thấy một điều cần thiết như tôi – mà cần thiết
không phải cần thiết một phần, không phải cần thiết chỉ trong một thời
do vì bất ngờ các ngài gặp phải một hoàn cảnh nào đó mà cần thiết tuyệt
đối, từ lúc ta suy xét đến đấy tới dĩ chí hết cuộc đời ta – cần thiết
chẳng nên đeo mang bất cứ một vấn đề nào cả. Nếu ta nhận thấy sự cần
thiết ấy, không phải nhận thấy trong trừu tượng, mà nhận thấy rõ rệt như
ta nhận thấy sự cần thiết của món ăn vật uống và của không khí tươi
mát, thì sự nhận thức như vậy thành là cái cội nguồn cho các động tác
của ta vừa trong tâm thức vừa trong vật lý thường nhật. Cái cần thiết đó
phải hiện diện trong mọi việc ta làm, mọi điều ta nghĩ, và mọi điều ta
cảm.
Vậy
sự thoát ly mọi vấn đề là điều chúng ta quan tâm lưu ý – ít ra là trong
buổi họp sáng nay. Có lẽ mai này ta sẽ đề cập bằng một cách khác, nhưng
không can hệ chi: chỗ quan trọng là có nhận thấy rằng cái tâm thức xung
chướng là cái tâm thức phá hại, vì nó cứ thường xuyên thất thế bại
hoại. Sự thất thế bại hoại của tâm thức không phải do ở chỗ già nua tuổi
tác – hay ở chỗ niên thiếu trẻ trung – mà bại hoại nảy sinh khi tâm
thức bị rối loạn với nhiều xung chướng đích thị là mầm giống của những
cơ bại hoại và những cuộc mục nát. Nếu các ngài nhận thấy điều ấy, thì
câu hỏi đặt ra tất là như vầy: làm sao giải trừ được trạng thái ấy.
Nhưng trước tiên tự mình phải nhận thấy chân lý này: Hễ còn đeo mang một
vấn đề thuộc bất cứ loại nào, ở bất cứ giai tầng nào, trong bất cứ thời
hạn bao lâu, thì tâm thức không thể có tư tưởng tỏ suốt được, không thể
nhận thấy các sự vật đúng y các sự vật, nghĩa là thấy một cách táo bạo,
thấy một cách tàn nhẫn, tuyệt không xúc động gì cả, tuyệt không hề tự
lấy làm tủi phân thương thân.
Phần
đông chúng ta đã quen thói trốn tránh ngay khi một vấn đề vừa xuất
hiện, ta thấy rất khó sống cùng với nó, khó quan sát nó thôi, không phải
diễn dịch, không phải chê bỏ hay so sánh, không tìm cách biến đổi nó
hay chen xen vào đấy bằng cách này hay cách khác. Việc này đòi hỏi một
sự chú ý trọn vẹn; nhưng với chúng ta thì có gì nghiêm trọng để cho ta
chú tâm trọn vẹn đâu. Chúng ta sống thiển cận và chúng ta dễ tự mãn với
những lối ứng đáp dễ dàng, với những phản ứng cấp thời. Ta muốn lãng
quên đi các nỗi khó khăn của ta, dẹp nó qua một bên để bắt sang việc
khác. Chỉ khi vấn đề đụng chạm ta một cách mật thiết, chẳng hạn như lúc
xảy ra một cái chết nào đó hay việc hết nhẵn tiền bạc, hay chỉ khi chồng
hoặc vợ bỏ lìa xa lánh mình – chỉ bấy giờ thì vấn đề mới trở thành cơn
khủng hoảng. Nhưng ta không hề để cho một khủng hoảng đích thực nào phát
sinh được trong đời ta, ta luôn luôn né tránh dẹp bỏ nó bằng những sự
giải thích, bằng những danh từ, bằng bao phương thức di biệt để thúc thủ
tự vệ.
Chúng
ta đã biết thế nào là một vấn đề chứ. Đó là một sự thể mà ta không thâm
nhập tận cùng, đến chốn đến nơi. Chưa hiểu được trọn vẹn, tức là sự thể
ấy không được tháo gỡ, nó cứ trở đi trở lại mãi mãi và mãi mãi. Muốn
hiểu được nó, ta phải cần hiểu được những mâu thuẫn – những mâu thuẫn
cực độ, cũng như các mâu thuẫn thường ngày – của bản thể ta: ta nghĩ một
đằng và ta làm đi một ngả, ta nói một điều này mà tâm cảm của ta lại
khác hẳn đi. Có cái xung đột xảy ra giữa kính trọng và khinh bỉ, giữa
tính lỗ mãng và sự lễ độ. Một đằng khi tâm ý hung hăng, ngạo nghễ, mà
đằng khác thì lại ra trò khiêm cung. Các ngài hẳn biết vô số những mâu
thuẫn của ta, những mâu thuẫn hữu thức hay tiềm tàng, vậy thì chúng phát
sinh như thế nào?
…Xin
các ngài, như tôi vẫn hay nói xin các ngài đừng nghe người này thôi, mà
các ngài hãy nghe cả tâm niệm của chính các ngài nữa; các ngài hãy quan
sát sự vận dụng tác hàng các phản ứng của các ngài, các ngài hãy ý thức
các ứng đáp của các ngài khi một câu hỏi vừa đặt ra, để các ngài tự
hiểu biết chính mình cho chín chắn hơn nữa.
Thế
thường, mỗi khi gặp vấn đề, ta muốn biết cách thức gì để giải quyết
chúng, cách gì để đối phó chúng, làm sao thắng ngự chúng làm sao rứt bỏ
chúng, hay cách gì để giải quyết chúng. Tôi không hề lưu tâm mảy may gì
với tất cả những thứ ấy. Đây tôi chỉ muốn biết do đâu mà các vấn đề xuất
hiện, vì nếu tôi tìm thấy được gốc rễ của chỉ nội một vấn đề thôi, hiểu
được rõ rệt căn nguyên của nó theo đuổi nó chí tận chỗ tột cùng của nó,
thì tôi tất hiểu rõ được cả thảy mọi vấn đề. Nếu biết cách xem xét độc
nhất một vấn đề nào cho toàn triệt thì tôi sẽ có thể hiểu được mọi vấn
đề phát hiện trong tương lai.
Vậy
các vấn đề tâm lý xuất hiện cách nào? Ta hãy xem xét chỗ này trước, vì
ta biết rằng chúng làm bại hoại mọi hành vi động tác trong cuộc sống.
Chỉ khi ta hiểu được và giải trừ chúng ngay trong khoảnh khắc vừa phát
hiện mà không ghi nhớ lưu chuyển chúng đến giờ phút kế tiếp hay đến ngày
kế tục thì ta mới có thể thu nhận mỗi hoàn cảnh mới mẻ một cách tươi
nhuận và sáng suốt. Cuộc sống của ta là một tràng gồm toàn những thách
thức xúc sự và những phản hồi ứng đáp, và tất cả chúng ta phải ứng phó
mỗi xúc sự một cách trọn vẹn, bằng không thì mỗi khoảnh khắc mới sẽ đem
lại cho ta những vấn đề mới khác nữa. Các ngài hiểu chứ? Chỉ một điều
đáng để tôi lưu tâm thôi, đó là được tự do, đó là không có những vấn đề –
những vấn đề về Thượng đế, về tính dục: không có bất cứ vấn đề về bất
cứ điều gì. Nếu Thượng đế trở thành một vấn đề cho tôi, thì Thượng đế
không đáng cho tôi phải tìm tòi, vì muốn tìm thấy khám phá coi ra chằng
có một cái gì ấy khả dĩ gọi là Thượng đế, một thực thể tối thượng vượt
qua sự so lường của tưởng niệm thì tâm thức tôi phải cần được trong
suốt, bất nhiễm, chẳng bị một vấn đề nào ngăn ngại cả.
Bỡi
lẽ đó nên ngay từ lúc đầu tôi đã nói rằng tự do là một điều cần thiết.
Có người bảo với tôi rằng chính Karl Marx – thượng đế của những người
cộng sản – cũng có viết rằng con người phải được tự do. Theo tôi, tự do
lại là điều tuyệt đối cần thiết – tự do ngay từ đầu, đến giữa, cho đến
chỗ cuối cùng – và tự do bị phủ nhận đi nếu tôi đeo mang một vấn đề sang
qua ngày mai. Thế có nghĩa là chẳng những tôi phải tìm thấy coi nó xuất
hiện như thế nào, mà còn cho biết làm sao xoá bỏ nó trọn vẹn, xoá bỏ
như chặt phắt nó đi, cho nó không còn tái diễn, cho nó đừng kéo dài lê
thê, cho tôi khỏi nghĩ nhớ tới nó nữa để hòng mai kia mốt nọ tìm thấy
giải đáp. Nếu tôi mang chuyển nó sang qua ngày mai, tức đấy là tôi tạo
đất cho nó mọc gốc châm rễ, rồi việc cắt tỉa vấn đề lại thành ra là một
vấn đề khác nữa. Vậy tôi phải cương quyết tức thời chặt đứt để nó được
hoàn toàn dứt bặt.
Các
ngài đã thấy rõ sự thể là vậy. Dù vấn đề về vợ con hay về việc thiếu
hụt bạc tiền hoặc về Thượng đế, dù bất về vấn đề gì, ta phải tìm xem nó
xuất hiện thế nào và làm sao chấm dứt nó tức khắc.
Điều
tôi nói đây không vô lý đâu. Tôi đã dẫn giải với các ngài một cách rõ
ràng, minh bạch, chỗ cần thiết phải chấm dứt các vấn đề và đừng kéo dài
chúng ngày này sang ngày nọ. Các ngài có hỏi chi về mấy điều vừa nói hay
chăng?
Hỏi (H): Tôi không hiểu tại sao ngài nói rằng tiền bạc không phải là một vấn đề?
Krishnamurti
(K): Tiền bạc là một vấn đề cho nhiều nhiều lắm. Tôi không hề bảo tiền
bạc không phải là một vấn đề. Tôi nói vấn đề là một điều mà ta không
hiểu được trọn vẹn, dù về tiền bạc, về tính dục, về Thượng đế, về những
mối tương giao của ngài với vợ, với một người thù ghét ngài – bất luận
về sự việc gì. Nếu tôi mắc bệnh, hay tôi thiếu hụt tiền bạc, thì điều ấy
trở thành một vấn đề tâm lý rồi. Có khi những tham muốn tính dục cũng
trở thành vấn đề nữa. Đây chúng ta đang xét coi các vấn đề tâm lý xuất
hiện thế nào, chứ không xét coi phải xử sự thế nào với mỗi trường hợp
đặc biệt. Ngài hiểu đấy chứ? Tuy thế, quả thực là giản dị!
Ngài
biết chăng, ở Đông phương có những kẻ lìa bỏ thế gian rồi lê chân từ
làng này sang làng khác với một cái bát ăn xin. Những người gọi là giai
cấp Bà Là Môn ở Ấn Độ từ bao thế kỷ nay đã lập thành cái phong tục là
người nào lìa bỏ thế gian phải được tôn kính, được cho ăn cho mặc. Đối
với người ấy, dĩ nhiên tiền bạc không thành là vấn đề rồi. Nhưng đây tôi
không bào chữa gì cho cái phong tục ấy đâu! Tôi chỉ muốn dẫn giải rằng
phần đông chúng ta vốn có vô số những vấn đề có tính cách tâm lý. Không
phải ngài có những vấn đề tâm lý như vậy, chẳng những về tiền bạc, mà cả
về việc tình dục hay về Thượng đế, hay về những mối tương giao của ngài
với người khác? Chẳng phải ngài không bận tâm lo lắng muốn biết coi
ngài có được người này kẻ nọ thương yêu hay không sao? Thí dụ như tôi có
ít tiền quá và tôi muốn có nhiều thêm, thì việc ấy trở thành một vấn
đề. Tôi lấy đó làm lo phiền và trong tâm tôi dấy sinh xao xuyến, hoặc
tôi hoá ra đố kỵ ganh ghét vì ngài có nhiều tiền hơn tôi chẳng hạn.
Những điều đó bóp méo nhận thức của ta đi và đó là điều chúng ta đang
nói đến. Chúng ta đang tìm xem những khổ tâm đó xuất hiện như thế nào.
Thiết tưởng tôi đã nói điều ấy khá rõ ràng rồi – hay ngài muốn tôi nói
thêm cho rõ nữa?
Dĩ
nhiên, một vấn đề xuất hiện khi nơi tôi có cuộc mâu thuẫn. Nếu không có
mâu thuẫn ở một giai tầng nào hết, tất chẳng có vấn đề gì cả. Nếu tôi
không có tiền, tôi sẽ làm việc, tôi sẽ đi ăn xin, tôi sẽ vay mượn – tôi
sẽ làm một việc gì đó vậy thôi và điều đó sẽ không là một vấn đề.
H: Nhưng nếu ngài không làm được gì cả thì sao?
K:
Ngài muốn nói gì: ngài không thể làm gì được hết ấy ư? Nếu ngài có được
một kỹ thuật gì hay một tri thức gì có tính cách chuyên môn, thì ngài
trở thành thế này hay thế khác. Nếu ngài không làm gì khác được, thì
ngài đi gánh đất vậy, cũng xong.
H: Đến độ tuổi nào đó, một người không thể làm việc gì nữa hết.
K: Thì kẻ ấy có tiền bảo kê bảo hiểm cho tuổi già.
H: Không, người đó không có tiền bảo kê nào cả.
K: Thì hắn chết vậy, và không có vấn đề gì nữa. Nhưng vấn đề này không phải là vấn đề của chính bà, thưa bà?
H: Đó không phải là vấn đề của chính tôi.
K:
Vậy thì bà nói là nói về một người nào khác, thế thì ta lạc đề rồi. Ở
đây, chúng ta nói về chính bà, với tư cách là một con người có những vấn
đề, chứ không nói về một người thân thuộc hay một thân hữu nào khác.
H: Người đó không còn ai ngoài tôi để lo cho người. Có thế nào tôi đến nghe ngài và lại cho người ấy khổ sở?
K: Thì bà đừng đến vậy.
H: Nhưng tôi lại muốn đến.
K: Thế thì bà chớ lấy đó làm thành một vấn đề.
H: Có
phải ngài bảo rằng tâm thức vốn có thể vượt lên trên một hoàn cảnh rắc
rối hay bực dọc, như việc thiếu tiền bạc đây chẳng hạn?
K.
Không phải thế. Ngài thấy chăng, ngài đã trả lời trước tôi bằng cách lo
tìm giải quyết một vấn đề. Ngài muốn biết coi ngài nên xử sự thế nào
với vấn đề, mà tôi thì chưa nói tới việc đó. Tôi chỉ mới đặt vấn đề ra
đấy mà thôi, chứ chưa nói đến cách giải quyết nó. Khi ngài nói rằng tâm
thức phải vượt lên trên vấn đề hay khi ngài hỏi người bà con hoặc người
bạn tuổi già và không có tiền bạc kia phải làm sao, thì ngài có nhận
thấy ngài đang làm gì đấy chăng? Ngài chỉ trốn tránh sự kiện hiện thực…
Xin đợi cho một phút! Ngài hãy nghe tôi chút đã. Đừng chấp nhận, cũng
đừng gạt bỏ điều tôi nói, ngài hãy chỉ nghe thôi. Ngài không chịu nhìn
nhận sự kiện hiện thực rằng vấn đề ấy là vấn đề của chính ngài, chứ
chẳng phải vấn đề của một người nào khác. Nếu ngài quyết giải quyết nó
xong như một con người, ắt ngài sẽ giúp hay không giúp được người kia,
tùy trường hợp, cho họ giải quyết vấn đề của họ. Nhưng hễ ngài xen vào
các vấn đề khác và tự hỏi mình: “Tôi phải làm gì đây?”, thế là ngài tự
đặt mình vào một hoàn cảnh vô phương giải đáp, và như vậy, việc ấy dĩ
nhiên thành là một mâu thuẫn… Không biết ngài có hiểu tôi rõ hay không.
H: Tôi
dốt nát do vì một bệnh tật phát sinh lúc tôi còn bé, và điều này đã là
một vấn đề lớn lao cho tôi trong suốt đời tôi. Làm sao tôi giải quyết nó
đây?
K:
Cả thảy các ngài đều quá đỗi lo toan tìm cho được những giải pháp, có
phải thế không? Nhưng tôi lại không như vậy. Tôi rất tiếc. Ngay ở buổi
đầu của những cuộc đàm đạo này, tôi đã nói rằng tôi không để tâm lo giải
quyết những vấn đề gì của các ngài, cả của tôi nữa. Tôi không phải là
người trợ giúp cho các ngài. Chính ngài là thầy của mình, là giới luật
của mình. Các ngài đến đây để tìm học chứ không phải đến để nhờ ai chỉ
cho các ngài phải làm thế này và đừng làm thế khác. Không phải đến đây
để biết coi phải xử sự thế nào đối với trường hợp một người liệt bại,
hay nghèo túng, hay dốt nát, đại loại như thế, đại loại như vậy. Các
ngài đến đây để chính mình tự tìm học những vấn đề mà các ngài đang có,
chứ không phải đến đây để được tôi dạy bảo… Vậy xin các ngài đừng đặt
tôi sẽ thành là một đức thầy, một đạo sư, và tôi sẽ cộng thêm cái mớ ngu
xuẩn trục lợi ấy vốn đã có trong thế gian này rồi. Vậy các ngài và tôi,
chúng ta đến đây để tìm học, không phải để được ai dạy dỗ. Chúng ta tìm
học không phải bằng việc nghiên cứu, bằng kinh nghiệm, mà bằng tỉnh
thức, bằng cách hoàn toàn nhận thức chính bản thể mình. Thế thì những
tương giao giữa chúng ta có khác hẳn với tương giao giữa sư và đệ. Người
nói đây không phải đang dạy dỗ gì các ngài, cũng chẳng đang bảo các
ngài những gì phải làm – nếu thế thì đủ là quá đỗi khờ dại non nớt.
H: Khi ta không thể nhận thấy được tất cả những gì hàm ngụ trong một vấn đề, thì làm sao ta vào tận gốc rễ và giải quyết nó?
K:
Tất cả các ngài đều nôn nóng gấp rút muốn biết phải làm gì đến nỗi các
ngài không cho tôi có thời giờ vào sâu đề tài. Xin các ngài hãy nghe
trong đôi phút vậy. Đây tôi không bảo cho các ngài phải làm những gì về
các vấn đề của các ngài, tôi đang dẫn giải phải tìm học cách nào, tìm
học là gì, và rồi các ngài sẽ tìm thấy ra rằng khi nào có thể thâm nhập
được vào việc học như vậy thì vấn đề tự chấm dứt. Nhưng nếu các ngài cứ
đòi kẻ khác đưa cho các ngài một giải pháp, thì các ngài hoá ra như đứa
trẻ vô trách nhiệm để cho người điều khiển, để rồi các ngài sẽ gặp xiết
bao nỗi khó khăn thêm lên. Nói thế quá rõ ràng và giản dị rồi, vậy xin
các ngài một lần này thôi, các ngài hãy ghi lấy cho minh bạch trong tâm
trí. Chúng ta đến đây để mà tìm học, không phải để được phó thác cho ký
ức những gì ta đã được nghe; nhưng với những lối nhái đi lặp lại ấy, ký
ức không xuất khởi được sự giải trừ các vấn đề. Chỉ có sự trưởng thành
may chăng là sự vận hành của việc tìm học đây thôi. Dùng cái sở tri,
dùng sự ghi chép vào ký ức, để giải quyết những vấn đề của con người,
xuất phát từ sự thiếu trưởng thành và chỉ khiến gia tăng thêm nhiều
những vấn đề bằng cách tạo tác thêm những sự qui thuận công thức ước lệ
mới khác.
Muốn
giải quyết một vấn đề, đó chỉ là muốn lo trốn tránh nó thôi, có phải
thế không? Tôi không thâm nhập nó, tôi không xem xét nó, không thăm dò
thám hiểm nó, không hiểu được nó, tôi không nhận biết cái đẹp của nó hay
cái xấu của nó, hay chỗ thâm sâu gì của nó cả. Mối bận bịu lo lắng duy
nhất của tôi là giải quyết nó cho kỳ được, là dẹp nó qua một bên cho rồi
đi. Cái ý muốn nôn nóng này khiến ta giải quyết một vấn đề nhưng đã
không hiểu được nó, đích thị đó là một sự trốn tránh, và dĩ nhiên lại
trở thành một vấn đề thêm nữa. Mọi trốn tránh đều kết liễu ra như thế
hết.
Thí
dụ như tôi có một vấn đề và tôi muốn hiểu được nó cho trọn vẹn. Tôi
không muốn trốn tránh nó, tôi không muốn cứ bàn suông nói suông, tôi
không cần phải đem ra nói với ai hết. Tôi chỉ muốn một việc độc nhất là
hiểu được nó mà thôi. Tôi không cần hỏi ai để cho họ bảo tôi phải làm gì
với vấn đề này. Tôi thấy rằng chẳng một ai bảo cho tôi được, và nếu có
ai bảo tôi và tôi chấp nhận những lời họ dạy bảo, thì đó là một cách
hành động ngu xuẩn và phi lý. Vậy tôi phải tìm học chẳng để ai dạy, và
trong khi xem xét trường hợp hiện tiền này tôi cũng không lấy những gì
tôi học được ở các vấn đề trước đem chen xen vào đấy. Ồ! Các ngài không
nhận thấy cái đẹp trong sự việc ấy sao kìa!
Ngài
biết thế nào là sống trong hiện tại không? Không. Tôi e rằng không.
Sống trong hiện tại là tuyệt không có mảy may liên tục nào cả. Nhưng
chúng ta sẽ nói điều này trong dịp khác.
Đây
tôi có một vấn đề mà tôi muốn hiểu nó được tạo thành do những gì. Để
tìm học vấn đề này, tôi không thể đem xen tạp vào đó những kỷ niệm của
quá khứ để giải quyết nó vì ở đây tôi đứng đối diện trước một sự việc
mới lạ, tôi phải xem xét nó một cách tươi nhuận chứ không phải bằng
những ký ức chết cứng, ngu xuẩn. Sự việc đây vốn linh hoạt, vậy tôi phải
xét nó trong chỗ hiện tiền linh động của nó, và yếu tố thời gian tất
phải được gác dẹp đi hoàn toàn.
Tôi
muốn biết coi những vấn đề tâm lý xuất hiện thế nào. Như tôi đã nói,
tôi muốn hiểu được toàn cơ cấu bản nguyên của nó để do đó tôi thoát ly
khỏi sự cấu tạo ấy, để mà tôi biết xử sự cách nào đối với tiền bạc, với
vấn đề tính dục, với sự thù ghét, với tất cả những gì có liên hệ trong
đời. Làm như thế, ý tôi muốn nói là bằng cách tìm thấy các vấn đề xuất
hiện như thế nào chứ không phải bằng cách tìm cách giải quyết chúng, thì
tôi sẽ không dấy tạo thêm những vấn đề tâm lý nữa. Ngài hiểu kịp ý tôi
chứ? Không một ai bảo cho tôi biết những vấn đề xuất hiện thế nào: chính
tôi phải tự hiểu lấy điều ấy.
Trong
khi khai phá thâm nhập vào bên trong tâm tư, xin các ngài cũng thâm
nhập vào tự tâm các ngài, chứ đừng chỉ nghe những danh từ của tôi. Nếu
không nhìn xem ở tự tâm mình, và nếu các ngài không vượt qua lên trên
những danh từ, tất những danh từ không trợ giúp chi cho các ngài được;
chúng sẽ chỉ là một sự trừu tượng, chứ chẳng phải là một thực tại. Mà
thực tại là chính cái cơ vận hành khám phá nội tại, chứ chẳng phải sự
dẫn khởi ngôn từ dùng về cơ sở vận hành ấy. Điều này minh bạch chứ?
Theo
tôi, như tôi đã nói, tự do là điều tối ư quan trọng. Nhưng nếu không
thông minh ắt không hiểu được tự do, và sự thông minh chỉ có thể nảy
sinh là khi ta đã hiểu được trọn vẹn nguyên lai, căn cội của các vấn đề.
Tâm thức phải nhanh nhẹn, chú ý, tâm thức phải mẫm cảm tột độ, để giải
trừ ngay khi vấn đề vừa phát sinh. Bằng chẳng vậy, hẳn không có tự tại
đích thực, mà chỉ có cái tự do manh mún bề ngoài, không giá trị gì.
Không khác gì như kẻ giàu kia tự cho là mình tự do. Trời đất ơi! Kẻ ấy
chỉ là nô lệ cho rượu chè của hắn, cho dục tình của hắn, cho sự tiện
nghi của hắn, cho cả tá sự vật. Và kẻ nghèo nói: “Tôi tự do vì tôi không
có bạc tiền”, thì lại có bao nhiêu vấn đề khác nữa. Vậy tự do, và việc
duy trì sự tự do ấy, không thể chỉ là một sự việc trừu tượng được, cả
hai tâm thái đều thiết yếu cho mỗi người ở chỗ mình là một con người vì
chỉ khi ta tự do, ta mới có thể yêu thương. Làm sao có thể yêu thương gì
được nếu ta tham vọng, thèm muốn, ganh đua, tranh chấp?
Xin các ngài chớ nên chấp thuận. Thế là các ngài chỉ giao cho một mình tôi làm hết mọi việc đấy thôi.
Tôi
không biết gì với việc giải quyết một vấn đề, cũng không màng đi tìm
kiếm ai khả dĩ giúp tôi giải quyết nó. Không một sách vở, một bậc tôn
sư, một giáo hội, một linh mục hay một vị cứu thế nào có thể bày vẽ cho
tôi cách thức gì để giải quyết vấn đề cả. Chúng ta đã từng chơi cái mửng
ấy trong mấy nghìn năm rồi và chúng ta vẫn còn mang nặng đầy những vấn
đề. Đi nhà thờ, đến xưng tội, lo cầu nguyện, những thứ ấy không hề giải
quyết được các vấn đề gì cả. Các vấn đề sẽ cứ gia tăng, như ta đang nhận
thấy hiện giờ. Vậy, hỏi chứ các vấn đề xuất hiện thế nào?
Như
tôi đã nói, hễ ở tự tâm không còn mâu thuẫn, thì chẳng còn vấn đề. Mà
cuộc mâu thuẫn nội tại tất hàm ý có cuộc xung chướng giữa các ý muốn, có
phải thế không? Nhưng một ý muốn, tự nó, vốn chẳng bao giờ mâu thuẫn.
Mà chính những món vật – đối tượng – của ý muốn mới dấy sinh mâu thuẫn
với nhau. Do vì tôi họa được mấy bức tranh hay do vì tôi viết vài cuốn
sách, hoặc do vì chút việc tầm phào nào tôi làm được, tôi phát sinh ý
muốn được danh vọng, tiếng tăm. Rồi hễ không ai biết danh tôi, là tôi
lâm vào trạng huống mâu thuẫn và lấy đó làm điều khổ sở. Tôi sợ sự chết
chẳng hạn – cái chết mà tôi không hiểu nổi – rồi trong cái tôi gọi là
tình thương lại phát sinh mâu thuẫn. Thế là tôi nhận thấy rằng thật ra
các ý muốn là căn cội của những mâu thuẫn, nhưng không phải chúng, mà
chính những đối tượng của chúng mới có tính cách mâu thuẫn. Nếu tôi cố
gắng thay đổi hay gạt bỏ những đối tượng của các ý muốn của tôi bằng
cách bám vào một đối tượng nào trong đó và loại trừ tất cả mọi đối tượng
khác. Giải quyết như vậy lại trở thành một vấn đề nữa, vì tôi phải
chống kháng, xây dựng lên bức tường ngăn cách đối lại mọi sự khác. Thế
thì tôi không nên lo thay đổi hay giảm bớt những đối tượng của các ý
muốn, mà phải nhận hiểu chính những ý muốn ấy.
Các
ngài có thể tự hỏi rằng các ý muốn có những tương quan gì với các vấn
đề tâm lý. Chúng ta vừa thấy rằng không phải chính những ý muốn, mà là
những đối tượng của các ý muốn, hay những mục tiêu tương khắc của chúng
đã dấy sinh ra những mâu thuẫn cùng những xung chướng nội tại, và có ra
công cố gắng để chỉ muốn duy một điều thôi thì quả là vô ích. Ông linh
mục kia có thể nghĩ rằng ông ta chỉ mong chứng đạt Thượng đế mà thôi,
nhưng ông lại cưu mang vô số những thèm khát mà ông không ý thức. Vậy ta
cần phải hiểu bản chất của các ý muốn chứ chẳng nên chỉ ưng lo kiểm
soát hay phủ nhận chúng. Hết thảy các kinh điển tôn giáo đều bảo phải
tận diệt chúng, đều bảo không nên có những ý muốn, điều ấy thực là ngô
nghê. Ta phải hiểu các ý muốn xuất hiện ra sao và cái gì làm cho chúng
được liên tục, chứ không phải tìm cách chấm dứt chúng. Thật sự nhận thấy
các ý muốn xuất hiện ra sao, thì rõ là khá giản dị: trước tiên có nhận
thức, tiếp xúc, cảm giác – dù không tiếp xúc cũng vẫn có cảm giác – rồi
từ đó bắt đầu nẩy sinh ra ý muốn. Chẳng hạn tôi thấy một chiếc xe hơi:
đường nét của chiếc xe, hình thể của nó, vẻ đẹp của nó lôi kéo hấp dẫn
tôi, và tôi muốn được chiếc xe ấy. Tuy nhiên, huỷ diệt các ý muốn, tức
là không còn ý thức cảm nhận được gì nữa cả. Chứ hễ tôi vừa ý thức cảm
nhận thì tôi đã kẹt vào vòng tiến trình của ý muốn rồi. Tôi thấy một vật
gì đẹp, một người đàn bà đẹp, hay những sự thể gì khác đại loại như
thế, thì các ý muốn liền phát sinh; hoặc tôi thấy một người hết sức
thông minh và chân chính, tôi muốn giống được như người ấy. Do nhận thức
nảy sinh có cảm giác, và do cảm giác nảy sinh thành ý muốn. Sự kiện này
này không có gì là rắc rối cả. Sự phức tạp bắt đầu là khi có tư tưởng
xen vào: tôi tưởng nghĩ đến chiếc xe kia, đến người đàn bà nọ hay đến
người mà tôi muốn mình được giống như thế, và do cái tưởng niệm này, ý
muốn liền được liên tục vậy. Bằng không thì không có liên tục gì cả: tôi
có thể nhìn chiếc xe hơi mà không muốn nó. Ngài hiểu điều tôi nói chứ?
Nhưng hễ tôi vừa lưu tâm tưởng nghĩ chút gì đến chiếc xe ấy, là ý muốn
liền được liên tục và sự mâu thuẫn liền dấy khởi lên.
H: Có ý muốn không đối tượng chăng?
K: Điều đó không có được; không có ý muốn trừu tượng.
H: Vậy
thì ý muốn luôn luôn dính liền với một đối tượng chứ? Nhưng ban nãy
ngài bảo rằng chúng ta cần phải tỏ hiểu cơ vi của chính ý muốn chứ đừng
xem xét đối tượng của nó.
K: Thưa ngài, tôi đã trình bày ý muốn xuất hiện thế nào, và bày rõ là do tưởng niệm mà khiến cho ý muốn được liên tục.
Nhưng chúng ta phải tạm ngừng ở đây đi. Chúng ta sẽ tiếp tục trong những lần nói chuyện tới.
3.
Có sự khác nhau rõ rệt giữa thông đạt và thông cảm. Khi ta thông đạt, ta san sẻ chia sớt những lý tưởng bằng những danh từ khả ái hoặc khả ố, bằng những biểu tượng, bằng những cử chỉ, và những ý tưởng ấy có thể được thông diễn trên bình diện ý thức hệ hay diễn giải tùy theo các sắc thái đặc thù, các tính khí, theo những qui định tâm thức của mỗi người. Nhưng thông cảm thì khác hẳn. Trong ấy không có sự san sẻ chia sớt, cũng không có sự diễn giải những ý tưởng. Dù có hay không có ngôn từ trao đổi, niềm thông cảm vẫn trực tiếp kết liền ta với điều ta quán sát, và mỗi người tự thông cảm với tinh thần và tâm tư của chính mình. Chẳng hạn, thông cảm phát sinh với một cội cây, một trái núi hay một dòng sông. Không biết có bao giờ các ngài yên ngồi dưới một tàng cây và thật sự thử thông cảm với nó hay chăng. Đây không phải là đa tình hay đa cảm gì cả. Ta tiếp xúc trực chỉ với cội cây ấy. Ở đó có sự mật thiết lạ lùng của sự tương liên. Để có mối thông cảm như vậy, cần có sự tịch lặng, cần có niềm tịnh định sâu mầu; các thần kinh, cả thể xác đều an nhàn ung dung: cả trái tim hầu như ngừng đập. Bấy giờ thì chẳng có diễn giải chi cả, chẳng có thông đạt gì hết, không có san sẻ chia sớt chi cả. Cội cây không phải là chính ngài mà ngài cũng không đồng hoá với cội cây: thuần chỉ hiện có niềm cảm khái mật thiết ấy với nhau trong chỗ thâm sâu tịch lặng mà thôi. Không biết các ngài có bao giờ thử nghiệm xem thế hay không. Hôm nào ngài thử vậy coi, khi tâm thức ngài đã dứt ba hoa bép xép, dứt bay nhảy đó đây khắp chỗ, khi tâm thức ngài không chìm đắm trong những cuộc độc thoại của nó để nhớ những công việc đã làm hay những công việc còn phải làm. Quên lãng đi tất cả, ngài hãy thử thông cảm với một trái núi, với một ngọn suối, với một người nào, với một cội cây, cùng với sự vận hành của cuộc sống chẳng hạn. Việc ấy đòi hỏi một cảm độ tịch mịch phi thường, với một sự chú tâm đặc biệt – đây không phải là việc tập trung, mà là một sự chú ý thơ thới và thoải mái.
Có sự khác nhau rõ rệt giữa thông đạt và thông cảm. Khi ta thông đạt, ta san sẻ chia sớt những lý tưởng bằng những danh từ khả ái hoặc khả ố, bằng những biểu tượng, bằng những cử chỉ, và những ý tưởng ấy có thể được thông diễn trên bình diện ý thức hệ hay diễn giải tùy theo các sắc thái đặc thù, các tính khí, theo những qui định tâm thức của mỗi người. Nhưng thông cảm thì khác hẳn. Trong ấy không có sự san sẻ chia sớt, cũng không có sự diễn giải những ý tưởng. Dù có hay không có ngôn từ trao đổi, niềm thông cảm vẫn trực tiếp kết liền ta với điều ta quán sát, và mỗi người tự thông cảm với tinh thần và tâm tư của chính mình. Chẳng hạn, thông cảm phát sinh với một cội cây, một trái núi hay một dòng sông. Không biết có bao giờ các ngài yên ngồi dưới một tàng cây và thật sự thử thông cảm với nó hay chăng. Đây không phải là đa tình hay đa cảm gì cả. Ta tiếp xúc trực chỉ với cội cây ấy. Ở đó có sự mật thiết lạ lùng của sự tương liên. Để có mối thông cảm như vậy, cần có sự tịch lặng, cần có niềm tịnh định sâu mầu; các thần kinh, cả thể xác đều an nhàn ung dung: cả trái tim hầu như ngừng đập. Bấy giờ thì chẳng có diễn giải chi cả, chẳng có thông đạt gì hết, không có san sẻ chia sớt chi cả. Cội cây không phải là chính ngài mà ngài cũng không đồng hoá với cội cây: thuần chỉ hiện có niềm cảm khái mật thiết ấy với nhau trong chỗ thâm sâu tịch lặng mà thôi. Không biết các ngài có bao giờ thử nghiệm xem thế hay không. Hôm nào ngài thử vậy coi, khi tâm thức ngài đã dứt ba hoa bép xép, dứt bay nhảy đó đây khắp chỗ, khi tâm thức ngài không chìm đắm trong những cuộc độc thoại của nó để nhớ những công việc đã làm hay những công việc còn phải làm. Quên lãng đi tất cả, ngài hãy thử thông cảm với một trái núi, với một ngọn suối, với một người nào, với một cội cây, cùng với sự vận hành của cuộc sống chẳng hạn. Việc ấy đòi hỏi một cảm độ tịch mịch phi thường, với một sự chú tâm đặc biệt – đây không phải là việc tập trung, mà là một sự chú ý thơ thới và thoải mái.
Vậy
hôm nay tôi muốn cùng thông cảm với các ngài về những điều chúng ta vừa
nói bữa trước. Bữa đó chúng ta nói về tự do và phẩm chất của nó. Tự do
không phải là một lý tưởng, không phải là một điều gì xa xăm, tự do
không phải là một suy niệm, suy niệm chỉ là cái thuyết của một thủ tục
bị tù hãm. Chỉ có tự do khi tâm thức không còn bị bất cứ một vấn đề nào
tổn hại. Khi tâm thức bị mắc vướng như vào một vấn đề nào, thì nó không
thể thông cảm được với tự do, nó cũng không sao nhận thức được phẩm chất
phi thường của tự do nữa.
Phần
đông thế nhân đeo mang nhiều vấn đề và rốt lại rồi thành quen với
chúng; họ quen với chúng và chấp nhận chúng như thành một phần cuộc sống
của mình. Nhưng không phải vì mình chấp nhận chúng hay quen thuần với
chúng mà các vấn đề đã được giải quyết cho đâu: nếu ta khượi đi cái lớp
vỏ bề mặt là chúng lộ ra đấy mãi, như cái mụt nhọt đang làm mủ. Thế
nhưng phần đông người đời sống trong tâm trạng ấy – cứ liên miên chấp
nhận hết vấn đề này qua vấn đề khác, hết nỗi khổ này qua nỗi khổ khác,
liên miên bất tận; họ thất chí, âu lo, tuyệt vọng và họ cứ ỳ ra chịu
nhận hết.
Nếu
chỉ chấp nhận các vấn đề và sống mãi với chúng, dĩ nhiên là ta có giải
quyết gì chúng đâu. Ta có thể tưởng rằng chúng đã được lãng quên hay cho
rằng chúng không còn quan trọng; nhưng chúng vốn quan trọng vô cùng, vì
chúng tổn hoại tâm trí, vì chúng bóp méo sự nhận thức và huỷ diệt sự
minh mẫn. Nếu ta đeo mang một vấn đề, thì nó thường choán hết cuộc sống
của ta đi. Có thể đó là một vấn đề tiền bạc, về dục tình, hay về việc
dốt nát của mình, hay việc tự thực hiện bản thân, việc muốn lừng tiếng
nổi danh. Bất cứ nó là vấn đề gì, nó cũng cứ rút rỉa mình đến nỗi gặm
mòn cả bản thể, và mình nghĩ rằng hễ giải quyết nó được ắt là thoát khỏi
hết mọi khổ sở. Nhưng khi mà tâm thức vẫn hẹp hòi và nhỏ nhen, dù nó có
tìm lo giải quyết vấn đề riêng tư của nó, tách rời với cơ vận hành toàn
bộ của cuộc sống, thì cái tâm thức ấy không tự giải thoát được bao giờ
vì mỗi vấn đề đều dính líu liên quan với một vấn đề khác, chỉ xem xét
nội một vấn đề độc nhất mà thôi và lo giải quyết manh mún thôi thì quả
là hoàn toàn vô ích không khác gì như lo trồng trọt, một góc ruộng thôi
mà tưởng rằng mình đã trồng trọn cả thửa ruộng. Ta phải trồng toàn cả
thửa ruộng, ta phải xem xét mỗi vấn đề đưa tới, vì như hôm trước tôi đã
nói, chỗ quan trọng không phải là giải quyết vấn đề, mà quan trọng là
phải hiểu nó, dù có phải chịu đau khổ, khắc nghiệt, khẩn cấp và thúc
bách thế nào đi chăng nữa.
Nói
như vậy chẳng phải tôi có ý cố chấp hay cả quyết gì, nhưng tôi thiết
nghĩ cái việc âu lo bận bịu với một vấn đề thôi, việc ấy chỉ chứng tỏ
một tâm thức nhỏ nhen, và một tâm thức ti tiện mà cứ mải tìm giải quyết
vấn đề riêng tư của nó, tất nhiên không bao giờ thoát được vấn đề. Cái
tâm thức ấy có thể lẩn tránh bằng đủ hết mọi cách, có thể trở lên chua
chát và cay cú yếm thế, hoặc trôi lăn vào tuyệt vọng, nhưng tâm thức ấy
không bao giờ hiểu được tất cả ý nghĩa của cuộc đời.
Vậy
nếu muốn nhận biết bản chất của các vấn đề, ta phải chăm lo toàn cả cơ
sở xuất xứ của chúng, chứ không phải chỉ lo duy một trường hợp nào riêng
biệt, vì dù trường hợp này có thế nào, có rắc rối, có khắc nghiệt, hay
thúc bách thế nào đi chăng nữa nó cũng vẫn liên quan với tất cả mọi vấn
đề khác. Thế nên quan trọng không phải là xem xét vấn đề ấy ở chỗ cục bộ
manh mún, điều này là một điều rất đỗi khó khăn. Khi gặp một vấn đề
khẩn cấp, khổ sở, dây dưa thì phần đông chúng ta nghĩ rằng cần phải giải
quyết nó riêng rẽ, chứ không lưu tâm xem xét toàn bộ cơ cấu của tất cả
những vấn đề. Ta xét nghĩ về vấn đề đó một cách cục bộ manh mún, nhưng
cái tâm thức manh mún đích thị là cái tâm thức ti tiện nhỏ nhen; cái tâm
thức ấy là tâm thức trưởng giả không phải trong ý nghĩa xấu, mà dùng đó
để chỉ rõ thực trạng của tâm thức; tâm thức ấy nhỏ nhen tầm thường khi
nó muốn giải quyết riêng rẽ một vấn đề nào của nó. Kẻ nào đang bị sự
ganh ghét thiêu đốt, thì muốn hành động ngay tức thời, muốn làm một việc
gì, muốn xoá bỏ sự ganh ghét hay ra tay trả thù. Nhưng cái phiền não
đặc biệt ấy vốn liên quan sâu xa với nhiều vấn đề khác nữa. Vậy ta phải
xem xét toàn bộ cơ cấu của các vấn đề, chứ không phải chỉ lo xem xét
riêng một phần nào trong đó.
Mỗi
khi có những vấn đề này thì phải hiểu minh bạch rằng nơi đây chúng ta
không lo tìm giải pháp cho một vấn đề nào cả. Như tôi đã lưu ý các ngài
rồi, đi tìm giải pháp tức là trốn tránh vấn đề. Sự trốn tránh này có thể
êm dịu hoặc đau đớn, có thể đòi hỏi một khả năng trí thức hay những tài
năng gì đó, nhưng dù thế nào cũng thế, đó vẫn là trốn tránh thôi. Nếu
chúng ta muốn giải phóng, muốn dứt hết tất cả những bức bách áp lực
trong các vấn đề của ta, cho tâm thức chúng ta được tịnh định và sáng
suốt – vì chỉ trong tự do mới được vậy – thì công việc đầu tiên của
chúng ta là đừng lo giải quyết các vấn đề ấy, mà phải hiểu chúng. Hiểu
quan trọng hơn giải quyết nhiều lắm. Sự thông hiểu không phải là khả
năng hay sự tinh xảo lanh lợi của tâm thức đã thu hoạch nhiều trí thức
chi ly phân tích và biết áp dụng những trí thức ấy vào một vấn đề nào
nhất định: mà hiểu là thông cảm được với vấn đề. Thông cảm với vấn đề
không phải là tự đồng hoá với nó. Như tôi đã nói, muốn thông cảm với một
cội cây, một con người, một dòng sông, một cái đẹp phi thường của thiên
nhiên, tất mình phải được một niềm thanh thản lắng dịu nào đó, phải có
cảm thức tách biệt ra, tách xa hẳn với các sự vật.
Vậy
điều chúng ta tìm học ở đây chính là thông cảm với vấn đề. Nhưng các
ngài có nhận hiểu chỗ khó khăn ấy hay không? Mỗi khi có sự thông cảm với
bất cứ điều gì, thì tâm niệm về “tự ngã” đã vong bặt. Khi ngài thông
cảm với người ngài yêu thương – với vợ, với con, khi ngài cầm tay một
người bạn, trong khoảnh khắc ấy – nếu đó chẳng phải là một tình cảm, một
cảm giác giả tạo mà người ta gọi là tình thương, mà là một cái gì khác
hẳn, một cái gì linh động, mãnh liệt, chân thật – thì lúc ấy toàn cả cơ
vị của “tự ngã” đều bặt vong với cả cái tiến trình tư niệm của nó. Cũng
thế, thông cảm với một vấn đề có ngụ ý rằng có một sự bất đồng hoà lúc
quán sát. Bấy giờ, toàn thân xác, cả óc não và thần kinh – toàn cả thân
tâm đều ngừng nghỉ. Trong tâm trạng đó, ta có thể quán sát vấn đề mà
không tự đồng hoá, và chỉ trong tâm trạng ấy mới hiểu thấu được vấn đề.
Kẻ
tự nhận là nghệ sĩ có thể họa một cội cây hay viết một bài thơ về cội
cây, nhưng tôi e họ không thật sự thông cảm với cội cây. Trong trạng
thái thông cảm, tuyệt không có diễn dịch, không có ý thông đạt, không lo
tìm những cách thức diễn đạt. Dù ta có tìm cách hay không tìm cách phô
diễn một thông điệp bằng những danh từ, ghi vào một bức tranh bằng vải
hay khắc bằng đá gì đi nữa, việc ấy kể ra không quan trọng là bao; nhưng
hễ ta vừa mống ý diễn bày, muốn xuất đầu lộ diện, muốn đem mình ra bán
với buôn, muốn danh vọng tăm tiếng, vân vân, thì ngay lúc ấy sự quan
trọng của cái ngã liền xen vào guồng tác động. Hiểu trọn vẹn một vấn đề,
tức là thông cảm với vấn đề. Bấy giờ ta thấy rằng vấn đề không quan
trọng gì, mà quan trọng là cái tâm thông cảm ấy thôi, và ta không cấu
tạo vấn đề gì nữa hết. Nhưng nếu không thông cảm được vây, nếu ta cứ vị
ngã duy kỷ tập trung vào chính mình thôi, lo tìm các diễn đạt riêng tư
hay lo toan những mục tiêu gì đại loại cũng trẻ con như thế ấy – thì đó
là mình tự dấy cho mình thêm lắm vấn đề thôi.
Như
hôm trước đây tôi đã nói, để hiểu một vấn đề – bất cứ vấn đề nào – ta
phải hiểu toàn bộ tiến trình của những dục vọng. Con người vốn tự mâu
thuẫn nơi tâm lý tức tự mâu thuẫn trong hành động của họ. Họ nghĩ một
điều này và họ lại làm một điều khác. Họ sống trong tâm trạng tự mâu
thuẫn, nếu không vậy thì họ chẳng có vấn đề gì cả. Mà sự tự mâu thuẫn
xuất hiện là khi ta không hiểu bản chất các dục vọng. Để sống tuyệt
không xung chướng mảy may gì cả, ta phải hiểu cơ cấu và bản chất của các
dục vọng: đừng dồn ép chúng, đừng kiểm soát chúng, đừng huỷ diệt chúng,
cũng đừng thuận chiều theo chúng, như phần đông chúng ta hay làm. Nói
thế không có nghĩa là ta ngủ gật đi, hôn trầm đi và chỉ giữ việc chấp
thuận cuộc sống với tất cả những truỵ đồi của nó, mà nói thế là tự mình
phải nhận thấy rằng mọi xung đột xung chướng, dưới bất cứ hình thức nào,
như là những cuộc gây gổ trong gia đình, trong làng nước hay trong xã
hội, đều tổn hại tâm thức, khiến cho tâm thức lu mờ và vô cảm giác.
Như
tôi đã nói rồi, một dục vọng tự nó không phải là một trạng thái mâu
thuẫn – mà chính các đối tượng của những dục vọng và những phản ứng của
chúng với các đối tượng tạo ra mâu thuẫn. Sở dĩ dục vọng lại được liên
tục là khi tâm niệm tự đồng hoá theo nó đó thôi.
Muốn
quán sát tất nhiên phải có mẫn cảm: nào mắt, nào tai, toàn bản thể phải
linh động, tuy nhiên tâm thức vẫn phải tịnh định. Thế là ta có thể nhìn
một chiếc xe đẹp, một người đàn bà đẹp, một toà nhà rực rỡ hay một nét
mặt tươi tắn, khôn ngoan: ta có thể quán sát mỗi sự thể ở ngay thật
tướng và giữ theo chân kiến ấy. Nhưng thói thường thì chính tâm niệm xen
vào tự đồng hoá với dục vọng khiến cho dục vọng có được sự liên tục.
Điều
quan trọng là quán sát mà không xen tư niệm vào. Nhưng các ngài chớ nên
lấy điều đó làm một vấn đề. Các ngài chớ bảo: “Làm sao tôi quán sát
được, làm sao tôi thấy biết và cảm nhận được mà không cho tư niệm xen
vào?”. Nếu tự ngài ý thức được toàn cả tiến trình của những dục vọng, ý
thức mâu thuẫn phát sinh giữa các đối tượng của chúng, và ý thức chỗ
liên tục mà tư niệm đem đến cho dục vọng – nếu ngài nhận thấy toàn bộ
máy móc cơ vi ấy tác dụng, thì ngài sẽ không đặt câu hỏi ấy làm gì?
Muốn
tập lái xe, nhờ người ta cắt nghĩa về lý thuyết thôi, không đủ: ta phải
ngồi vào cầm tay lái, vặn mở máy, sử dụng mấy cái thắng, tìm học toàn
việc lái xe. Cũng vậy muốn nhận biết sự vận hành vô cùng tế nhị của tư
niệm và của dục vọng, tất nhiên ta không thể chỉ biết nội có một việc
nhờ người dẫn giải cho thôi, ta còn phải quán sát nó, tự mình trực tiếp
tìm học nó, như vậy cần phải mẫn cảm, biết nhiếp dẫn thật tinh vi mới
được.
Tôi
đã nói rằng đây không chỉ lo giải quyết những vấn đề mà phải hiểu
chúng. Chúng chỉ xuất hiện khi nào có mâu thuẫn, có xung dột, mà mọi
xung đột đều ngụ hàm sự cố gắng, phải không? Cố gắng để thành công, cố
gắng để trở thành, cố gắng để thay cái này cho ra cái khác, cố gắng để
tìm thấy điều kia và lìa bỏ điều nọ. Các sự cố gắng như thế luôn luôn
bắt nguồn ở một dục vọng nào đó mà tư niệm đem đến sự liên tục. Vậy ta
cần phải tìm học toàn bộ tiến trình ấy là thế nào, tìm học chứ chẳng
phải lo nhờ một diễn giả chỉ dạy chi, cậy nhờ như vậy tuyệt nhiên không
có chút giá trị gì hết. Điều ta nghe ở máy điện thoại có thể nó dễ chịu
hay khó chịu, chân thật hay hoàn toàn ngu xuẩn và hư nguỵ: nhưng chính
cái điều mà ta nghe được mới là đáng kể, chứ kể chi cái dụng cụ kia đâu.
Phần đông người đời đặt sự quan trọng vào dụng cụ. Các ngài chớ tưởng
rằng dụng cụ sẽ chỉ dạy các ngài được điều gì: tôi thường nhắc mãi cái
thứ mê muội đặc biệt ấy. Các ngài đến đây để tìm học, các ngài đang
nghe, chẳng phải nghe người nói thôi, mà nghe chính mình. Các ngài thông
cảm với tự tâm mình, các ngài đang quán sát, để nhận rõ hành tung tác
động của các dục vọng và sự nảy sinh của các vấn đề. Như vậy là các ngài
thâm nhập tự thâm tâm thiết cận của mình và ta chỉ cảm nhận sâu xa tự
tâm là khi ta tự quán thật tịnh định, không phải tự bảo mình rằng: “Tôi
phải nhận rõ cơ cấu của nó cho kỳ được mới nghe”, để rồi sinh vọng động
và lao chao táy máy lên. Đây các ngài đang tìm xem một vấn đề xuất hiện
cách nào và xem tư niệm kéo dài vấn đề bằng cách giúp sự liên tục cho
một dục vọng đặc biệt như thế nào. Vậy nơi đây chúng ta sẽ tìm học xem
một vấn đề nảy sinh ra sao và vấn đề chấm dứt ra sao – không phải bằng
cách mất thời giờ suy tưởng vấn đề đó, mà bằng cách là chấm dứt nó ngay
tức thời.
Dù
với bất cứ một vấn đề nào, chính tư tưởng của ta gia cho nó sự liên
tục. Nếu ngài nói với tôi một điều hợp tai, tư niệm tôi liền tự đồng hoá
với cái vui tai ấy và muốn ở miết trong đó; thế rồi tôi xem ngài như
người thân hữu và muốn thường gặp ngài. Nhưng nếu ngài nói với tôi một
lời gì thoá mạ, thì sao? Thì tôi cũng gia cho nỗi phiền giận của tôi
được sự liên tục bằng cách tưởng nghĩ đến nó. Điều ngài nói với tôi đó
có lẽ là đúng thật, nhưng tôi không vừa ý nên tôi tránh ngài đi, hay tôi
muốn tấn công lại ngài. Đó là sự vận hành tạo tác những vấn đề và chúng
cứ còn tiếp diễn đấy mãi.
Thiết
tưởng nói thế đã khá rõ ràng. Ta giúp sự liên tục cho điều nào mà ta
suy tưởng thường xuyên. Hẳn các ngài thừa biết những tư niệm rối loại
của các ngài về gia đình, những kỷ niệm vui thích và những thất vọng của
ngài về chính bản thân, chúng trở đi trở lại mãi và như vậy tức là
chúng hiện tồn liên tục đấy hoài. Nhưng nếu các ngài bắt đầu nhận hiểu
toàn bộ tiến trình ấy mà tự mình tìm học bản chất của cái liên tục ấy,
thì ngay khi vấn đề vừa xuất hiện ra, các ngài có được sự thông cảm hoàn
toàn với nó, vì tư niệm không chen vào, và do đó, vấn đề liền chấm dứt
tức khắc. Các ngài có nghe kịp chăng?
Thưa
các ngài, ta lấy một vấn đề thông thường: muốn cảm thấy mình được an
toàn, an ninh. Đó là một trong những nhu cầu của con người mà căn nguyên
là ở thú tính. Một sự an toàn an ninh nào về vật chất, dĩ nhiên là cần
thiết rồi. Ta phải có một chỗ để ở và phải biết lát nữa đây ăn cơm ở đâu
– trừ ra ở Đông phương là nơi có thể thản nhiên nhận lấy sự bất an vật
chất để lê chân từ làng này qua làng khác, vân vân. Thực là may hay
chẳng may, ta không làm được thế ở xứ này, ta dễ bị bỏ tù vì tội lây lất
lang thang với bao cái rắc rối dính liền theo đó…
Ở
thú vật, ở đứa bé, đứa trẻ con, nhu cầu an toàn về thể chất rất là mạnh
mẽ. Nhưng nhiều người trong chúng ta lại muốn có sự an ninh tâm lý:
trong những gì ta làm, suy tưởng và cảm nhận, ta đều muốn có sự an ninh,
sự chắc chắn. Bởi thế nên ta phát khởi cái tâm thức quá đỗi tranh chấp,
bởi thế nên ta ganh ghét, tham cầu, đố kỵ, hung bạo, bởi thế nên ta quá
đỗi lo toàn về những điều tuyệt đối không quan trọng gì cả. Cái nhu cầu
quyết liệt về sự an ninh tâm lý ấy, vốn hiện hữu từ mấy triệu năm rồi
mà chúng ta vẫn không bao giờ tự hỏi xem sự thực của nó nằm ở đâu. Chúng
ta đã chấp nhận cho rằng chúng ta cần phải có an ninh tâm lý trong
những cuộc tương giao với gia đình, với vợ hay chồng, với con cái, với
của cải, với cái ta gọi là Thượng đế. Ta phải có sao cho được sự an ninh
mới nghe, bất cứ với giá nào.
Mà
đây tôi muốn thông cảm với nhu cầu an ninh tâm lý kia, vì đó đích thực
là một vấn đề. Đối với phần đông chúng ta, không cảm thấy mình được an
ninh tâm lý, là hỏng chân thất thế, là loạn trí hay trở nên ngơ ngác
quái gở lập dị rồi. Ta có thể nhận thấy cái nhìn ngơ ngác quái gở đó
trên vẻ mặt của nhiều người. Tôi muốn khám phá xem nhu cầu an ninh này
thật sự do đâu mà ra, vì chính sự tham cầu này mà giữa những cuộc tương
giao nhân sinh mới dấy khởi lòng ganh ghét, lo âu, thù hằn, cảnh khổ sở
mà phần đông chúng ta đang sống. Cứ mong cầu sự an ninh ấy từ hàng triệu
năm đã trước nhiễm quá đỗi như vậy rồi, làm sao tâm thức ấy có thể khám
phá được bản chất đích thực của nhu cầu kia? Dĩ nhiên nếu tôi muốn khám
phá thì tôi phải hoàn toàn thông cảm với nhu cầu ấy. Tôi không muốn nhờ
ai dạy cho tôi: như vậy là dại dột – tôi phải tự mình tìm học. Tôi phải
khai phá, phải nhận biết nhu cầu an ninh ấy, phải hoàn toàn mật thiết
với nó, bằng không tôi không thể nào biết được rằng có hay không cái mà
người ta gọi là sự an toàn, an ninh. Chắc chắn đây là vấn đề chính yếu
cho phần đông chúng ta. Nếu tôi tìm thấy rằng không có an toàn an ninh
gì cả, thì tôi không còn tạo tác ra những vấn đề gì nữa, có phải thế
không, vì bấy giờ tôi đứng ra ngoài những cuộc đấu tranh tìm cầu an
ninh: hành động của tôi trong các cuộc tương giao với người khác trở
thành khác hẳn. Nếu vợ tôi muốn bỏ tôi, thì cứ bỏ, tôi sẽ không lấy đó
làm một thảm kịch, tôi sẽ không thù oán ai cả, tôi sẽ không ganh ghét,
đố kỵ, nóng giận gì ai cả, vân vân.
Tôi
thấy bây giờ các ngài nghe tôi rất chú ý. Chắc là vì các ngài quen
thuộc với khía cạnh vấn đề này hơn tôi. Cứ riêng tôi thì tôi không muốn
làm sự an ninh trở thành một vấn đề. Tôi không muốn tạo tác vấn đề gì
hết, dù về kinh tế, xã hội, tâm lý hay về cái gọi là tôn giáo. Tôi thấy
rất rõ ràng mỗi vấn đề đều khiến mình hoá ra hôn trầm, vô cảm, và chỉ có
cái tâm thức hết sức mẫn cảm mới là thông minh. Và do vì nhu cầu an trú
rất đỗi sâu đậm và mãnh liệt nơi mỗi chúng ta đây, cho nên tôi muốn
biết coi quả có hay không có sự an ninh an toàn. Nhưng biết được điều ấy
là việc rất khó khăn, vì chẳng những từ khi ta còn thơ bé, mà từ cả hồi
khởi thỉ xa xưa kia, con người luôn luôn cảm thấy cần được an ninh, an
toàn trong việc làm, trong tư tưởng, trong xúc cảm, trong tín ngưỡng,
trong những tình cảm ái quốc, trong gia đình, trong của cải tài sản.
Chính bởi thế mà ký ức, cùng những truyền thống tập tục, tất cả toàn bộ
ấy của quá khứ, đã giữ một vai trò quyết định trong cuộc đời chúng ta.
Mà
mọi kinh nghiệm lại đều tăng gia cảm ý tìm cầu an ninh, an toàn của tôi
thêm. Các ngài hiểu chứ? Mỗi một kinh nghiệm đều được ghi vào ký ức,
cộng thêm vào mớ tích luỹ sẵn có từ trước.
Kinh
nghiệm tích trữ ấy trở thành cái hậu trường thường trực trong suốt cả
đời tôi, và tôi lấy hậu trường ấy để sống những kinh nghiệm mới, thành
thử mỗi kinh nghiệm mới này cộng thêm vào hậu trường ký ức kia, tôi
nương vào đó để cảm thấy mình an toàn, an trú. Vậy tôi phải nhận thức
cái tiến trình qui định trước nhiễm lạ lùng ấy của tôi. Không phải cố lo
giải toả thoát ra sự qui định tâm thức kia của tôi, mà phải thông cảm
với nó từ phút này đến phút khác. Bấy giờ tôi mới có thể nhận thức được
tham vọng cầu an, để không lấy điều ấy làm thành một vấn đề.
Nói thế rõ ràng chứ? Các ngài muốn hỏi thêm gì không?
H: Không có thông cảm được vì tâm thức đeo mang gánh nặng của tự ngã.
K:
Thưa ngài, tôi hỏi ngài một câu: thông cảm là gì? Khi tôi hỏi ngài câu
ấy, cái gì phát hiện trong tâm thức ngài? Toàn bộ tâm thức qui định của
ngài liền vận dụng và ngài mới trả lời; nhưng thật sự ngài đã không nghe
câu hỏi. Từ trước ngài từng đã có hay không có nghĩ về điều ấy. Có lẽ
ngài có dịp nào nghĩ đến, hay đã đọc ít nhiều về điều ấy trong sách vở
và nay ngài lặp lại những gì ngài đã đọc, nhưng ngài không thật sự nghe
câu tôi hỏi. Khi có ai bảo ngài: “Hãy thử thông cảm với một cội cây”,
thì dĩ nhiên là nếu việc ấy có phần nào hứng thú cho ngài, trước tiên
ngài phải hiểu rõ điều ấy nó như thế nào trước đã: ngài đến ngồi dưới
một tàng cây, hay bên bờ sông hoặc cạnh trái núi hoặc ngài chỉ nhìn vợ
hay con. Thông cảm nghĩa là gì? Nghĩa là tuyệt đối không có sự ngăn cách
chướng ngại của tư niệm giữa người năng quán với đối tượng sở quán.
Người năng quán tất không tự đồng hoá với cội cây, với con người, với
dòng sông, với trái núi, với trời mây gì cả; tuyệt chẳng có ngăn ngại gì
hết. Nếu có một tự ngã, với sự phức tạp của những tư niệm và của những
mớ bận tâm của nó khi nó nhìn cội cây, thì chẳng có thông cảm gì được
cả. Thông cảm với một người nào hay với một vật gì, tất phải có khoảng
cách, phải có sự im lặng, thân thể, những thần kinh, trí và tâm, toàn
bản thể, phải được tịnh định, phải như như bất động hoàn toàn. Ngài đừng
hỏi: “Làm sao bất động?”. Ngài chớ nên làm sự im lặng hễ cơ vận một vấn
đề. Cứ nhận thấy rằng hễ cơ vận của tư niệm hay tác động thì tất nhiên
không có cảm thông gì hết… nhưng thế không có nghĩa là phải ngủ gật hôn
trầm!
Chắc
ngài chưa từng làm thế bao giờ. Ngài không hề có thông cảm gì với vợ,
với chồng, với con cái, với những kẻ mà ngài ngủ, thở, ăn, sống cuộc đời
mình cùng chung với họ, có lẽ ngài cũng chưa bao giờ thông cảm với
chính mình. Nếu là người Công giáo, ngài đi nhà thờ và tiếp nhận cái mà
người ta gọi là Thánh Thể, nhưng có phải là cảm thông thánh thể đâu.
Tuân hành như vậy quả là thiếu sự trưởng thành lắm vậy!
Khi
nói thông cảm với thiên nhiên, với núi non, hay thông cảm lẫn nhau giữa
người với người, thì phần đông chúng ta đều không biết đó là gì, liền
cố tưởng tượng. Ta suy luận về điều ấy rồi bảo: “Chính cái tự ngã đã
ngăn ngại sự thông cảm”. Xin ngài đừng lấy đó làm một vấn đề khác nữa.
Ngài đã có nhiều vấn đề quá rồi. Xin ngài hãy lắng nghe thôi. Đây, ngài
đang thông cảm với tôi và tôi thông cảm với ngài. Tôi đang nói chuyện
với ngài, và muốn nhận hiểu tôi, ngài cứ lắng nghe thôi. Nghe là chú ý
mà không cố gắng, trong đó các thần kinh đều được an nghỉ ung dung. Khỏi
cần phải tự nhủ: “Tôi phải lắng nghe đây”, rồi cứ mà cứng đơ co quắp và
làm căng thẳng những dây thần kinh của mình. Nghe nói có nghĩa là lắng
nghe thoải mái ung dung, lặng lẽ, khả dĩ đón nhận những điều mà người
nói đang muốn tỏ bày. Điều mà người ấy nói có thể là một điều hoàn toàn
ngu xuẩn, hay có thể là một thực tại, và muốn biết rõ, tất phải lắng
nghe – nhưng việc lắng nghe dường như là việc rất khó khăn cho ngài.
Ngài không lắng nghe đâu, tận nơi tâm trí ngài, ngài đang cãi lẽ với
tôi, tạo dấy lên một hàng rào toàn rặt những tiếng những lời.
Chỗ
quan trọng ở đây là tự thông cảm với chính mình một cách dịu hoà và tự
tại, để có thể theo dõi mỗi cử động của những tư niệm cùng những tình
cảm của mình, y như theo dõi ngọn suối cỏn con vậy: nhận thấy mỗi sự vận
hành của tư niệm, mỗi sự chuyển biến của tình cảm, tịnh không màng sửa
đổi gì trong đó, tịnh không bảo rằng nó phải hay quấy, tịnh không có
những phê phán trưởng giả, ngớ ngẩn, ti tiện nào cả. Cứ quan sát thôi,
và do sự quan sát ấy, khi mà ta không tự đồng hoá với một tư niệm nào
cả, với một tình cảm nào cả (dù vui thích hay buồn phiền) thì ta mới
thấy rằng ta vốn có thể thông cảm với chính mình vậy.
Phần
đông chúng ta muốn được an ninh tâm lý, gắng sức tìm sự an ninh ấy, bởi
thế mà gia đình trở thành ác mộng, vì ta lợi dụng gia đình một cách
kinh tởm để an định cho kỳ được sự an ninh bản thân. Kế đó lấy quốc gia
làm chỗ an ninh cho ta, và ta liền dấn thân lao đầu vào những việc ái
quốc xuẩn động. Trong thể chế gia đình, hẳn chẳng có gì là ác hại cả,
chỉ khi ta lợi dụng gia đình làm chỗ an ninh, tâm lý cho ta, thì gia
đình mới thành cái thuốc độc giết người.
Muốn
sợ điều ấy ta phải thông cảm với lòng tham cầu muốn được an toàn an
ninh, cái lòng sở cầu ăn sâu bén rễ quá đậm trong lòng ta rồi. Nó trở đi
trở lại mãi dưới xiết bao hình thức: chẳng những trong gia đình thôi,
mà cả trong những kỷ niệm và trong sự áp chế hay ảnh hưởng tương sinh
trong các cuộc tương giao giữa người với người. Ta nhớ lại những sự việc
nào trong các cuộc tương giao ấy khả dĩ làm ta vui thích, sự việc nào
đã làm cho ta ít nhiều hy vọng hay ít nhiều bảo đảm gì đó, và ta ẩn náu
trong các kỷ niệm ấy. Còn có sự an ninh của việc lanh lợi tháo vát của
sở học kiến thức, lại có sự an ninh qua tài năng: ta biết vẽ, ta biết
chơi đàn, hoặc ta có một khả năng nào khác.
Khi
ta thông cảm với lòng ham muốn xui khiến tìm cầu sự an ninh, và khi ta
nhận thấy chính lòng ham muốn kia đã dấy sinh những sự mâu thuẫn ở nội
tâm, vì tuyệt nhiên chẳng có gì trên đời này, kể cả chính bản thân ta
đây nữa, chẳng có gì là an toàn, an ninh cả, vừa khi mình nhận thấy ra
điều ấy (chẳng phải nhờ ai chỉ bảo cho) và khi mình đã giải quyết trọn
vẹn vấn đề rồi, thì mình đã thoát ngay vòng mâu thuẫn, và do đó mà thoát
cả sự sợ hãi.
Nói
thế đã đủ cho hôm nay chứ?… không biết có bao giờ các ngài từng được
lặng lẽ nơi tự tâm chăng. Khi bước trên đường phố thì tâm thức được hoàn
toàn tịch lặng, ta quan sát, ta lắng nghe, mà không tư niệm gì cả. Khi
ta cầm lái xe, ta nhìn con đường, nhìn những cây cối, nhìn các xe đang
qua qua lại lại, đó là quán sát mà không nhận biết, mà không có sự vận
dụng tác động của tư nhiệm. Tư niệm cần vận hành tác động thì nó càng
tiêu mòn tâm thức, nó không chừa chỗ cho tính hồn nhiên ngây thơ và chỉ
có tâm thức hồn nhiên mới có thể nhận thấy được thật tại.
4.
Thay đổi và chuyển hoá rất khác xa nhau. Chỉ một việc thay đổi suông thôi không đưa tới đâu cả. Ta có thể tập luyện để được thích ứng một cách hời hợt bề ngoài, để tuân rập phụ họa khéo léo với những hoàn cảnh khác nhau, với những trường hợp cơ duyên, với những trói buộc nội tâm và ngoại cảnh; nhưng sự chuyển hoá đòi hỏi một tâm trạng khác hẳn. Hôm nay tôi xin vạch rõ chỗ dị biệt đó.
Thay đổi và chuyển hoá rất khác xa nhau. Chỉ một việc thay đổi suông thôi không đưa tới đâu cả. Ta có thể tập luyện để được thích ứng một cách hời hợt bề ngoài, để tuân rập phụ họa khéo léo với những hoàn cảnh khác nhau, với những trường hợp cơ duyên, với những trói buộc nội tâm và ngoại cảnh; nhưng sự chuyển hoá đòi hỏi một tâm trạng khác hẳn. Hôm nay tôi xin vạch rõ chỗ dị biệt đó.
Thay
đổi là biến chế và canh cải, đó là thay một sự thể này bằng một sự thể
khác. Mọi cuộc thay đổi đều ngụ ý có một hành vi của ý chí, hoặc có tính
cách hữu thức hoặc vô thức. Khi nhìn thấy sự hỗn loạn, sự đói kém, sự
áp bức, sự khốn khổ cùng cực, sự đói kém, sự áp bức, sự khốn khổ cùng
cực của toàn cõi Á châu hậu tiến, tất nhiên ta thấy cần phải có một cuộc
thay đổi tận căn để có tính cách cách mệnh, chẳng những về mặt vật chất
hay kinh tế, mà cả về mặt tâm lý nữa: một cuộc thay đổi ở mọi giai tầng
của bản thể chúng ta, ở ngoại cảnh cũng như ở nội tâm, khả dĩ cải thiện
cuộc sống con người. Điều ấy là dĩ nhiên cả những kẻ, dù có óc bảo thủ
nhất đời đi nữa, cũng đồng ý như vậy. Nhưng tôi e rằng mặc dù có nhìn
nhận điểm này đi nữa, ta cũng không nhận thấy những gì ngụ hàm trong đó.
Ta có nhận thấy cho thâm sâu hơn rằng chỉ nội việc vá víu, nội cái việc
thay thế, nội cái việc canh cải, đều chỉ là giũa với mài cho bóng
loáng, và thế, tức là chỉ lo nội cái việc thanh lọc thói tục qua loa
thôi? Tôi thiết tưởng chúng ta cần nền nhận hiểu thâm sâu vào nội dung ý
nghĩa tiềm tàng của việc chúng ta lo chế biến thay đổi, trước khi xem
xét sự chuyển hoá hiểu theo ý nghĩa của tôi.
Tuy
các cuộc chế biến ấy đành là cần thiết, nhưng theo tôi, chúng chỉ luôn
luôn toàn là có tính cách ngoài mặt phơn phớt đấy thôi. Toàn là những
việc do dục vọng hay ý chí phát động, toàn là những sáng kiến hướng vào
một chỗ nhất định, hướng vào một lối xử sự và một hành vi rất cố định.
Tất nhiên là mọi thay đổi nào được phát động một cách hữu ý hẳn nhiên
đều gồm một dụng ý, dụng ý này có thể của một cá nhân hay của một tập
đoàn, có thể lộ liễu hay tiềm ẩn; dụng ý ấy có thể từ thiện, rộng lượng,
hay do sợ hãi và tuyệt vọng khởi sinh, thế nào cũng gây cho ta một mớ
thay đổi. Với tư cách là cá nhân hay tập đoàn, chúng ta vốn rất dễ dàng
thay đổi lề lối xử sự tùy theo những ảnh hưởng hay những áp lực hoặc khi
có một cuộc phát minh sáng chế nào liên quan đến cuộc sống của ta một
cách trực tiếp hay gián tiếp. Người ta có thể khiến chúng ta biến cải
thỏa thuận của ta, dẫn tư tưởng của ta vào đường này hay lối nọ bằng
những bài báo hay bằng những cuộc tuyên truyền ý thức hệ. Các tôn giáo
có tổ chức buộc ta phải chỉ chịu giáo dục ngay từ lúc bé thơ theo một mớ
tín ngưỡng khả dĩ qui định trước nhiễm ta suốt đời, đến nỗi mọi thay
đổi nào phát sinh được ở ta vẫn vướng kẹt lẩn quẩn trong khuôn khổ của
các tín ngưỡng ấy.
Tựu
chung, chẳng mấy ai trong chúng ta thực sự thay đổi mà không phải vì
một duyên cớ nào đó. Duyên cớ này có thể có tính cách vị tha hay vị ngã,
hạn hẹp hay rộng rãi, nó có thể là sợ hãi không được ban thưởng này hay
không chứng đạt một quả vị nào đó trong vị lai. Kẻ thì hy sinh cho một
đoàn thể, người thì hy sinh cho nhà nước, cho một ý thức hệ hay chủ
nghĩa hay cho một lối tín ngưỡng nào đó về Thượng đế, làm thế với mục
đích có tính cách hữu thức hay vô thức là thay đổi con người. Nhưng cái
mà họ gọi là thay đổi đó chỉ là sự liên tục có chút ít chế biến đối với
cái đã sẵn có. Chúng ta đã trở thành xảo quyệt trong mớ trò ấy, ta thực
hiện liên miên bao nhiêu khám phá về vật lý, về toán học, về các khoa
học thực dụng, ta sáng chế phát minh trong mọi lãnh vực, ta đang sửa
soạn lên tận mặt trăng. Ở một vài phạm vi, ngày nay chúng ta rất đỗi
uyên bác và biết bao nhiêu sự việc, và những thay đổi đại loại như thế
ngụ nghĩa rằng mình có khả năng điều chỉnh thích ứng liền với hoàn cảnh
mới và với những thúc bách mới do hoàn cảnh ấy dấy sinh. Nhưng thế đã đủ
chăng? Hẳn ta có thể nhận thấy những gì nằm trong lối vá víu thiển cận
ấy, và cảm thấy cần phải có một cuộc chuyển hoá tận căn nơi tâm nội mà
không do một dụng ý gì phát động, cũng không phải là thành quả của sự
cưỡng bức bắt buộc. Ta có thể nhận thấy cần phải có một cuộc chuyển hoá
ngay tại căn cội của quan năng tư tưởng, bằng không thì con người chẳng
qua chỉ là những con khỉ thông thái, có nhiều khả năng lạ lùng, nhưng
chẳng phải là những con người đích thực.
Khi
ý thức sâu xa điều vừa trình bày, ta phải làm thế nào? Bằng chẳng có
cuộc chuyển hoá tận căn ấy, thật cách mệnh ấy, bằng chẳng có cuộc chuyển
hoá ấy ngay tại căn cội của bản thể ta, thì các vấn đề của chúng ta về
mặt kinh tế và xã hội cứ càng lúc càng gia tăng và càng trở nên trầm
trọng. Vậy tâm thức chúng ta cần phải mới mẻ và tươi nhuận, và muốn được
vậy, cuộc chuyển hoá ấy phải phát sinh tận nơi sâu thẳm của tâm thức
ta, và không thể chỉ là thành quả của một hành vi ý chí: cuộc chuyển hoá
ấy phải không có tính cách dụng ý.
Không biết tôi nói thế có rõ ràng chăng.
Khi
thấy cần thiết phải thay đổi, ta có thể vận dụng ý chí của ta để phát
động ra cuộc thay đổi ấy. Ý chí là một dục vọng do một sự quyết định
hướng dẫn nó vào một đường hướng đặc biệt nào đó và do tưởng niệm, sợ
hãi, sự chống kháng phát động. Nhưng mọi sự gì có thể kết thành do một
hành động nào phát từ dục vọng, từ ý chí, đều bị giới hạn, cục bộ. Đó
chỉ là diên trì biến tướng của những gì đã hiện hữu, như ta có thể thấy
điều ấy trong thế giới cộng sản, cũng như trong những xứ tư bản. Vậy cần
phải có cuộc cách mệnh phi thường, một cuộc cách mệnh tâm lý ở bản thể
con người, trong chính con người, nhưng nếu con người đeo mang một mục
đích nào, một kế hoạch nào, thì cuộc cách mệnh ấy lại lẩn quẩn trong
giới hạn của cái đã biết, thế tức là không có mảy may gì là thay đổi cả.
Tôi
có thể thay đổi tôi, tôi có thể buộc tôi thay đổi cách thức tư tưởng
của tôi, có thể thuận nhận những tín ngưỡng, có thể buộc mình từ bỏ
những thói quen, gác dẹp niềm ái quốc hẹp hòi của tôi; tôi có thể tự
mình “tẩy não” cho mình, thay vì phải chịu một chính đảng hay một giáo
hội nào tẩy não cho. Mọi việc đó đều khá dễ dàng nhưng tôi thấy toàn là
luống công, vì toàn chỉ hời hợt bên ngoài, không đưa đến tận chỗ giác
ngộ sâu mầu mà từ đó mới có thể thật sự sống, thật sự hiện thể và thật
sự hành động. Thế thì ta phải làm sao đây?
Các
ngài có nhận hiểu câu hỏi của tôi chứ? Mong rằng tôi đặt câu hỏi rõ
ràng: Nếu tôi cố gắng để thay đổi, thì sự cố gắng ấy tất nhiên phải có
một dụng ý, nghĩa là có một tư dục phát động một hành vi vào một hướng
nào đó. Nghĩa là có sự vận dụng của một ý chí, thế là chỉ tạo ra có sự
chế biến, chứ tuyệt chẳng phải một cuộc thay đổi nào cả.
Tôi
nhận thấy rõ là tôi cần phải thay đổi; thay đổi không cố gắng. Mọi cố
gắng vào đó đều tự hủy hoại lại chính nó, vì cố gắng hàm ý có việc áp
dụng một tư dục, một ý chí, tuân theo một kiểu mẫu định sẵn, một công
thức, một khái niệm. Thế thì tôi có thể là gì đây?…
Không
biết các ngài có nhận thấy chỗ đó như tôi chăng, không biết các ngài có
nhận thấy chỗ yếu chỉ phi thường của câu hỏi đó chăng, chẳng phải thấy
nó bằng sự suy luận có tình cách trí thức, mà nhận thấy quả điều ấy như
là yếu tố tối trọng trong cuộc sống chúng ta. Trải bằng bao triệu năm
rồi, con người cứ cố gắng tự chế biến mình, thế mà họ vẫn luôn luôn mắc
phải xao xuyến, tuyệt vọng, sợ hãi, với vài khoảnh khắc an vui và hạnh
phúc hiếm hoi thôi. Vậy cái thực thể là con người kia, đã bị qui định
trước nhiễm quá ư nặng nề từ lâu, làm sao họ có thể bỏ được gánh nặng ấy
mà không cố gắng? Không cố gắng, vì việc trút gánh nặng này nhất định
không nên trở thành một vấn đề khác nữa. Như bữa trước tôi đã nói, đeo
mang một vấn đề tức là sa vào một trạng huống tâm lý mà ta không hiểu
được trọn vẹn, không khám phá đến tột cùng, không giải trừ được.
Tạo
ra cuộc chuyển hoá ư?… Không, từ ngữ này sai rồi. Cuộc chuyển hoá ấy
phải xuất hiện, và phải xuất hiện ngay tức thời. Nếu ta đem yếu tố thời
gian xen vào, thì thời gian sẽ dấy tạo ra một vấn đề ngay. Không có ngày
mai, không có cái thời hạn để tiến tới một cuộc thay đổi, vì thời hạn
chỉ là tư tưởng. Thay đổi thì phải ngay tức thời đây, hay chẳng hề thay
đổi bao giờ cả. Các ngài hiểu chứ?
Tôi
nhận thấy cần phải thay đổi tận căn nguyên nơi bản thân tôi với tư cách
là một con người thuộc trong toàn cả nhân loại; và tôi cũng cảm thấy
rằng thời gian – nghĩa là tư tưởng – không được xen tạp vào đây, rằng
thời gian không thể giải quyết được vấn đề này. Tôi đã từng cố gắng cách
đó trong bao nghìn năm rồi, thế mà tôi không thay đổi gì được cả. Tôi
cứ sống mãi với những thói quen của tôi, với tính tham lam của tôi, tôi
vẫn cứ bị tù hãm trong óc tranh chấp tổ thành cái nền hiện hữu. Chính tư
tưởng đã cấu tạo cái nền ấy, và bất luận ở trường hợp nào, tư tưởng
không sao biến đổi cái nền đó mà không dấy tạo một cái nền khác nữa: tư
tưởng, chính là thời gian vậy. Thế mà tôi không thể lấy thoả thuận, lấy
thời gian, mà phát động được cuộc chuyển hoá, phát động được cuộc thay
đổi tận căn nguyên. Không cuộc can thiệp nào của ý chí, không một tư
tưởng nào có thể hướng đạo cho cuộc chuyển hoá ấy được hết.
Vậy
còn gì lại cho tôi? Tôi ghi nhớ rằng tham dục – tức là ý chí – không
thể phát động được nơi tôi một cuộc chuyển hoá đích thật; rằng con người
đã từng chơi cái trò ấy từ bao thế kỷ rồi mà không phát động được cuộc
thay đổi gốc rễ nơi họ; rằng họ đã vận dụng tư tưởng, tức vận dụng thời
gian, vận dụng vị lai với bao nhiêu đòi hỏi trói buộc của vị lai, bao
nhiêu phóng tưởng bày biện, bao nhiêu áp lực, bao nhiêu ảnh hưởng của
nó, mà vẫn không tạo thành được cuộc chuyển hoá nào cả. Thế thì còn gì
nữa để làm?
Nếu
ta hiểu được toàn bộ cơ cấu và hiểu được hết hành tung của ý chí, thì ý
chí tất không khởi động nữa. Và nếu ta nhận thấy rằng sử dụng tư tưởng,
tức sử dụng thời gian, như là dụng cụ để chuyển hoá thì chỉ là sự triển
hạn giải đãi thì lúc ấy tiến trình tư tưởng liền chấm dứt. Nhưng, hiểu
nghĩa là gì? Phải chăng là cuộc tác động có tính cách trí thức ở bình
diện ngôn từ, hay nó là sự quán sát một sự kiện? Ta có thể tự bảo: “Tôi
hiểu đấy”, nhưng danh từ không phải chính là sự vật: thì ra, hiểu một
vấn đề nào bằng trí não, thì có phải đâu là giải quyết vấn đề đó được.
Cái gọi là nhận hiểu bằng trí não đó, thực ra, chỉ toàn là văn từ, trong
đó danh từ chiếm phần quan trọng. Nhưng khi có sự nhận hiểu đích thực,
thì danh từ không còn quan trọng gì nữa nó chỉ là cái phương tiện để
truyền đạt vậy thôi, và ta tiếp xúc trực chỉ với thực tại, tức là với sự
kiện hiện thực. Nếu trong cuộc chuyển hóa tận cùng vừa nói đây mà ta
thấy cái vô dụng của tư tưởng, của thời gian, thấy như một sự kiện hiện
thực, thì hẳn ta liền vứt bỏ đi tất cả cơ cấu của ý chí và của tư tưởng,
tất nhiên ta không còn một dụng cụ gì để tác hành nữa.
Cho
mãi đến đây, các ngài và tôi, chúng ta đã truyền đạt nhau trên mặt ngôn
từ, và có lẽ ta cũng lập được cuộc giao cảm nào đó. Nhưng trước khi
tiến xa hơn nữa, tôi xin trở lại với việc thông cảm. Nếu các ngài dạo
chơi một mình trong rừng sâu hay dọc theo một bờ suối, và nếu các ngài
cảm nhận niềm yên tĩnh cùng sống trọn vẹn với tất cả – với những phiến
đá, với các bông hoa, với ngọn suối reo, với cỏ cây, với trời mây – tất
ngài biết thông cảm là gì rồi. Bấy giờ, cái “tự thân” của ngài với các
tưởng niệm, các lo âu xao xuyến, các vui thích, các ký ức, các kỷ niệm,
các thất vọng đều đã bặt vong trọn vẹn. Bấy giờ chẳng có cái “tự thân”
làm người năng quán tách biệt với các sở quán, mà chỉ có cái tâm trạng
thuần thông cảm mà thôi. Và chính đó là cái mà chúng ta đã tạo được tại
nơi đây, tôi mong vậy lắm. Không phải cái tâm trạng bị ám thị; người
đang nói đây không ảnh hưởng tới các ngài: người đó đã dẫn giải với các
ngài tỉ mỉ một vài điều rồi bằng ngôn từ. Nhưng còn nhiều điều nữa,
không thể nói bằng lời được. Danh từ có thể thông báo cho các ngài tới
một mức độ nào, nhưng đồng thời các ngài phải nhớ cho rằng danh từ không
phải là đúng sự vật, danh từ không được xen tạp vào sự nhận thức trực
chỉ về một sự kiện. Nếu ngài có dịp thông cảm với một cội cây, hay tự
hỏi coi nó hữu ích gì không. Cuộc thông cảm của ngài với cội cây hẳn là
trực tiếp. Cũng thế, ở đây chúng ta phải thành lập cuộc thông cảm với
nhau như thế, vì điều sắp nói đây là một trong những điều rất khó nói
năng bày tỏ.
Chúng
ta đã nói tới chỗ mà hành vi của ý chí, hành vi của tư tưởng (là thời
gian) và sự vận hành phát xuất từ mọi ảnh hưởng và mọi áp lực đều vong
bặt. Khi tâm thức đã quan sát ngoài vòng danh ngôn, và hiểu được sự kiện
đó, thì liền tịch lặng trọn vẹn. Nó không mong sinh bất cứ một động
niệm nào, dù hữu thức hay tiềm thức. Nhưng đây hãy còn một điểm mà ta
cần xem xét trước khi tiến xa hơn.
Ở
ý thức, ngài có thể không muốn tác động gì trong bất cứ một hướng nào,
vì ngài đã nhận rõ chỗ vô dụng của mọi sự biến cải hữu ý tính toán, từ
việc biến cải của người cộng sản đến việc biến cải của kẻ bảo thủ phản
động tột bực. Ngài đã nhận thấy tất cả những thứ ấy là luống công. Nhưng
tại kỳ trung, một cách vô thức, có một mãnh lực của quá khứ thúc đẩy
ngài vào một đường hướng như là người Âu châu, như là người Công giáo,
như là nhà khoa học, nhà toán học, nhà nghệ sĩ hay nhà kỹ thuật; và cả
một tập tục nghìn đời được giáo hội khai thác chu đáo, đã tiêm nhiễm vào
tiềm thức các ngài một mớ tin tưởng và một mớ tín điều. Có thể ngài bỏ
quách chúng được một cách hữu thức, nhưng trong vô thức, gánh nặng ấy
vẫn còn mãi đấy, các ngài vẫn cứ là người Công giáo, người Anh, người
Đức, người Ý hay người Pháp, sự thể này khiến ngài nghiêng theo những
quyền lợi quốc gia, về kinh tế hay về gia tộc, hoặc nghiêng theo các tập
tục của giống nòi mình. Khi cái giống nòi ấy càng rất xưa thì ảnh hưởng
của nó lại càng sâu thẳm nữa.
Làm
sao quét sạch được tất cả những thứ ấy? Làm sao vô thức có thể tẩy sạch
quá khứ đi? Những nhà phân tâm học nghĩ rằng vô thức có thể được tẩy
xoá một phần hay toàn diện bằng sự phân tích, bằng sự khảo sát, bằng sự
khai phá, bằng sự tự thú, bằng sự diễn dịch các giấc chiêm bao, vân vân,
nghĩ rằng do đó ta có thể ít ra cũng trở nên một người “bình thường” đủ
sức thích ứng với thế gian hiện đại. Nhưng cuộc phân tích và một người
chịu phân tích, tức là có một người năng quán diễn dịch đối tượng sở
quán, tức là gồm có một sự tính nhị nguyên, tức một xuất xứ cho sự xung
chướng, xung đột.
Vậy
tôi nhận thấy rằng sự phân tích không đưa tới đâu hết. Sự phân tích ấy
chỉ có thể giúp tôi bớt loạn thần đi chút ít, cho tôi khá dễ dãi đôi
chút với vợ tôi hay với người bên cạnh, hoặc vượt qua được một khó khăn
nào cũng có tính cách hời hợt như thế. Nhưng đây chúng ta không nói về
phân tích. Tôi nhận thấy rằng công cuộc phân tích, ngụ nghĩa thời gian,
nghĩa là những diễn dịch sự vận hành của tư tưởng với tư cách là thực
thể năng quán phân tích những gì nó xem xét, tất nhiên không thể khai
phóng cho vô thức, cho nên tôi bỏ trọn vẹn công cuộc phân tích ấy đi.
Tôi không phân tích gì nữa cả. Thế thì sao? Vì đây không còn là một
người phân tích khác biệt với đối tượng phân tích. Lúc ấy ta chính là
cái tâm thức ấy, ta không còn là thực thể gì khác biệt với tâm thức ấy,
và ta liền thấy ngay rằng vô thức không quan trọng gì lắm. Các ngài nghe
kịp chăng?
Tôi
đã vạch rõ cho thấy rằng ý thức không có giá trị gì với những hành tung
thiển cận của nó, với sự ba hoa không ngừng của nó; và cả vô thức cũng
không giá trị như thế. Cả hai sở dĩ thành ra quan trọng chỉ là vì tư
tưởng xen vào và gia cho chúng tính cách liên tục. Tư tưởng vốn có vai
trò của nó, nó có ích cho cả thảy mọi vấn đề kỹ thuật nhưng nó hoàn toàn
vô dụng trong cuộc chuyển hoá tận gốc. Khi tôi nhận thấy tư tưởng vốn
gia sự liên tục cho người năng niệm như thế nào rồi, thì sự liên tục tức
là thực thể năng niệm ấy liền vong bặt đi. Mong các ngài nghe rõ mấy
điều đó vì cần phải chú ý tỉ mỉ thì mới nhận được.
Tôi
lặp lại rằng ý thức và vô thức cả hai đều không quan trọng là bao, sở
dĩ chúng quan trọng là vì tư tưởng gia sự liên tục cho chúng. Khi ta
nhận thấy rằng toàn tiến trình tư tưởng quả là cuộc phản ứng của quá khứ
và tất nhiên không thể ứng đáp gì cả với những đòi hỏi vĩ đại của cuộc
chuyển hoá, thì ý thức và vô thức không còn quan trọng chi nữa hết, và
ta không còn bị chúng dẫn dắt nữa. Tất nhiên ta không cần cử tâm động
niệm gì cả, ta hoàn toàn tịnh định, tịch tịnh, tịch lặng. Thế thì mặc dù
ta vốn biết rằng cần thiết phải có cuộc chuyển tâm, phải cuộc cách mệnh
trọn vẹn tận gốc của bản thể, thánh giá cũng vẫn không cử sự động niệm
gì hết, bất cứ là về hướng nào, rồi trong sự nhận thức trọn vẹn này,
trong niềm tịch lặng tròn đủ này, cuộc chuyển hoá đã được nảy sinh. Thế
là cuộc chuyển hoá chỉ nảy sinh trong chỗ bất định hướng, khi tâm thức
không động niệm vào một hướng nào, khi nó chẳng khiến tâm thức động
niệm, khi nó hoàn toàn tịch tịnh. Trong niềm tịch tịnh này thì có cuộc
chuyển hoá, vì trong niềm tịch tịnh toàn bộ căn cội của bản thể ta lộ
bày ra và tự tiêu giải. Đó là cuộc cách mệnh đích thực duy nhất, không
phải có tính cách kinh tế hay xã hội gì, không sinh nở do ý chí hay tư
tưởng gì cả. Chỉ trong cái tâm chuyển hoá đó ta mới nhận chân được thực
tại vượt lên trên cuộc tư nghị của danh từ, nhận chân được cái tối cao,
vượt ra ngoài vòng thần học, trí thức.
Mong sao tất cả những điều trình bày này không là cho các ngài buồn ngủ! Có lẽ các ngài muốn hỏi tôi vài câu gì nữa?
H: Tôi
có thể nhận thấy rằng tư tưởng giam hãm tôi vào chỗ cô lập, vì nó ngăn
ngại tôi không để thông cảm được với những gì quanh tôi và nó cũng ngăn
ngại tôi không cho đến tận căn cội của tự tâm. Nay tôi xin hỏi ngài: Tại
sao con người tư tưởng? Tác dụng của thoả thuận con người như thế nào?
Và tại sao chúng ta lại quá đỗi xem trọng tư tưởng như thế?
K: Tôi tưởng như tôi đã thông qua hết những điều ấy rồi, nhưng không sao, đây tôi xin dẫn giải.
Mà
nghe dẫn giải không phải là nhận thấy sự kiện, và ta không thể thông
cảm nhau bằng cuộc dẫn giải nếu ta không nhận thấy sự kiện và nếu ta
không để sự kiện được y nguyên như thế, đừng đả động tới nó. Sở dĩ ngài
không xen vào sự kiện là vì ngài thông cảm với nó, nhưng nếu ngài diễn
dịch nó một đằng và tôi diễn dịch nó một ngả thì ta vẫn không thông cảm
với nó mà cũng không còn thông cảm với nhau nữa.
Tư
tưởng vốn khu biệt tước mất cái dụng cụ duy nhất để ta thông cảm – là
tình thương – vậy tư tưởng xuất sinh thế nào? Và làm thế nào nó chấm dứt
được? Tư tưởng – tức tất cả sự vận hành của nó – phải được lãnh hội, và
chính sự lãnh hội này là sự vong bặt của nó.
Tôi
xin giải thích: tư tưởng xuất sinh để phản ứng lại một thách thức xúc
sự. Nếu chẳng có thách thức xúc sự, tất nhiên ta không tư tưởng. Việc
thách thức xúc sự có thể là một việc tầm phào hay một việc rất quan
trọng mà ta ứng đáp lại. Trong khoảng thời gian giữa câu hỏi nọ với câu
ứng đáp này tiến trình tư tưởng mới vận hành. Nếu ngài hỏi tôi về những
gì quen thuộc đối với tôi thì tôi liền trả lời tức khắc. Chẳng hạn nếu
ngài hỏi tôi ở đâu, thì không có khoảng thời gian ở giữa câu hỏi của
ngài với câu đáp của tôi, vì tôi không cần suy tưởng khi trả lời: câu
trả lời của tôi xảy ra tức khắc. Nhưng nếu câu hỏi của ngài có vẻ phức
tạp hơn thì tôi cần nhiều thời giờ hơn để tìm câu ứng đáp trong ký ức
tôi. Nếu ngài hỏi tôi trái đất cách mặt trăng bao xa, tôi tự hỏi xem có
biết điều ấy không và tôi tìm kiếm trong ký ức tôi. Giữa câu ứng đáp của
tôi và câu hỏi của ngài, có một khoảng thời gian trong đó ký ức tôi vận
dụng và đưa ra câu trả lời. Thế thì một thách thức xúc sự có thể sinh
một phản ứng tức khắc hay một ứng đáp cần ít nhiều thời giờ. Và nếu ngài
hỏi tôi về một việc mà tôi không biết tí gì cả, thì khoảng thời gian có
thể lâu hơn nữa vì kiếm chẳng được gì hết trong ký ức tôi, tôi phải tìm
tài liệu nơi một người nào hay trong một quyển sách. Trong toàn khoảng
thời gian đó, tư tưởng vốn tiếp diễn tương tục. Cả thảy chúng ta đều rõ
biết ba trường hợp ấy.
Nhưng
còn một trường hợp thứ tư nữa có lẽ ngài không biết, hay có lẽ ngài
chưa từng bao giờ tỏ ra: đó là trường hợp mà khi câu hỏi được đặt ra và
ta không biết được câu trả lời. Ký ức tôi không chứa đựng gì liên hệ tới
việc đó, và tôi không mong được câu trả lời. Thật sự, tôi không biết.
Vậy tất nhiên không có cái khoảng cách thời gian, vậy thì không có cái
khoảng cách thời gian, vậy thì không có tư tưởng vì tôi không tìm kiếm,
tôi không chờ đợi gì hết. Tâm thái đó, thực ra, là sự phủ nhận toàn
thiệt; đó là cuộc giải thoát ra khỏi hết tất cả những điều đã biết. Và
chỉ trong tâm thái ấy thì điều mới mẻ được lãnh hội, điều mới lạ kia là
cái mà ta có thể gọi là thực tại tối cao, hay với một danh từ gì tùy ý.
Trong tâm thái ấy, toàn tiến trình tư tưởng đã vong bặt; không còn người
năng quán với sự thể sở quán, cũng không còn người thọ nghiệm với sự
thể được kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đã vong bặt, và trong sự tịch lặng
trọn vẹn này, hẳn nhiên cuộc chuyển hoá được trọn vẹn.
5.
Sáng nay tôi muốn đề cập một chủ đề dường như rất quan trọng đối với tôi. Đây không phải là một ý tưởng, không phải là một ý niệm chính những ý niệm, những phương trình đã ngăn chặn lại việc tìm hiểu những sự kiện, như là những sự kiện, nghĩa là hiện tính của chính sự kiện ấy. Hiểu một sự kiện là quan sát sự tác động, sự vận hành, của một thoả thuận hoặc của một cảm xúc hay trực nhận ý nghĩa quan trọng trong ngay khoảnh khắc mà hành động đang xảy ra, nếu không thế thì mình không hiểu nó được một cách sâu thẳm, thì mình vẫn bị sự sợ hãi bám theo luôn.
Sáng nay tôi muốn đề cập một chủ đề dường như rất quan trọng đối với tôi. Đây không phải là một ý tưởng, không phải là một ý niệm chính những ý niệm, những phương trình đã ngăn chặn lại việc tìm hiểu những sự kiện, như là những sự kiện, nghĩa là hiện tính của chính sự kiện ấy. Hiểu một sự kiện là quan sát sự tác động, sự vận hành, của một thoả thuận hoặc của một cảm xúc hay trực nhận ý nghĩa quan trọng trong ngay khoảnh khắc mà hành động đang xảy ra, nếu không thế thì mình không hiểu nó được một cách sâu thẳm, thì mình vẫn bị sự sợ hãi bám theo luôn.
Tôi
nghĩ rằng phần đông chúng ta vẫn mang đèo một gánh nặng sợ hãi hữu thức
hay vô thức. Sáng nay, tôi muốn khảo sát vấn đề này cùng với các ngài
và tìm xem chúng ta có thể nào hiểu được nó một cách trọn vẹn, đạt tới
sự giải quyết toàn triệt để cho mỗi người trong chúng ta, khi rời bỏ cái
lều này, sẽ thấy rằng mình đã thoát hẳn theo nghĩa đen và trong thực
tế, thoát khỏi sự sợ hãi.
Vì
vậy, muốn được thế, tôi có nên tỏ ý cùng các ngài rằng các ngài hãy
lắng nghe tôi một cách trầm lặng hơn là chỉ lo biện luận với tôi bên
trong thủ tục các ngài? Chúng ta sẽ thảo luận, chúng ta sẽ diễn phô lại
những tư tưởng và những tình cảm chúng ta cho được thành lời lẽ tương
hợp trong chốc lát nữa đây. Ngay bây giờ, xin các ngài hãy lắng nghe với
tinh thần tiêu cực, tức là không bó buộc, không tự cưỡng trong khi lắng
nghe. Đây không liên hệ gì đến việc thông đạt trao đổi giữa tôi và các
ngài, hoặc giữa các ngài và tôi. Tôi đang nói, và khi các ngài đồng lòng
lắng nghe, chỉ lắng nghe thôi, thì chính nhờ động tác duy nhất ấy các
ngài sẽ có thể giao cảm với người đang nói.
Phần
đông chúng ta, thật là chẳng may, đều không có khả năng để lắng nghe
một cách tiêu cực, trong tinh thần phủ nhận, nghe chẳng những ở đây thôi
mà ngay cả trong đời sống thường nhật của họ. Trong khi đi dạo, chúng
ta không lắng nghe tiếng kêu, tiếng xào xạc của cây lá, tiếng rù rì của
nước chảy; chúng ta không nghe những núi non, không nghe bầu trời. Muốn
được trực tiếp giao cảm với thiên nhiên, với thiên hạ người đời, thì
mình phải lắng nghe. Việc ấy chỉ thể hiện được trong sự im lặng có tính
cách phủ nhận mà không còn sự cố gắng nào xen vào, không còn bất cứ động
tác tinh thần nào, không còn bất cứ sự tranh luận biện ngôn ngao, không
còn bất cứ sự thảo luận nào cả.
Tôi
không biết các ngài có bao giờ lắng nghe trọn vẹn vợ hoặc chồng, con
cái, chiếc ô tô lướt qua, những sự vận hành của tư tưởng và của sự xúc
động. Trong đó không có bất cứ hành động nào, bất cứ chủ định nào, bất
cứ sự diễn dịch giải thích nào, và chính tác động của việc nghe này khơi
dậy một cuộc đảo lộn, cuộc cách mạng khủng khiếp ngay tận suối nguồn
của ý thức.
Nhưng
chúng ta vẫn thường quen thói không nghe! Nếu những gì chúng ta nghe
phản nghịch lại với tư tưởng quen thuộc của chúng ta, hoặc khi lý tưởng
tầm thường hạ cấp của chúng ta bị lay động thì chúng ta liền bị khuynh
đảo tinh thần ngay. Chúng ta cũng có cả “những cuộc đầu tư” có tính cách
ý thức hệ giống như để dành vốn liếng trong những tài sản, trong kinh
nghiệm và kiến thức, và khi mà chúng bị đe dọa thì chúng ta đứt mất sự
quân bình, chúng ta phản đối lại tất cả những gì người khác nói.
Nếu
hôm nay các ngài thật sự nghe những điều nói đây, nghe với một nhận
thức tỉnh táo, không chọn lựa lấy bỏ, là các ngài sẽ thấy rằng các ngài
cùng đồng cử tâm thức với diễn giả chứ không phải với những danh từ
thôi, các ngài sẽ thấy mình không chìm đắm vào cuộc phân tích danh từ mà
thấm sâu trong diệu lý của cõi giới siêu việt ngoài vòng văn tự. Thế
chẳng có nghĩa là các ngài sẽ ngái ngủ hay lịm vào một tình thái khoái
trá. Trái lại, lặng nghe đòi hỏi sự đại định chú tâm rất mực: chứ không
phải tập trung là trạng thái khác hẳn. Nếu ngài định tâm lắng nghe, thì
có lẽ các ngài và tôi sẽ thâm nhập và những tầng sâu nhiệm, trong đấy sự
diệu tác mới phát sinh ra được. Và đó mới chính là điều thiết yếu, vì
tâm thức thiển cận, xao xuyến, bận lo vô số vấn đề, tâm thức ấy tuyệt
đối không thể hiểu được sự sợ hãi và hiểu được sự sợ hãi là điều cốt chỉ
của cuộc sống. Nếu ta không hiểu được sự sợ hãi, tức là chẳng có tình
thương, mà cũng chẳng sinh diệu tác – ở đây tôi không nói việc sáng tác,
mà nói cái tâm thức diệu tác xuất thế không thể diễn đạt thành lời hoặc
phô bày trong họa phẩm, trong sách vở.
Vậy
ta cần được thoát ly sợ hãi. Sợ hãi không phải là một điều trừu tượng,
hay một danh từ thôi – mặc dù đối với phần đông chúng ta danh từ lại
được cho là trọng hệ hơn sự kiện. Không biết các ngài có bao giờ nghĩ
đến tự thoát ly hoàn toàn với sợ hãi, thoát ly một cách tuyệt đối? Ta
vốn có thể thoát ly rốt ráo, thậm chí tuyệt nhiên không còn một mảy may
sợ hãi, vì bấy giờ tâm thức luôn luôn túc trực sẵn trước mỗi biến cố. Ý
tôi muốn nói là bấy giờ, thay vì theo đuổi sợ hãi và lo chế ngự nó sau
khi nó xuất hiện, tâm thức vẫn vượt phóng tới trước sự sợ hãi và do đó
thoát ly sợ hãi. Để hiểu sợ hãi, cần phải hiểu rằng luôn luôn chúng ta
cứ tưởng niệm bằng sự so sánh. Tại sao tâm niệm của ta cứ so sánh mãi
như thế? Trong các môn kỹ thuật, ta so lường những cuộc tấn bộ, chúng
đều có tính cách tương đối cả. Nay chúng ta có những trái bom nguyên tử
và những phi cơ siêu thanh mà trước đây năm mươi năm chúng ta không có,
và trong năm mươi năm nữa sẽ có nhiều sự vật mà hiện giờ chúng ta không
có. Đó là điều mà người ta gọi là tấn bộ. Tấn bộ luôn luôn là so sánh
tương đối, thế rồi ta rơi vào lối suy tưởng ấy. Chẳng những ở bên ngoài
thân xác, nếu nói được thế, mà cả ở nội tại, trong cơ cấu nội tâm chúng
ta cũng cứ suy tưởng bằng những sự so sánh. Chúng ta tự bảo “Nay tôi thế
này, trước kia tôi thế nọ, và tôi sẽ là gì hơn nữa trong vị lai”. Đấy
là việc suy tưởng về tấn bộ, về cuộc tấn hoá, và tất cả việc xử sự của
ta – về luận lý, về đạo đức, về tôn giáo, trong những công ăn việc làm
của ta và trong những cuộc tương giao xã hội của ta – đều căn cứ ở đó
hết. Ta tự so lường chính mình tùy vào một xã hội, mà xã hội đó chính là
sản phẩm của những cuộc xung chướng do toàn những so đo như vậy.
Thế
nhưng mọi so sánh đều là cội nguồn của sự sợ hãi. Các ngài hãy quán sát
điều ấy ở chính mình xem. Tôi muốn mình là một văn sĩ biệt tài hơn,
muốn mình là một người đẹp hơn hay khôn ngoan hơn. Tôi muốn mình uyên
bác hơn thiên hạ, tôi muốn thành công, muốn là một nhân vật gì, muốn
được danh vang lừng lẫy. Thành công và tiếng tăm, kể về mặt tâm lý, đúng
là bản chất của tinh thần so sánh, luôn luôn không ngớt dấy inh sợ hãi.
Cái tâm thức so sánh ấy phát động những cuộc xung đột và đấu tranh mà
ta xem như rất là khả kính. Ta dạy nhau rằng cần phải đấu tranh mới sống
được ở thế gian này, rồi ta đem tinh thần tranh đua vào mọi công việc
làm ăn, cả trong gia đình, cả trong lãnh vực gọi là tôn giáo. Ta mong
lên được Thiên đàng, mong được ngồi gần Đức Giêsu hay gần một vị cứu rỗi
nào khác mà ta tin tưởng. Tâm địa đó là tâm địa của ông cha xứ muốn
được làm tổng giám mục, làm hồng y, làm cả giáo hoàng. Ta vun quén
chuyên cần tâm địa ấy trong suốt đời ta. Ta tranh đấu để trở nên tài
giỏi hơn hay để thu hoạch một địa vị cho thật cao tột. Cơ cấu xã hội và
luân lý của ta căn cứ ở đó cả.
Thế
là ta triền miên sống trong tâm địa so sánh, tranh đua và phấn đấu ấy,
cứ cố gắng trở thành một nhân vật gì – hay để đừng là gì hết, tựu trung
cũng cùng nghĩa thế ấy thôi. Đó là căn cội của mọi sợ hãi, chính do đó
dấy sinh đố kị, ganh ghét, oán thù. Sự thù ghét tất nhiên loại trừ tình
thương, sự thù ghét dấy sinh ra niềm sợ hãi tăng trưởng liên tục.
Như
tôi đã hỏi các ngài, các ngài hãy chỉ lắng nghe thôi. Các ngài đừng tự
hỏi: “Làm sao tôi dứt so sánh được? Tôi phải làm gì để dứt so sánh?”.
Các ngài chẳng làm gì được hết. Nếu ngài làm gì đấy, thì dụng ý của ngài
cũng vẫn do sự so sánh mà phát xuất ra. Tất cả những gì ngài cần làm đó
là nhận thấy cái phức tạp mà ta gọi là cuộc sống đây, chính nó là một
cuộc đấu tranh do so sánh, và thấy rằng mọi việc chen vào để biến cải sự
thể ấy, đều khởi sinh từ cái tâm địa tranh đua đấy thôi. Vậy chỗ trọng
hệ là lắng nghe đây mà đừng xuyên tạc bóp méo, và ta xuyên tạc bóp méo
đi những gì ta nghe ngay khi ta vừa khởi động niệm xen vào trong đó.
Ta
có thể nhận thấy cả nội dung và ý nghĩa đích thực của loại tư niệm này,
thứ tư tưởng so sánh và đo lường hiện tượng sự sống. Nó mê lầm trong ảo
tưởng rằng việc so sánh tức là hiểu: so sánh tác phẩm của hai họa sĩ,
của hai văn sĩ; tự so sánh mình với một người kém lanh lợi hơn, kém hiệu
lực hơn mình, xinh đẹp hơn mình, vân vân. Ta có thể nào sống ở thế gian
này, sống trong ngoại cảnh lẫn vào tâm nội, mà không hề phải so sánh gì
cả chăng?… Các ngài thấy đấy, nhận thức tâm địa so sánh không ngừng
này, chỉ nhận thức tâm địa ấy thôi và sống cùng với nó, tất nhiên cần ở
tâm có một sự chú ý cùng cực. Sự chú ý này tự phát sinh giới hạnh của
nó, cái giới hạnh vô cùng uyển chuyển, thoát ra ngoài mọi kiểu mẫu, mà
tịnh không trói buộc mảy may. Giới hạnh này không vụ ở chỗ kiểm soát, ở
việc hàng phục hay phủ nhận gì cả mà cốt mong tỏ hiểu cho rốt ráo hết
toàn cả vấn đề sợ hãi.
Thái
độ sống mà căn cứ vào sự so sánh, là một trong những động cơ chính yếu
làm suy bại tổn hại nhân tâm. Nó khiến cho nhân tâm hôn trầm và vô tri.
Nó làm cho nhân tâm thối rữa và mục nát. Đó chính là sự kém thông minh
hoàn toàn. Thân xác chúng ta dần dần suy hoại vì già yếu, nhưng nếu tâm
trí ta lại cũng suy hoại ra nữa, thì đấy là vì chúng ta cứ so với sánh,
vì chúng ta lâm trong cơn đảo điên xung chướng, cứ mãi lo tranh với đua.
Ta như những bộ máy mà tác dụng lại hư hỏng cứ trục trặc hoài, do đó
chúng dễ mau hư mòn kiệt quệ.
Như
tôi đã nói, những sự so sánh, những sự xung đột xung chướng, những sự
tranh đua, chẳng những tổn hại ta thôi, mà còn dấy sinh ra sợ hãi nữa.
Mà sợ hãi là cả bóng đêm hắc ám, trong ấy không sao có được tình mến
yêu, tỏ ngộ, tình thương. Muốn nhận biết sợ hãi là gì, ta hãy tự hỏi coi
có bao giờ ta đối diện với sợ hãi hay không, hay ta chỉ có cái ý niệm
về sợ hãi thôi, mà như vậy thì khác hẳn. Phần đông chúng ta mắc trong
lưới rập của một ý niệm, của một ý kiến, của một phán đoán, của một so
lường về sợ hãi, chứ không hề bao giờ tiếp xúc thẳng với sự kiện sợ hãi
đó. Đó là chỗ ta cần nhận hiểu ở bề rộng như ở bề sâu thẳm.
Chẳng
hạn như tôi sợ rắn. Trước đây một thời gian tôi có thấy một con rắn và
tôi hoảng sợ lên, rồi kinh nghiệm ấy còn lưu lại trong tâm thức tôi nơi
ký ức. Rồi đây tôi dạo chơi vào một buổi chiều hôm, và ký ức tôi lại
phát động tạo tác ra, khiến tôi sinh sợ gặp phải rắn. Thế là cái ý niệm
về sợ hãi quả là bền dai, mạnh mẽ hơn chính là sự kiện tự thể. Thế nghĩa
là gì? Nghĩa là chúng ta không hề bao giờ tiếp xúc với ý niệm của ta về
sợ hãi đấy thôi. Các ngài hãy quán sát mình trực chỉ xem. Rồi các ngài
sẽ thấy ra rằng những ý niệm của ta dấy khởi các sự vật, quả không thể
nào xoá bỏ đi một cách giả tạo được. Các ngài cần tự hứa phải gặp thẳng
sự việc không qua ý niệm, nhưng rồi không thể được. Trái lại, nếu thật
sự ngài thấy đích xác rằng ký ức và dấy niệm vốn ngăn ngại ngài không
cho trực chỉ thông cảm được với sự kiện – sự kiện sợ hãi, sự kiện ganh
ghét, sự kiện tử vong gì đó – các ngài sẽ thấy ra rằng giữa ngài hiện
lên những tương quan khác hẳn giữa ngài với sự kiện.
Đối
với phần đông chúng ta, ý niệm rất trọng hệ hơn hành động. Không bao
giờ chúng ta hành động trọn vẹn cả. Luôn luôn ta hạn cuộc hành động bằng
một ý niệm, bằng cách thích ứng hay diễn dịch sự hành động thể theo một
công thức một khái niệm, do đó tất nhiên nào có hành động gì đâu, hay
đúng hơn, hành động như vậy quá đỗi bất tức, dấy sinh thêm lắm vấn đề.
Nhưng hễ ta nhận chân sự thể lạ lùng ấy, là hành động liền trở nên mãnh
liệt phi thường, vì hành động ấy không còn lo phụ họa theo một ý niệm.
Sợ
hãi không phải là một sự trừu tượng, luôn luôn sợ hãi liên quan với một
điều gì. Tôi sợ sự chết, sợ dư luận, sợ mình không khả ái, sợ mình
không được thiên hạ biết đến, sợ không thành công, vân vân. Danh từ sợ
hãi đâu phải là sự kiện sợ hãi: danh từ chỉ là biểu tượng của sợ hãi mà
thôi; mà đối với phần đông chúng ta, biểu tượng lại trọng hệ hơn sự
kiện, cả trên bình diện tôn giáo lẫn ở mọi bình diện khác. Thế nhưng có
thể nào chúng ta thoát ly khỏi những diễn tả, những biểu tượng, những ý
niệm, để quan sát mọi sự việc mà không phải diễn dịch, thậm chí cũng
không tự bảo là mình phải lo quán sát nữa? Không dấy một niệm gì về sự
việc ấy?… Nếu ta tiếp xúc một sự kiện với sẵn một ý niệm về sự kiện đó,
thì thật ra, ta chỉ tiếp xúc với những ý niệm mà thôi. Điều quan trọng
là phải nhận hiểu rằng khi ta quán sát một sự kiện xuyên qua một ý niệm,
thì ta không thông cảm mảy may gì với sự kiện ấy. Nếu ta muốn cùng
thông cảm, thì ý niệm tất nhiên phải hoàn toàn giải trừ mới được.
Đây
chúng ta hãy từ đó mà tiến tới xem rồi sẽ đến đâu. Sự kiện là ngài sợ
cái chết, sợ những gì người nào đó sẽ nói, sợ rất nhiều việc. Khi ngài
không xét sự kiện ấy xuyên qua một khái niệm, một ký ức, thì thế nào?
Thì trước hết, tất nhiên không còn sự phân cách với đối tượng sở quán.
Căn nguyên của sự phân cách đã bị xoá bỏ, và tức nhiên ngài liền trực
chỉ tiếp xúc với cái cảm giác mà ngài gọi là sợ hãi ấy. Cái “tự thể của
ngài” với những ý kiến của nó, những ý niệm, những phán đoán, những trốn
tránh, những khái niệm, những ký ức gì đó của nó, cả thảy đều vong bặt,
và chỉ còn có mỗi một “cái đó” mà thôi.
…Việc
chúng ta đang cùng làm đây rất đỗi khó khăn, không phải là một cuộc mua
vui tiêu khiển. Tôi cảm thấy khi rời khỏi trại này hôm nay, có thể ta
thoát ly toàn triệt sâu thẳm khỏi sự sợ hãi – để mà làm một con người
đúng nghĩa.
Vậy
đây ta đối diện với một sự kiện, sự kiện là cảm giác hay sự lo ngại mà
ta gọi là sợ hãi. Sự kiện này do một ý niệm dấy sinh. Ngài sợ sự chết
chẳng hạn (tôi lấy đấy để làm tỉ dụ). Cứ thói thường, thì cái chết không
phải là một sự kiện đối với ngài, mà chỉ là một ý niệm. Sự kiện này chỉ
xảy ra cho ngài trong khoảnh khắc là ngài sắp chết mà thôi. Ngài đã
chứng kiến nhiều cái chết và tin chắc rằng chính ngài cũng sẽ chết, sự
việc ấy trở thành một ý niệm, dấy sinh lên niềm sợ hãi nơi tâm thức
ngài. Chính xuyên qua cái ý niệm này ngài xét về cái chết, như vậy tức
là ngài không tiếp xúc trực chỉ với cái chết. Thế là có một khoảng cách
giữa người năng quán với đối tượng sở quán đấy rồi. Chính trong khoảng
cách ấy tư tưởng xuất hiện, mà thoả thuận là dấy niệm, là đặt ra thành
lời, là ký ức đứng ra chống đối với sự kiện. Nhưng hễ chỗ cách khoảng ấy
không có, nghĩa là hễ tư tưởng bặt vong – tức hễ vong bặt thời gian –
là ngài liền sống trọn vẹn với sự kiện, thì bấy giờ chính cái sự kiện
hành sử ngài, chứ chẳng phải ngài hành sử nó.
…Mong các ngài nhận rõ mấy điều đó… hay điều ấy có khó hiểu chăng, giữa một buổi mai nóng bức thế này?…
Các
ngài thấy đấy chăng, tôi nghĩ rằng sống với một sự sợ hãi, bất cứ thứ
nào, quả là “ác hại”, nếu tôi dùng được danh từ này. Ác Hại, là sống với
sự sợ hãi, vì sợ hãi dấy sinh hận thù, sợ hãi làm thiên lệch tư tưởng
và tổn hại cả cuộc sống. Vậy tuyệt đối người tu hành cần phải hoàn toàn
thoát ly khỏi sợ hãi, cả ở ngoại cảnh lẫn trong nội tâm. Đây hẳn tôi
không nói cái phản ứng hoát nhiên của thân xác tìm phương tự bảo vệ, vì
đó là cuộc phản ứng tự nhiên. Thường nhiên bỗng dưng ta gặp phải một con
rắn, tất nhiên ta phải nhảy sang để tránh xa: đó chỉ là một bản năng tự
vệ ở thể xác, và nếu không có cái bản năng ấy thì đúng là bất thường
rồi. Nhưng cái ý cầu chỗ an trụ nơi tâm nội, tức về mặt tâm lý, bất cứ ở
giai tầng nào của bản thể ta, đều nuôi lớn sự sợ hãi. Vậy ta có thể
nhận thấy rằng cốt yếu tâm thức đừng bao giờ làm môi trường để nuôi lớn
mầm mống sợ hãi.
Nếu
chú tâm nghe kỹ những điều vừa nói hôm nay, thì các ngài đã hiểu rằng
sự sợ hãi không hề trú tại hiện tiền, mà luôn luôn trú ở vị lai. Sự sợ
hãi do tư tưởng đề khởi: tưởng niệm về những gì có thể xảy đến ngày mai,
hay lát nữa. Thế là sợ hãi, tư tưởng và thời gian, đồng hành với nhau,
và nếu ta muốn hiểu sợ hãi và tiến vượt quá nó, tất nhiên ta phải hiểu
tư tưởng và thời gian vậy. Mọi tư tưởng có tính cách so sánh tất phải
dứt bặt, dứt bặt hết mọi ý hướng động niệm cố gắng – trong đấy hàm có
cái ý tranh đua, có sự tôn thờ thành công, có cái ý muốn trở thành một
nhân vật. Khi toàn bộ tiến trình ấy được nhận hiểu, tức ta không còn
những xung chướng nơi tâm thức, có phải thế không? Tức tâm thức không
còn vướng mắc trong trạng thái tổn hại, vì nó có thể xét thẳng sự sợ hãi
thay vì làm môi trường chấp chứa dung dưỡng sợ hãi. Sự thoát ly ấy quả
là cốt yếu cho kẻ muốn hiểu được thế nào là diệu tác.
Đối
với phần đông chúng ta, cuộc đời là cả một thói quen buồn tẻ trong ấy
không có gì thật sự mới mẻ, vì hễ cái mới nào vừa phát sinh, thì ta cứ
tống nhập nó vào những tập quán của ta liền. Chẳng hạn một họa sĩ khởi
sự một bức hoạ; trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vốn phát hiện một cái gì
mới mẻ, nhưng nó lại vội vàng thoáng đi; rồi nào vui thích, nào đau
khổ, nào những ước vọng gì đó: tất cả thứ ấy đều thành thói quen và nhàm
chán. Cuộc phấn đấu triền miên như vậy rất ít ý nghĩa. Ta cứ mãi lo tìm
cầu những cái mới lạ. Về xinê, về hội họa, ta muốn một cái gì đó mà
không thể đem diễn dịch bằng những phạm trù quen thuộc. Ta ước tìm được
một ngón gì, một kỹ thuật gì tiểu xảo, khả dĩ thoả mãn được ý ta muốn tự
phô bày – nhưng rồi cả thảy đều rơi trong buồn chán, trong xấu xí,
trong nỗi chê nhàm, vì ta không thoát khỏi cái tâm thức cảm nhận: vừa
gặp cái mới thì ta tri nhận nó liền và ta chôn nó lẫn vào cái cũ. Tiến
trình tri nhận, đối với phần đông chúng ta, vốn vô cùng trọng hệ, vì tư
tưởng luôn luôn chỉ tác dụng trong môi trường của điều quen thuộc.
Hễ
ta vừa nhìn nhận một điều gì, thì điều ấy không còn mới lạ nữa. Các
ngài hiểu kịp chăng? Sự giáo dục của ta, kinh nghiệm của ta, cuộc sống
hằng ngày của ta, tất cả toàn là một tiến trình tri nhận, toàn một sự
lặp lại liên miên, gia sự liên tục cho cuộc sống của ta. Rồi với tâm địa
vướng phải tiến trình ấy, ta muốn biết coi có hay không có cái mới: ta
muốn biết có hay không có một Thượng đế. Nhưng chính điều quen thuộc
khiến ta sợ hãi điều xa lạ, thế rồi ta tự nhủ: “Tôi phải khám phá điều
xa lạ, phải nhìn ra nó và đưa nó vào điều quen thuộc”. Cuộc truy tầm của
ta cốt yếu là như thế đó, ở hội họa, ở âm nhạc, ở mọi địa hạt: truy tầm
cái mới để diễn dịch nó bằng những cái cũ.
Thế
nhưng tiến trình nhìn nhận và diễn dịch đó, tức những tác động và những
tác phẩm đó, nào phải là diệu tác đâu. Tuyệt đối không thể phô diễn
điều xa lạ. Cái mà người nào đó có thể diễn tả được, thì nó là sự diễn
dịch hay sự tri nhận về những gì mà người đó tự gọi cho là điều xa lạ.
Vậy tự các ngài phải tìm thấy thế nào là diệu tác, bằng không thì cuộc
sống của các ngài sẽ trở thành đời sống nhàm chán thường nhật, không
thay đổi gì, không chuyển hoá chi, khiến ngài rất chóng nhàm chán. Sáng
tạo là sự vận hành của chính sự sáng tạo, chứ không phải là việc diễn
dịch sự vận hành của chính sự sáng tạo, chứ không phải là việc diễn dịch
sự vận hành vào một bức tranh, vào âm nhạc, vào trong một quyển sách
hay trong những cuộc quần sinh giao tiếp.
Vả
lại, chúng ta chấp chứa nơi ta hằng bao triệu năm những ký ức, những
bản năng, và cái mống tâm thúc đẩy khiến ta vượt khỏi đi hết tất cả cùng
phát tự ở trong tâm thức ta nữa. Xuất xứ từ hậu trường của quá khứ ấy,
phát sinh lên cái ý muốn tri nhận được cái mới, nhưng cái mới lại là một
cái gì khác hẳn – là tình thương – và cái tâm thức đang sa lầy trong
tiến trình của cái cũ mà đi tìm nhìn nhận cái mới, tất nhiên chẳng tri
nhận được gì cả.
Đây
là một trong những điều hết sức khó diễn tả, tuy nhiên tôi muốn trao
truyền cho các ngài, nếu được, vì cái tâm thức mà không ở trong trạng
thái diệu tác này, tất nó vẫn làm tổn hại mãi. Tâm trạng ấy xuất thế,
vĩnh cửu. Nó không so sánh, không ích dụng, không một mảy may giá trị gì
đối với sự hành động, các ngài không thể sử dụng nó để tô vẽ mấy bức
họa tầm phào của các ngài được, để viết những bài thơ bài phú. Nhưng
không có nó, lại quả chẳng có chi là tình thương được hết. Cái tình
thương của ta được biết đây, toàn là ganh ghét thôi, cái tình thương của
ta trú trong tường lũy của hận thù, của lo âu xao xuyến, của thất vọng,
của khổ sở, của bao đối nghịch xung chướng vậy, đâu có gì trong đó mà
gọi là tình thương được. Tình thương tự vạn cổ vẫn mới lạ, không thể tri
nhận được nào. Đã chẳng bao giờ trụ tại một thể tướng, tất nhiên tình
thương là tâm thái có tính cách tột độ vô sở định. Và chỉ trong tình
thương ấy ta mới hiểu được thực tại phi thường gọi là sự sáng tạo diệu
tác kia – tức là Thượng đế, nếu ngài không đặt cho nó một danh xưng gì
khác nữa. Kẻ đã hiểu được các giới hạn của cái đã biết và tất nhiên
thoát ly với cái đã biết, chỉ cái tâm thái ấy mới là cái tâm thái sáng
tạo diệu tác, trong tâm thái ấy tuyệt chẳng có yếu tố tổn hại suy đồi
nào cả.
Các ngài muốn hỏi thêm chăng về mấy điều vừa nói hôm nay?
H: Sự nhận thức mình có ý chí cá thể, phải chăng là nguyên nhân của sợ hãi?
K:
Chắc vậy. Nhưng ngài hiểu thế nào là “cá thể”? Ngài có phải là một cá
thể không? Ngài có một thể xác, một tên tuổi, một trương mục ở ngân
hàng; nhưng nếu nội tâm ngài bị trói buộc, bị tàn phế, bị hạn cuộc, thì
ngài có là một cá thể được không? Cũng giống như thiên hạ, ngài bị qui
định trước nhiễm đấy, có phải thế không? Và tất cả điều xuất sinh từ cái
cùng hạn cuộc là sự qui định trước nhiễm của ngài mà ngài gọi là cá thể
ấy, hết tất cả: nào những khổ phiền của ngài, nào những thất vọng của
ngài, những ganh ghét của ngài, những sợ hãi của ngài. Sự thể hạn hẹp và
manh mún ấy, với cái linh hồn cá thể, với cái ý chí của nó, và tất cả
cơ lộn xộn đảo điên nhỏ nhen của nó, ngài lấy đấy làm hãnh diện lắm.
Chính với cái ấy ngài muốn khám phá Thượng đế, khám phá chân lý, khám
phá tình thương, ngài không khám phá như thế được đâu. Tất cả những gì
ngài làm được là nhận thức cái manh mún của chính mình đấy, vì bao đấu
tranh của nó, và nhận thấy rằng cái manh mún ấy không bao giờ trở thành
được cái toàn thể. Cây căm dù có làm gì đi chăng nữa, nó không thể thành
được bánh xe. Vậy cần phải tự vấn tâm mình để hiểu được cuộc sống phân
biệt, hẹp hòi, hạn cuộc, cái gọi là cá thể ấy.
Điểm
quan trọng trong tất cả mọi điều này, không phải là ý kiến của ngài hay
ý kiến của tôi, mà quan trọng là tìm thấy sự thực. Và để phát thấy sự
thực, tâm thức phải không sợ hãi, tâm thức phải rỗng rang trút bỏ khỏi
sự sợ hãi đến độ nó được hoàn toàn ngây thơ. Chỉ từ lòng ngây thơ thì sự
sáng tạo mới phát hiện được.
6.
Điều quan trọng là mỗi người nên nhận hiểu chín chắn đối tượng của công cuộc tìm kiếm nội tâm mình. “Tìm kiếm”, đối với nhiều người, thường mang một giá trị phi thường. Ngoài cái nghĩa lý tự điển của danh từ này, hành động “tìm kiếm” ngụ ý về một sự vận hành từ vòng ngoài vào trung tâm. Bản chất của cuộc thâm nhập vào bên trong ấy tùy thuộc ở các tính khí, ở những cưỡng chế cùng những áp lực xã hội, ở những tai ương cùng những khổ nạn của đời sống, ở vô số những cố gắng kéo theo kinh nghiệm về chính sách. Tất cả những động lực, yếu tố đó bắt buộc phải “tìm kiếm”. Nếu không có những áp lực, những tai ương cùng những khổ nạn, tôi tự hỏi không biết trong chúng ta có mấy người chịu nghĩ đến việc thực hiện công cuộc tìm kiếm nội tâm.
Điều quan trọng là mỗi người nên nhận hiểu chín chắn đối tượng của công cuộc tìm kiếm nội tâm mình. “Tìm kiếm”, đối với nhiều người, thường mang một giá trị phi thường. Ngoài cái nghĩa lý tự điển của danh từ này, hành động “tìm kiếm” ngụ ý về một sự vận hành từ vòng ngoài vào trung tâm. Bản chất của cuộc thâm nhập vào bên trong ấy tùy thuộc ở các tính khí, ở những cưỡng chế cùng những áp lực xã hội, ở những tai ương cùng những khổ nạn của đời sống, ở vô số những cố gắng kéo theo kinh nghiệm về chính sách. Tất cả những động lực, yếu tố đó bắt buộc phải “tìm kiếm”. Nếu không có những áp lực, những tai ương cùng những khổ nạn, tôi tự hỏi không biết trong chúng ta có mấy người chịu nghĩ đến việc thực hiện công cuộc tìm kiếm nội tâm.
“Tìm
kiếm”, phải thế không, là dò dẫm với hy vọng khám phá một cái gì. Sáng
này, tôi đọc thấy trong tự điển, nghĩa lý của danh từ ấy. Nó có nghĩa là
đi quanh và tôi tự hỏi không biết người ta đi quanh cái gì, người ta
tra hỏi, tìm kiếm với hy vọng gì và không biết có bao giờ người ta tìm
thấy được điều gì không. Hay chẳng qua, đó chỉ là một ước vọng mơ hồ,
thoáng qua, thay đổi tùy theo hoàn cảnh, tính khí cùng những nỗi vui
sướng và khổ đau của từng người.
Chúng
ta có nói mãi về những công cuộc tìm kiếm nội tâm của ta. Thế nghĩa là
gì? Nghĩa là từ vòng ngoài ta dần dần thâm nhập vào trung tâm tùy theo
tính nết, sở thích của ta và những áp lực của hoàn cảnh, tựa như ta đi
từ cửa hàng này sang cửa hàng khác, cố chọn lựa quần áo, để rồi cuối
cùng chọn lấy bộ đồ vừa vặn và đẹp ý ta hơn hết. Khi các ngài bảo là
mình “tìm kiếm” ý các ngài muốn nói thực ra, là thí nghiệm những ý niệm,
những công thức, những khái niệm khác biệt, đi từ tôn giáo này sang tôn
giáo nọ, từ vị đạo sư này sang vị đạo sư kia, cho đến khi nào ngài tìm
gặp được một điều gì vừa ý, thích hợp với tính khí và những sắc thái
riêng biệt của Tây phương. Nếu các ngài không thích những gì tìm gặp ở
Tây phương, thì các ngài liền quay sang Đông phương với nền triết học cổ
xưa và phức tạp, với vô số đức thầy và đạo sư cần phải chọn lựa ở đó,
rồi các ngài sa lầy vào một ao tù tư tưởng hạn hẹp, ngỡ rằng mình đã
chứng đạt một thực tại vĩnh cửu gì rồi. Hoặc nếu không làm thế, các ngài
trở thành tín đồ Công giáo thực là nhiệt nồng hơn hay tín đồ của thuyết
Hiện sinh… Có biết bao nhiêu là chủ thuyết trong thế gian này!
Theo
tôi, không có Đông phương, Tây phương gì hết. Tâm trí nhân loại không
đông tây gì cả. Dù uyên nguyên của chúng thế nào đi nữa, cả thảy mọi
thần thuyết cũng như triết thuyết đều thiếu sự già dặn trưởng thành.
Toàn là những sự bày đặt. Con người vì bị tù hãm trong những ngục thất
tự tạo, liền đâm ra tin tưởng vài điều nào đó, rồi họ tạo dựng chung
quanh những tin tưởng này, những thần thuyết và phóng hiện ra những
triết thuyết kỳ dị. Các nhà thần học hay các triết gia càng khéo léo thì
càng được đại chúng, độc giả, đệ tử dễ dàng chấp nhận.
Nhưng
nơi đây chúng ta có làm như vậy không? Các ngài đến nghe tôi trong đôi
ba tuần lễ, và nếu những gì tôi nói không thoả mãn các ngài, không đáp
ứng những gì các ngài mong muốn, thì các ngài liền tìm đến giáo chủ khác
hay các ngài chấp nhận một triết thuyết khiến các ngài thoả mãn hơn.
Thế thì bao lâu các ngài chưa cắm đầu bị cuốn hút vào một dòng sông tư
tưởng nhỏ mọn nào đó, thì các ngài sẽ cứ tiếp tục loanh quanh mãi, để
rồi một ngày nào đó, có lẽ các ngài sẽ trở lại để tái diễn cái vòng luẩn
quẩn.
Thiết
tưởng các ngài cần phải thấu hiểu hiện tượng lạ lùng này ở Đông như ở
Tây: sự việc hết bắt cái này sang cái khác, cứ lựa chọn mãi. Ý tôi muốn
nói là chúng ta phải nhận thức thật rõ, thấy thật rõ ngay trong tâm
chúng ta, xem chúng ta tìm kiếm gì, lý do của sự tìm kiếm và xem có cần
thiết phải tìm kiếm không. Mọi vận dụng như vậy đều ngụ ý sự di động từ
vòng ngoài vào trung tâm, từ những hoàn cảnh vào đến nguyên nhân phát
sinh chúng, từ ở bề mặt vào tận căn nguyên cuộc sống. Chúng ta di động
từ ngoại cảnh lần vào nội tâm, hy vọng khám phá được một cái gì chân
thực, sâu mầu, cốt yếu, tối trọng. Trong sự tìm kiếm đó, chúng ta phấn
đấu để thực hành những phương pháp và cách thức khác nhau, chúng ta tự
hành hạ đày ải mình bằng những giới luật, thành thử suốt đời ta luôn
luôn bị thống khổ thảm thương, tâm thức hầu như bị tê liệt, bại xuội.
Tôi
e rằng đó là trường hợp của phần đông chúng ta. Ta di động từ vòng
ngoài vào trung tâm, bởi vì, muốn biết làm thế nào để được hạnh phúc,
muốn biết chân lý là gì, muốn biết Thượng đế và cái vĩnh cửu có hay
không, nên ta cứ tranh đấu không ngừng để rập khuôn, để bắt chước, để
tuân hành, để hành hạ đày ải tâm và trí ta bằng những giới luật, đến một
lúc nào đó trong ta không còn gì là độc đáo, là chân, là thực nữa. Cuộc
sống chúng ta như vậy đó. Hễ sự khổ não, cái áp lực cùng cái hằng sống ở
vòng ngoài càng mãnh liệt thì ta lại càng muốn hướng vào trung tâm.
Nhưng
có cách nào ngự ngay vào trung tâm tức thời và để rồi từ đó triển nở ra
mà không cần phải tranh đấu để đạt đến đó không? Các ngài hiểu câu hỏi
của tôi chứ? Trong bao triệu năm rồi, chúng ta đã tranh đấu để đi từ
ngoài vào trong nhằm mục đích khám phá thực tại. Ta vừa thấy những gì
bao hàm trong tiến trình ấy và tôi tự cho tiến trình ấy là phi lý. Tại
sao tôi phải hành hạ đày ải tôi chứ? Tại sao tôi phải sao y, bắt chước,
vâng lời? Không thể nào khám phá cái trung tâm ngự ngay trong đó và từ
đó khởi đi triển nở thay vì hành trình ngược lại sao? Theo tôi làm cuộc
hành trình đảo nghịch lại là tuyệt đối vô ích. Tôi hoàn toàn bác bỏ cuộc
hành trình đó. Tôi từ chối sự đày ải hành hạ và từ chối làm đệ tử cho
bất cứ ai. Tôi từ chối, không đọc một cuốn sách triết nào cả và không
thèm mài giũa tâm trí bằng những lý luận tế nhị: tâm trí đã đủ sắc bén
bởi tham vọng, bởi những âu lo, thất vọng và những tàn bạo của cuộc
sống. Tôi từ chối mọi phương pháp, mọi pháp môn tu luyện, hay theo hầu
một vị đạo sư, một đức thầy, một đấng cứu thế, từ chối bỏ tất cả những
gì thuộc lãnh vực đó.
Tôi
đang tư tưởng to lên bằng lời, không những cho chính tôi mà cũng để làm
sáng tỏ vấn đề, hầu các ngài và tôi có thể cùng đồng cảm cảm thông với
thực tại, thay vì cứ tiếp tục vùng vẫy mãi mãi trong những phản ứng có
khuynh hướng đem ta từ ngoài vào trong. Tôi đang thể hiện thành ngôn từ
những điều mà có thể các ngài cảm nhận trong những lúc hiếm hoi, khi mà
các ngài đã mệt mỏi chán ngấy tất cả: chán ngấy những giáo hội, những
chính khách, những ngân hàng, những ti tiện nhỏ mọn trong các mối tương
giao về gia đình của các ngài, chán ngấy cái tẻ nhạt trong những bận rộn
của công ăn việc làm, chán ngấy những cái xuẩn động ngu muội của đời
sống làm nhơ nhớp phẩm giá con người. Đã kéo lê cuộc sống hai mươi năm
hoặc dai dẳng hơn nữa để ngày lại ngày đến sở làm hay lo bếp núc, hay để
hết sinh đứa con này lại sinh đứa khác, đã sống những niềm vui cùng nỗi
buồn và thất vọng vì sa lầy trong sự tục tằn bần tiện ấy, hẳn đôi khi
các ngài cũng đã tự hỏi có thể nào bỗng chốc, một cách bất ngờ, tìm thấy
được cái cội nguồn uyên nguyên, tìm thấy chính ngay cái yếu tính của sự
vật, mà nảy nở, không bao giờ cần phải đọc một quyển sách nào cả,
nghiên cứu một triết thuyết nào cả, không cần phải sùng thượng một hình
ảnh, một đấng cứu rỗi nào cả, bởi vì bất kỳ các ngài nhìn đâu, cái trung
tâm ấy vẫn hiện diện ở đó, để rồi từ đó mọi hành động, mọi tình thương,
tất cả những gì là hiện thực, đều phát hiện.
Sự
kiện hiển nhiên là với lòng tham lam với tính ganh ghét, với ý hướng
chiếm hữu, với những nỗi sợ hãi, với mối xúc động, với những niềm vui
thoáng qua cùng những nỗi thoả mãn mê mờ của ta, ta vẫn còn là những con
vật: những con vật tiến hoá cao độ. Khi ta quan sát thú vật, ta thấy
rằng chúng cũng có cùng những mối xung động như ta. Những loài khỉ vượn
giả nhân cũng biết ghen tuông và cũng có những khó khăn trong đời sống
vợ chồng. Chúng tập hợp thành đoàn – ban đầu là đơn vị gia đình, kế đó
thành bộ lạc y như chúng ta và có người bảo là rồi ngày nào đấy loài khỉ
vượn này có thể ngồi vào Liên Hiệp Quốc như nhân loại vậy! Một sự kiện
hiển nhiên là tính nết, sự sủng ái, lòng can đảm, nỗi sợ hãi, những cuộc
chiến tranh những cái gọi là hoà bình cũng những cuộc tranh đấu của ta
đều trỗi dậy từ cái hậu trường thú vật đó. Xin các ngài đừng cãi lẫy với
tôi về vấn đề này: đấy là ý kiến của các nhà sinh vật học và các nhà
nhân loại học, nếu các ngài cần kể ra những người có uy tín.
Có
thể nào thoát ly tất cả những điều đó, không phải thoát ly trong một
tương lai gần gũi, không phải thoát ly dần dần, nhưng là ta có thể nào
chặt đứt ngay bằng một nhát, cái hậu trường thú vật ấy, dứt tuyệt nó, để
rồi tạo dựng một nền luân lý đạo đức, một năng khiếu thẩm mỹ hoàn toàn
khác biệt hẳn không? Điều hiển nhiên là muốn sống chung với nhau, chúng
ta cần phải có một nền đạo đức và một cách thế cư xử trong xã hội, nhưng
nền đạo đức hiện nay của ta, phẩm hạnh của ta, các khái niệm tạo thành
những công thức của đời sống thường nhật của ta, vốn mang đầy tính cách
thú vật, dù rằng chúng ta không muốn nhìn nhận điều đó. Chúng ta thích
nghĩ rằng bởi vì chúng ta có chút ít khả năng hơn, có hiệu năng hơn, có
nhiều sáng kiến phát minh hơn loài khỉ, nên ta “người” hơn. Nhưng chính
loài khỉ cũng biết dùng dụng cụ để cầm lấy đồ vật và vẫn có óc phát
minh. Giữa chúng và chúng ta khác nhau rất ít.
Chúng
ta nhận thấy sự tác động phi thường của thú vật và sự tác động không
kém phi thường của tâm trí nhân loại khi nhân loại khao khát thèm muốn
được an toàn, không những trong thế giới vật chất mà cả thế giới tâm lý
nữa và ta thấy rằng khát vọng ấy do bản năng thú vật mà ra. Nhưng đồng
thời con người muốn tìm thấy một cái gì chân thật, độc đáo, một trạng
thái vô cấu, bất nhiễm. Có thể nào tìm gặp tâm thái ấy một cách độc đáo,
một trạng thái vô cấu, bất nhiễm. Có thể nào tìm gặp tâm thái ấy một
cách đột nhiên, không cần phải chuẩn bị, tìm kiếm không? Bởi vì cái đẹp
không thể vun trồng đào luyện được: tình thương cũng thế, ta phải “rơi
vào” nếu có thể nói như thế, như ta tình cờ “rơi vào” một phong cảnh mà
ta chưa hề bao giờ thấy: nó ở đó, một cách đột nhiên, trước mắt ngài,
phong phú và sống động tràn đầy, rồi ta hoà đồng và từ đó, ta sống, ta
hành động, ta [1]
“ngộ”. Không làm một cố gắng nào cả, không khắc kỷ, không tìm kiểm
soát, không cưỡng chế câu thúc bản thể bên ngoài của các ngài để rập
khuôn, để bắt chước thì bỗng dưng các ngài thấy mình đối diện ngay với
mạch sống, với cái nguồn cội uyên nguyên của mọi cuộc sống, và vì đã
uống nên nguồn mạch đó, nên bản thể thâm sâu thấy rằng mình đã luôn luôn
sống trong đó và đang sống trong đó tự bao giờ. Sự thể đó có thể có
được không?
Tôi
sẽ vạch cho các ngài thấy cái tầm mức quan trọng, cần thiết phải thực
hiện cho được hành động đó. Nếu các ngài chấp nhận thời gian – hôm qua,
hôm nay, ngày mai – tất nhiên các ngài phải bị vướng mắc trong cái tiến
trình bại hoại, bởi vì các ngài luôn luôn phóng mình về ngày mai thành
thử luôn luôn có cái hôm qua qui định hôm nay. Vậy thì cái quan năng tư
tưởng, nguyên là kết quả của bao nhiêu thế kỷ dài dằng dặc, phải quên
bặt thời gian. Các ngài theo dõi tôi chứ? Quan năng ấy phải gạt yếu tố
thời gian sang một bên, bằng không nó bị tù hãm trong màn lưới của thời
gian, của những cuộc tranh đấu để thành đạt, để trở nên, để đến đích mà
thế chỉ tổ đưa nó đến đau khổ, khốn cùng, tan vỡ.
Thế
thì ta có thể làm gì? Tôi muốn khám phá tức thời cái chân thật, tôi
không muốn chờ đợi ngày mai ngày mốt, không chờ đợi một giây phút nào
cả, tôi muốn ngự ngay “ở đó”. Tôi nóng nẩy không chờ đợi được. Tôi không
màng thiết đến thời gian, đến ý niệm rằng tôi sẽ thực hiện ở cuối mức
kiếp sống này hay vạn kiếp sống nữa, theo tôi, ý niệm ấy thật là trẻ
con, một sáng chế của những tâm trí lười biếng, rối loạn do thất vọng.
Tôi muốn thật tỉnh thức sao cho hễ mở mắt, mở tâm, mở trí ra là chân lý
có “ở đấy” rồi, và từ “đấy”, tôi hành động, tôi sống, tôi vui hưởng
những vẻ đẹp trần thế.
Bây
giờ chúng ta nói đến cái vật mà tuyệt đối không thể sao chép được. Vật
ấy, tôi muốn khám phá nó và tôi hy vọng các ngài cũng khám phá nó cùng
với tôi. Nhưng nếu các ngài chỉ biết bằng lòng theo dấu tôi thôi, là các
ngài lạc mất hướng.
Dù
các tính khí có khác biệt, song tất cả mọi chuyển động từ vòng ngoài
vào trung tâm đều là tích cực. Đó là sự tìm kiếm cố ý, một phản ứng phát
sinh do lòng ham muốn tìm thấy, tất nhiên bao hàm có giới luật, có bắt
chước, có vâng lời, có thực hành một phương pháp. Tất cả điều đó tạo
thành cái tiến trình tích cực, hay ít ra cái mà các ngài gọi là tích
cực.
Các
ngài hãy lắng nghe với một tâm trạng thật giản dị, trong tâm các ngài
đừng biện luận chi cả, rồi các ngài sẽ thấy điều trình bày là chân thật
khi chúng ta tiến tới trong câu chuyện. Tôi không tìm cách mê hoặc các
ngài hoặc tuyên truyền đâu: việc ấy ngu muội lắm.
Ta
có thể nhận thấy sự vận dụng tích cực ấy và tất cả ý nghĩa của nó, nhận
thấy nó ngay trong hiện tại, tức thời, miễn là ta đừng thấy bằng cái
thấy lơ đễnh, miễn là đừng có ý nghĩ rằng để rồi sau này ta sẽ thấy nó
rõ hơn, sẽ nghĩ về nó trong ngày mai ngày mốt. Nhìn thấy sự vận dụng
tích cực này là nhìn thấy nó ngay tức thời, trong hiện tiền, thế là nó
liền ngưng dứt trọn vẹn, ta không cần phải làm gì cả để ngưng dứt nó,
không cần phải có một hành vi hữu ý, không cần phải có lý do hay cố ý
tìm kiếm nhằm thu đạt một kết quả. Ta nhận thấy tính cách trẻ con của sự
vận dụng tích cực này, thấy cái tính cách vô hiệu hoàn toàn của nó cùng
với những đạo sư, những giáo hội, những thần thuyết, những nhà phát
minh ra lý tưởng của nó, thế là tất cả đều rơi đi bởi vì ta nhận thấy sự
thật này: không một vận dụng tích cực nào từ vòng ngoài hướng vào trung
tâm mà đạt tới trung tâm được. Sự vận dụng ở bề mặt nỗ lực nhằm trở nên
thâm sâu, bao giờ cũng vẫn là ở bề mặt. Nhìn thấy sự kiện này với một
cái nhìn sắc bén và cực kỳ sáng suốt lúc bấy giờ ta đã bắt đầu thấu hiểu
cái vẻ đẹp của sự vận dụng tiêu cực của tâm trí, không phải là tiêu cực
phản nghịch lại tích cực mà là thứ tiêu cực hiện sinh khi ta đã thấu
hiểu ý nghĩa đích thực của tất cả sự vận dụng tích cực. Bấy giờ ta không
còn bị tù ngục trong sự vận dụng tích cực nữa, ta nằm trong một trạng
thái tiêu cực vô niệm, nghĩa là vì đã thấu hiểu chân lý của những công
cuộc chạy đuổi đó, tâm trí ngừng lại, không nhúc nhích, xao động nữa, do
đó ta có thể nói là tâm trí nằm trong một trạng thái tiêu cực, các ngài
hiểu không?
Tôi
xin trình bày cách khác: Riêng cá nhân tôi, tôi chưa bao giờ đọc một
cuốn sách nào đề cập các vấn đề này và tôi cũng không muốn đọc, các vấn
đề đó không làm tôi quan tâm vì tôi đã thấy ngay trong tôi toàn thể cả
nhân loại, không phải thấy một cách huyền bí, văn hoa bay bướm hay có
tính cách biểu tượng mà thấy bằng sự kiện thật. Tôi là các ngài và là
thế giới. Trong là tất cả kho tàng của thế giới và muốn khám phá kho
tàng đó, tôi chỉ cầu thấu hiểu chính tôi và vượt qua chính tôi. Nếu tôi
không tự giác, tôi không có lẽ sống, không có thực chất, tôi chỉ là một
thực thể rối loạn, và càng tìm kiếm, càng nghiên cứu và càng rập khuôn
bắt chước, tôi càng sống trong hỗn loạn, càng nô lệ vào các nhà lãnh đạo
tinh thần, vào tính khí cùng những dục vọng của tôi và cái trạng thái
hỗn loạn trong tôi càng gia tăng.
Do
đó tôi thấy cái hành động tự giác trọn vẹn, không cố gắng, nghĩa là
không đặt hành động đó thành vấn đề, thật là quan trọng biết bao. Muốn
tự giác, muốn thấu hiểu chính tôi, tâm trí tôi không cần phải làm một
vận dụng tích cực để sửa sai hay không sửa sai những gì nó thấy chi cả.
Như tôi đã nói hôm trước, cái tâm hữu thức cũng như cái tâm vô thức
không có giá trị bao nhiêu và tôi phải thấu hiểu cái tính cách vô giá
trị này. Tôi phải thấu hiểu tức khắc để cái tâm vô thức không còn lừa
đảo, không còn phóng hiện ảo giác, dục vọng bí mật, lợi dụng lúc tôi lơ
đễnh nữa mà sự lơ đễnh này rồi lại trở thành vấn đề.
Các
ngài theo dõi những điều đó chứ? Tôi thấy rằng muốn thấu hiểu chính
tôi, tôi cần phải có cái tâm thức không bị nhiễm bởi bất cứ ảnh hưởng
nào, không có bất cứ dụng và cử động nào, một tâm thức trống rỗng mọi
hành vi tích cực. Với cái tâm thức sáng suốt đó, tôi nhìn vào nội tâm
tôi, chính cái nhìn này giải trừ chỗ hư ngụy của cái “tôi”.
Không
phải tôi đang sáng chế một triết thuyết và, xin lạy trời, các ngài chớ
bảo đây là một quan điểm Đông phương. Các ngài hãy tránh tất cả những sự
nông nỗi ấy. Tôi không thể hiện cái tính khí của một người trót sinh
trong một xứ sở nắng cháy thiêu đốt làm nạm xám màu da. Vì cái nóng cháy
ấy, vì sự lười biếng uể oải do sự nóng bức và vì nỗi bần hàn, nên nhiều
người đã thâm nhập vào nội tâm họ để rồi do đó viết thành những triết
thuyết, sáng chế những tôn giáo, những thần thánh cùng nhiều thứ rắc rối
vô ích khác. Hãy dành những cái đó cho họ. Tôi không đề cập đến chúng.
Điều tôi trình bày không phải thuộc Đông Tây, không phải có tính cách cá
nhân hay phổ biến chi cả, tôi nó về chân lý của một tâm thái mà đột
nhiên ta có thể ngự ngay trong đó, khi tâm thức không còn bị thôi thúc
bởi ước vọng được thoả mãn, khi tâm thức không còn tìm kiếm kinh nghiệm
nữa. Không ai dạy cho ta tâm thái đó, chính ta phải bắt gặp nó, hành
động này đòi hỏi nhiều năng lực. Mà nói đến năng lực là tôi cố ý nói đến
sự vận dụng tất cả sức chú tâm của chúng ta không một chút lơ đễnh xen
tạp vào. Kỳ thực thì sự lơ đễnh không có. Cái ta gọi là lơ đễnh chỉ là
sự không chú ý. Không phải thế sao?… Tôi thích có người không đồng ý về
điểm này.
Cái
gọi là lơ đễnh thật sự có không? Khi ban ngày, tôi nhìn quanh tôi, tư
tưởng rải rác đây đó, nhảy nhót trên nhiều vấn đề khác nhau, nếu các vấn
đề ấy di chuyển lôi kéo tôi ra khỏi con đường đi của mình, lôi kéo tôi
ra khỏi cái trung tâm mà cái tôi ngự trị trong đó, tôi gọi như thế là lơ
đễnh, nhưng nếu không có một trung tâm nào cả, không có một đường hướng
qui ngã nào cả thì cũng không có sự lơ đễnh.
Sự
kiện đó thật là quan trọng mà ta phải thấu hiểu. Nếu các ngài thấu hiểu
một cách sáng suốt nội một sự kiện ấy, các ngài sẽ thấy rằng tất cả mọi
nỗ lực của các ngài nhằm để tập trung, và do đó khiến phát sinh xung
đột, đều tan biến trọn vẹn, và bấy giờ không còn có sự lơ đễnh nữa. Nhìn
trời mây, ngắm khuôn mặt khả ái của một đứa trẻ, nghe tiếng thác đổ
nhanh và tiếng động xé không gian của một phản lực cơ đang lướt nhanh
trên đầu các ngài, quan sát người đời, quan sát các chính khách, các vị
cố đạo, lắng nghe chính tâm và trí mình, nhận thức được những đòi hỏi
thúc bách cùng những thất vọng của các ngài tất cả những cái đó từ cái
nhìn trời mây cho đến cái nhìn vào nội tâm các ngài, tất cả đều không có
gì là lơ đễnh cả, vì mỗi mỗi yếu tố đó đều dự phần tạo thành cái toàn
thể. Chỉ có thể nhận thấy được cái toàn thể này nếu sự chú tâm được vận
dụng trọn vẹn và sự chú tâm trọn vẹn bị chối bỏ nếu ta chấp nhận quan
niệm về lơ đễnh. Ồ! Các ngài hãy nhận thức điều đó!
Khi
sự chú tâm được trọn vẹn thì không có gì được coi là lơ đễnh cả. Những
đòi hỏi về xác thịt, tình tự ganh ghét, những nỗi âu lo, sợ hãi, tình
thương cùng những đam mê của các ngài, không có điều gì các ngài sống lơ
đễnh cả. Mọi sự đều bao gồm trong ngọn lửa chú tâm, do đó không có gì
là manh mún rời rạc cả. Nhà chính khách, vị cố đạo, nghi thức lễ bái đều
dự phần tạo thành cái toàn thể. Chính trong sự vận dụng tích cực của
tâm trí mới có lơ đễnh, chia ly manh mún, còn khi tâm trí không xao
động, do đó “tiêu cực”, nếu tôi có thể dùng danh từ này, thì đời sống
không còn bị chia cắt phân đoạn nữa. Lúc bấy giờ, áng mây trời kia, hạt
bụi, đóa hoa bên vệ đường nọ cùng những tiếng thì thầm của tâm tư các
ngài, đều hoà hợp trong toàn thể. Nhưng ta chỉ có thể thấu hiểu được cái
toàn thể này khi sự vận dụng tích cực của tư tưởng hoàn toàn ngừng dứt.
Chắc
các ngài cũng thấy rằng để ngự ngay, để thể nhập vào trung tâm, cội
nguồn bản nguyên của mọi sự vật đó, cùng đích thị là cái tối thượng, thì
mọi vận dụng của tư tưởng phải chấm dứt. Nhưng ta không thể nào khởi
phát sự chấm dứt này bằng cách đày ải hành hạ tâm trí qua những giới
luật, hay bằng cách đặt thành những vấn đề nan giải và quái dị – như
người ta thường làm trong nhiều môn phái tôn giáo – khiến cho tâm thức
câm lặng đi vì bị mệt nhoài nhừ tử. Tất cả mọi điều đó là việc trẻ con.
Vậy trước hết các ngài phải nhận thấy cái sự thật về mỗi cử động của tư
tưởng và cảm xúc của các ngài và các ngài chỉ có thể thực hiện hành động
đó khi tâm thức các ngài hoàn toàn “tiêu cực”, tịch lặng, an bình và
hành động đó có thể được khởi phát lập tức, y như ta bước ra khỏi một
con đường: con đường của hành vi tích cực mà con người đã theo đuổi hàng
nghìn vạn năm rồi. Ta có thể bước ra khỏi con đường ấy liền, không có
gì phải chờ đợi, hỏi han, tìm kiếm. Nhưng ta chỉ có thể bước được khi ta
đã thấy toàn bộ hành vi của con người, chứ chẳng phải chỉ thấy sự vận
dụng nội tâm của chỉ một người, nghĩa là khi ta đã thấy ngay trong nội
tâm mình sự vận dụng của cái toàn thể. Khi ta nhận thấy tất cả những
điều ấy chỉ nguyên với một cái nhìn – và sự việc nhìn này là sự việc duy
nhất phải thực hiện, không còn việc chi khác nữa – ta mới thực sự tự
do, để rồi từ đó xuất sinh hành động không gây tổn hại cho tâm thức.
Các ngài có muốn hỏi gì về các điều vừa được trình bày không? Hay chẳng còn gì để hỏi nữa?
H: Trưởng thành là gì?
K:.
Phải về sự trưởng thành mà chúng ta đề cập không? Nhưng được, thưa
ngài, trưởng thành là gì? Trưởng thành có liên quan gì với tuổi tác
không? Với kinh nghiệm, với kiến thức, với khả năng không? Với sự tranh
đua và tích trữ tiền bạc không? Nếu không phải là tất cả những điều đó
thì trưởng thành là gì? Có liên quan gì với thời gian không? Ngài đừng
vội bảo không một cách dễ dàng như thế. Nếu quả thực ngài đã thoát khỏi
thời gian, nếu thời gian không còn hệ trọng gì với ngài cả, thì tâm thái
của ngài thế nào? Tôi không đề cập thứ thời gian tính bằng đồng hồ,
thời gian loại này hiển nhiên không có gì quan trọng cả. Nhưng nếu thời
gian quả không mang một ý nghĩa tâm lý nào cả đối với ngài: thứ thời
gian cần thiết để thành công, để hoàn thành, để vượt thắng, để chinh
phục, để thấu hiểu, để so sánh, thứ thời gian cần thiết để trở nên lanh
lợi, thì ngài sẽ không trưởng thành sao? Vậy chỉ có cái tâm thức vô tri,
vô nhiễm mới trưởng thành, chứ chẳng phải thứ tâm thức đã tích trữ kiến
thức, tri thức trong hàng nghìn vạn năm. Kiến thức, tri thức cũng cần
thiết và vẫn có vai trò của chúng ở vài mức độ nào đó, nhưng chúng không
phát sinh được ánh sáng cùng sự vô tư vô nhiễm. Sự vô tư chỉ hiện sinh
khi mọi xung đột đều ngưng dứt. Khi tâm thức không còn vận chuyển trong
bất kỳ một chiều hướng nào nữa cả, bởi vì tất cả chiều hướng đều đã được
thấu hiểu, thì tâm thức liền ngự ngay trong một trạng thái bản nguyên [2]
, tức là tâm thái vô tư vô nhiễm, và để rồi từ đó, tâm thức có thể tiến
sâu vào cõi vô lượng mà có lẽ cái tối thượng vẫn hằng ngự trị. Chỉ với
tâm thức ấy mới đích thị là trưởng thành.
7.
Tôi muốn tiếp tục điều chúng ta đã đề cập hôm trước. Thiết tưởng điều quan trọng là phải thấu hiểu toàn bộ vấn đề về hành động. Tôi không dùng danh từ hành động một cách trừu tượng, hay xem đó là một ý niệm. Tôi nó về sự kiện hành động, làm một việc gì đó… Cuốc đất, làm vườn, đi tới sở làm, nhìn một cội cây, theo dõi nhịp vận chuyển của một dòng nước hay chỉ bước chân trên đường không tưởng niệm chi hết, vừa yên lặng quan sát sự vật – tất cả những gì ta làm đều là hành động, và một cách tổng quát thì hành động thường phát sinh xung đột: hoặc ta cho là hành động sâu xa hay cạn cợt, hành động lập đi lập lại, hành động trở nên buồn tẻ, mệt mỏi, chỉ là một động tác, một hành vi vô nghĩa. Vậy tôi thiết nghĩ điều quan trọng là phải thấu hiểu bản chất của hành động.
Tôi muốn tiếp tục điều chúng ta đã đề cập hôm trước. Thiết tưởng điều quan trọng là phải thấu hiểu toàn bộ vấn đề về hành động. Tôi không dùng danh từ hành động một cách trừu tượng, hay xem đó là một ý niệm. Tôi nó về sự kiện hành động, làm một việc gì đó… Cuốc đất, làm vườn, đi tới sở làm, nhìn một cội cây, theo dõi nhịp vận chuyển của một dòng nước hay chỉ bước chân trên đường không tưởng niệm chi hết, vừa yên lặng quan sát sự vật – tất cả những gì ta làm đều là hành động, và một cách tổng quát thì hành động thường phát sinh xung đột: hoặc ta cho là hành động sâu xa hay cạn cợt, hành động lập đi lập lại, hành động trở nên buồn tẻ, mệt mỏi, chỉ là một động tác, một hành vi vô nghĩa. Vậy tôi thiết nghĩ điều quan trọng là phải thấu hiểu bản chất của hành động.
Bất
cứ ta làm việc gì – đi, nói, nhìn, suy cảm – đều cần có năng lực, và
năng lực này bị hoang phí đi khi nó biểu hiện trong một cuộc xung
chướng. Như ta có thể nhận thấy dù hành vi của ta ở mức độ nào, chúng
đều khởi phát trong ta một ý hướng cố gắng, một sức chống kháng nào đó,
một sự từ chối, một sự tự vệ. Có thể nào hành động mà không có xung đột
và không ngay cả cố gắng không? Chính đó là điều mà tôi muốn đề cập
trong buổi sáng này.
Ta
đã thấy những gì diễn ra trong thế giới: những máy móc, những bộ óc
điện tử, những hệ thống tự động hoá, sẽ cho con người càng có thêm nhiều
thì giờ nhàn rỗi, rồi những tôn giáo và những cuộc vui chơi có tổ chức
sẽ độc quyền túm lây các khoảng thời gian nhàn rỗi ấy. Tôi không biết
giữa hai cái thứ có tổ chức đó có sự khác biệt lớn lao nào không, để rồi
ta sẽ phân biệt chúng. Khi một người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, tất họ
có nhiều năng lực hơn – thật nhiều năng lực – và xã hội muốn họ sử dụng
năng lực họ với ý thức tốt, sao cho đừng phản nghịch lại xã hội. Muốn
vượt thắng những tình ý phản nghịch lại xã hội mà họ có thể có, họ sẽ tự
tan biến mình trong một tôn giáo có tổ chức hoặc trong những cuộc giải
trí đủ loại. Hoặc họ biến mình trong văn chương nghệ thuật, âm nhạc,
cũng vẫn là một cách thế giải trí. Kết quả là con người sẽ trở nên càng
lúc càng thiển cận hơn. Có thể họ sẽ đọc hết sách vở của thế gian, tìm
hiểu hết những chữ phức tạp trong thần học, triết học, khoa học, biết
được một mớ sự kiện và chân lý diễn tả trong văn chương; cả thảy những
tri thức ấy rồi cũng sẽ thiển cận như tất cả mọi hình thức tôn giáo và
mua vui giải trí kia thôi. Các tôn giáo có tổ chức chủ trương là tìm
kiếm chỗ nội tại trong hiện tượng cuộc sống, nhưng lại đòi hỏi những tin
tưởng, những tín điều, những rập khuôn, những nghi thức như tất cả
chúng ta đều thừa biết.
Nếu
chúng ta không ý thức tường tận tất cả những sự qui định cố hữu đó của
nền văn minh hiện đại, thì bao nhiêu năng lực của ta đều bị chúng thiêu
đốt hết và do đó, hành động của ta sẽ hết sức thiển cận, cạn cợt. Và do
sự thiển cận đó, ta sẽ tiếp tục duy trì các cuộc xung đột ở ngay trong
nội tâm mình cũng như đối với tha nhân và xã hội. Trong mỗi địa hạt sinh
hoạt của nhân loại – nghệ thuật khoa học, toán học, kỹ nghệ – và trong
những mối tương giao giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa những
người lân cận sẽ có những cuộc xung đột, mà xung đột là hoang phí năng
lực. Để chấm dứt xung đột và bảo tồn năng lực, ta phải thấu hiểu một
cách trực tiếp thế nào là hành động. Không có sự thấu hiểu này thì đời
sống có thể sẽ càng phóng ngoại nhiều hơn, trong khi nội tâm ta càng
thêm rỗng tuếch. Đây không phải là một quan điểm để ta thảo luận hay ta
có thể nghi ngờ, cũng không phải là một ý kiến chống chọi lại các quan
điểm khác, mà đấy là những sự kiện thực.
Trước
hết, ta hãy xem hành động là gì theo như ta thường biết. Hành động luôn
luôn có một nguyên nhân thôi thúc, nguyên nhân đó tế nhị hoặc lộ liễu,
phải thế không? Ta theo đuổi một sự đền bù hoặc ta hành động vì sợ hãi
hoặc ta cố đạt đến một cái gì. Hành động của ta luôn luôn là sự lấp khít
vào một khuôn mẫu, vào một ý niệm hoặc cố gắng để tiến gần đến một lý
tưởng. Rập khuôn, lấp khít, tiến gần, chống kháng, phủ nhận, đó là tất
cả những gì ta biết về hành động trong đó bao hàm có một chuỗi dài xung
đột.
Như
tôi đã nói hôm nọ, cảm thông với một điều gì mà ta không kết hợp với nó
một cách sâu xa, luôn luôn là việc khó khăn. Tôi muốn cùng với các ngài
cảm thông về một tâm thái tuyệt đối phản nghịch lại những xung đột mà
ta gọi là hành động. Vốn có một thứ hành động trọn vẹn, hành động không
xung đột và tôi muốn nói với các ngài về thứ hành động đó mà không đòi
hỏi các ngài chấp nhận hay từ chối. Tôi cũng không tìm cách mê hoặc các
ngài…
Một
trong những việc khó làm hơn hết đứng nói trên một diễn đàn trong khi
có cả một cử toạ ngồi nghe – kể như các ngài ngồi nghe đi – và thiết lập
được những tương quan chân thật giữa cử toạ và diễn giả, không phải các
ngài đến đây để bị mê hoặc vì những lời lẽ bay bướm, mà tôi cũng không
có ý định ảnh hưởng các ngài bất cứ bằng cách nào. Tôi không phải là một
nhà truyền giáo cho bất cứ một ý niệm nào, tôi cũng không có ý dạy dỗ
chi các ngài. Như tôi đã thường nói, ở đây không có giáo chủ cũng như đệ
tử, mà chỉ có mỗi một việc là cùng tìm học, các ngài và tôi sẽ không
cùng có một tâm thái tìm học nếu các ngài mong có người dạy dỗ các ngài,
mong có người chỉ bảo các ngài phải xử sự ra sao. Chúng ta không đề cập
đến những ý kiến, tôi không có ý kiến. Việc tôi thử làm là trình bày
một vài sự kiện. Các ngài có thể nhìn thấy một vài sự kiện. Các ngài có
thể nhìn thấy những sự kiện đó, tự các ngài có thể xem xét chúng hay
không tùy ý. Thế có nghĩa là các ngài và tôi, chúng ta phải thiết lập
giữa chúng ta những mối tương giao chân thật để từ đó phát sinh một sự
cảm thông, một nhận thức, không những trên bình diện tri thức mà là một
cách trọn vẹn về một sự kiện mà chúng ta sẽ cùng nhau quan sát. Vấn đề
là không phải chúng ta thông cảm với nhau, mà là thông cảm với sự kiện,
để sự kiện trở nên quan trọng hơn cả các ngài và tôi. Chỉ có sự kiện –
với sự nhận thức chung của chúng ta về sự kiện ấy – mới có thể tạo nên
hoàn cảnh, bầu không khí chân thật khả dĩ ảnh hưởng có thể một cách sâu
xa. Tôi thiết tưởng hành động lắng nghe một điều gì – tiếng thác đổ,
tiếng rì rào của cây lá, hay lắng nghe chính tư tưởng và tình cảm của
chúng ta – trở nên quan trọng phi thường khi chúng ta lưu tâm xem xét
chính ngay sự kiện, chứ không phải quan niệm nay ý kiến về sự kiện ấy.
Cả
thảy chúng ta đều biết rằng hành động chúng ta khiến dấy sinh xung đột.
Mọi hành động đều căn cứ trên một ý niệm, một khái niệm, một công thức
hoặc một toan tính hướng đến một lý tưởng, tất nhiên khiến xung đột một
cách không thể tránh được. Đó là điều hiển nhiên. Nếu tôi hành động theo
một khái niệm thì tôi luôn luôn bị phân chia giữa cái tôi đang là với
cái tôi nghĩa là, tôi sẽ phải làm cho chính tôi, thành thử không bao giờ
có được một hành động trọn vẹn. Hành động như thế luôn luôn dấy sinh
những động tác nữa đối với một ý niệm hay một lý tưởng, do đó xung đột
luôn luôn là bản chất cố hữu của tất cả hành động như chúng ta thường
biết – và sự hoang phí năng lực này là nguyên nhân gây tạo sự hư hoại
trong chúng ta. Xin ngài hãy quán sát chính trong trạng thái và hành vi
của tâm thức các ngài và các ngài sẽ thấy đó là sự thật.
Vậy
tôi tự hỏi: có chăng một hành động không tư tưởng và tất nhiên không
xung đột? Hay hỏi cách khác: hành động phải luôn luôn là nguyên nhân
phát sinh cố gắng và tranh đấu? Chẳng hạn như: tôi nói đó là một hình
thức hành động. Chắc chắn là trong hành động đó có xung đột nếu tôi cố
gắng để xác định mình để là một nhân vật quan trọng, để thuyết phục các
ngài. Vậy điều quan trọng trước tiên hơn cả là chính các ngài phải tự
khám phá xem ta có thể nào sống và hành động mà không gây tạo một mảy
may xung đột, nghĩa là xem có thể nào có một hành động mà trong đó tâm
thức vẫn nguyên vẹn, không bại hoại, không méo mó. Và những méo mó tất
không thể tránh được nếu tâm thức bị ảnh hưởng, bị nhiễm độc bất luận
bằng cách nào, hoặc tâm thức dấn mình vào những tranh đấu luôn luôn làm
tiêu ma hết năng lực. Khám phá được chân lý trong vấn đề này, theo tôi,
là một lợi ích đích thực, và tôi nghĩ đối với các ngài cũng thế, bởi vì
việc ta làm ở đây là tìm biết xem có thể nào sống mà không đau khổ,
không thất vọng, không sợ hãi, không có những hành vi làm bại hoại chúng
ta. Nếu điều đó có thể thực hiện được thì sao? Chuyện gì xảy đến đối
với kẻ sống mà không bị nhiễm độc bởi xã hội, không sợ hãi, không tham
lam thèm muốn, không tham vọng, không tìm cầu quyền lực.
Muốn
biết điều đó, ta phải bắt đầu ý thức ngay chính cái tâm thái hiện tại
của ta, với tất cả những cuộc xung đột, những nỗi khốn cùng, những thua
thiệt, những bại hoại, hư hỏng, thất vọng của nó. Ta phải nhận thức
chính ta một cách trọn vẹn và do đó năng lực ta gia tăng. Sự gia tăng
năng lực này đích thị là hành động quét sạch khỏi tâm thức những cặn bã
rác rưởi mà con người đã tích trữ hàng bao nhiêu thế kỷ nay.
Vậy
tự thân hành động không phải là điều chúng ta quan tâm. Chúng ta muốn
biết xem có thứ hành động không làm phát sinh mâu thuẫn dưới bất kỳ hình
thức nào. Như chúng ta đã thấy, chính những ý niệm, khái niệm, công
thức, khuôn mẫu, phương pháp, tín điều cùng những lý tưởng đã khiến phát
sinh mâu thuẫn trong hành động. Vậy sống không ý niệm có được không,
nghĩa là sống mà không có khoa học, không lý tưởng, không khái niệm,
không tin tưởng? Điều tối ư quan trọng là phải tự mình khám phá chân lý
về vấn đề này, vì ta có thể thấy rất rõ rằng tình thương không phải là
một ý niệm, một khuôn mẫu hay một khái niệm. Phần đông chúng ta đều có ý
niệm về thế nào là tình thương, nhưng khái niệm ấy hiển nhiên không
phải là tình thương, hoặc ta thương hoặc ta không thương, thế thôi.
Có
thể nào sống trong cuộc đời này, đi làm việc, nấu bếp, rửa chén, lái
xe, làm tất cả mọi công việc thường ngày, mà vì chúng luôn luôn lặp đi
lặp lại, nên khiến sinh xung đột – có thể nào sống và hành động mà không
ý niệm, tức là giải thoát hành động khỏi tất cả mọi sự mâu thuẫn không?
Tự
hỏi không biết có bao giờ các ngài đi giữa phố phường tấp nập hay trên
một quãng đường vắng vẻ quạnh hiu, các ngài nhìn quanh mình mà không tư
tưởng chi hết không. Vốn có một tâm thái quán sát, trong đó tư tưởng
không xen tạp vào được. Mặc dù ta nhận biết hết tất cả, nhận biết người,
núi non, cây cối hay chiếc xe hơi đang phóng qua, vậy mà tâm thức không
vận chuyển theo cách thế thông thường của tư tưởng. Tôi không biết điều
đó có bao giờ xảy ra với các ngài không. Hôm nào ngài lái xe chẳng hạn
hoặc đang đi trên đường, các ngài hãy thử nhìn quanh mình mà đừng tư
tưởng, hãy quan sát những phản ứng do tư tưởng khởi phát. Mặc dù ta nhận
biết màu sắc, hình thể, dòng nước, chiếc xe, con cừu hay chiếc buýt,
nhưng không có phản ứng, chỉ có một sự quan sát tiêu cực, và cái tâm
thái quan sát tiêu cực này chính là cái hành động. Với cái tâm thái này –
tâm thức chú ý mà không phản ứng – ta mới có thể hoàn tất mọi công việc
thường nhật.
Phần
đông người đời cứ tưởng nghĩ về mình mãi từ sáng đến chiều mà họ vận
chuyển trong cái khung của hành vi vị ngã. Tất cả mọi hành vi loại này
đều là phản ứng, tất nhiên khiến sinh xung đột và bại hoại. Có thể nào
không vận chuyển trong khung sườn ấy mà vẫn sống trong cuộc đời, không
phải ẩn náu trong hang sâu hoặc trú ngụ một nơi nào khác? Có thể xử sự
như là một con người trọn vẹn, mà vẫn sống trong một tâm thái trống
không (nếu tôi có thể dùng danh từ này không gây ngộ nhận)? Có thể nào
ta vẫn làm việc, vẫn vẽ, vẫn làm thơ, vẫn nói năng mà luôn luôn trong
nội tâm có một khoảng trống? Từ cái trống rỗng ấy ta có thể nào làm việc
được không? Bởi vì khi trong nội tâm ta có khoảng trống rỗng đó, thì
hành động không còn sinh mâu thuẫn nữa.
Tôi
thiết tưởng thấy được sự kiện đó là điều tối ư quan trọng. Chính mỗi
người phải tự mình nhìn thấy sự kiện đó, bởi vì không ai có thể dạy bảo
cũng như giải thích sự kiện đó. Muốn khám phá sự kiện đó, trước hết ta
phải thấu hiểu cái cách thế dấy sinh xung đột của mọi hành vi vị ngã đó
và ta phải tự hỏi xem ta có thể nào bằng lòng với hành động như thế
không. Ta có thể thỏa mãn với hành động đó trong nhất thời, nhưng khi ta
thấy trong tất cả mọi hành động loại này, xung đột là điều không thể
tránh được, rồi bấy giờ ta tự hỏi có chăng một hành động hoàn toàn khác
biệt không sinh xung đột và tất nhiên ta nhận thấy hành động như thế quả
có thực.
Bây
giờ thì câu hỏi được nêu ra như thế này: tại sao chúng ta luôn luôn tìm
kiếm sự thỏa mãn? Trong những mối giao tiếp của ta, trong tất cả mọi
công việc ta làm, ta luôn luôn muốn thành tựu một điều gì, muốn tìm thấy
một niềm khoái lạc trường tồn. Điều mà ta gọi là bất mãn chỉ phát sinh
khi niềm khoái lạc này thiếu mất nơi ta và sự bất mãn đó khiến sinh cả
một chuỗi dài phản ứng mới khác.
Tôi
thiết tưởng một người thật đứng đắn và thấy hết mọi điều đó – thấy cái
cách thế con người đã sống trong hàng nghìn vạn năm trong đau khổ và
trong điên đảo tình hình – tất phải tự mình khám phá xem mình có thể nào
sống, hoạt động mà không bị nhiễm độc bởi xã hội không. Người ấy chỉ có
thể thực hiện được điều đó, nếu họ vượt thoát khỏi xã hội, tôi muốn nói
vượt thoát khỏi cái cơ cấu tâm lý của xã hội, bao gồm sự tham lam, lòng
đố kỵ, sự khát vọng và sự đề cao tự phụ. Khi toàn cả cái cơ cấu này đã
được thấu hiểu và được dẹp sang một bên, là ta đã thoát khỏi xã hội. Vẫn
có thể luôn luôn làm việc, mua sắm quần áo, sống một cách bình thường,
nhưng ta đã thoát ly cái cơ cấu tâm lý làm méo mó tâm thức ấy rồi.
Rồi
cuối cùng ta cùng đến giai đoạn tự mình khám phá thấy rằng sự vượt
thoát này là một trạng thái bất động hoàn toàn, và sự bất động này chính
là hành động trọn vẹn, nó không dấy sinh mâu thuẫn cũng như bại hoại.
Tôi
đã kết thúc những điều tôi phải trình bày trong sáng nay, và có lẽ bây
giờ chúng ta có thể thảo luận về mấy điều đó hay các ngài có điều chi
cần hỏi tới không?
H: Ta có thể vẫn làm việc của ta và làm việc mà không có ý tranh đua được sao?
K:
Ta không làm thế được sao, thưa ngài? Ngài có thể nào làm việc và lo
tròn phận sự của ngài mà không tranh đua chi hết được không? Việc của
tôi không phải là bảo rằng ngài có thể làm được hay không làm được, hoặc
bảo rằng ngài phải làm như vậy, vân vân. Nhưng chính ngài có thể thấy
những hậu quả của tinh thần tranh đua. Nó sinh ra thù địch, sợ hãi, hung
hăng, theo đuổi những đòi hỏi thúc bách, không những ở ngay trong nội
tâm ta mà cả ở ngoại cảnh, ở thế gian nữa. Đã thấy tất cả mọi điều đó
nên ngài hỏi có thể nào sống trong cuộc đời mà không tranh đua. Thế có
nghĩa là sống mà không so sánh, thế có nghĩa là làm một công việc mà
ngài thực sự ưa thích, một công việc khiến ngài cảm thấy cực kỳ hứng
thú. Nhưng nếu dấn mình vào một công việc mà ngài không ưa thích thì
công việc ấy khiến ngài nhận lãnh nhiều trách nhiệm thì ngài nên tìm
cách gì cũng thời làm việc đó mà không dấy khởi sự tranh đua. Hành động
đó đòi hỏi một sự chú ý cao độ, phải thế không? Ngài phải hết sức ý thức
mỗi tư tưởng, mỗi tình cảm của ngài, bằng không ngài chỉ tự gán ép cho
mình cái ý niệm là không sinh tâm tranh đua, điều đó chỉ tổ sinh thêm
vấn đề mới khác. Nhưng ngài có thể ý thức tất cả những gì hàm chứa trong
tinh thần tranh đua, ngài có thể nhận thấy chân tướng của tinh thần ấy,
cách thế nó khởi phát xung đột cùng những cuộc tranh đấu bất tận. Ngài
có thể nhận thấy rằng nó không thể đưa con người vào thù hận đối địch,
thiếu vắng thương yêu, dù nó có thể phát sinh điều mà ta gọi là tiến bộ
và hữu hiệu. Nếu nhận thấy tất cả mọi điều đó, thì ngài sẽ hành động
theo chỗ nhận thức của ngài, hoặc hành động theo đường lối tranh đua
hoặc hành động theo cách thế hoàn toàn khác hẳn.
H: Tôi không tin rằng một hành động lặp đi lặp lại nhất thiết phải là một hành động nhàm chán, buồn tẻ.
K:
Ngài biết không, người ta đang nhận thấy rằng vì người thợ trong xưởng
máy cứ làm mãi một số cử động không đổi, nên năng suất của họ kém rất
nhiều và người ta bảo với tôi rằng ở Mỹ châu, trong một vài ngành kỹ
nghệ, họ đang thí nghiệm việc cho phép người thợ tập nghề ngay trong
công việc của họ làm. Kết quả là vì công việc của họ không máy móc, nên
họ sản xuất nhiều hơn. Ngay khi ta cảm thấy rất thích thú làm một vài
công việc nào đó, nhưng nếu ta cứ tiếp tục lặp lại hành động ấy mãi, thì
hành động đó cũng thành ra một thói quen nhàm chán.
H: Còn với người nghệ sĩ thì sao?
K:
Nếu người nghệ sĩ chỉ biết lặp đi lặp lại thì họ không còn là nghệ sĩ
nữa! Tôi cho rằng có thể lẫn lộn giữa hai danh từ lặp lại và sáng tạo,
phải thế không? Sáng tạo là gì?
H: Anh thợ giày đóng giày cho tốt, thế là sáng tạo.
K:
Đóng giày tốt, nướng bánh mì ngon, sinh con đẻ cái, làm thơ, vân vân…
đó là sáng tạo sao? Xin các ngài đừng nói là phải hay không phải… hãy
đợt một phút!
H: Tôi không hiểu làm sao ta có thể sống được trong một khoảng hư không trống rỗng.
K:
Thưa bà, tôi e là có sự ngộ nhận giữa chúng ta. Tôi xin lỗi. Có lẽ do
những danh từ tôi chọn dùng không được đúng. Bà không lĩnh hội được điều
mà tôi gọi là sự trống rỗng… Nhưng đây, chúng ta đang nói về sự sáng
tạo.
Tôi
đã được nghe trong một trường đại học nào đó người ta giảng dạy cái gọi
là văn chương sáng tạo, hội họa sáng tạo. Sự sáng tạo có thể giảng dạy
được sao? Cứ luyện tập hoài một điều gì đó khiến có thể sinh một tâm
thức sáng tạo sao? Một nhạc sư có thể truyền dạy cho các ngài về cái kỹ
thuật chơi vĩ cầm, nhưng hiển nhiên là kỹ thuật không thể đem thiên tài
đến cho các ngài được. Người có tinh thần sáng tạo có thể tự tạo cho
mình cái kỹ thuật, nhưng thường thì người ta nghĩ rằng nên bắt đầu học
lấy cái kỹ thuật trước đã. Hãy lấy một tỉ dụ thông thường, dù rằng tỉ dụ
không phải là những giải thích. Thế nào là một cuộc sống giản dị? Ta
cho rằng sống giản dị là phải chiếm hữu rất ít của cải, phải ăn thật ít,
phải tránh làm cái này cái nọ. Bên Á châu, kẻ chỉ vận một cái y, sống
cô độc một mình, và chỉ ăn mỗi ngày một bữa, được xem là người sống rất
giản dị. Nhưng có thể nội tâm họ là một hỏa diệm sơn bị thiêu đốt bởi
những dục vọng, đam mê, khát vọng. Cuộc sống giản dị của người ấy chỉ là
một dàn cảnh bên ngoài khiến người xem phải nghĩ: “Người này sống thật
là giản dị”. Mà cái tâm thái ấy thực ra, chính là tâm thái của đa số các
ông thánh: bề ngoài trông họ giản dị, nhưng ở nội tâm, họ đầy tham
vọng, họ gò bó tâm thức họ, họ tự ép mình rập khuôn theo vài kiểu mẫu
nào đó, vân vân. Cho nên tôi nghĩ rằng sự giản dị phải bắt đầu từ bên
trong, chứ không phải bên ngoài. Cũng tương tự như vậy, bằng phương thức
diễn đạt bên ngoài, ta không thể nào khởi động sự sáng tạo. Sáng tạo là
một trạng thái sống [3]
chứ không phải là sư tìm kiếm phương tiện kỹ thuật để tự phô diễn.
Trạng thái ấy là sự khám phá ra cái tối thượng và chỉ có thể phát sinh
khi không còn bất kỳ hành vi nào của cái ngã trong bất kỳ chiều hướng
nào.
Nhưng
chúng ta hãy trở lại câu hỏi của bà này về sự trống rỗng. Phần đông
người đời, mặc dù sống trong giao tiếp với kẻ khác, nhưng họ vẫn sống
trong cô đơn. Tôi không nói về loại tâm thái ấy. Một tâm thái trống rỗng
hoàn toàn khác hẳn với cái tâm thái cô độc. Cần phải có một khoảng
trống giữa các ngài và tôi, chúng ta mới có thể nhận thấy nhau được. Cần
phải có một khoảng cách tôi mới nghe được những gì các ngài nói và các
ngài mới nghe được những gì tôi nói. Tương tự như vậy, cần phải có
khoảng trống trong tâm thức chúng ta. Tôi muốn nói tâm thức chúng ta
không nên chấp chứa quá nhiều đến nỗi bị chận nghẹt bế tắc. Chỉ khi nào
tâm thức chúng ta có khoảng trống, không chấp chứa ôm đồm những hành vị
vị ngã, ta mới nhận thức được thế nào là sống. Nhưng sống trong cô độc –
điều đó không thể được.
H: Xin ngài nói thêm về năng lực.
K:
Bất cứ làm việc gì, dù nhỏ mọn, tất phải cần có năng lực, phải thế
không? Đứng dậy rời khỏi ghế, bước ra khỏi lều, suy nghĩ, ăn uống, lái
xe, mọi hành động đều cần năng lực. Nhưng thông thường thì bất cứ là
việc gì, trong tâm ta thường phát sinh một sự chống kháng làm phân tán
năng lực đi, trừ phi hành động của ta đem khoái lạc cho ta, và trong
trường hợp này thì không có xung đột, không có chống kháng nên năng lực
được củng cố.
Như
ban nãy tôi vừa nói, cần phải có năng lực để chú tâm được trọn vẹn và
năng lực không gặp phải sự chống kháng, bao lâu không có sự lơ đễnh.
Nhưng hễ có sự lơ đễnh xen tạp vào, nghĩa là hễ ta dụng ý tập trung vào
một điều gì đó và đồng thời ta lại muốn nhìn ra cửa sổ, thì sinh ra có
chống kháng, tranh đấu. Thế nhưng, nhìn ra cửa sổ cũng quan trọng như
bất cứ nhìn ở đâu, và khi ta đã nhận được chân lý ấy thì không còn có sự
lơ đễnh và xung đột nữa.
Muốn
có năng lực về thân xác, dĩ nhiên ta phải được nuôi dưỡng bằng những
thức ăn trong sạch, được nghỉ ngơi đầy đủ, vân vân. Điều này các ngài có
thể chứng nghiệm ở ngay bản thân mình, khỏi cần thảo luận. Nhưng cũng
có thứ năng lực tâm lý, năng lực này bị phân tán bằng nhiều cách khác
biệt. Để có thứ năng lực này, ta nhớ đến nhiều chất kích thích. Ta đi
nhà thờ, xem đá banh, đọc văn chương, nghe nhạc, tham dự những cuộc họp
mặt như thế này chẳng hạn. Tất cả những điều đó kích thích và nếu các
ngài tìm kiếm chính sự kích thích này, sự thể đó chứng tỏ là về phương
diện tâm lý các ngài bị lệ thuộc vào một cái gì: lệ thuộc vào rượu chè,
vào ma túy, vào vị đạo sư, giáo hội. Dù bất cứ hình thức nào, mọi sự lệ
thuộc chỉ làm hôn mê tâm thức, ngoài ra lại còn phân tán năng lực nữa.
Vậy để bảo tồn năng lực này, mọi nhu cầu về chất kích thích phải được
đánh tan và để tránh ta lệ thuộc vào người, vào sách vở, vào công việc
hay vào nhu cầu đi xi nê, bất cứ hình thức đặc biệt nào của chất kích
thích mà ta tìm kiếm, ta đều phải nhận thức nó trước tiên. Chấp nhận sự
cần thiết của những chất kích thích, chấp nhận sự sống với chúng là phân
tán năng lực và làm hư hoại tâm thức. Nhưng nếu ta ý thức chúng và khám
phá thấy cái tác động đích thực của chúng trong đời sống của ta, là ta
đã thoát ly khỏi sự kiện đó rồi.
Bằng
một nhận thức sắc bén nội tâm mình đây không phải là tự lên án mình với
tất cả những gì bao hàm trong sự lên án đó, mà là nhận thấy chính mình y
như mình là, mà không phân biệt chọn lựa chi cả – ta mới tìm học hầu
lĩnh hội hết tất cả những gì liên quan đến các luồng ảnh hưởng cùng mọi
hình thức lệ thuộc. Chính sự vận dụng này, đích thị là hành động tìm
học, làm phát sinh nguồn năng lực cần thiết để ta thoát ly khỏi mọi sự
lệ thuộc và kích thích.
8.
Có lẽ sáng nay chúng ta nên dẹp hết sang một bên tất cả mọi vấn đề của ta: vấn đề kinh tế, vấn đề giao tiếp với tha nhân, vấn đề sức khỏe và cả những vấn đề rộng lớn hơn vây phủ chúng ta: về quốc nội và quốc tế, về chiến tranh, về đói kém, về bạo động loạn lạc, vân vân. Không phải chúng ta lẩn tránh các vấn đề ấy, nhưng nếu chúng ta có thể dẹp chúng sang một bên, dù chỉ trong buổi sáng này thôi, thì với một tâm thức tươi nhuận, một nhận thức sâu sắc hơn chúng ta mới có thể xem xét chúng một cách khác hẳn, một cách mới mẻ, đầy cương quyết và sáng suốt hơn.
Có lẽ sáng nay chúng ta nên dẹp hết sang một bên tất cả mọi vấn đề của ta: vấn đề kinh tế, vấn đề giao tiếp với tha nhân, vấn đề sức khỏe và cả những vấn đề rộng lớn hơn vây phủ chúng ta: về quốc nội và quốc tế, về chiến tranh, về đói kém, về bạo động loạn lạc, vân vân. Không phải chúng ta lẩn tránh các vấn đề ấy, nhưng nếu chúng ta có thể dẹp chúng sang một bên, dù chỉ trong buổi sáng này thôi, thì với một tâm thức tươi nhuận, một nhận thức sâu sắc hơn chúng ta mới có thể xem xét chúng một cách khác hẳn, một cách mới mẻ, đầy cương quyết và sáng suốt hơn.
Tôi
thiết tưởng chỉ có tình thương mới có thể làm phát sinh một cuộc cách
mạng đích thực, chứ tất cả mọi cuộc cách mạng khác, những cuộc cách mạng
căn cứ trên những lý thuyết về kinh tế, hay trên những chủ nghĩa xã hội
hay trên các chủ thuyết nào khác, đều chỉ có thể tạo thêm nhiều rối
loạn mới khác, càng sinh thêm đảo điên và khốn khổ. Ta không thể nào hy
vọng giải quyết được vấn đề căn bản của nhân loại bằng cách cải thiện
rồi kết hợp lại vô số những thành phần riêng biệt của nó. Chỉ duy một
tình thương rộng lớn mới có thể cho ta một cái nhìn toàn vẹn về vấn đề
ấy, do đó mới vận dụng được một hành động toàn diện, thay vì cứ được một
hành động toàn diện, thay vì cứ loay hoay với cái hành vi phiến diện
manh mún được gọi là những cuộc cách mạng mà kỳ thực không đưa tới đâu
cả.
Sáng
nay, tôi muốn nói về một điều bao gồm toàn bộ cuộc sống, không chia ly
manh mún đó là cách thể nhìn ngó toàn bộ cuộc sống con người, và để thâm
nhập vào đó thiết tưởng chúng ta phải ngừng dấn thân vào những lý
thuyết, những tin tưởng, những tín điều. Phần đông chúng ta không chịu
ngưng đào bới cái bản chất của tư tưởng mình, nhưng hình như chúng ta
không bao giờ chịu gieo giống, chúng ta phân tích, chúng ta thảo luận,
chúng ta phanh phui sự vật ra thành từng mảnh, nhưng chúng ta không nắm
được sự vận động toàn bộ của cuộc sống.
Tôi
nghĩ là có ba điều cần phải được thấu hiểu một cách thâm sâu nếu chúng
ta muốn lĩnh hội toàn bộ cuộc vận động của đời sống. Đó là: Thời gian,
đau khổ và sự chết. Để thấu hiểu thời gian, để lãnh hội trọn vẹn ý nghĩa
của đau khổ và để sống cùng sự chết – tất cả hành động đó đòi hỏi phải
có ánh sáng của tình thương. Tình thương không phải là một lý thuyết
cũng không phải là một lý tưởng. Ta thương hoặc ta không thương, thế
thôi. Điều đó không thể giảng dạy được. Ta không thể thâu nhập những bài
học để biết phải thương yêu như thế nào và cũng không có một phương
pháp nào với những công phu luyện tập hằng ngày, khiến có thể khởi sinh
nơi ta một nhận thức về thế nào là thương yêu. Nhưng tôi nghĩ có thể
thương yêu một cách tự nhiên, một cách dễ dàng, một cách tự phát, khi ta
thật sự nhận thức được ý nghĩa của thời gian, nhận thức được chỗ sâu xa
phi thường của đau khổ cùng cái trạng thái thuần khiết do sự chết phát
sinh. Ý tôi muốn nói là ta phải xem xét bằng sự kiện thực, chứ không
phải xem xét trên lý thuyết hay trong trừu tượng, bản chất của thời
gian, tính chất – hay cơ cấu – của đau khổ và cái vật kỳ lạ mà người đời
gọi là sự chết. Ba vật ấy không chia cách nhau được. Nếu ta thấu hiểu
thời gian, ta mới thấu hiểu được sự chết cùng đau khổ là gì. Nhưng nếu
xem thời gian như một vật gì khác biệt với đau khổ và sự chết, và nếu cố
nhìn xét nó một cách biệt lập, thì quan điểm của ta sẽ phiến diện, chia
lìa và ta không bao giờ lãnh hội được vẻ đẹp cùng mãnh lực của thương
yêu.
Vậy
sáng nay, chúng ta sẽ nói về thời gian, không phải nói trong trừu tượng
mà trong hiện thực: thời gian như là một sự tương tục của cuộc sống. Có
thứ thời gian của đồng hồ, giờ và ngày trải dài thành triệu triệu năm,
và chính thời gian ấy đã phát sinh tư tưởng mà ta đang vận dụng để sống
còn. Khả năng tư tưởng của ta là một thành quả của thứ thời gian ấy, nó
đích thị là sự tương tục của đời sống và ta gọi sự cải thiện hay “đánh
bóng” cái khả năng tư tưởng đó qua tương tục, là sự tiến bộ. Thời gian
cũng còn là cái kỳ hạn tâm lý mà tư tưởng tạo nên như phương tiện nhằm
tự thực hiện. Chúng ta dùng kỳ hạn đó để tiến bộ, để thực hiện, để trở
nên, để tạo thành quả. Phần đông người đời xem đó như là bàn đạp để lấy
đà phóng tới một cái gì vĩ đại hơn, tới sự phát triển một vài khả năng,
tới sự toàn thiện một kỹ thuật nào đó, tới sự thực hiện một cứu cánh,
một mục tiêu – mục tiêu này có thể là đáng giá hoặc có thể là không, rồi
từ đó họ tưởng nghĩ rằng thời gian là cần thiết cho sự lộ bày, khai phá
những gì là chân lý, là Thượng đế, là siêu thoát khỏi nỗi khổ nhọc của
con người.
Thế
thường, ta xem thời gian như là một kỳ hạn, một giai đoạn giữa cái lúc
hiện tại và một điểm thời gian nào đó trong tương lai mà người ta sẽ tự
thực hiện, và người ta dùng kỳ hạn ấy để đào luyện tính tình, để dứt bỏ
một vài thói quen để phát triển các bắp thịt hay một vài quan điểm nào
đó. Trong suốt hai ngàn năm qua, những tâm thức Cơ đốc đã bị qui định
nhằm để tin tưởng vào một đấng cứu thế, vào địa ngục, vào thiên đàng,
còn ở Đông phương, cũng có những sự qui định tương tự được dùng để áp
chế tâm trí con người còn dài lâu cổ xưa hơn nữa. Người ta nghĩ rằng
thời gian là cần thiết cho mọi điều mà người ta phải làm hoặc phải hiểu,
do đó thời gian trở thành gánh nặng, trở thành rào cản ngăn chặn không
cho nhận thức những sự kiện, ngăn chặn không cho nhìn thấy tức khắc
nguyên nhân chân, giả của một điều nào đó, vì người ta tin rằng muốn
được như thế cần phải có thời gian. Người ta bảo:
“Ngày
mai trong hai năm nữa, tôi sẽ hiểu cực kỳ sáng suốt điều này”. Ngay khi
người ta chấp nhận thời gian là người ta đã dụng dưỡng sự biếng nhác,
chính sự lười biếng kỳ lạ này đã ngăn chặn không cho nhìn thấy tức khắc
chân tướng của sự vật.
Ta
nghĩ rằng cần phải có thời gian để đoạn tuyệt với cái trạng thái qui
định mà xã hội – với những tôn giáo có tổ chức, với những luật lệ về
luân lý, với những tín điêu, với sự ngạo mạn, với tinh thần tranh đua
của nó – đã khống chế tâm thức. Ta tư tưởng bằng thời gian vì tư tưởng
thuộc trong thời gian: tư tưởng là phản ứng của ký ức và ký ức là thứ
hậu trường đã được tích trữ, di truyền, thủ đắc bởi giống nòi chủng tộc,
bởi tập đoàn, phe nhóm, bởi gia đình và cá nhân. Hậu trường ấy là thành
quả của tiến trình tích trữ của tư tưởng và sự tích trữ này đã nương
nhờ vào thời gian. Đối với phần đông chúng ta, khả năng tư tưởng đích
thị là ký ức. Khi có một khích động hay một sự mời gọi thì chính ký ức
phản ứng như một ứng đáp, tương tự như một bộ óc điện tử tác động bằng
phương thức liên hợp. Vì tư tưởng là phản ứng của ký ức, nên ngay trong
bản chất, nó là sản phẩm của thời gian và cũng là chủ thể cấu tạo nên
thời gian.
Điều
tôi trình bày không phải là một lý thuyết, cũng không phải là một đề
tài để suy nghĩ. Các ngài chả cần phải suy nghĩ chi về điều đó cả, tốt
hơn các ngài hãy nhìn thấy những sự kiện ấy vì chúng là như thế đó. Tôi
không đi sâu vào chỗ phức tạp của những chi tiết của các sự kiện đó,
nhưng tôi chỉ vạch ra cho các ngài thấy các sự kiện cốt yếu, và trong
hai điều này, các ngài phải thực hiện một: hoặc các ngài nhìn thấy các
sự kiện đó hoặc không. Nếu các ngài theo dõi điều tôi trình bày, chứ
không phải những danh từ được phát ngôn, nếu thay vì phân tích bài nói
chuyện của tôi, các ngài nhận thấy thực sự rằng các sự kiện là như thế,
các ngài mới có thể nhìn thấy cái cách thế mà thời gian nó lừa đảo mê
hoặc chúng ta và lúc bấy giờ, câu hỏi được đặt ra là: thời gian có thể
nào ngưng dứt không? Nếu chúng ta có thể thấy được toàn bộ tiến trình
của hành vi chúng ta – thấy chiều sâu hun hút cùng bề mặt cạn cợt của
nó, thấy vẻ đẹp cùng nét xấu của nó – không phải ở ngày mai mà thức khắc
ngay bây giờ, thì chính nhận thức là hành động hủy phá thời gian.
Nếu
ta không thấu hiểu được thời gian thì ta không sao thấu hiểu được đau
khổ. Chúng không phải như ta tưởng, là hai nhân vật khác biệt nhau. Để
đến sở làm, sống với gia đình, sinh sản, không phải là những sự việc khu
biệt. Trái lại, tất cả mọi phương diện ấy của cuộc sống đều liên lạc
nhau một cách sâu xa và mật thiết, và không có lòng mẫn cảm xuất sinh từ
tình thương thì ta không thể nào nhận thấy được những mối liên lạc mật
thiết phi thường đó.
Để
thấu hiểu đau khổ, ta phải thật sự thấu hiểu bản chất của thời gian và
sự cấu tạo của tư tưởng. Thời gian phải ngưng dứt, bằng không ta chỉ lặp
đi lặp lại những kiến thức, tài liệu đã được tích trữ, tương tự như một
bộ óc điện tử. Nếu thời gian không chấm dứt tức là tư tưởng không chấm
dứt – thì ta chỉ biết lặp đi lặp lại, chỉ biết thích ứng, chỉ biết biến
chế, chứ không bao giờ có mới mẻ nơi nội tâm ta. Chúng ta là những bộ óc
điện tử được đề cao vẻ vang, tuy có đôi chút độc lập, nhưng chúng ta
vẫn máy móc trong sinh hoạt.
Vậy
để thấu hiểu bản chất và sự chấm dứt của đau khổ, ta cần phải thấu hiểu
thời gian. Muốn thấu hiểu thời gian, ta cần phải thấu hiểu tư tưởng.
Hai vật ấy không tách rời nhau được. Có thấu hiểu thời gian, ta mới chấm
dứt được tư tưởng và thấu hiểu tư tưởng tức là chấm dứt thời gian, do
đó chấm dứt luôn đau khổ. Nếu điều ấy đã được sáng tỏ thì ta mới có thể
nhìn tận mặt sự đau khổ thay vì thờ phượng sùng bái nó như những người
Cơ đốc. Thế thường, ta hay sùng thượng hoặc phá hủy điều nào ta không
hiểu. Ta đặt điều đó vào trong một nhà thờ, một đền chùa hay trong thâm
kín nào đó của tâm thức ta để rồi từ đó nó trở thành là một vật kinh
khiếp, hoặc ta đá hất, quăng ném thải bỏ nó; hoặc ta lẩn tránh nó. Nhưng
ở đây ta không hành động như thế. Chúng ta thấy rõ rằng, từ nhiều nghìn
vạn năm qua, con người đã vùng vẫy mãi trong đau khổ, và không sao giải
quyết được vấn đề, thành thử họ trở nên chai lì, họ đã chấp nhận đau
khổ bảo rằng đó là một phương diện không thể tránh của cuộc sống.
Nhưng
khư khư chấp nhận đau khổ, không những ngu muội mà đó còn là cách thế
làm cho tâm trí thành hắc ám, vô cảm, hung bạo nông cạn, và do đó cuộc
sống chỉ còn là một chuỗi dài ti tiện của những bạo lực và khoái lạc nối
tiếp nhau.
Chúng
ta sống những cuộc sống phân chia manh mún như là nhà doanh nghiệp, nhà
khoa học, nghệ sĩ, là con người tình cảm, sùng đạo hoặc là gì khác nữa.
Nhưng muốn thấu hiểu đau khổ và thoát ly đau khổ, ta phải thấu hiểu
thời gian, tức là thấu hiểu tư tưởng. Bấy giờ ta nhận thấy rằng không
thể nào chối bỏ, lẩn trốn, đào thoát khỏi đau khổ bằng cách vui đùa, đi
nhà thờ, chấp nhận những tin tưởng có tổ chức, mà không thể chấp nhận và
sùng thượng đau khổ. Nhưng để tránh những tệ đoan nguy hiểm ấy, ta cần
phải có một sức chú tâm cao độ, tức là năng lực vậy.
Đau
khổ thường mọc gốc rễ trong thái độ tự thương thân xót phận. Nếu ta
muốn thấu hiểu đau khổ ta phải “mổ xẻ” sự thương thân xót phận đó một
cách thẳng tay. Không biết các ngài có để ý thấy các ngài tự thương thân
trách phận đến mực độ nào chăng khi các ngài nói: “Tôi cô độc”. Ngay
khi sự thương thân xót phận này xen vào là các ngài đã bồi đất cho cây
đâm gốc mọc rễ rồi. Các ngài có thể biện minh cho sự thương thân xót
phận này, có thể lý luận, có thể đánh bóng, phủ đậy nó bằng ý niệm,
nhưng nó vẫn luôn luôn hiện diện ở đó, ung độc lở lói vào sâu nội tâm
các ngài. Vậy, kẻ muốn thấu hiểu đau khổ, trước tiên phải khởi sự giải
thoát khỏi cái mưu mộ ti tiện, bạo ngược và vị ngã là sự thương thân xót
phận đó. Các ngài có thể cảm nhận được tình tự thương thân xót phận đó
vì cầu nguyện bệnh hoạn hoặc vì có kẻ thân yêu qua đời hoặc vì các ngài
chưa tự thực hiện được con người của mình, nên các ngài tự cảm thấy mình
sút kém, lu mờ, nhưng dù thế nào, tình tự thương thân xót phận vẫn là
gốc rễ của đau khổ. Hễ ta giải thoát khỏi tình tự này, là ta có thể nhìn
tận mặt đau khổ, không sùng thượng hay lẩn trốn nó, hoặc gán cho nó một
ý nghĩa cao thượng và đạo đức, hoặc nghĩ rằng cần phải đau khổ mới tìm
thấy được Thượng đế, như thế quả thực là dại dột. Chỉ có những tâm thức
mê mờ và ngu muội mới quy thuận với đau khổ. Vậy bằng cách này hay cách
khác, không nên chấp nhận đau khổ mà cũng không chối bỏ nó. Khi ta đã
giải thoát khỏi sự thương thân xót phận ấy thì ta đã lột bỏ hết mọi tình
tự và cảm xúc của đau khổ có thể dấy sinh và lúc bấy giờ ta mới có thể
nhìn tận mặt đau khổ với một sự chú tâm trọn vẹn.
Tôi
hy vọng rằng đó là điều mà các ngài đang làm sáng nay khi chúng ta cùng
tiến tới trong câu chuyện, và hy vọng rằng các ngài đừng bằng lòng chấp
nhận trên bình diện ngôn từ những điều tôi trình bày. Các ngài hãy ý
thức việc các ngài âu sầu chấp nhận đau khổ, ý thức những lý luận, những
biện giải, ý thức sự thương thân tủi phận, thái độ tình cảm và xúc cảm
của các ngài, bởi vì tất cả những thứ ấy đều làm hao phí năng lực. Muốn
thấu hiểu đau khổ, các ngài phải đặt hết chú tâm của các ngài vào đó và
trong sự chú tâm này không còn chỗ chứa những biện giải, những tình cảm
những lý luận cũng như tình tự thương thân xót phận.
Tôi
hy vọng các ngài thấu hiểu rõ ràng qua lời trình bày của tôi, khi tôi
khuyên các ngài nên đặt hết chú tâm vào đau khổ. Trong sự chú tâm này
không có một cố gắng nào nhằm để giải quyết hoặc thấu hiểu sự đau khổ.
Ta nhìn, ta quan sát, chỉ có thế thôi. Mọi cố gắng nhằm thấu hiểu, nhằm
lý luận hoặc lẩn tránh đau khổ, đều là thái độ chối bỏ cái tâm thái tiêu
cực của sự chú tâm trọn vẹn, mà chỉ trong tâm thái này cái gọi là đau
khổ mới có thể được thấu hiểu.
Không
phải chúng ta đang phân tích, đang khám phá đau khổ bằng lối phân tích
nhằm một cách dứt bỏ đau khổ, vì các động tác đó của tâm trí chỉ là
những mánh khóe xảo quyệt. Tư tưởng, đứng ra làm cuộc phân tích, tưởng
tượng rằng đã thấu hiểu và thoát ly đau khổ. Tưởng tượng thế là dại dột.
Các ngài có thể dứt bỏ được một sự đau khổ đặc biệt nào đó, nhưng đau
khổ vẫn sẽ tái hiện dưới một hình thức khác. Chúng ta nói về đau khổ
trong cái toàn thể của nó, tự thân của đau khổ, dù là đau khổ của tôi
hay của các ngài hay của một người nào khác.
Như
tôi đã nói, để thấu hiểu đau khổ, cần phải thấu hiểu thời gian và tư
tưởng. Phải nhận thức rõ để không phân biệt chọn lựa tất cả mọi cách thế
lẩn trốn, tất cả những gì là thương thân xót phận được phô diễn thành
ngôn từ, làm như thế để cho tâm thức được hoàn toàn tịch lặng đối diện
với điều ta muốn hiểu. Trong đó, tuyệt nhiên không có sự chia cách giữa
chủ thể quan sát và đối tượng bị quan sát: Không phải chính các ngài,
chủ thể quan sát, người tư tưởng, đang đau khổ và đang nhìn thấy đau
khổ: Chỉ có một tâm thái duy nhất. Cái tâm thái đau khổ bất khả phân này
hết sức cần thiết, bởi vì khi ta nhìn đau khổ như là một chủ thể quan
sát là ta đã tạo nên cuộc xung đột làm ngưng trệ tâm thức, làm hoang phí
năng lực và do đó loại trừ sự chú tâm.
Khi
ta thấu hiểu bản chất của thời gian và tư tưởng, khi ta đã bứng gốc sự
thương thân xót phận, bứng gốc tình cảm, cảm xúc và tất cả những gì bao
hàm trong đó thì tư tưởng, nguyên là nguồn cội dấy sinh tất cả sự phức
tạp ấy, liền chấm dứt và thời gian không còn nữa. Bấy giờ ta tiếp xúc
trực chỉ và mật thiết với vật mà các ngài gọi là đau khổ. Ta duy trì đau
khổ khi ta lẩn tránh đau khổ, khi ta muốn trốn chạy nó hay muốn giải
quyết nó hay sùng thượng nó. Nhưng khi tất cả mọi hành động đó đều không
có, bởi vì ta đã giáp mặt trực tiếp với đau khổ và do đó ta tuyệt đối
lặng yên trước đau khổ, ta liền khám phá rằng ta không đau khổ chi hết.
Ngay khi tâm thức các ngài tiếp xúc trọn vẹn với sự-kiện-đau-khổ thì
chính sự tiếp xúc ấy giải quyết tất cả những gì đã nương nhờ vào thời
gian và tư tưởng, làm tái sinh sự kiện đó. Và thế là đau khổ chấm dứt.
Bây
giờ, làm cách nào chúng ta có thể thấu hiểu được cái mà chúng ta gọi là
sự chết, và chúng ta quá đỗi sợ hãi? Con người đã tạo biết bao nhiêu là
đường lối quanh co để đề cập sự chết: những thờ phượng, những lý lẽ để
chối bỏ nó, vô số những tin tưởng, vân vân. Nhưng để thấu hiểu sự chết,
tất nhiên phải đề cập nó bằng một tâm thức mới mẻ, bởi vì các ngài không
biết gì về sự chết cả, phải thế không? Các ngài đã thấy nhiều người
chết, và các ngài đã quan sát, ở chính các ngài cũng như những người
khác, cái chết lần mò tiến đến cùng với tuổi tác và sự tiêu mòn hư hoại
do tuổi tác đem lại. Các ngài biết rằng sự sống của xác thân cáo chung
với sự già nua, với tai nạn, với bệnh tật, với sát hại hoặc với tự vẫn,
nhưng các ngài không biết sự chết như cái ngài biết về những ham muốn
tình dục, sự đói khát, tính hung bạo, sự tàn nhẫn. Các ngài không nhận
biết một cách đích xác trọn vẹn chết là gì, và bao lâu các ngài không
thấu hiểu, thì sự chết sẽ vô nghĩa đối với các ngài. Điều mà các ngài sợ
hãi là một sự trừu tượng mà các ngài không quan niệm nổi. Bởi vì không
nhận biết được sự sung mãn của cái chết là gì, và bao lâu các ngài không
thấu hiểu, thì sự chết sẽ vô nghĩa đối với các ngài. Điều mà các ngài
sợ hãi là một sự trừu tượng mà các ngài không quan niệm nổi. Bởi vì
không nhận biết được sự sung mãn của cái chết và những nghĩa lý bao hàm
trong đó, nên tâm thức các ngài sợ hãi nó: tâm thức sợ hãi các ý niệm về
sự chết, chứ không phải nó sợ hãi chính sự kiện mà nó không biết.
Xin
các ngài hãy xem xét điều này với tôi: nếu các ngài chết tức tốc, các
ngài không có thì giờ để nghĩ đến cái chết và sợ hãi nó. Nhưng đây lại
có một khoảng cách giữa hiện tại và lúc cái chết sẽ đến, và trong kỳ hạn
đó các ngài có thời giờ để âu lo và lý luận về cái chết. Các ngài muốn
kéo dài cuộc đời trong một cuộc sống khác – nếu cuộc sống khác đó có –
kéo dài tất cả những nỗi lo âu, tất cả những ham muốn, những tri thức mà
các ngài đã tích trữ, thế rồi các ngài tin tưởng vào một hình thức bất
tử nào đó. Với các ngài, sự chết là một vật cách biệt với sự sống. Cái
chết ở đằng kia, một nơi nào đó, còn các ngài thì ở đây, đang lo sinh
sống, đang bận lái xe, đang bận hưởng khoái lạc dâm dục, đang cảm thấy
đói, đang tạo ưu phiền, đang chạy áp phe, đang tích trữ kiến thức, vân
vân. Các ngài không muốn chết vì các ngài chưa viết xong quyển sách của
mình, vì các ngài chưa chơi vĩ cầm tuyệt hay. Thế rồi các ngài phân chia
sự chết với sự sống và các ngài tự bảo: “Bây giờ tôi muốn hiểu sự sống,
còn sự chết thì sau rồi tôi sẽ hiểu”. Thế nhưng, chết sống vốn không
cách biệt nhau, và đấy là điều trước tiên cần phải thấu hiểu. Sống và
chết là một. Chúng liên quan mật thiết với nhau. Ta không thể khu biệt
chúng ra và tìm hiểu cái này tách lìa cái kia được. Mà phần đông chúng
ta lại làm như thế. Ta chia cắt sự sống ra nhiều khu vực kín mít, không
dính dáng chi với nhau cả. Nếu các ngài là nhà kinh tế học thì các vấn
đề kinh tế là tất cả mối quan tâm của các ngài, ngoài ra các ngài không
biết chi hết. Nếu ngài là y sĩ chuyên môn về mũi họng hay về tim thì
ngài sống trong phạm vi hạn định của những kiến thức đó suốt trong bốn
năm chục năm và đó là thiên đàng của ngài khi ngài chết.
Như
tôi đã nói, hễ nhìn xét cuộc sống một cách chia ly manh mún là sống
triền miên trong điên đảo hỗn loạn, trong mâu thuẫn của đau khổ. Cần
phải nhìn thấy cái toàn thể của cuộc sống và ta chỉ có thể nhìn thấy
được cái toàn thể khi lòng tràn đầy trìu mến, thương yêu. Tình thương là
cuộc cách mạng duy nhất khả dĩ ổn định được trật tự trong thế giới.
Việc thu đạt thêm nhiều kiến thức về toán học, về y học, về sử, về kinh
tế và kế đó ráp nối tất cả các mảnh vụn ấy lại, là điều hoàn toàn vô
ích: hành vi đó không giải quyết được gì cả. Không có tình thương thì
mọi cuộc cách mạng đều đưa đến sự sùng thượng nhà nước hay sùng thượng
một hình ảnh hoặc đưa đến vô số những hành vi trụy tồi tàn bạo làm hủy
hoại con người. Cũng tương tự như thế, vì sợ hãi cái chết, ta đặt nó
cách khoảng với ta và tách rời nó với cuộc sống thường nhật của ta, sự
phân cách này chỉ khiến phát sinh thêm sợ hãi, âu lo và gia tăng những
lý thuyết về sự chết. Muốn thấu hiểu sự chết, phải thấu hiểu sự sống. Sự
sống không phải là sự tương tục của tư tưởng và chính sự tương tục này
đã khởi dấy tất cả mọi đau khổ của ta.
Nhưng
tâm thức các ngài có đủ khả năng thu hồi hết sự chết về ngay trong hiện
tại tổ chức thời này không? Các ngài theo dõi tôi chứ? Sự thật cái chết
không phải là cái gì ở tận đằng xa kia đâu: cái chết ở tại đây và ngay
bao giờ. Cái chết hiện diện khi ta nói năng, khi ta hưởng lạc, khi ta
lắng nghe, khi ta đến sở làm. Cái chết hiển hiện ở đó mọi lúc trong cuộc
sống như tình thương vậy. Nếu các ngài nhận thấy được một lần sự thể
ấy, các ngài sẽ thấy rằng tình tự sợ chết không còn nữa. Không phải ta
sợ cái-không-biết mà ta sợ mất cái-biết. Ta sợ mất hết gia đình, sợ bị
cô độc, không ai bầu bạn, ta sợ nỗi khổ về cô độc, hành hạ, sợ không có
cảm giác và mất hết của cải đã được tích lũy. Ta sợ phải xa lìa
cái-biết. Cái biết là ký ức, và tâm thức bám víu vào ký ức ấy, nhưng ký
ức chỉ là máy móc, điều đó đã được các máy tính điện tử chứng minh hết
sức ngoạn mục.
Muốn
thấu hiểu vẻ đẹp và bản chất phi thường của sự chết, ta phải giải thoát
khỏi cái biết. Chết với cái biết là bắt đầu thấu hiểu sự chết, bởi vì
bấy giờ tâm thức chuyển mình mới mẻ, trong nó không còn sợ hãi nữa và ta
có thể đi vào cái trạng thái được gọi là sự chết. Kẻ thông minh đích
thực mới thấu hiểu được thời gian, tư tưởng và đau khổ. Chỉ kẻ đó mới
thấu hiểu được sự chết. Thứ tâm thức biết chết từng giây từng phút,
không bao giờ tích trữ, không bao giờ gom góp kinh nghiệm, mới là tâm
thức vô tư vô nhiễm và do đó mới luôn luôn nằm trong một trạng thái
thương yêu thường trực.
Không biết các ngài có muốn hỏi chi thêm về vấn đề đó không, để chúng ta đi sâu vào các chi tiết.
H: Thưa ngài, giữa tư tưởng của ngài và tư tưởng Cơ đốc về tình thương, khác nhau chỗ nào?
K:
Tôi e không thể nói được chỗ đó với ngài. Tôi không có “tư tưởng” tình
thương, nếu ta nghĩ về tình thương, thì đấy không phải là tình thương,
chắc ngài biết là có một sự khác biệt lớn lao giữa một nhu cầu bình
thường về dâm dục với những tư tưởng kích thích cảm giác. Tâm thức chỉ
biết lo hưởng lạc, chỉ biết nghĩ đến khoái lạc, cứ tự kích thích bằng
những hình ảnh, bằng những tưởng tượng, bằng những tư tưởng, tâm thức ấy
rất tổn hại. Nhưng “cái kia” thì lại hoàn toàn khác hẳn: Ý nghĩa của
cái ấy, không có tư tưởng xen vào, nên vốn khác hẳn. Cũng tương tự như
thế, ta không thể tư tưởng về tình thương. Ngài có thể tưởng nghĩ đến
một kiểu mẫu tình thương mà ký ức đã ghi chép được hay tưởng nghĩ đến
những gì người ta đã nói với ngài về tình thương: họ nói tình thương tốt
hoặc xấu, thiêng liêng hoặc phàm tục, vân vân. Nhưng các tư tưởng ấy
không phải là tình thương. Tình thương không phải thuộc Cơ đốc giáo, Ấn
Độ giáo, không phải đông tây chi cả, tình thương không phải của ngài,
không phải của tôi. Chỉ khi nào ngài đã chặt đứt hết mọi ý niệm về quốc
tịch, về chủng tộc, về tôn giáo của ngài cũng như về mọi ý niệm khác,
ngài mới biết được tình thương là gì.
Các
ngài thấy không, sáng nay tôi nói về sự chết để các ngài có thể thấu
hiểu toàn bộ sào huyệt của nó – không phải là các ngài thấu hiểu nó khi
các ngài đang ngồi đây trong căn lều này, mà thấu hiểu nó trong suốt cả
toàn bộ cuộc sống của các ngài – để do đó các ngài thoát ly khỏi đau
khổ, thoát khỏi sợ hãi và thật sự nhận biết được ý nghĩa của sự chết.
Nếu từ bây giờ và trong những ngày kế tiếp mà tâm trí các ngài không trở
nên hoàn toàn sáng suốt, vô tư vô nhiễm, chú tâm sâu sắc, thì nghe lời
tôi nói cầm bằng như vô ích hoàn toàn. Nhưng nếu các ngài sáng suốt, chú
tâm sâu sắc, ý thức tư tưởng và tình cảm của mình, nếu các ngài không
lo diễn giải những điều tôi nói mà các ngài đang thực sự quan sát chính
các ngài qua những mô tả và khám phá về vấn đề này thì khi rời căn lều
này các ngài sẽ sống, các ngài sẽ sống không những tưng bừng mà cả với
sự chết và tình thương nữa.
9.
Điều tôi định nói sáng nay có lẽ hơi lạ đối với nhiều người. Tôi thiết tưởng một trong những việc quan trọng hơn hết chúng ta nên thực hiện là làm sáng tỏ tâm thức, là trút bỏ trống rỗng hết mọi kinh nghiệm và tư tưởng để cho tâm thức trở nên mới mẻ, tươi nhuận, vô tư vô nhiễm, vì chỉ có tâm thức vô tư mới có thể khám phá trong tự do sự thật được. Sự vô tư vô nhiễm này không phải là một trạng thái kéo dài ra mãi. Trong đó, tâm thức không thu hoạch một kết quả nào để làm nơi bám víu. Đó là một tâm thái, vì đã hoàn toàn tự do, nên có thể tự đổi mới từng phút từng giây mà không cần cố gắng. Và cái trạng thái vô tư vô nhiễm này, cái khả năng khám phá mới mẻ này có một tầm thức quan trọng lớn lao trong những hiệu quả của nó, vì thông thường ta sống rất thiển cận. Ta sống bằng những tri thức và bằng tài liệu báo cáo và ta nghĩ rằng ta có tri thức là đủ rồi. Nhưng không tham thiền thì đời sống chúng ta rất là rỗng tuếch. Tham thiền, theo tôi không phải là chiêm ngưỡng, cũng không phải là cầu nguyện. Để nằm trong một tâm thái tham thiền, hay đúng hơn để có thể tham thiền một cách tự nhiên, dễ dàng, không cố gắng, trước hết ta phải bắt đầu thấu hiểu những chất liệu đã tạo thành cái tâm thức thiển cận thường nhật, cái tâm thức quá đỗi dễ dàng thỏa mãn với những tri thức. Khi đã tích trữ tri thức và thu đạt được một vài khả năng kỹ thuật khả dĩ cho phép ta chuyên biệt một ngành nào đó và cho phép ta sống một cách tương đối thiển cận rồi, thì thông thường ta bằng lòng sống trên mực độ đó, ngoài ra ta không thấu hiểu được bất kỳ một vấn đề tâm lý nào đến với ta. Vậy, theo tôi, điều tối ư quan trọng là xem xét cái tầm mức thiển cận của tâm thức chúng ta và tự hỏi xem chúng ta có thể nào siêu xuất khỏi nó không.
Điều tôi định nói sáng nay có lẽ hơi lạ đối với nhiều người. Tôi thiết tưởng một trong những việc quan trọng hơn hết chúng ta nên thực hiện là làm sáng tỏ tâm thức, là trút bỏ trống rỗng hết mọi kinh nghiệm và tư tưởng để cho tâm thức trở nên mới mẻ, tươi nhuận, vô tư vô nhiễm, vì chỉ có tâm thức vô tư mới có thể khám phá trong tự do sự thật được. Sự vô tư vô nhiễm này không phải là một trạng thái kéo dài ra mãi. Trong đó, tâm thức không thu hoạch một kết quả nào để làm nơi bám víu. Đó là một tâm thái, vì đã hoàn toàn tự do, nên có thể tự đổi mới từng phút từng giây mà không cần cố gắng. Và cái trạng thái vô tư vô nhiễm này, cái khả năng khám phá mới mẻ này có một tầm thức quan trọng lớn lao trong những hiệu quả của nó, vì thông thường ta sống rất thiển cận. Ta sống bằng những tri thức và bằng tài liệu báo cáo và ta nghĩ rằng ta có tri thức là đủ rồi. Nhưng không tham thiền thì đời sống chúng ta rất là rỗng tuếch. Tham thiền, theo tôi không phải là chiêm ngưỡng, cũng không phải là cầu nguyện. Để nằm trong một tâm thái tham thiền, hay đúng hơn để có thể tham thiền một cách tự nhiên, dễ dàng, không cố gắng, trước hết ta phải bắt đầu thấu hiểu những chất liệu đã tạo thành cái tâm thức thiển cận thường nhật, cái tâm thức quá đỗi dễ dàng thỏa mãn với những tri thức. Khi đã tích trữ tri thức và thu đạt được một vài khả năng kỹ thuật khả dĩ cho phép ta chuyên biệt một ngành nào đó và cho phép ta sống một cách tương đối thiển cận rồi, thì thông thường ta bằng lòng sống trên mực độ đó, ngoài ra ta không thấu hiểu được bất kỳ một vấn đề tâm lý nào đến với ta. Vậy, theo tôi, điều tối ư quan trọng là xem xét cái tầm mức thiển cận của tâm thức chúng ta và tự hỏi xem chúng ta có thể nào siêu xuất khỏi nó không.
Càng
có nhiều tri thức và kiến thức thì ta càng hữu hiệu trong đời sống hằng
ngày, và hiển nhiên là cần thiết phải có các kiến thức, các khả năng ấy
bởi ta không thể dẹp bỏ kỹ thuật và khoa học để trở lui về thời thượng
cổ. Nếu thế thì hóa ra ta sẽ như những kẻ gọi là tu hành, họ cố sức trở
về với tập tục truyền thống hay làm sống lại những quan niệm triết lý cổ
thời, những công thức cố hữu và như vậy họ tự hủy hoại và hủy hoại thế
giới trong đó họ sống. Nền khoa học, toán học, kỹ thuật mà con người
hiện có, đều tuyệt đối cần thiết. Nhưng đời sống ở cái thế giới mà kỹ
thuật, tri thức, kiến thức, được bành trướng quá mau chóng, đã khiến cho
tâm thức trở nên hết sức thiển cận, và phần đông chúng ta lại bằng lòng
sống trong sự thiển cận đó, bởi vì kiến thức đã giúp ta có nhiều tiền,
nhiều tiện nghi hơn, có vẻ tự do hơn và các của cải tài sản đó lại được
hết sức tôn trọng bởi một xã hội trụy đồi đang chừng tan hoại. Thế nên,
cái tâm thức muốn vượt quá chính mình, tất phải thấu hiểu những giới hạn
của khoa học kỹ thuật, thấu hiểu những tri thức, kiến thức và thoát ly
khỏi chúng.
Như
các ngài có thể nhận thấy, các hành vi, các cảm xúc, các phản ứng của
cân não ta, rất thiển cận. Sống như thế đó là trường hợp của phần đông
chúng ta mà chúng ta lại muốn đào bới vào những tầng lớp sâu kín, muốn
đẩy cuộc khám phá càng lúc càng xa dưới lớp mặt ấy, vì có thể đã nhàm
chán với lối sống thiển cận ấy. Hễ ta càng khôn ngoan, càng trí thức,
càng đam mê thì nhận thức của ta về sự thiển cận của đời sống chúng ta
càng thêm sâu sắc. Rồi cuộc sống này thành ra mệt mỏi chán chường, buồn
tẻ và hầu như vô nghĩa. Thế rồi, tâm thức thiển cận bèn tìm kiếm mục
đích của cuộc đời hoặc tìm kiếm một công thức nào khả dĩ định nghĩa được
mục đích ấy. Tâm thức thiển cận ấy tranh đấu để sống rập khuôn theo một
ý tưởng nó đã hình thành hay một tin tưởng nó đã chấp nhận và hành động
của nó, do đó, vẫn hoàn thiển cận. Sự kiện này phải được nhìn thấy thật
rõ ràng.
Việc
chúng ta sẽ làm trong sáng nay là lột sạch lớp này đến lớp khác để thâm
nhập đến tận cội nguồn, tận căn nguyên của sự vật. Sự thiển cận được
duy trì mãi bởi kinh nghiệm, do đó điều tối ư quan trọng là phải thấu
hiểu bản chất cùng ý nghĩa của những kinh nghiệm đã-được-sống.
Trước
hết, ta thấy cái cách thế chuyên môn hóa của kỹ thuật, trong bất kỳ
lãnh vực nào, cũng đều hạn cuộc chúng ta, thu nhỏ chúng ta, giới hạn
chúng ta, tất cả mọi sắc thái đó là yếu tính của cái tâm thức trưởng
giả. Ta thấy rằng vì tâm thức ấy thiển cận nên nó cứ tìm kiếm hoài cái
gọi là “ý nghĩa của cuộc sống” và do đó, phóng ra một hình ảnh khiến nó
thích thú và lợi lạc. Để rồi sau đó, nó rập khuôn theo hình ảnh ấy, và
tiến trình này tạo cho nó một mục đích, kích thích nó, khiến nó cảm
tưởng đã hoàn thành viên mãn.
Chúng
ta cũng phải thấu hiểu hết sức minh bạch điều mà ta gọi là
kinh-nghiệm-đã-sống. Vì sống một đời sống quá thiển cận, nên ta luôn
luôn tìm kiếm những cảm giác sâu rộng hơn, chính vì điều đó, nên nhiều
người mới đến nhà thờ, mới thầu mescaline, mới dùng thuốc LSD-25, át xít
lysurgique hay các chất ma túy khác để tự gây hứng, tự kích thích, tạo
những cảm giác mới lạ. Họ cũng tìm sống những kinh nghiệm mới lạ bằng
nghệ thuật, bằng âm nhạc, bằng những hình thức biểu hiện mới lạ hơn,
tươi nhuận hơn.
Thế
nên, một tâm thức muốn ngự vào trong những chiều sâu thăm thẳm – ngự
trong ấy, chứ không phải tạo ra trạng thái ấy – phải thấu hiểu mọi điều
đó. Thấu hiểu là không những phải lĩnh hội bằng trí thức mà một sự cảm
thông trên bình diện ngôn từ mà đúng hơn là phải nhất tề nhìn thấy chân
lý của một vấn đề nào đó. Sự nhận thức tức thời đó chính là sự thấu
hiểu. Ta có thể biện bác, thảo luận không ngừng về những ý kiến, nhưng
điều đó không làm phát sinh sự thấu hiểu. Điều cần yếu là sự mẫn cảm, là
nhận thức sâu sắc, là sự do dự lần mò trong bước đi, như thế khiến cho
tâm thức có khả năng lĩnh hội mau lẹ.
Bản
chất của một kinh-nghiệm-đã-sống như thế nào? Cả thảy chúng ta đều muốn
sống với những nhận thức mới, phải thế không? Chúng ta mệt mỏi chán
ngán với những nhận thức mà chúng ta đã biết quá lâu rồi, những nhận
thức đã gây đau khổ và phiền não. Cái thói quen máy móc buồn tẻ trong
công ăn việc làm, trong những nghi lễ tôn giáo, trong những nghi thức
sùng thượng nhà nước… ta đã chán ngắt, đã mệt mỏi, đã kiệt quệ với các
thứ ấy rồi, bấy giờ ta bèn tìm kiếm nhận thức đời sống trong những đường
hướng mới khác, trên những bình diện mới khác. Nhưng, thực ra, chỉ có
cái tâm thức không tích trữ kinh nghiệm, chỉ duy có tâm thức ấy mới sống
ở từng đáy thăm thẳm.
Tất
cả mọi kinh-nghiệm-đã-sống đều là kết quả của một sự khích động và của
một phản ứng để đáp lại. Phản ứng này của tâm thức có thể tương ứng hoặc
không, tùy thuộc vào hậu trường vào trạng thái qui định của tâm thức.
Nói cách khác, chúng ta đã nương vào hậu trường, vào trạng thái qui định
đặc biệt của chúng ta, để đáp ứng lại những khích động. Các
ứng-đáp-phản-ứng này là kinh nghiệm, ta tác động chẳng khác nào như một
cái vợt trong đó mỗi kinh nghiệm đều lưu lại một mớ cặn bã. Cặn bã này
là ký ức, và chính bằng ký ức này ta giáp mặt với kinh nghiệm kế tiếp
sau đó. Kinh nghiệm kế sau này, dù có rộng lớn, có sâu sắc, có trọn vẹn
thế nào đi nữa, vẫn lưu lại nơi ta một cặn bã mới – hay ký ức – và do đó
cứ tăng cường cái trạng thái qui định của ta.
Xin
các ngài… đây không phải là một ý kiến và cũng không phải là để các
ngài tin tưởng vào điều tôi nói. Nếu các ngài tự quán sát mình, các ngài
sẽ thấy sự thể phát sinh y như vậy. Người nói đây đang miêu tả về sự
việc tích trữ kinh nghiệm đã sống và các ngài đang quan sát tiến trình
đó chính ngay trong tâm các ngài. Vậy không vì phải tin tưởng cả và tôi
không đang tìm cách mê hoặc các ngài bằng danh từ.
Như
thế, tất cả mọi kinh nghiệm, bất cứ kinh nghiệm nào, đều lưu lại cặn
bã, cặn bã trở thành quá khứ, quá khứ là ký ức trong đó chúng ta sống.
Cặn bã này chính là cái “ta”, chính là cơ cấu của mọi hành vi vị ngã. Vì
nhận thấy cái bản chất giới hạn tù ngục này của hành vi vị ngã, nên
chúng ta tìm kiếm thêm vô số cảm giác rộng lớn hơn, hoặc ta mong người
khác chỉ bảo ta cách thế chọc thủng sự giới hạn tù ngục đó hầu tìm thấy
sự siêu thoát. Nhưng tất cả mọi công cuộc tìm kiếm loại này vẫn còn nằm
trong khuôn khổ của những hành vi tích trữ và chỉ làm gia tăng thêm cái
số đang được tồn trữ, gia tăng số cặn bã kinh nghiệm, dù cặn bã của một
phút, của một ngày hay của những hai triệu năm rồi cũng thế.
Phải
nhận thấy sự kiện đó thật rõ ràng. Phải ý thức sự kiện đó như ta ý thức
sự đói bụng. Khi đói bụng, các ngài không cần ai bảo điều đó với các
ngài: chính các ngài tự kinh nghiệm lấy. Tương tự như vậy, đích thân các
ngài phải nhìn thấy rõ ràng rằng mọi kinh-nghiệm-đã-sống, dù đấy là sự
ngạo mạn, ganh ghét hoặc hứng thú hoặc sợ hãi hoặc điều chi khác – đều
lưu lại cặn bã trong tâm thức và rằng sự lặp lại triền miên và sự chồng
chất trùng trùng lớp lớp của cặn bã này, hay kho dự trữ, chính là toàn
cả tiến trình của tư tưởng chúng ta, của bản thể chúng ta. Mọi hành vi
phát xuất từ tiến trình này, bất cứ trên mực độ nào, bắt buộc phải là
thiển cận, cạn cợt và một tâm thức, muốn cứu xét xem có thể nào tìm thấy
được một trạng thái bản nguyên độc đáo hay một thế giới không bị nhiễm
độc bởi quá khứ tất nhiên phải thấu hiểu cái tiến trình đó của kinh
nghiệm.
Vậy
câu hỏi được đặt ra là: có thể nào giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã
mà không có cố gắng, không nỗ lực giải trừ nó, để rồi tạo nên vấn đề
không?
Tôi hy vọng đã đặt câu hỏi rõ ràng, bằng không thì những điều được trình bày kế tiếp sau đây sẽ thiếu minh bạch hoàn toàn.
Danh từ “tham thiền” [1]
, đại khái, có nghĩa là suy xét một điều gì, khám phá nó, dừng lại với
nó; hoặc cũng có thể danh từ ấy chỉ một tâm thái chiêm ngưỡng trong đó
không có tư tưởng. Danh từ ấy rất ít có ý nghĩa đối với phần đất này của
thế giới, nhưng nó mang một nghĩa lý phi thường ở Đông phương. Người ta
đã viết nhiều về đề tài này, có nhiều trường phái giảng dạy những
phương pháp và những hệ thống khác biệt về tham thiền.
Theo
tôi, tất cả những cái đó đều phải là tham thiền. Tham thiền là tự “làm
trống rỗng” tâm thức mình, chứ ta không thể tự cưỡng bách làm trống rỗng
tâm thức mình bằng cách thực hành một phương pháp, theo một trường phái
hay hệ thống. Một lần nữa cần phải thấy rằng tất cả mọi hệ thống đều hư
ngụy. Thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận
thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay “cùng tột”, và
khi ta đã thấu hiểu bản chất của tất cả mọi kinh nghiệm rồi, thì ta dẹp
hết mọi phương pháp, ta gác chúng qua một bên, ta xa rời chúng vĩnh
viễn, bởi vì ta không còn là đệ tử của ai cả, ta không còn tìm cách sống
những kinh nghiệm nữa, ta không còn muốn có những thấy – biết nữa. Tất
cả mọi tìm kiếm để thấy biết, tất cả mọi sự căng thẳng giả tạo về cảm
giác – bằng những chất ma túy, bằng những giới luật, bằng những nghi
thức lễ bái, sùng thượng, bằng cầu nguyện – đều toàn là hành vi vị ngã.
Câu
hỏi của tôi bây giờ là: làm sao cho cái tâm thức đã thành thiển cận bởi
tập tục, bởi tác động của thời gian, bởi ký ức và kinh nghiệm, làm sao
một tâm thức như vậy có thể tự giải thoát trạng thái thiển cận mà không
cần cố gắng? Làm thế nào cái tâm ấy có thể tỉnh thức trọn vẹn để sự tìm
kiếm kinh nghiệm không còn nghĩa lý gì với nó nữa? Các ngài hiểu chứ?
Cái gì đã là tràn đầy ánh sáng, tất không đòi hỏi thêm ánh sáng – tự nó
là ánh sáng rồi, và tất cả mọi ảnh hưởng nhiễm độc, mọi kinh nghiệm xâm
nhập vào vùng ánh sáng ấy liền được thiêu hủy từng phút từng giây, để
tâm thức luôn luôn sáng tỏ, vô nhiễm mới có thể thấy được chỗ siêu xuất
khỏi giới hạn đo lường của thời gian. Và cái tâm thái ấy phát sinh như
thế nào?
Câu
hỏi có rõ ràng không? Không phải là một câu hỏi, hay đó phải là câu hỏi
của hết thảy mọi người, vậy tôi không gán ép cho các ngài đâu. Nếu tôi
gán câu hỏi cho các ngài, các ngài sẽ biến nó thành một vấn đề, rồi các
ngài tự hỏi: “Tôi phải làm sao cho được như thế đây?”. Câu hỏi này phải
được phát sinh từ chính nhận thức của các ngài, bởi vì các ngài đã sống,
đã quan sát, đã thấy cuộc đời là gì và chính các ngài, các ngài đã nhận
thức chính mình trong lúc mình hành động. Các ngài đã đọc, đã gom góp
tài liệu, đã tiến bộ trong kiến thức. Các ngài đã thấy những người lanh
lợi mà tâm thức giống như những bộ óc điện tử, thấy những giáo sư có thể
phô diễn kiến thức thao thao bất tuyệt và các ngài đã gặp những nhà
thần học có những ý niệm cố định, qua đấy họ đã xây dựng những lý thuyết
tuyệt vời. Ý thức tất cả những điều đó, chắc chắn các ngài tự hỏi: làm
sao một tâm thức đã là nô lệ của thời gian, con đẻ của quá khứ, làm sao
một tâm thức như vậy có thể vứt bỏ quá khứ một cách trọn vẹn, dễ dàng mà
không cố gắng. Làm thế nào cái tâm ấy có thể thoát khỏi thời gian mà
không cần phải tuân theo một chỉ thị hay một động lực nào cả, và tự trở
về nguồn cội cuộc sống uyên nguyên?
Khi
câu hỏi ấy đã được các ngài trực tiếp giáp mặt với một vấn đề to tát,
khi một điều lớn lao và tức thời xảy đến với các ngài? Sự va chạm ấy hết
sức trọng hệ, hết sức đáng quan tâm, đến nỗi nó thu hút các ngài trọn
vẹn, phải thế không? Tâm thức bị thu hút bởi sự kiện xảy ra bất ngờ phi
thường ấy, do đó nó trở nên tịch lặng.
Đấy
là một trong những hình thức của sự tịch lặng. Tâm thức các ngài phản
ứng tựa như đứa trẻ quá thích thú khi được người ta cho đồ chơi. Đồ chơi
thu hút nó, khiến nó tập trung, không còn phá phách ồn ào, không còn
chạy nhảy lung tung nữa. Điều đó cũng xảy đến cho người lớn khi họ bị
giáp mặt với một sự việc quá ư trọng hệ đối với họ. Không thấu hiểu trọn
vẹn ý nghĩa của sự việc xảy đến, họ buông mình vào kinh nghiệm ấy và
tâm thức họ tiếp nhận một sự va chạm đè bẹp họ, làm họ tê liệt bất động
đến độ khiến họ câm nín đi một lúc. Chắc hẳn là cả thảy chúng ta đều đã
sống những kinh nghiệm như thế rồi.
Cũng
có thứ tịch lặng được phát sinh khi người ta xem xét vấn đề bằng sự tập
trung trọn vẹn. Trong tâm thái này, không có sự lơ đễnh, vì ngay lúc ấy
không có một hứng thú nào khác. Không gì khác làm bận rộn tâm thức được
ngoài cái vật mà tâm thức đã dồn hết sức tập trung vào loại trừ tất cả
mọi cái khác, và trong sự cố gắng này có một sinh lực, một đòi hỏi, một
khẩn cấp khiến phát sinh một sự tịch lặng nào đó.
Nhưng
khi tâm thức bị thu hút bởi đồ chơi, hoặc khi tâm thức say mê trong một
vấn đề thì tâm thức chỉ biết lẩn trốn. Khi những hình ảnh, những biểu
tượng, những danh từ như Thượng đế, đấng cứu thế và những cái khác xâm
chiếm tâm thức, chúng cũng tạo nên một sự lẩn tránh, trốn chạy khỏi cái
hiện tiền, và trong sự trốn chạy này cũng có một thứ tịch lặng. Khi tâm
thức tự hiến và quên mình trong một sự đồng nhất trọn vẹn, tâm thức có
thể hoàn toàn tịch lặng, nhưng nó rơi vào một trạng thái loạn thần. Ước
vọng đồng nhất vào một mục đích, một ý niệm, một biểu tượng, một xứ sở,
một chủng tộc, tức là mắc chứng loạn thần, như trường hợp tất cả những
người gọi là tu thành mộ đạo. Họ tự đồng nhất vào Đấng Cứu thế, vào đức
thầy, vào cái này cái nọ, điều đó tạo cho họ một niềm an ủi lớn lao và
một cái nhìn hạnh phúc về đời sống. Thái độ này hoàn toàn là loạn thần.
Cũng
còn có những tâm thức đã luyện được sự tập trung thuần thục, không lìa
xa một ý niệm một hình ảnh, một biểu tượng nào mà các tâm thức ấy đã
phóng hiện ra trước chính chúng. Và trong cái tâm thái tập trung ấy phát
sinh được gì? Mọi sự tập trung đều là một cố gắng và mọi cố gắng đều là
chống kháng. Sự thể đó lại trở về việc xây dựng một trường thành bọc
quanh để bảo vệ chính nội tâm mình, chứa đủ một lỗ nho nhỏ qua đó họ
nhìn một ý niệm hoặc tập trung, để đừng bao giờ bị lay chuyển, đừng bao
giờ nghi ngờ âu lo gì nữa. Không bao giờ họ chịu mở tâm, họ sống trong
cái vỏ tập trung, sau những tường lũy mà họ đã tạo thành bằng một sự
đuổi bắt say mê và từ đó họ rút tỉa được một cảm giác nồng nhiệt sinh
lực, một đà sống giúp họ thành tựu những việc phi thường, giúp họ cứu
vớt những người nghèo túng, giúp họ sống trong sa mạc, giúp họ thực hiện
những công cuộc từ thiện, đấy cũng vẫn còn là những hành vi vị ngã của
những tâm thức tập trung vào một đối tượng duy nhất, loại trừ tất cả
những cái khác. Điều đó, cũng tạo cho tâm thức một sự an bình và tịch
lặng nào đó.
Thế
nhưng, vốn có một sự tịch lặng khác, tuyệt đối không liên quan với
những tâm thái bệnh hoạn kia, và đó mới chính là nỗi khó khăn của chúng
ta, và tôi xin đứng đắn nói điều này là, khổ thay phần đông chúng ta đều
ở mức chứng loạn thần, muốn thấu hiểu sự tịch lặng ấy, trước hết, chúng
ta phải tự chữa dứt hoàn toàn chứng bệnh ấy. Trong sự tịch lặng mà tôi
nói không có tình tự thương thân xót phận, không có những cuộc đuổi bắt,
tìm kiếm kết quả, không có sự phóng hiện hình ảnh, không có những quan
điểm và sự phấn đấu để tập trung. Sự tịch lặng ấy hiện đến không cần ta
mời gọi, nó đến khi ta thấu hiểu cách thế tâm thức bị thu hút bởi một ý
niệm và bởi những hình thức khác biệt của sự tập trung được áp dụng và
cũng phải thấu hiểu toàn bộ tiến trình của tư tưởng nữa. Do sự quan sát,
do sự xem xét những hành vi vị ngã khiến phát sinh một ý hướng giới
luật mềm dẻo phi thường, và giới luật đó rất cần thiết. Giới luật này
không phải là để bảo vệ, để phản ứng, nó không liên quan chi đến hành vi
ngồi tĩnh tọa trong một góc, hai chân xếp bằng, cũng như không giống
với những công phu tập ấu trĩ khác và trong giới luật này không có sự
bắt chước rập khuôn, cũng không có một cố gắng nhằm thu đạt kết quả nào.
Quan sát tất cả mọi vận hành của tư tưởng và của dục vọng, quan sát sự
thèm khát những cảm giác mới, quan sát tiến trình sự đồng nhất – quan
sát và thấu hiểu tất cả những điều đó khiến tự nhiên phát sinh một giới
luật cởi mở và tự do. Với giới luật của trí huệ này, một nhận thức đặc
biệt tức thời và trực tiếp, tức là trạng thái chú tâm trọn vẹn, sẽ phát
sinh. Chính trạng thái chú tâm này chứa đựng đức hạnh, cái đức hạnh duy
nhất và đích thực. Chứ cái thứ luân lý xã hội cái thức đức tính trước
phát triển bằng chống kháng, bằng thái độ đạo mạo rập khuôn theo đạo đức
của một xã hội, tất cả mọi điều đó đều không phải là đức hạnh. Có đức
hạnh là thấu hiểu mọi cơ cấu xã hội mà con người đã tạo dựng quanh mình
và thấu hiểu cái gọi là hy sinh mà người ta tưởng tượng mình thực hiện
được trong những cuộc đồng nhất và cưỡng bách. Trạng thái chú tâm được
phát sinh do sự thấu hiểu này và chỉ trong chú tâm mới có đức hạnh.
Cần
thiết phải có một tâm thức đức hạnh, nhưng khi ta bằng lòng ép mình
theo một khuôn mẫu xã hội và tôn giáo, của một xã hội nào đó dù là cộng
sản hay tư bản, thì không có tự do. Tuy nhiên, không khác chi đức tính
nhẫn nhục, ta không thể đào luyện được đức hạnh. Ta không thể đào luyện
được đức hạnh cũng như không thể đào luyện được tình thương. Nhưng ở đâu
có sự chú tâm trọn vẹn thì ở đó có đức hạnh và tình thương. Chú tâm
trọn vẹn khiến sinh tịch lặng hoàn toàn, không những ở mức độ ý thức mà
cả ở mực độ vô thức nữa. Ý thức và vô thức, thực ra vô nghĩa và nhận
thức được sự vô nghĩa của chúng là giải thoát tâm thức khỏi quá khứ cũng
như hiện tại. Đặt trọn vẹn chú tâm vào hiện tại là làm phát sinh sự
tịch lặng, trong đó tâm thức không cần sống kinh nghiệm, vì nó không còn
cần sống như thế nữa. Như thế, mọi kinh nghiệm đều chấm dứt. Tâm thái
tỉnh thức trọn vẹn chính là một ánh sáng tự tại. Trong sự tịch lặng này
có hòa bình. Không phải là thứ hòa bình của các nhà chính trị, cũng
không phải thứ hòa bình giữa hai cuộc chiến tranh, đó là thứ hòa bình
không do những phản ứng sinh khởi. Và khi cái tâm thái ấy tình hình tịnh
định, ta có thể từ đó mà hành động. Sự hoạt động của tâm thái tịnh định
hoàn toàn khác hẳn với hành vi vị ngã. Sự hoạt động này của tâm thái
tịnh định đích thị là sáng tạo. Khi tâm thức có thể hoạt động với trạng
thái tịnh định này, là nó đã nhận thức được sự chết và tình thương. Bấy
giờ ta có thể sống trong cuộc đời này mà vẫn thoát “ngoài vòng tục lụy”.
Các ngài muốn hỏi gì không?
H: Tôi ngưỡng vọng sự tịch lặng, nhưng tôi nhận thấy những công phu dự định của tôi càng lúc càng hư hỏng với thời gian.
K:
Trước hết, ngài không thể ngưỡng vọng được sự tịch lặng, ngài không
biết gì về sự tịch lặng. Thậm chí nếu ngài nhận biết điều chi về tịch
lặng thì đó cũng là không phải là tịch lặng, bởi vì điều ta biết không
phải là điều chân thực. Vậy ta cần phải cẩn thận đừng bảo rằng “ta
biết”.
Xin
ngài hãy xem xét điều này: điều gì ta biết là điều ta nhìn nhận được.
Tôi nhận ra ngài vì tôi đã gặp ngài hôm qua. Vì đã nghe ngài nói và biết
được cách thế sống, cư xử của ngài nên tôi nói tôi biết ngài. Điều tôi
biết đã là quá khứ rồi và từ quá khứ đó tôi nhận biết ngài. Nhưng ta
không thể nhận biết được sự tịch lặng này, vì trong sự tịch lặng đó
không có cái tiến trình nhìn nhận. Trước tiên ta phải thấu hiểu điều đó.
Muốn nhận biết một điều gì, cần phải được tiếp xúc với nó đã, sống với
nó đã, đọc hoặc nghe người khác mô tả về nó đã, nhưng cái điều được nhìn
nhận, được biết, được mô tả không phải là sự tịch lặng mà ta ngưỡng
vọng bởi vì cuộc sống chúng ta quá đỗi trống rỗng, buồn chán, ngu muội.
Chúng ta muốn lẩn trốn tất cả những phiền toái của cuộc sống, nhưng ta
không thể lẩn trốn được cuộc sống mà cần phải thấu hiểu nó. Và muốn thấu
hiểu bất cứ điều gì, ta không cần phải hất hủi cũng như lẩn trốn nó.
Cần phải có một tình thương bao la, một sự trìu mến đích thực với điều
ta muốn thấu hiểu. Nếu muốn thấu hiểu một đứa trẻ, ngài không nên cưỡng
bách nó cũng như so sánh nó với anh nó. Mà ngài phải nhìn ngắm nó, kỹ
lưỡng quan sát nó với niềm trìu mến luyến thương, với tất cả tâm hồn
ngài. Tương tự như vậy, ngài phải thấu hiểu những cái tầm thường mà ngài
gọi là cuộc sống với tất cả những tình tự ghen ghét, xung đột, khổ lụy,
nhọc nhằn, phiền não của nó. Do sự thấu hiểu đó bèn xuất sinh một niềm
an hòa mà ta không thể tìm thấy bằng lần mò dọ dẫm.
Có
một câu chuyện rất ngộ nghĩnh về việc một người đệ tử đến với vị đạo
sư. Vị đạo sư ngồi trong một vườn hoa xinh đẹp và người đệ tử đến ngồi
cận bên – không ngồi đối diện hẳn vì ngồi như thế bất kính lắm. Thế là
người đệ tử ngồi hơi dịch sang một bên, chân xếp bằng và nhắm mắt lại.
Vị đạo sư bèn hỏi: “Trò làm gì thế?”. Mở mắt ra người đệ tử nói: “Thưa
thầy, con đang luyện tâm, cố chứng đạt được cái tâm của Đức Phật” và
nhắm mắt lại. Sau một lúc, vị đạo sư lượm hai hòn đá và cọ xát chúng vào
nhau gây ra nhiều tiếng động, bấy giờ người đệ tử rơi từ trên cao xuống
và hỏi: “Thưa thầy làm gì đó?”. Và vị đạo sư đáp: “Ta cọ hai viên đá
này vào nhau để làm một trong hai viên thành tấm gương”. Người đệ tử
nói: “Thưa thầy, chắc chắn thầy không bao giờ thành tựu, dù thầy có cọ
hai viên đá này trong cả triệu năm đi nữa”. Bấy giờ vị đạo sư mỉm cười
trả lời: “Thì cũng thế, trò ôi, dù trò có ngồi đây, như thế, hàng cả
triệu năm trò cũng không bao giờ đạt tới chỗ trò muốn đạt”. Và đấy là
việc cả thảy chúng ta đều làm. Ta có những địa vị, cả thảy chúng ta đều
muốn đạt mục đích mà ta đang lần mò tiến tới, việc đó đòi hỏi nhiều cố
gắng, nhiều tranh đấu, nhiều giới luật. Tôi e rằng tất cả mọi điều đều
không thể làm mở cánh cửa được. Điều có thể làm mở cánh cửa là phải thấu
hiểu mà không cố gắng, phải nhìn ngắm một cách đơn giản quan sát với
thái độ trìu mến, thương yêu, nhưng ta không thể thương yêu nếu ta không
từ tốn nhẫn nhục, và sự nhẫn nhục từ tốn chỉ có được khi ta không còn
muốn chiếm hữu chi nữa cả, dù là chiếm hữu những thần thánh cũng như
chiếm hữu một người.
10.
Sáng nay, tôi xin phép trình bày về thế nào là tôn giáo trong thật nghĩa của nó. Tôi không muốn đưa ra một giải thích thuần về ngôn từ: tôi muốn thấu hiểu nó một cách sâu xa. Nhưng trước khi thâm nhập vấn đề này, ta cần phải nhận thức thật sáng suốt về thế nào là một tâm thức mộ đạo và thế nào là một tâm thái thật sự muốn dấn mình vào những cuộc tìm kiếm về tôn giáo.
Sáng nay, tôi xin phép trình bày về thế nào là tôn giáo trong thật nghĩa của nó. Tôi không muốn đưa ra một giải thích thuần về ngôn từ: tôi muốn thấu hiểu nó một cách sâu xa. Nhưng trước khi thâm nhập vấn đề này, ta cần phải nhận thức thật sáng suốt về thế nào là một tâm thức mộ đạo và thế nào là một tâm thái thật sự muốn dấn mình vào những cuộc tìm kiếm về tôn giáo.
Theo
tôi, điều tối ư quan trọng là thấu hiểu sự khác biệt giữa cô độc và tâm
trạng của người cô đơn. Đa số những hành vi thường của ta vốn xoay
quanh bao bọc chính chúng ta, những hành vi ấy căn cứ trên quan điểm đặc
biệt của ta, trên những kinh nghiệm riêng tư của ta và trên những khí
chất đặc thù của ta. Ta tư tưởng theo gia đình ta, theo công việc ta,
theo điều ta muốn thực hiện cũng như theo những tình tự sợ hãi, những
nỗi hy vọng cùng thất vọng. Tất nhiên các thỏa thuận ấy đều đồng qui vào
chính ta và nhận chìm chúng ta vào sau trong một trạng thái biệt lập
như ta có thể nhận thấy trong đời sống thường nhật của mình. Chúng ta có
những dục vọng thầm kín, những cuộc đuổi bắt ẩn khuất của ta, những
tham vọng của ta, và chúng ta không bao giờ chịu giao tiếp thâm sâu với
người khác: với vợ ta – hay chồng ta – với các con ta. Sự tự-biệt-lập
này cũng là hậu quả của hành vi lẩn trốn một cuộc sống thường nhật đã
làm cho chúng ta nhàm chán vì tính cách tầm thường của nó và bắt buộc
chúng ta phải chịu đựng không biết bao nhiêu là sự mất mát thiệt thòi.
Ta cũng tự biệt lập bằng nhiều cách thế lẩn trốn khác biệt, chính niềm
cô độc phi thường đã đến ám ảnh chúng ta, khi bỗng dưng ta ý thức mình
không dính líu với chi cả, khi mọi sự dường như xa cách quá với ta, ý
thức rằng ta không còn cảm thông, thân thiết với ai hết. Tôi nghĩ hầu
hết chúng ta đều cảm nhận hết sức sâu xa cái tình tự cô độc đó, nếu
chúng ta có chút ý thức về chính nội tâm mình.
Vì
niềm cô độc đó, vì bị sai khiến bởi ý hướng biệt lập, nên chúng ta cố
đồng nhất mình vào một cái gì vĩ đại hơn chúng ta, đồng nhất vào quốc
gia, vào một lý tưởng, hay vào một quan niệm về Thượng đế. Sự đồng nhất
vào một cái gì vĩ đại hơn, một cái gì bất tử ngoài vòng tưởng niệm của
ta, thường được gọi là tôn giáo, và đưa đến những tin tưởng, những tín
điều, những nghi thức lễ bái, những đuổi bắt mâu thuẫn trái nghịch giữa
nhiều phe phái tranh đua cấu xé nhau, vì cả thảy đều tin tưởng vào nhiều
phương diện khác nhau của cùng một sự vật, thành thử cái ta gọi là tôn
giáo ấy chỉ càng làm biệt lập thêm thôi.
Kế
đó, ta thấy thế giới phân chia ra nhiều quốc gia tranh đua nhau, mỗi
quốc gia có một chính phủ chủ quyền với những hàng rào kinh tế riêng rẽ.
Mặc dù cả thảy chúng ta đều là con người, ta vẫn dựng nhiều tường lũy
ngăn cách chúng ta với những người lân cận ta bằng tinh thần quốc gia và
bằng các sự phân chia thành nhiều chủng tộc, nhiều môn phái, giai cấp
mà chúng là những nguyên nhân tạo thành sự biệt lập cùng niềm cô độc.
Một
tâm thức bị tù ngục trong cô độc không bao giờ có thể thấu hiểu được
tôn giáo là gì, trong một trạng thái biệt lập như thế. Tâm thức ấy có
thể tin tưởng, có thể tạo ra nhiều lý thuyết, khái niệm, công thức, có
thể tìm cách đồng nhất vào cái gọi là Thượng đế. Nhưng tôi thiết tưởng
tôn giáo không có gì dính líu với bất kỳ sự tin tưởng, vị đạo sư, giáo
hội hay kinh sách gọi là “thần thánh” nào cả. Ta chỉ có thể thấu hiểu
trạng thái của một tâm thức mộ đạo khi ta bắt đầu thấu hiểu thế nào là
cái đẹp và sự thấu hiểu cái đẹp chỉ phát hiện khi ta hoàn toàn cô đơn.
Chỉ trong tâm thái đó ta mới có thể biết được thế nào là cái đẹp: chỉ
duy nhất trong tâm thái ấy thôi.
Cô
đơn, một mình, hiển nhiên không phải là biệt lập, độc nhất. Độc nhất có
nghĩa một cách giản dị là độc đáo ngoại lệ trong một cách thế nào đó,
còn cô đơn trọn vẹn đòi hỏi một mức mẫn cảm, một trí thông minh, một sự
thấu hiểu phi thường. Hoàn toàn cô đơn có nghĩa là sống với một tâm thức
giải thoát mọi ảnh hưởng, tức là không bị nhiễm độc bởi xã hội, và phải
sống như thế để thấu hiểu được thế nào là tôn giáo, nghĩa là để tự mình
khám phá xem có cái gì là bất tử, vượt ngoài thời gian không.
Chứ
như chúng ta hiện giờ thì tâm thức chúng ta là thành quả của hàng nghìn
vạn năm của những ảnh hưởng sinh lý, xã hội được tạo nên bởi hoàn cảnh,
bởi phong thổ, bởi ẩm thực, vân vân. Điều đó khá dĩ nhiên rồi. Chúng ta
bị ảnh hưởng bởi thức ăn vật uống, bởi báo chí ta đọc, bởi vợ chồng,
bởi người lân cận, bởi chính trị, bởi radio, bởi tivi và muôn ngàn thứ
khác. Chúng ta luôn luôn bị biến đổi bởi những gì trút đổ vào chúng ta
từ mọi phía, vào trong vô thức lẫn ý thức. Và chúng ta không thể nào
nhận thức được sự thể đó để không còn bị nô lệ, không còn bị nhiễm độc
bởi sự thể đó sao? Thiếu vắng nhận thức đó, tâm trí chúng ta sẽ chỉ là
những dụng cụ cho hoàn cảnh của ta thôi. Tâm thức ta có thể tạo nên
những hình ảnh mà nó tưởng là Thượng đế hay là chân lý vĩnh cửu để tin
tưởng vào, nhưng tâm thức ấy vẫn tiếp tục bị uốn nắn bởi những thúc bách
của hoàn cảnh, bởi những trạng thái căng thẳng của nó, bởi những mê
tín, những áp lực của chính nó và niềm tin của nó, nên tuyệt đối không
phải là một tâm thái mộ đạo.
Là
những tín đồ Cơ đốc, các ngài đã được dưỡng dục trong một giáo hội do
con người tạo dựng trải quả một thời gian dài hàng hai nghìn năm, với
những vị cố đạo, với những tín đíều, những nghi thức lễ bái của nó. Thuở
bé, các ngài đã được rửa tội và khi các ngài lớn lên, người ta bảo với
các ngài những điều các ngài phải tin tưởng. Tức là các ngài đã trải
suốt qua tiến trình của trạng thái qui định và của sự tẩy não. Áp lực
của thứ tôn giáo chuyên môn tuyên truyền đó rõ ràng là hết sức mãnh
liệt, nhất là vì nó đã được tổ chức chu đáo và có thể gây một ảnh hưởng
tâm lý, bằng giáo dục, bằng sự sùng thượng hình ảnh, bằng sợ hãi và bằng
muôn ngàn cách thế qui định tâm thức. Ở khắp Đông phương, con người
cũng bị qui định một cách nặng nề trầm trọng bởi những tin tưởng, tín
điều, mê tín và tập tục có từ cả hàng vạn nghìn năm trước hay lâu hơn
nữa.
Nhưng
bao lâu không có tự do thì tâm thức không thể khám phá được sự thật –
và để có sự tự do đó, tâm thức phải vượt thoát khỏi ảnh hưởng của quốc
tịch các ngài và ảnh hưởng của giáo hội với những tin tưởng và tín điều
của nó, và các ngài cũng phải thoát khỏi lòng tham lam, tính ganh tị,
tình tự sợ hãi, nỗi thống khổ, sự tham vọng, tinh thần tranh đua, nỗi âu
lo xao xuyến. Nếu tâm thức các ngài không giải thoát khỏi tất cả những
điều đó thì bao nhiêu áp lực từ bên ngoài cũng như ngay chính trong tâm
thức, sẽ tạo nên một trạng thái mâu thuẫn, đảo điên và rồi các ngài sẽ
không thể khám phá được sự thật hay không thể tìm biết xem có một cái gì
vượt ngoài vòng thời gian hay không.
Do
đó ta thấy hành động giải phóng tâm thức khỏi mọi ảnh hưởng là cần
thiết dường nào. Hành động đó có thể nào thực hiện được không? Nếu
không, thì sự khám phá cái vĩnh cửu, cái vô ngôn, cái tối thượng không
thể phát động được. Và để đích thân chúng ta trực tiếp tìm biết xem hành
động đó có thể thực hiện được không, ta phải nhận thức mọi ảnh hưởng
tác động trên ta, không những ngay ở đây, trong trại này, mà cả trong
cuộc sống thường nhật của chúng ta nữa. Ta phải thấy cái cách thế mà ta
bị nhiễm độc, bị uốn nắn, bị qui định. Dĩ nhiên là ta không thể luôn
luôn ý thức vô số những ảnh hưởng đổ trút vào ta, nhưng ta có thể nhận
thấy tự do giải thoát là điều quan trọng – và tôi nghĩ đó là đầu mối của
vấn đề, và khi ta đã thấu hiểu chỗ cần thiết ấy thì vô thức liền trực
nhận các ảnh hưởng đó, dù ý thức có khi không nhận thấy.
Tôi
trình bày như thế rõ chứ? Điều tôi muốn vạch rõ là thế này: vốn có
nhiều ảnh hưởng vô cùng tế nhị, chúng uốn nắn tâm thức ta và tâm thức bị
uốn ăn bởi những thứ ảnh hưởng luôn luôn nằm trong vùng tù ngục của
thời gian như thế, nên không sao khám phá được cái vĩnh cửu, thậm chí
không biết vốn có cái vĩnh cửu ấy nữa. Vậy câu hỏi là thế này: nếu ý
thức nơi ta tuyệt đối không thể nhận thức hết tất cả những ảnh hưởng mà
ta chịu đựng thì ta phải là thế nào? Nếu các ngài tự hỏi mình điều đó
một cách hết sức đứng đắn và hết sức chân thành để cho nó mời gọi trọn
vẹn sự chú tâm các ngài, các ngài sẽ nhận thấy rằng cái phần vô thức
trong các ngài, không hoàn toàn bị bận rộn, trong khi những tầng lớp cạn
cợt của tâm thức đang hoạt động, nhận lấy hành động quan sát tất cả
những gì toàn xâm nhập vào nội tâm các ngài.
Tôi
thiết tưởng điều đó rất quan trọng cần phải thấu hiểu, vì nếu các ngài
chỉ lo chống kháng hay chỉ biết tự bảo vệ chống lại việc bị ảnh hưởng,
sự chống kháng đó, nguyên là phản ứng, sẽ tạo nên một trạng thái qui
định mới khác cho tâm thức. Sự thấu hiểu toàn bộ tiến trình của ảnh
hưởng phải được thực hiện mà không cần cố gắng, sự thấu hiểu đó phải là
một nhận thức tức thời. Đây là cách thế phát sinh sự thấu hiểu ấy: nếu
chính các ngài thật sự nhận thấy tầm mức quan trọng căn bản của việc
đừng để bị ảnh hưởng, thì một phần nào đó của nội tâm các ngài: sẽ nhận
lãnh việc ấy, một khi ý thức các ngài đang bận nghĩ một điều gì khác. Và
cái phần tâm thức này rất tỉnh thức, luôn luôn rình rập chờ đợi. Vậy
điều cần thiết là phải thấy tức khắc, nay bây giờ sự quan trọng lớn lao
của việc đừng để bị ảnh hưởng bởi bất cứ trường hợp nào, bởi bất cứ ai.
Đó mới là trọng tâm cốt yếu, chứ không phải tìm cách chống kháng hay
phải làm gì khi bị ảnh hưởng. Khi nắm được sự kiện cốt yếu đó thì ta
nhận thức rằng một phần của nội tâm luôn luôn tỉnh thức lanh lợi, luôn
luôn nắm trong một trạng thái quan sát, luôn luôn sẵn sàng cởi bỏ mọi
ảnh hưởng hành động bên ngoài, dù ảnh hưởng ấy cực kỳ tế nhị. Trong thái
độ chối bỏ ấy, ta được tự do và cô đơn trọn vẹn, điều này khác với cô
độc. Ta cần thiết phải cô đơn, bởi vì cái đẹp ở ngoài vòng thời gian và
chỉ cô đơn ta mới có thể thấu hiểu được cái đẹp.
Đối
với phần đông chúng ta, đẹp là một vấn đề cân đối, về hình dáng, về
kích thước, về đường nét, về màu sắc. Chúng ta thấy một tòa nhà, một cội
cây, một trái núi, một dòng nước và ta nhận thấy cái đẹp trong đó,
nhưng người bên ngoài, tức-kẻ-quan-sát đang thưởng thức những cái đẹp ấy
luôn luôn có mặt ở đó, và do đó, cái ta gọi là đẹp vẫn nằm trong phạm
vi kỳ hạn, của thời gian. Tuy nhiên, theo tôi cái đẹp vượt ngoài vòng
thời gian và tôi nghĩ rằng muốn biết cái đẹp thì sự tìm kiếm kinh nghiệm
phải chấm dứt, bởi vì kẻ còn cần kinh nghiệm, tất nhiên còn tích trữ
kinh nghiệm để rồi nương vào đó họ phán đoán, họ đo lường và tư tưởng.
Khi ta nhìn một bức họa, khi ta lắng nghe âm nhạc, khi ta ngắm dòng sông
cuồn cuộn chảy, thì thường ta nhìn ngắm từ một hậu trường kinh nghiệm
đã được tích trữ, ta nhìn ngắm từ quá khứ, tức là thời gian, và theo
tôi, hành động đó hoàn toàn không thấu hiểu được cái đẹp. Thấu hiểu được
cái đẹp, có nghĩa là khám phá cái vĩnh cửu, chỉ có thể thực hiện được
khi ta hoàn toàn cô đơn, một mình. Và điều đó không liên quan chi đến
những lời giảng dạy của các vị đạo sư cũng như các tôn giáo có tổ chức.
Tâm thức phải hoàn toàn thoát khỏi mọi ảnh hưởng, không bị nhiễm độc bởi
xã hội, bởi cơ cấu tâm lý của tình tự tham lam, ham muốn, âu lo, sợ
hãi. Khởi đi từ sự tự do này, ta mới cô đơn và chỉ trong trạng thái này,
tâm thức mới có thể thấu hiểu được cái vượt ngoài vòng thời gian.
Cái
đẹp và cái vĩnh cửu không thể tách rời nhau được. Các ngài có thể làm
hội họa, có thể nhìn ngắm trời đất, nhưng nếu trong đó có lẫn lộn một
hành vi của cái ngã – có một xao động vị ngã của tư tưởng – thì những gì
các ngài nhận thấy không còn là đẹp nữa vì vẫn còn bị thời gian dung
chứa và nếu các ngài không thấu hiểu cái đẹp, các ngài tuyệt đối không
thể khám phá cái vĩnh cửu, cái bất tử. Tâm thức các ngài phải thoát khỏi
thời gian, nghĩa là thoát khỏi những tập tục truyền thống, những tri
thức do quá khứ tích trữ. Vấn đề không phải tin hay không tin: tất cả
điều đó đều ấu trĩ, hoàn toàn trẻ con, không dính líu chi với vấn đề
thực tại cả. Nhưng nếu ta thật chân thành, nếu ta thật sự muốn khám phá
thực tại, ta phải hoàn toàn xa lìa những hành vi vị ngã của trạng thái
cô độc, bấy giờ ta đạt đến một trạng thái cô đơn trọn vẹn. Và chỉ trong
trạng thái ấy ta mới có thể thấu hiểu được cái đẹp, cái vĩnh cửu.
Nhưng
các ngài hãy đề phòng: danh từ rất nguy hiểm, chúng là những biểu tượng
và biểu tượng không phải là thực tại. Chúng chuyển đạt một ý nghĩa, một
khái niệm, nhưng danh từ không phải là sự vật. Cho nên, khi tôi nói về
cái vĩnh cửu, các ngài phải biết xem các ngài có bị ảnh hưởng bởi các
danh từ tôi dùng không hay biết xem các ngài có rơi vào cạm bẫy của một
tin tưởng không? Nếu thế thì hết sức là trẻ con.
Để
biết xem có cái vĩnh cửu không, ta phải thấu hiểu thời gian. Thời gian
là một vật thực sự lạ lùng – tôi không nói thứ thời gian tính theo đồng
hồ, loại thời gian này vốn dĩ nhiên và cần thiết, tôi nói về sự tương
tục tâm lý, và có thể nào sống mà không có sự tương tục này không? Vật
đã thiết lập nên sự tương tục này đích thị là tư tưởng, là
hành-vi-tư-tưởng mãi vào một điều gì? Nếu ngày nào các ngài cũng nhìn
ngắm ảnh vợ các ngài, thì các ngài đã làm cho hình ảnh ấy tương tục. Và
có thể nào sống trong đời này mà không tạo sự tương tục cho hành động
hầu ta có thể đề cập mỗi vấn đề bằng một tâm thức mới mẻ không? Nghĩa là
tôi có thể nào chết đi với mỗi hành động sống trong ngày, để tôi không
còn bao giờ tích trữ gì trong tâm tôi nữa, để cho tâm thức tôi không bị
nhiễm độc bởi quá khứ, để nó luôn luôn mới mẻ, tươi nhuận, vô tư vô
nhiễm không? Tôi quả quyết rằng việc ấy có thể thực hiện được, rằng ta
có thể sống như thế, nhưng đối với các ngài, có thể đó không phải là sự
thật: điều đó chính các ngài đích thân tìm biết.
Như
thể là ta bắt đầu nhận thấy rằng ta phải có một tâm thái hoàn toàn cô
đơn nhưng không phải cô độc, biệt lập. Trong tâm thái ấy mới phát sinh
được một cảm nhận phi thường về cái đẹp, về cái mà tâm thức ta không sao
tác tạo được. Điều đó hoàn toàn không liên quan đến hành vi ráp nối vài
nốt nhạc, sử dụng vài màu sắc để tạo thành một bức họa, nhưng vì tâm
thức ta cô đơn nên nó thể nhập vào cái đẹp và do đó nó đầy mẫn cảm, và
vì đầy mẫn cảm, nên nó đích thực thông minh, sự thông minh của nó không
phải là thứ thông mình của xảo quyệt mưu mô hay của kiến thức, cũng
không phải là cái khả năng để làm một việc gì. Tâm thức ta thông minh
trong ý nghĩa là nó không bị nhiễm độc, không bị ảnh hưởng và không sợ
hãi. Nhưng muốn sống trong trạng thái ấy, tâm thức phải luôn luôn đổi
mới, nghĩa là phải chết đi với mỗi ngày sống của quá khứ, chết đi với
tất cả những gì nó đã biết.
Nhưng,
như tôi đã nói, danh từ, biểu tượng, không phải là thực tại. Danh từ
cội cây không phải chính là cội cây, vậy chúng ta phải đề phòng đừng bị
xỏ mũi bởi danh từ. Khi tâm thức thoát ly khỏi danh từ, biểu tượng thì
tâm thức trở nên hết sức mẫn cảm và bấy giờ nằm trong một trạng thái khả
dĩ giúp nó khám phá được thực tại.
Tóm
lại đó là điều các ngài tìm kiếm tự bấy lâu nay, từ thời cổ sơ cho đến
ngày nay, con người ước vọng tìm thấy một cái gì không do chính nó tác
tạo nên. Dù rằng, các tổ chức tôn giáo vô nghĩa lý với người thông minh,
nhưng chúng vẫn khư khư bảo rằng vốn có cái siêu việt, và con người
luôn luôn tìm kiếm cái siêu việt vì họ triền miên sống trong đau khổ,
phiền lụy, trong đảo điên, tuyệt vọng. Vì luôn luôn sống trong một trạng
thái vô thường biến động, nên họ muốn tìm cái gì thường tồn bất biến,
một cái gì trường cửu, liên tục và công cuộc tìm kiếm của họ, do đó,
luôn luôn nằm trong vòng tù ngục của thời gian. Nhưng như ta có thể thấy
đó, không có cái gì là thường tồn cả. Mọi tương giao của ta, mọi công
việc của ta, tất cả đều thoáng qua, vô thường. Và bởi vì chúng ta quá sợ
hãi sự biến mất, tiêu tan của vạn vật, nên chúng ta tìm kiếm cái nguyên
lý thường tồn nên được chúng ta gọi là cái vĩnh cửu, cái bất tử hay
bằng một danh từ khác. Nhưng công cuộc tìm kiếm cái thường tồn, cái bất
tử, cái vĩnh cửu, chỉ là một phản ứng, nên hoàn toàn vô giá trị. Chỉ khi
nào tâm thức thoát khỏi ý muốn về sự chắc chắn, tâm thức mới bắt đầu
khám phá xem có cái được gọi là vĩnh cửu, vượt ngoài không, thời gian,
vượt ngoài chủ-thể-tư-tưởng và ngoài những gì mà chủ thể ấy đang tư
tưởng hay đang tìm kiếm không. Muốn quan sát và thấu hiểu mọi điều đó,
đòi hỏi phải có một sự chú tâm trọn vẹn và một giới luật uyển chuyển do
sự chú tâm ấy phát sinh. Trong trạng thái chú tâm đó, không có sự phóng
tâm, đãng trí, không có cố gắng, không có một xao động nhằm vào chiều
hướng nào cả, bởi vì một xao động loại này, mọi nguyên nhân thôi thúc,
đều là hậu quả của một tâm thức bị ảnh hưởng nhiễm độc, hoặc bởi quá khứ
hoặc bởi hiện tại. Trong cái trạng thái chú tâm thung dung buông xả đó,
một sự tự do phi thường được phát sinh, và chỉ lúc bấy giờ – vì đã hoàn
toàn trống rỗng, yên lặng không nhúc nhích – tâm thức mới có thể khám
phá cái vĩnh cửu.
Có lẽ các ngài muốn đặt nhiều câu hỏi về vấn đề đã được trình bày sáng nay.
H: Làm sao thoát ly được ý muốn về sự chắc chắn.
K:
Danh từ “làm sao” ngụ ý một phương pháp phải không? Nếu ngài là một
kiến trúc sư và tôi hỏi ngài làm sao xây cất một ngôi nhà, ngài có thể
trả lời tôi, bởi vì có nhiều phương pháp, nhiều hệ thống, nhiều cách thế
để thực hiện việc xây cất. Nhưng việc áp dụng một phương pháp hay một
hệ thống là đã qui định tâm thức rồi; vậy ngài hãy nhận thức chỗ khó
khăn của việc dùng danh từ “làm sao”.
Và
chúng ta cũng phải thấu hiểu ý muốn nữa. Ý muốn là gì? Hôm trước, tôi
đã giải thích đầy đủ về vấn đề này rồi, mong rằng quý ngài có mặt hôm ấy
và đã thấu hiểu ý nghĩa của những điều tôi đã trình bày, sẽ không cảm
thấy nhàm chán về những gì tôi sắp nói đây. Vì, thực ra, ta có thể lắng
nghe cả ngàn lần tất cả những cuộc nói chuyện này và mỗi lần đều phát
hiện thấy một cái gì mới lạ.
Ý
muốn là gì? Như hôm trước tôi đã nói, trước hết có sự nhận thức (tức là
thấy), kế đó có sự tiếp xúc (tức là sờ mó), tiếp theo là cảm giác và
cuối cùng cái ta gọi là ý muốn trỗi dậy. Phải sự thể quả diễn tiến như
vậy không? Xin các ngài hãy chú tâm theo dõi. Thí dụ, thấy một chiếc xe
hơi đẹp. Sự thấy này, dù không sờ mó chiếc xe, vẫn làm phát sinh cảm
giác, cảm giác này làm phát sinh ý muốn được lái, được làm chủ chiếc xe.
Ở đây ta không cần biết coi phải làm sao chống kháng lại ý muốn hoặc
làm sao thoát ly ý muốn, bởi vì kẻ bại xuội tê liệt, hắn đã chết. Điều
quan trọng là thấu hiểu toàn bộ tiến trình của ý muốn, nghĩa là thấu
hiểu đồng thời tính cách quan trọng và vô nghĩa của nó. Ta phải khám
phá, không phải khám phá cách thế chấm dứt ý muốn, mà khám phá cái đã
làm cho nó tương tục.
Cái
gì làm cho ý muốn tương tục? Chính tư tưởng, phải không? Trước hết, có
sự thấy chiếc xe, kế đó có cảm giác kèm theo là ý muốn, và nếu tư tưởng
không xen vào làm cho ý muốn tương tục bằng cách bảo rằng: “Tôi phải có
chiếc xe này, làm thế nào để có được đây?” thì ý muốn sẽ chấm dứt. Ngài
theo kịp chứ? Tuyệt nhiên là tôi không bảo rằng cần phải vượt thoát khỏi
ý muốn, trái lại thì có. Nhưng các ngài phải thấu hiểu toàn bộ cơ cấu
của ý muốn, bấy giờ các ngài sẽ thấy rằng sự tương tục không còn nữa mà
có một cái khác hẳn.
Vậy,
điều quan trọng không phải là ý muốn, dục vọng, mà là sự việc ta làm
cho ý muốn tương tục. Ví dụ, chúng ta kéo dài những ham muốn về tính dục
của ta bằng tư tưởng, bằng hình ảnh, bằng cảm giác, bằng hồi tưởng kỷ
niệm; chúng ta duy trì kỷ niệm sống động của những ham muốn ấy bằng cách
tư tưởng đến chúng và hành vi đó làm cho ham muốn, ý muốn, dục vọng
tương tục và gia tăng tầm mức quan trọng cho giác quan. Không phải cái
cảm giác không quan trọng: chúng cũng quan trọng vậy. Nhưng cứ làm cho
các lạc thú giác quan tiếp nối nhau sống mãi, nên chúng trở nên hết sức
mãnh liệt trong đời sống chúng ta. Vậy điều quan trọng không phải là
thoát khỏi những dục vọng, ý muốn, mà thấu hiểu bản chất cấu tạo của
chúng và cách thế mà tư tưởng làm cho chúng tương tục. Đó là tất cả
những gì ta phải làm và bấy giờ tâm thức mới thực sự tự do mà không cần
phải tìm cách thoát khỏi dục vọng. Ngay khi ta tìm cách thoát khỏi dục
vọng là ta rơi vào xung đột. Mỗi khi ta nhìn thấy một chiếc xe hơi, một
người đàn bà, một ngôi nhà hay bất cứ vật gì khác hút dẫn ta, là tư
tưởng liền xen vào và làm cho dục vọng tương tục, bấy giờ mọi sự đều trở
thành là vấn đề vô tận.
Điều
quan trọng là phải sống một đời sống trong đó sự cố gắng vắng mặt, một
đời sống không có vấn đề, và ta có thể sống một đời sống như thế nếu ta
thấu hiểu được bản chất cấu tạo của những dục vọng. Phần đông chúng ta
có ngàn nghìn vạn vấn đề, và để thoát khỏi những vấn đề ta phải đủ sức
tức khắc chấm dứt mỗi vấn đề khi nó vừa xuất hiện. Tôi nghĩ là chúng ta
đã thảo luận vấn đề đó khá nhiều rồi, tôi sẽ không nói thêm nữa làm gì.
Nhưng tuyệt đối cần thiết phải không có vấn đề nào cả, và phải sống một
đời sống không cố gắng. Bấy giờ ta mới có một tâm thức thực sự mộ đạo
bởi vì tâm thức ấy đã thấu hiểu đau khổ và sự chấm dứt của đau khổ;
trong tâm thức ấy không còn chút sợ hãi và do đó, chính nó là ánh sáng
cho tự nó.
[1]Méditation
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét