Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

Ý nghĩa Kitô giáo – Chương I: “Đức Giêsu được gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16)

Ý nghĩa Kitô giáo
(The meaning of Christianity)

Tác giả: Lm Phêrô Nemeshegyi, S.J.
Người dịch: Lm Gioakim Đoàn Sĩ Thục.
Người hiệu đính và giới thiệu: Ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
ĐÔI DÒNG GIỚI THIỆU
Linh mục Phêrô Nemeshegyi, SJ, giáo sư Đại Học Công Giáo Sofia (Nhật Bản) và Giáo Hoàng Học Viện Pio X Đà Lạt (Việt Nam) đã viết cuốn “The Meaning of Christianity” khá lâu. Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Việt trước năm 1975 với sự đồng ý của chính tác giả. Người đã bỏ công sức và thời gian để dịch là linh mục Đoàn Sĩ Thục, gốc giáo phận Nha Trang, hiện đang sống và làm việc tại Australia. Vào những năm 1995-1997 linh mục Gioakim Đoàn Sĩ Thục giao cho tôi bản dịch của ngài và cho tôi toàn quyền xử dụng. Tôi đã đọc kỹ và hiệu đính lại cho tốt hơn mong có dịp cống hiến cho giáo dân Việt Nam.
Với sự hiểu biết sâu sắc về Thánh Kinh và với một lối hành văn thanh thoát, nhẹ nhàng và đầy chất tâm linh, cuốn “The Meaning of Christianity” chắc chắn sẽ là món ăn tinh thần làm thỏa mãn lòng khao khát biết Chúa và yêu Chúa, biết Giáo Hội và yêu Giáo Hội của nhiều giáo dân ngày nay. Bạn đọc sẽ tìm thấy trong mỗi đoạn, mỗi trang sách một bài đọc thiêng liêng (lecture spirituelle) cho những giờ phút trầm lắng và cầu nguyện.
Sách có bốn chương ngoài lời nói đầu vắn gọn. Ở cuối mỗi chương có những câu hỏi dành cho việc suy nghĩ và thảo luận. Bốn chương ấy là:
Chương một: Đức Giê-su được gọi là Đấng Ki-tô.
Chương hai: Dân Chúa.
Chương ba: Những suối nước trường sinh.
Chương bốn: Ta sống và các ngươi cũng sẽ sống.
————— 
LỜI NÓI ĐẦU
Ki-tô giáo đã xuất hiện trên thế giới gần 2000 năm nay. Người ta có thể tìm thấy các tín hữu Ki-tô hầu như tại bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào trên mặt đất. Tiếng chuông giục gĩa các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật không chỉ vang lên từ các thành thị và làng mạc ở Au châu. Lời cầu nguyện trong Đức Ki-tô cũng bay lên tới Chúa Cha từ những giáo đường chật ních người ở Mỹ châu và Uc châu. Bốn mươi phần trăm dân số Phi châu đã là tín hữu Ki-tô và con số đó gia tăng nhanh chóng mỗi năm. Mặc dù chỉ là một thiểu số, các cộng đồng Ki-tô hữu nhiệt thành cũng rải rác khắp nơi ở Á châu. Người ta có thể tìm thấy các tín hữu Ki-tô tại mọi lục địa. Họ tin ở một Thiên Chúa Yêu Thương. Họ dâng lời cảm tạ vì lòng nhân từ của Ngài. Họ cố gắng sống và chết theo con đường mà Thày của họ là Đức Giê-su đã chỉ dạy.
Cách này hay cách khác, tất cả mọi tín hữu Ki-tô đều biết Ki-tô giáo là gì và thế nào là một tín hữu Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ra vẫn còn cảm thấy cần phải tự đặt câu hỏi: đâu là cốt lõi của Ki-tô giáo? Tự xưng là một Ki-tô hữu: điều đó có ý nghĩa gì đối với tôi? Quả thật Ki-tô giáo đơn giản đến độ ngay cả một em bé cũng có thể hiểu được những điều cốt yếu của nó. Nhưng đồng thời, Ki-tô giáo cũng sâu sắc đến độ các vị thánh cao cả nhất và các nhà thần học nổi tiếng nhất cũng không thể thấu hiểu hết ý nghĩa hoặc đạt đến trọng tâm của mầu nhiệm.
Mỗi một cá nhân và mỗi một thế hệ cần phải khám phá lại Ki-tô giáo. Với sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta hãy cùng nhau lên đường khám phá. Chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của Ki-tô giáo cho chính chúng ta trong thời đại này.
Danh xưng “Ki-tô hữu” phát xuất từ tiếng la tinh “Christianus” và có nghĩa là một tín đồ hoặc một môn đệ của Đức Ki-tô. Như Sách Công Vụ các Tông Đồ (11,26) cho chúng ta biết: những người theo Đức Ki-tô hoặc các môn đệ của Đức Ki-tô đã được gọi bằng danh hiệu này ngay từ thời các Tông Đồ. Thật là một danh xưng xứng hợp. Danh xưng này đưa chúng ta vào ngay cốt lõi của Ki-tô giáo: đó là Đức Ki-tô. Để hiểu thế nào là g Ki-tô hữu, chúng ta cần phải khám phá Đức Giê-su Ki-tô là ai. tại sao Đức Giê-su được gọi là Ki-tô? Ngài dã làm gì và những gì đã xảy ra với Ngài?
CHƯƠNG MỘT: “ĐỨC GIÊ-SU ĐƯỢC GỌI LÀ ĐẤNG KI-TÔ” (Mt 1,16)
NIỀM TIN VÀ SỰ MONG ĐỢI CỦA NGƯỜI DO THÁI
Đức Giê-su, con Bà Ma-ri-a, đã sống và thực hiện sứ mệnh của Ngài gần 2000 năm qua tại Pa-lét-tin, phần đất hầu như là một với quốc gia Ít-ra-en ngày nay. Ngay cả thời đó, đa số dân sống trẹn đất Pa-lét-tin đều là người Do Thái và phần thuộc về dân tộc Do Thái nằm dưới sự cai quản của đế quốc La Mã, cũng như toàn bộ đồng bằng Địa Trung Hải. Những người Hy Lạp và La Mã thời đó đều nhận thức rằng tôn giáo của người Do Thái hoàn toàn khác với tôn giáo đa thần của họ, cũng khác mọi tôn giáo thời cổ. Thiên Chúa của người Do Thái là một Thiên Chúa hằng sống, độc nhất, uy nghiêm. Là Đấng Toàn Năng, Ngài đã tạo dựng và cai quản toàn thể vũ trụ. Hơi thở của Ngài là dòng suối mang lại sự sống. Các tượng, ảnh không thể diễn tả được Ngài. Ngài vượt lên trên nọi sự tưởng tượng và ngôn ngữ của con người. Tuy nhiên, Đấng Thiên Chúa mầu nhiệm và cao cả ấy lại không xa cách các thụ tạo của Ngài. Đôi mắt Ngài luôn dõi theo nhân loại. Ngài yêu thương và sắn sóc mọi người. Ngài săn sóc cho con người và muốn cho con người trở nên tốt và thực thi ý muốn của Ngài. Ngài có thể nổi giận khi thấy con người phạm tội làm phương hại đến thế giới mà Ngài đã tạo dựng tốt đẹp. Ngài không hài lòng khi con người quên lãng Ngài, khi họ hành hạ và chém giết lẫn nhau. Kẻ có tội không hối cải sẽ không thoát khỏi sự trừng phạt của Ngài, nhưng lòng nhân từ của Ngài lại vô biên. Ngài không ngừng tha thứ cho tội nhân biết hoán cải.
Những người Do Thái tuyên xưng rằng Thiên Chúa đã tự tỏ bày cho tổ tiên của họ. Ngài đã nói với họ và ký kết giao ước với Ap-ra-ham, tổ phụ của họ. Sau đó, qua kể mà Ngài đã tuyển chọn là Mô-sê, Ngài đã ký kết giao ước với toàn dân Do Thái. Ngài hứa sẽ là Chúa của họ và yêu cầu họ làm dân riêng của Ngài. Ngài thở Thần Khí của Ngài trên một số người được chọn làm ngôn sứ của Ngài như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và nhiều người khác nữa. Lời toàn năng của Ngài được ngỏ với dân Do Thái qua miệng các ngôn sứ như sau: “Hãy nên thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh Thện” (Lv 11,44). Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước của Ngài. Sẽ đến một thời Ngài thiết lập một giáo ước mới và quan trọng hơn. Ngài sẽ ghi khắc lề luật trong trái tim của họ (Gr 31,33). Thánh Linh của Ngài sẽ được thổi vào tận đáy thẳm tâm hồn họ (Ed 36,27). Ngài sẽ sai Đấng Tuyển Chọn của Ngài đến để trở thành giao ước bằng xương bằng thịt (Is 42,6). Đấng được tuyển chọn này sẽ hiến dâng mạng sống mình để cứu d6an khỏi tội. Ngài sẽ là Trọng Tâm, là Điểm Gặp Gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ngài sẽ không chỉ là vị Cứu Tinh của dân Ít-ra-en mà thôi, mà còn là Anh Sáng rực rỡ soi chiếu mọi dân tộc (Is 42,6). Sẽ đến một ngày Thiên Chúa dựng nên một Trời Mới và một Đất Mới (Is 65,17). Mọi sinh linh, khi được hiệp nhất với Thiên Chúa, sẽ tìm thấy nơi Ngài sự sống vĩnh cửu. Bởi lẽ sự chết không phải là do Thiên Chúa mà là do con người tự tạo ra. Thiên Chúa không hề vui khi thấy con người phải chết. Chính vì để cho vạn vật được hiện hữu mà Ngài đã tạo dựng nên chúng (Kn 1,13-14).
Trên đây là niềm tin của người Do Thái. Đấng Thiên Chúa vô hình, Đấng Thiên Chúa của giao ước, đối với họ là một Đấng rất Thực Hữu. Ngài là một Thiên Chúa khác lạ, một Thiên Chúa rất đặc biệt, một Thiên Chúa mà con người không thể biểu lộ bằng óc tưởng tượng, nhưng đồng thời lại rất gần gũi với con người. Ngày nay, nhiều người cho rằng một Thiên Chúa như thế chỉ là sản phẩm của một dân tộc ngu dốt. Họ đã tạo ra một Thiên Chúa theo hình ảnh của họ và giống họ. Kỳ thực, phải chăng sự thật lại không hoàn toàn ngược lại? Theo Sách Sáng Thế, phải chăng lại không phải là chính Thiên Chúa đã tác tạo con người theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài? Phải chăng đó chẳng là lý do khiến cho từ đáy thẳm tâm hồn con người, luôn có một ánh sáng của lý trí thúc bách con người khám phá và tìm hiểu Chân Lý? Phải chăng đó không là lý do tại sao trong đáy thẳm của trái tim con người luôn có một sự khao khát về điều Thiện, đến độ, cho dẫu có đam mê và ích kỷ đến đâu, conn người vẫn nghe được tiếng thôi thúc: “hãy sống tốt đẹp cho đến lúc chết”? Phải chăng đó không là lý do khiến cho con người có thể yêu thương và thí cả mạng sống vì người mình yêu? Phải chăng đó không phải là lý do tại sao mỗi một con người là một bí ẩn mà không một ai, ngay cả chính mình, có thể hiểu biết trọn vẹn? Con người quả thực là hình ảnh của Thiên Chúa và Thiên Chúa nói với con người bằng chính ngôn ngữ của con người. Đó là lý do tại sao đến lượt mình, con người cũng có thể nói về Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của loài người. Đồng thời, như chúng ta vẫn biết, tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa ngay cả những điều cao siêu nhất, cũng giống như ngôn ngữ của trẻ em. Ngôn sứ I-sai-a đã biết điều đó khi ông thốt lên: “Quả thật, Ngài là Thiên Chúa dấu ẩn, ôi lạy Chúa Ít-ra-en, Đấng cứu độ chúng con” (Is 45,15). Tác giả của những bài thánh vịnh hát lên như sau: “Lạy Chúa, con tìm kiếm Thánh Nhan Chúa. Xin dừng che dấu Thánh Nhan Chúa khỏi chúng con” (Tv 27,9). Thánh Âu-gút-ti-nô cũng viết: “Thiên Chúa ẩn mặt để chúng ta tìm kiếm Ngài. Và Ngài là Đấng Vô Biên để chúng ta tìm kiếm Ngài và ngay cả sau khi đã gặp Ngài, chúng ta vẫn tìm kiếm Ngài”.
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DO THÁI THỜI CHÚA GIÊ-SU
Dân Do Thái ý thức sâu sắc rằng cuộc sống của họ được bao bọc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đức Giê-su là một người con tiêu biểu của dân tộc. Hơn bất cứ ai, Ngài xem Thiên Chúa là Tất Cả đối với Ngài. Tuy nhiên, vào cuối đời, Ngài thấy mình bị đặt vào thế xung đột với tất cả các nhóm tạo thành cộng đồng Do Thái đương thời. Để hiểu được Đức Giê-su, chúng ta cần phải biết tại sao cuộc xung đột đã diễn ra và đã diễn ra như thế nào?
Các Sách Tin Mừng và các tài liệu lịch sử khác cho chúng ta nột bức tranh sống động của cộng đồng Do Thái. Người đại diện của quyền bính tối cao của đế quốc La Mã tại Giê-ru-sa-lem là Phong-xi-ô Phi-la-tô. Ở phía Bắc là nơi Đức Giê-su đã sống phần lớn cuộc đời của Ngài, vua Hê-rô-đê là người cai quản. Phi-la-tô, quan tổng trấn La Mã, là một con người vô lương tâm. Đối với ông, chỉ có một điều đáng kể: đó là nắm giữ quyền hành trong tay và thu thuế. Hê-rô-đê là một quân vương tiêu biều của Đông Phương: ông vừa phóng đãng vừa quỉ quyệt. Ong cai trị người Do Thái và sống trên đầu trên cổ họ bằng ân huệ mà đế quốc La Mã ban cho ông; ông làm mọi cách để dr5p bỏ mọi chống đối.
Tại Giê-ru-sa-lem cũng có các Thượng Tế là hậu duệ của các gia đình tư tế giầu có. Họ là những thành viên quan trọng nhất của Công Nghị, tức Quốc Hội của người Do Thái. Họ thi hành quyền bính mà đế quốc trao ban cho họ. Mối quan tâm duy nhất của họ là làm thế nào để những giờ cầu nguyện và tế tự trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem được diễn ra trong trật tự và điều hòa, cũng như dân chúng tuân thủ từng chi tiết các qui định tôn giáo và đóng thuế cho Đền Thờ.
Cũng có những người được mệnh danh là Biệt Phái. Với hàng ngàn thành viên, họ tạo thành một thứ Đảng Phái. Tất cả những cố gắng của họ là tuân giữ một cách nhiệm nhặt mọi qui định trong Luật Mô-sê. Họ rất ý thức về lòng nhiệt thành của họ và khinh bỉ tất cả những ai không suy nghĩ và hành động như họ.
Ngoài ra còn có những phần tử của nhiều đảng phái cách mạng khác. Họ thu thập khí giới để chuẩn bị cuộc chiến giành độc lập khỏi đế quốc La Mã. Không những họ căm thù đế quốc La Mã, mà còn ghết cả những người Do Thái cộng tác với đế quốc.
Và cũng giống như bất cứ nơi nào, nước Do Thái thời Đức Giê-su cũng có những người giầu. Dĩ nhiên họ là hạng người chỉ biết có tiền bạc. Họ hưởng cuộc sống giầu sang mà không hề đếm xỉa đến cảnh khốn khổ của những người xung quanh. Cũng giống như những người thu thuế là bọn người ăn bớt phần thuế phải đóng cho đế quốc La Mã, những người giầu có cũng sống trên xương máu của những người nghèo.
Có cả một đám dân nghèo như các nông dân, các ngư phủ, những người sống bằng tiểu công nghiệp: họ chỉ có một quan tâm duy nhất, đó là làm sao kiếm đủ cơm bánh mỗi ngày; mơ ước duy nhất của họ là một ngày nào đó được thoát khỏi cảnh khốn cùng và tìm gặp một vùng đất chẩy sữa và mật ong.
Cuối cùng, trong bức tranh xã hội ấy, người ta không thể không kể đến vô số các góa phụ, các trẻ mồ côi, những người tàng tật, bệnh hoạn, những người phong cùi. Không nhận được bất cứ sự săn sóc nào, họ hoàn toàn sống bên lề xã hội.
Sợi dây có thể nối kết những giai tầng xã hội khác nhau trên đây, chính là niềm tin của họ nơi Thiên Chúa Ít-ra-en. Tuy nhiên, vào thời Đức Giê-su, Thiên Chúa dường như xa cách với con người. Sự thành công và giầu có của một Phi-la-tô hay của một Hê-rô-đê dường như muốn chứng minh rằng có một niềm tin hay không, không còn là điều quan trọng nữa. Các tư tế hầu như chỉ còn biết lo tuân giữ những nghi thức bề ngoài. Những người Biệt phái chỉ biết giữ từng chi tiết trong những qui định về ngày nghỉ lễ, về thời gian dành cho các buổi cầu nguyện, về việc kiêng cữ một số thức ăn , về những huy hiệu gắn trên áo thụng, cũng như việc rửa tay trước khi ăn. Niềm tin vào Thiên Chúa xem ra chỉ còn là chuyện của người giầu. Hoặc niềm tin đó chỉ còn là một thứ căm thù mà các nhóm cách am5ng khônng quảng bá. Thiên Chúa xem ra như quên lãnh những đám dân nghèo, hạng người mà những người biệt phái không ngừng kết án là tội nhân, bởi vì họ không tuân giữ luật Mô-sê. Cứ như Thiên Chúa nổi giận đối với những người phong cùi và các bệnh nhân; Cứ như những tai họa xẩy đến cho họ là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Vào thời Đức Giê-su, cũng như ngày nay, Thiên Chúa dường như vắng bóng trong cuôc sống của con người. Ý tưởng ấy khiến cho một số người nghĩ rằng không hề có một Thiên Chúa nào cả.
GIÁO HUẤN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Chính trong một xã hội như thế mà thình lình, người ta nghe được một tiếng nói mới thốt lên như sau: “Thời giờ đã mãn. NướcChúa đã gần đến” (Mc 1,15). Sư xuất hiện của Chúa Giê-su cũng đồng nghĩa với một tiếng kêu mãnh liệt: “Thiên Chúa đã sai tôi. Giờ đây, bởi vì tôi ở giữa anh em, cho nên Thiên Chúa cũng đang ở giữa anh em.” Đối với Chúa Giê-su, Thiên Chúa là Tất Cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng kể. Nhưng cũng chính vì thế mà tất cả mọi người đối với Ngài đều quan trọng. Tất cả mọi người, không trừ một người nào. Mỗi một con người đều vô cùng quan trọng đối với Chúa Giê-su. Nghèo hèn, dốt nát, yếu nhược và ngay cả tội lỗi, địa vị xã hội dù có thấp hèn đến đâu, mỗi người đều quan trọng đối với Chúa Giê-su. Mỗi người đều quan trọng hơn cả lề luật, các nghi lễ, các lề thói và các qui định. Chúa Giê-su đã tuyên bố: “Ngày hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người được dựng nên vì lề luật” (Mc 2,27). Những người biệt phái sửng sốt và khó chịu và khó chịu vì một lời tuyên bố như thế. Theo sự chú giải của những người biệt phái, trong ngày hưu lễ, không được phép chữa bệnh. Nhưng Chúa Giê-su vẫn chữa lành tất cả những bệnh nhân được mang đến với Ngài. Ngài đặt câu hỏi: “Tại sao trong ngày hưu lễ không được phép làm điều thiện….không được cứu sống?” (Mc 3,4). Tại sao chúng at có thể để cho một người phải đau đớn thêm một ngày nữa chỉ vì ngày hưu lễ? Chúa Giê-su không khinh thường những qui định của Luật Cựu Ước. Tuy nhiên, Ngài không xem những qui định ấy là luật tối thượng của cuộc sống hoặc như là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Những qui định về việc được phép hay không được phép ăn một số thức ăn không phải là lệnh của Thiên Chúa. “Không có gì ở ngoài vào trong con người có thể làm cho nó ra nhơ bẩn. Bởi vì điều đó không vào trong tâm hồn, mà đi vào bụng mà thôi…Cái từ bên trong tâm hồn con người mà ra, cái đó mới làm cho con người nhơ bẩn. Vì từ bên trong, từ lòng người mà phát ra những tư tưởng xấu xa như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, hung ác, gian dối, phóng đãng, ghen tương, lộng ngôn, kiêu ngạo, điên cuồng (Mv 7,18-23).
Tất cả đều tùy thuộc vào ở tâm hồn con người. Tâm hồn của con người trong sạch khi nó yêu Chúa với tất cả sức lực và yêu thương đồng loại như chính mình (Mc 12,30-32). Và người đồng loại ấy không phải chỉ là người bạn tốt, một người láng giềng, một người đồng bào. Người đồng loại ấy là tất cả mọi người không trừ một người nào, như Chúa Giê-su đã mô tả trong bài dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37). Một người thông luật hỏi Ngài: “Ai là người đồng loại của tôi?” Ai là tha nhân của tôi? Người thông luật tự đặt mình đứng giữa một vòng tròn. Vấn đề duy nhất của ông la ông phải nới rộng cái vòng tròn ấy bao nhiêu để ôm lấy người đồng loại. Và Chúa Giê-su đã trả lời bằng một dụ ngôn. Có một người kia bị cướp bóc và bỏ nằm dở sống dở chết bên vệ đường. Một vị tư tế từ Giê-ru-sa-lem đi qua, kế đó một thày Lê-vi, tức một người phụng sự trong Đền thờ, cả hai đều đi qua mà không hề dừng lại để nhìn đến con người đáng thương ấy. Sau vị tư tế và thày Lê-vi, một người Sa-ma-ri, tức một kẻ mà người Do Thái thù ghét, cũng đi qua đó. Khi thấy nạn nhân nằm bên vệ đờng, ông dừng lại. Ong thương cảm cho kẻ lạ mặt; ông bèn dừng lại rửa và băng bó các vết thương, rồi đặt người đàn ông lên lưng lừa của mình và đưa người đó đến một quán trọ. Ong trả tiền cho người chủ quán trọ. Chúa Giê-su kết thúc bài dụ ngôn bằng một câu hỏi: “Trong ba người đó, ông nghĩ ai là người đã tỏ ra là người thân cận với người sa vào tay bọn cướp?” Vị thông luật dĩ nhiên đã trả lời: “Thưa chính là người đã tỏ lòng thương đối với ông ta” Chúa Giê-su nói với ông: “Ong hãy về và làm như vậy”. Chúng ta không nên hỏi ai phải là người đáng chúng ta kể là thân cận. Tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những kẻ kém may mắn, những người mang thương tích, những tâm hồn đổ vỡ, tất cả những ai cần đến tấm lòng quảng đại và sự trợ giúp huynh đệ của chúng ta. Tất cả đều là những kẻ mà Chúa bảo chúng ta phải nhìn thấy Ngài trong họ. Chúng ta được đòi hỏi phải trở nên những người thân cận đích thực để yêu thương kẻ khác như chính mình. “Hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Vào khoảng cuối đời, Chúa Giê-su còn đi thêm một bước nữa: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Đó là giới răn mới của Chúa Giê-su. Đó là giới răn duy nhất của Ngài. Đó là giới răn bao trùm tất cả mọi giới răn. Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta hơn chính mạng sống của Ngài. Ngài chỉ sống và chết cho người khác. Yêu như Ngài đã yêu, đó là mệnh lệnh của Chúa Giê-su, đó là ý muốn của Chúa Cha. Nếu chúng ta không biết đến mệnh lệnh này, thì cho dù chúng ta có tuân giữ mọi nghi thức, tất cả cũng đều vô ích. “Khi ngươi đến dâng của lễ nơi bàn thờ và chợt nhớ ra người anh em có điều bất hòa với ngươi, hãy để của lễ lại trước bàn thờ và trở về làm hòa với người anh em trước đã, rồi mới đến dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Thiên Chúa không muốn một lời cầu nguyện hay một hy lễ không có tình yêu. Ngay cả một tư tế suốt ngày bận bịu trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nếu ông không có bác ái, thì ông chỉ là một người không hề biết đến quả tim của Chúa. Thái độ của Chúa Giê-su quả đã làm cho hàng tư tế ở Giê-ru-sa-lem khó chịu, bởi vì họ luôn bám vào quyền hành của họ.
Nhưng Chúa Giê-su không sợ chuyện người ta khó chịu về những lời nói của Ngài. Trong một xã hội mà sự thù ghét người ác được xem như là một nhân đức, Chúa Giê-su không ngần ngại đưa ra một thách đố: “Các ngươi hãy yêu thương kẻ thù của các ngươi”. Lời của Ngài thật rõ rệt và dứt khoát: “Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét các ngươi, hãy chúc phúc cho kẻ nguyền rủa các ngươi, hãy cầu nguyện cho kẻ vu vạ các ngươi. I vả má bên này, ngươi hãy giơ má bên kia cho họ nữa. Và ai cưỡng đoạt áo ngoài của ngươi, thì đừng cản họ lấy cả áo trong nữa. Ai xin điều gì, các ngươi hãy cho; Ai lấy của gì, dừng đòi lại. Các ngươi muốn người ta làm cho mình thế nào, thì hãy làm cho người ta như vậy. Vì nếu yêu kẻ yêu mình thì có phúc gì? Kẻ tội lỗi cũng yêu kẻ yêu mình. Nếu các ngươi làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì có phuc gì? Vì kẻ tội lỗi cũng làm như vậy. Nếu các ngươi cho vay mượn và mong được trả lại, thì các ngươi được phúc gì? Vì kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để thu lại đủ số. Phần các ngươi, hãy yêu thương thù địch mình, hãy làm ơn, hãy cho vay mượn mà không trông đòi lại. Như thế, phần thưởng của các ngươi sẽ rất lớn và các người sẽ nên con Đấng Cao Cả, vì Người nhân từ đối với kẻ vô ơn và ích kỷ. Các ngươi hãy nhân từ như Cha các ngươi là Đấng Nhân Từ” (Lc 6,27-36).
Những phần tử của đảng cách mạng hẳn đã phải nghe những lời trên đây. Lúc đầu họ tưởng rằng Ngài là bạn của những người cùng khổ và bị áp bức; họ tưởng Ngài có thể là người lãnh đạo của phong trào đấu tranh. Nhưng giờ đây, họ thất vọng. Làm sao họ có thể khởi xướng một cuộc nổi dậy đẫm máu dưới sự lãnh đạo của một người tuyên bố rằng cần phải yêu thương kẻ thù?
CÁCH SỐNG CỦA CHÚA GIÊ-SU
Lòng bác ái của Chúa Giê-su không có giới hạn. Tuy nhiên, Ngài dành sự quan tâm và lòng ưi ái cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức, những người bị khinh bỉ, những người bị ruồng bỏ, các bệnh nhân. Một người phong cùi nghe nói đến quyền năng có thể thực hiện những điều lạ lùng nơi Ngài. Anh ta đến gần Ngài, Ngài đã tỏ lòng thương xót anh. Ngài đưa cánh tay ra, chạm đến anh, đây là điều là lề luật ngăn cấm. Và chỉ bằng một lời nói, Ngài đã chữa lành anh (Mc 1,40-42). Có lẽ đây là lần đầu tiên có một bàn tay thân tình chạm đến anh. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, anh cảm nghiệm được ó một người nào đó yêu thương anh và săn sóc cho anh. Từ trong ánh mắt của Chúa Giê-su, có lẽ đây là lần đầu tiên anh khám phá ra rằng Thiên Chúa yêu thương anh. Chúa Giê-su cũng đã bày tỏ một tình thương tương tự đối với tất cả những kẻ yêu nhược hay vấp ngã. Ngài không hề tỏ ra khó chịu khi một người đàn bà nổi tiếng xấu trong thành đến rửa chân Ngài bằng nước mắt của bà và dùng tóc mà lau chân Ngài (Lc 7,38). Ngài ngồi ăn uống đồng bàn với người thu thuế mà mọi người đều khinh bỉ như một tội nhân (Mt 9,10). Khi những người biệt phái gỉa hình tỏ ra bất bình, Ngài thẳng thừng quở trách họ: “Những phường thu thuế và bọn đĩ điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi” (Mt 21,31). Chúa Giê-su đã có thể tỏ ra rất cứng rắn với những kẻ kiêu ngạo, ng kẻ không biết quan tâm đến người khác, những kẻ hãm hại và khinh bỉ người khác.
Đối với người giầu, Ngài không ghét họ. Ngài không ganh tỵ với họ. Ngài thương hại họ mà thôi. Họ quả là những kẻ ngu ngốc. Họ tích luũy của cải và tự nhủ rằng tiền bạc sẽ làm cho họ ăn uống thỏa thuê và vui hưởng cuộc sống. Tuy nhiên, chỉ trong chớp nhoáng, sự chết xẩy đến ban đêm và họ phải tính sổ với Thiên Chúa (Lc 12,16-21).
Tất cả của cải mà họ thu tích được hóa ra vô ích. Tiền bạc mà họ tôn thờ như Chúa của họ đã lừa dối họ. Đáng thương thay kẻ không hề biết mở mắt để nhìn thấy người ăn xin ngày ngày ngồi trước cửa nhà mình. Quần áo lụa là gấm vóc đã không làm được gì cho người đó. Yến tiệc mỗi ngày cũng trở thành vô ích. Người đó sẽ đi thẳng vào hỏa ngục. Hắn sẽ phải than khóc mãi mãi (Lc 16,19-31). Lời dạy dỗ trên đây của Chúa Giê-su cho thấy những người giầu có bất hạnh biết bao!
Chúa Giê-su đã công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho người nghèo (Mc 11,5). Ngài sống cho những kẻ bé mọn. Trái tim của Ngài, sức mạnh của Ngài, thời giờ của Ngài thuộc về họ. Ngài không có nhà riêng cho Ngài. Ngài không có cả gối để tựa đầu. Ngài trao ban tất cả những gì Ngài có mà không chờ đợi được đền đáp. Ngài biết rõ rằng con người không phải là thần thánh và ngay cả những người nghèo cũng không phải là người toàn thiện. Tuy nhiên, Ngài đến không phải để kết án, nhưng để công bố sự thống hối và ban ơn tha thứ (Mt 9,13). Chúa Giê-su là một con người không hề sống cho chính mình, mà chỉ sống cho người khác. Đối với Ngài, mỗi một người là một người bạn; mỗi một người là một kho tàng độc nhất vô nhị, một kho tàng bất khả di nhượng.
TRÁI TIM CỦA CHÚA CHA
Tại sao Chúa Giê-su đã sống như thế? Thưa bởi vì Ngài biết rõ trái tim của Chúa Cha. Chúa Giê-su biết và sống với niềm xác tín rằng Chúa Cha là Tình Yêu vô biên. Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa và Chúa Tể Trời Đất (Mt 11,25). Ngài là Vua và là Đấng Phán Xét (Mt 18,23). Ngài biết và thấy tất cả môi sự (Mt 11,25). Tuy nhiên, tiên vàn, Ngài là Đấng Tốt Lành (Mt 10,18). Thiên Chúa của Chúa Giê-su là một Thiên Chúa Thiện Hảo. Ngài là Đấng trang điểm cho hoa cỏ đồng nội (Mt 6,28-30) và nuôi nấng chim trời (Mt 6,26). Ngài là Thiên Chúa hằng săn sóc chúng ta; Ngài đếm cả từng sợi tóc trên đầu chúng ta (Lc 12,6-7).
Có ba dụ ngôn nổi tiếng qua đó Chúa Giê-su mô tả lòng nhân từ và thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa Cha là người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc và khi đã tìm thấy nó, liền vác nó trên vai. Vui mừng trở về nhà, người mục tử mời bạn bè và bà con láng giềng đến để chia vui với mình (Lc 15,1-7). Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Chúa Giê-su tự nhận mình là người mục tử tốt lành. Ngài là hình ảnh đích thực của Chúa Cha. Trong một bài dụ ngôn khác, Chúa Cha được so sánh với một người đàn bà quét dọn trong từng góc nhà để tìm cho kỳ được đồng bạc dã đánh mất. Khi đã tìm thấy, bà ta mời bạn bè đến để chia vui (Lc 15,8-10). Nhưng còn hơn tất cả mọi hình ảnh khác, Chúa Cha là người cha nhân từ ngày ngày ra trước ngõ đứng đợi người con hoang đàng trở về. Khi vừa thấy đứa con trở về tiều tụy rách rưới, người cha vẫn chạy đến ôm lấy nó và hôn lấy hôn để. Ong không cần phải nghe những gì người con muốn nói, nhưng tức khắc ra lệnh cho gia nhân mở đại tiệc ăn mừng. “Chúng ta hãy ăn uống vui mừng, vì con ta đay đã chết nay sống lại; đã mất nay tìm thấy lại” (Lc 15,11-32).
Đó chính là một Thiên Chúa mà Chúa Giê-su đã biết. Trái tim của Ngài nên một với trái tim của Thiên Chúa đó. Lẽ sống của Ngài, mục đích duy nhất của Ngài là thực thi ý muốn của Thiên Chúa đó (Ga 4,34). Và ý muốn của Thiên Chúa chính là yêu như Thiên Chúa yêu. Ngài không muốn để cho một trong những kẻ hèn mọn nhất phải hư mất (Mt 18,14). Dưới mắt Chúa Giê-su, Tình yêu của Thiên Chúa ôm trọn mỗi một con người. Đó là lý do tại sao tất cả mọi người đều vô cùng quan trọng đối với Chúa Giê-su. Không có một người nào là vô gía trị đối với Ngài. Ngài không bao giờ muốn biết họ có xứng đáng với tình yêu của Ngài hay không. Ngài yêu thương họ vô điều kiện. Ngài yêu thương họ đến độ quên chính mình. Ngài yêu thương họ bằng cách thế Thiên Chúa yêu thương họ. Tin Mừng mà Ngài mang đến cho con người là: Thiên Chúa ở với bạn như con cái của Ngài. Do đó, bạn cũng hãy cố gắng sống như một người con tốt lành. Thiên Chúa tha thứ cho bạn, bạn cũng phải tha thứ cho người khác. Bạn hãy đón nhận Nước Thiên Chúa như một khi tàng vô giá (Mt 13,44). Bạn hãy chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa với lòng tín thác, như thể một đứa bé đón nhận tình yêu của cha mẹ nó. Bạn hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện liên lỉ của con cái Ngài (Mt 6,8; 7,7-11).
Chúa Giê-su không có ý nói rằng các tín hữu chỉ cần nói một tiếng và Thiên Chúa se cất khỏi mọi sự dữ và mọi tai họa khỏi cuộc sống của họ. Trái lại là khác. Con cái của Nước Thiên Chúa phải vác thập gía của họ mỗi ngày (Lc 9,23). Người ta sẽ bách hại họ, cầm tù họ và ngay cả giết hại họ (Mt 5,10-12; Lc 21,12-17). Báo trước những nỗi khổ đau của các môn đệ, Chúa Giê-su lại nói: “nhưng không có một sợi tóc nào trên đầu các con phải hư mất cả” (Lc 21,18). Cho dẫu họ có giết được các con, thì điều đó cũng không đáng kể bằng một sợi tóc rơi xuống khỏi đầu các con. Sao thế? Thưa là bởi vì chỉ có một điều hệ trọng đối với con người (Lc 10,42) và không ai và không gì có thể cất khỏi họ. Chỉ có con người khờ dại mới có thể đánh mất đi mà thôi. Chỉ có một điều bất hạnh đối với con người, đó là không tin và không chia sẻ Tình Yêu của Thiên Chúa. Điều đó xẩy đến khi con người tự cho mình là trung tâm của vụ trụ, xét đoán mọi sự dựa trên quyền lợi riêng tư của mình và hành động theo như vậy. Khi con người chỉ sống cho riêng mình mà không sống bằng tình yêu, nó kể như đã chết rồi. Lòng bác ái tự nó dẫn đến sự sống vĩnh cửu và bác ái là hoa trái cuả niềm tin, mà niềm tin là nhận chân rằng Thiên Chúa là Tình yêu và hễ ai sống trong tình yêu thì cũng ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy (1 Ga 4,16).
NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA GIÊ-SU
Sự xuất hiện của Chúa Giê-su trong cuộc sống hằng ngày của dân tộc Ngài quả là một đột biến. Ngài dạy dỗ họ như một kẻ có quyền chứ không như các thày thông luật của họ (Mt 7,29; Mc 1,22). Các thính gỉa của Ngài đều không ngừng thắc mắc về điều đó. Dân chúng tuôn đến với Ngài bởi vì Ngài có quyền năng chữa lành bệnh tật. Các tác giả Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Ngài. Nhiều người thời đại nghi ngờ về những bài tường thuật về các phép lạ đó, nhưng đó là những câu chuyện do những người mất thấy tai nghe kể lại và lồng vào trong suốt cuộc đời của Chúa Giê-su. Đó là những câu chuyện mà người ta không thể loại bỏ ra khỏi cuộc d8ời của Ngài. Những phép lạ này là nguyên nhân đưa đến sự thành công mà Chúa Giê-su đã đạt được ngay từ đầu (Mc 1,45). Những kẻ thù của Ngài tố cáo Ngài là đã làm các phép lạ do quyền năng của ma quỉ (Mc 3,27). Khi họ quyết định loại trừ Ngài, thì lý do chính họ đưa ra là “người này đã làm nhiều điều lạ lùng” (Ga 11,47-50).
Quả thực những phép lạ của Chúa Giê-su là những điều lạ lùng. Cũng giống như một luồng ánh sáng chiếu tỏa trên không trung, mỗi một phép lạ của Chúa Giê-su đều tỏ bày cho chúng ta rằng Thiên Chúa là Chủ Tể của sự sống, rằng Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết cà tất cả những gì loan báo sự chết. Mỗi một phép lạ mạc khải cho chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng Thiện Hảo, Ngài ở kề bên chúng ta và lắng nghe chúng ta. Những phép lạ của Chúa Giê-su là những dấu chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa đã gần đến. Những phép lạ ấy là một lời mời gọi con người hãy đến với Chúa với một lòng tin vô điều kiện. Những phép lạ ấy, cũng giống như bất cứ một dấu hiệu nào, chỉ thưc5 sự có ý nghĩa là bởi vì chúng biểu tỏ một thực tại khác. Bệnh nhân mà Chúa Giê-su đã chũa lành rồi cũng sẽ ệnh lại và chết. Đám đông mà Ngài cho ăn no nê từ phép lạ nhân bánh ra nhiều, rồi cũng sẽ cảm thấy đói lại. Kẻ chết mà Ngài cho sống lại có lẽ sẽ sống thêm vài năm nữa rồi cũng sẽ chết. Nếu một phép lạ không là một dấu chỉ, thì nó cũng chỉ là một cố gắng ngu xuẩn chỉ tổ gây thêm xáo trộn cho một thế giới tự nó đã quá nghèo nàn. Các phép lạ của Chúa Giê-su là những dấu chỉ, những lời mời gọi con người tin vào Lời Chúa mà Ngài đã công bố: “Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Người đó sẽ sống, không phải sống thêm vài năm, nhưng là sống đời đời với Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa cứ mãi đổ tràn những phép lạ trên chúng ta, thì có lẽ chúng ta không dễ gì đón nhận những lời hứa của Ngài với một niềm tin phó thác và với một tình yêu vô vị lợi. Tin vào một Thiên Chúa như thế hóa ra chẳng là đeo đuổi những toan tính ích kỷ của chúng ta và như vậy là phải chết vĩnh viễn. Chỉ có tinh yêu vô vị lợi mới dẫn đưa chúng ta về cõi ống trường sinh. Đó là lý do khiến Chúa Giê-su phải lẩn tránh đám đông đang tuôn đến với Ngài chỉ vì Ngài đã cho họ ăn no nê. “Quả thật, quả thật, ta nói với các ngươi, các ngươi đi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, mà chỉ vì các ngươi đã được ăn uống no thỏa” (Ga 6,26). Ngài muốn đám đông phải tin tưởng vì đã chứng kiến những dấu lạ. Ngài muốn họ phải tin rằng trong Ngài, Nước Thiên Chúa đã xuất hiện giữa họ. Ngài muốn họ đi theo Ngài trong con đường của tin tưởng, cậy trông và yêu mến, để cùng với Ngài tiến về Nước của Chúa Cha. Nhưng họ chỉ quan tâm đến cơm bánh hằng ngày. Một khi đã thấy rằng Ngài không còn muốn làm phép lạ để họ được ăn uống đầy đủ mỗi ngày nữa, họ đói khát và rồi lãng quên Ngài như một tiên trị vô dụng (Ga 6,60-66). Sự việc cứ diễn tiến theo cái đà ấy: giới lãnh đạo mỗi ngày càng thù ghét Ngài trong khi đám đông dân chúng mỗi lúc càng thất vọng về Ngài. Những kẻ trung thành đi theo Ngài chỉ còn là một nhóm nhỏ các môn đệ của Ngài.
CHÚA GIÊ-SU VÀ CÁC MÔN ĐỆ CỦA NGÀI
Chúa Giê-su đã tự chọn cho mình một số môn đệ. Đa phần là những ngư phủ đơn sơ mộc mạc của miền Ga-li-lê. Họ đã bỏ mọi sự và đi theo Ngài. Trong đám họ, Ngài chọn 12 người để luôn sát cánh bên Ngài (Mc 3,13-15). Thỉnh thoảng Ngài sai họ đi loan báo rằng Nước Chúa đã gần đến. Đó là lý do tại sao họ được gọi bằng danh xứng là “tông đồ”. Từ “tông đồ” được dịch từ một tiếng Hy Lạp có nghĩa là “được sai đi”. Sau khi hoàn thành sứ mệnh, họ trở về và cùng với Chúa Giê-su đi rảo qua khắp các ngã đàng cát bụi của Ít-ra-en.
Trong số 12 tông đồ, nổi bật nhất có hai anh em Gio-an và Gia-cô-bê và nhất là Phê-rô. Chính Chúa Giê-su đã chọn cho người dân chài Xi-mon biệt hiệu Phê-rô này. Phê-rô có nghĩa là Đá. Có lần Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16,13). Các ông lặp ại ý kiến của nhiều người khác nhau. Lúc đó Ngài mới hỏi các ông: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?” Các môn đệ sợ phải trả lời cho một câu như thế. Các ông cản thấy đây là lúc quyết liệt nhất trong cuộc đời của các ông. Điều này cũng thường xẩy ra cách này cách khác trong cuộc đời của mỗi người. Liệu mỗi người có chấp nhận Chúa Giê-su Na-da-rét và uyết định về số phận của mình không? Phê-rô bước ra phía trước và trả lời: “Thày là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Trong tiếng Hy Lạp, “Ki-tô” có nghĩa là “người được xức dầu”. Từ này cũng được chuyển dịch từ tiếng Hy Bá Lai “Mê-si-ah”. Đây là tước hiệu mà người Do Thái thời Chúa Giê-su dành cho Vị Cứu Tinh mà họ hằng mong đợi. Như vậy, Phê-rô tuyên xưng rằng Chúa Giê-su, vị Thày nghèo nàn, vô danh, bị bỏ rơi là chính Đấng Cứu Tinh mà dân Do Thái hằng mong đợi. Phê-rô còn gọi Ngài là Con Thiên Chúa. Có thể trong giây phút ấy, Phê-rọ chưa hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của lời tuyên xứng của mình. Nhưng Chúa Giê-su khen ngợi ông. Ngài nói: “Phúc cho con, hỡi Xi-mon, vì Cha Ta đã mạc khải cho con điều đó…Và Ta nói cho con biết, con là Phê-rô, nghĩa là Đá và trên Đá này Ta sẽ xây Giáo hội của Ta” (Mt 16,18).
LÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊ-RU-SA-LEM
“Ta sẽ xây Giáo hội của Ta”: đây là điều chưa từng nghe nói đến. Dân Do Thái chỉ nhận biết có một “Giáo hội” hay một cộng đồng, đó là cộng đồng của Gia-vê, nghĩa là chính dân tộc Do Thái. Nhưng Chúa Giê-su lại nói đến sự phát sinh của một cộng đồng mới, “cộng đồng của Ngài”. Vào thời điểm đó, xem ra viễn ảnh của một cộng đồng như thế thực là viển vông. Các nhà lãnh đạo của xã hội đã quyết định loại trừ kẻ gấy rối loạn đến từ Na-da-rét. Những người biệt phái đã phán quyết rằng Hắn phải chết, bởi vì Hắn là một kẻ vi phạm lề luật của Mô-sê. Vị thượng tế của Giê-ru-sa-lem muốn thấy Hắn hoàn toàn bị tiêu diệt, bởi vì Hắn là mối nguy hiểm cho cơ chế tôn giáo, nghĩa là mối nguy hiểm cvho sự tuân giữ các lễ nghi tôn giáo của Đền thờ cũng như cho quyền bính tối cao của giai cấp tư tế. về phần Hê-rô-đê, ông đã giết Gio-an Tẩy Gỉa bởi vì vị tiên tri này đã dám phê bình ông. Đối với Hê-rô-đê, Chúa Giê-su là một người nguy hiểm, bởi vì Ngài không hề tỏ ra sợ hãi đối với quyền bính và lại xác quyết sự độc lập của mình duy chỉ dựa trên lòng tín thác vào Thiên Chúa. Lập trường của Chúa Giê-su lại hoàn toàn đối nghịch với những người giầu có và những kẻ có uy thế, cũng như với cả sức mạnh củalề luật và truyền thống. Đứng trước những kẻ thù đầy uy quyền, Chúa Giê-su không có một chỗ dựa nào khác hơn là mối tương quan mật thiết của Ngài với Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, là Ap-ba, thân mật như chữ Ba trên môi miệng đứa trẻ. Ngài nói chuyện với Chúa Cha một cách thân mật khi cầu nguyện và Ngài cũng nói về Chúa Cha với một giọng điệu như thế. Ngài biết rằng Ngài là “Người Con Yêu Dấu” của Chúa Cha (Mt 3,17). “Tất cả mọi sự đã được Chúa Cha trao phó cho Ta và không ai biết Con trừ ra Cha và không ai biết Cha trừ ra Con và những ai mà Con đã chọn để mạc khải Cha cho họ” (Mt 11,27). Những lời này của Chúa Giê-su cho thấy bí ấn sâu thẳm của tâm hồn Ngài. Tuy nhiên, những người biệt phái và kẻ thù của Ngài không thể nào chịu đựng được những lời lẽ như thế. Với một giọng điệu đầy giận dữ, họ hỏi Ngài: “Ong tự cho ông là ai?” (Ga 8,53).
Tình cảnh của Chúa Giê-su mỗi lúc một trở nên nguy ngập. Ngài đã có thể lẩn trốn và dĩ nhiên, đưa cả nhóm các tông đồ trốn sang một góc nào đó trong sa mạc Ả Rập. Ngài cũng có thể trốn sang những miền ở ngoài lãnh thổ Ít-ra-en như Ngài đã từng làm một thời gian ngắn trước đó (Mc 7,24). Nhưng làm như thế là lẩn tránh sứ mệnh của Ngài. Ngài đã được Chúa Cha sai đến không phải vì lợi ích của một nhóm những người đã được tuyển chọn. Ngài được sai đến là để công bố cho toàn dân Do Thái và toàn thế giới rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Do đó, một lần nữa, Ngài lên Giê-ru-sa-lem nhằm vào ngày Lễ Vượt Qua, tức ngày đại lễ kỷ niệm cuộc giải phóng của người Do Thái. Đây là dịp mà vô số khách hành hương tập trung về thành thánh. Đây là lần cuối cùng Chúa Giê-su về Giê-ru-sa-lem.
Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài khi Ngài vào thánh đô của những kẻ thù. Ngài cũng biết rằng sẽ không có một thỏa hiệp nào nữa. Ngài biết rằng Ngài sẽ không quay trở lại. Ngài sẽ không dùng quyền năng để làm phép lạ và tự cứu lấy mình. Ngài đã không bao giờ làm phép lạ cho riêng mình. Tất cả những phép lạ Ngài đã làm là vì lợi ích của người khác. Ngài biết rằng những kẻ thù của Ngài sẽ giết Ngài, nhưng Ngài vẫn tiến vào Giê-ru-sa-lem. Con người đã không tin ở lời Ngài. Ngài cần công bố một lần nữa và lần này, bằng chính mạng sống của Ngài: Ngài phải công bố tất cả những gì Ngài đã công bố trong suốt cuộc sống của Ngài. Đó là Nước Thiên Chúa đã đến gần. Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người đó.
Khi Ngài vừa vào thành Giê-ru-sa-lem, một lần nữa, dân chúng hồ hởi tung hô Ngài (Mt 21,8-11). Nhưng Ngài đã không lợi dụng cợ hội ấy để huênh hoang đối với kẻ thù của Ngài. Vòng vây âm mưu đang bắt đầu thắt chặt lại xung quanh Ngài. Giu-đa, một trong những tông đồ của Ngài, đã tình nguyện giao nộp Ngài cho những kẻ có quyền. Có thể Giu-đa đã phản bội, vì ông thất vọng vì những chờ đợi của ông đã không được đáp trả. Cũng như nhiều người khác, ông hy vọng rằng Chúa Giê-su sẽ là người lãnh đạo cuộc nổi loạn chống lại đế quốc La Mã.
CUỘC KHỔ NẠN
Vài ngày sau khi vào thành Giê-ru-sa-lem, một lần nữa và là lần cuối cùng, Chúa Giê-su đã cùng các môn đệ của Ngài cử hành Bữa Tiệc Ban Chiều như thông lệ. Trong bữa tối cuối cùng, Ngài đã bày tỏ toàn vẹn Con Người và sứ mệnh của Ngài trong một nghi thức vô cùng đơn sơ nhưng lại sâu sắc. Ngài cầm lấy bánh trong tay, be ra và trao cho các môn đệ và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn. Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con”. Sau bữa ăn tối, Ngài cầm lấy chén rượu. Cũng thế, Ngài trao cho các môn đệ và nói: “ất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là Máu Ta, Máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con. Hãy làm lại việc này mà nhớ đến Ta” (Mc 14,22-24; Lc 22,17; 1 Cr 11,24-25). Giao ước mà các tiên tri đã loan báo giờ này đã được thực hiện. Chúa Giê-su chính là hiện thân và là tác gỉa của giao ước mới. Hy tế của Ngài mang lại hòa bình và hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người.
Sau bữa ăn tối ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đến vườn Giệt-si-ma-ni. Tại đây, trong đêm tối dày đặc, Chúa Giê-su cảm thấy lo sợ trước cái chết. Ngài quì gối van xin với Chúa Cha: Ap-ba, Lạy Cha, mọi sự đều có thể đối với Cha. Xin hãy cất chén này khỏi con. Nhưng không phải là ý con, mà là Ý Cha” (Mc 14, 36). Chúa Giê-su cảm nghiệm được tất cả những gì một con người có thể trải qua, ngay cả nỗi hãi sợ trước cái chết, Tuy nhiên, ngay trong những giây phút đớn đau tốt cùng ấy, câu nói trên môi miệng Ngài vẫn là “Lạy Cha, xin cho Ý Cha được nên trọn!” Khi Ngài vừa cầu nguyện xong thì Giu-đa xuất hiện với một số binh lính và hầu cận. Họ trói Ngài lại và dẫn Ngài đến trước Công nghị của các tư tế. Tại đây, án xử của Ngài chỉ còn là một trò hề của tư pháp. Các quan tòa đã thỏa thuận với nhau về án tử hình của Ngài trước khi xét xử Ngài (Ga 11, 50). Tuy nhiên, giữa cái phiên xử khôi hài ấy, vẫn còn có một phút đáng nhớ. Cai-pha, vị thượng tề đang chủ tọa phiên xử, hỏi Chúa Giê-su một cách trang trọng như sau: “Ngươi có phải là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống không?”. Mặc dù vẫn còn đớn đau vì những thương tích trên thân thể Ngài, Chúa Giê-su vẫn đứng vững giữa những vị thẩm phán, 71 thành viên của Công nghị và Ngài dõng dạc trả lời: “Đúng thế! Và các ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng Toàn Năng và sẽ đến trên mây trời” (Mc 14, 61-62). Cho đến lúc đó, Chúa Giê-su chưa bao giờ nói thẳng thừng như thế trước đám đông. Tuy nhiên, giờ đây Giờ của Ngài đã đến, Ngài không hề muốn chết vì những lời cáo gian. Ngài công khai tuyên bố Ngài là ai và tại sao Ngài đến trong thế giới này. Đó chính là lý do Ngài bị kết án. Vị thượng tế liền tuyên bố: “hắn đã nói lộng ngôn”. Tên tù với khuôn mặt đầy máu me, đã dám ngang nhiên khẳng định không những Hắn là Vị Cứu Tinh của Dân Tộc mà còn tự cho là ngang hàng với Thiên Chúa Tối Cao. Tự cho mình ngồi trên Ngai Trời bên hữu Đấng Toàn Năng, quả là một lời lộng ngôn không thể tha thứ được. Tất cả Công nghị đều đồng thanh phán quyết” “Hắn đáng chết!”
Tuy nhiên, tại Giê-ru-sa-lem, kết án tử hình một người là quyền dành riêng cho chính quyền La Mã. Do đó, Công nghị của người Do Thá cho điệu Chúa Giê-su đến dinh của Phi-la-tô, quan tổng trấn La Mã. Chính ông này mới là người có quyền đọc bản án tử hình. Lý do để họ biện minh cho sự kiện Ngài bị giải đến cho quan tổng trấn Phi-la-tô là: Ngài là một tên dấy loạn. Đây là một cáo buộc hoàn toàn không có nền tảng (Lc 23,2). Thoạt tiên, Phi-la-tô không muốn kết án Chúa Giê-su. Ong đoán rằng Ngài chỉ là một người vô tội. Nhưng khi nhận thấy rằng sự nghiệp chính trị của ông có thể bị lung lay nếu ông không làm theo ý muốn của các nhà lãnh đạo Do Thái, do đó, Phi-la-tô đành chiều theo họ. Sau một cố gắng hòa hoãn, cuối cùng ông đã đọc bản án qua đó Ngài phải bị treo trên thập gía. Binh sĩ đến lôi Chúa Giê-su đi. Họ đánh đập Ngài và dẫn Ngài lên đồi Gôn-gô-ta ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem và đóng đinh Ngài vào một cậy thập gía.
Trong ba giờ liền, Chúa Giê-su phải quằn quại trên thập gía. Dường như tất cả mọi bỉ ổi nhất của con người đều trút xuống trên Ngài. Thiên Chú giữ thinh lặng. Ngài không hề can thiệp. Ngài ẩn dấu mặt Ngài. Cơn cám dỗ trong những giây phút ấy khủng khiếp biết chừng nào! Ma quỉ, theo như Kinh Thánh ghi lại, đã cám dỗ Chúa Giê-su ngay từ lúc Ngài khởi sự sứ vụ công khai của Ngài. Ma quỉ đã dụ dỗ Ngài hãy xử dụng quyền năng làm phép lạ của Ngài vì lợi ích của riêng Ngài. Nó khuyến dụ Ngài bày tỏ cho đám đông thấy những đặc ân của Ngài để đạt cho kỳ được quyền bính của thế trần. Nhưng Chúa Giê-su đã thẳng thừng bác bỏ những cơn cám dỗ ấy, ngay cả sau này khi nhiều người cũng lặp lại. Ngài đã sống như một người nghèo, nghĩa là một cách đơn sơ và khiêm tốn. Ngài đã phản ảnh ý muốn của Thiên Chúa và thể hiện Tình yêu hoàn toàn vô vị lợi đối với con người. Nhưng giờ đây, Ngài phải chịu một cơn cám dỗ hoàn toàn khác hẳn. Ngài đã tuyên bố: “Hãy yêu thương thù địch của ngươi” và giờ đây kẻ thù đang giết Ngài một cách đớn đau và bỉ ổi. Làm sao người ta có thể yêu thương kẻ thù như thế? Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến lòng tín thác vào Thiên Chúa và Ngài đã hoàn toàn phó thác vào Thánh Ý Thiên Chúa. Nhưng giờ đây chính Thiên Chúa ấy lại để cho kẻ thù giết hại Ngài mà không muốn lay một ngón tay để cứu thoát Ngài. Làm sao có thể tin tưởng ở một Thiên Chúa như thế? Đó là cơn cám dỗ mà Chúa Giê-su phải trải qua trong những giờ phút cuối cùng. Ngài đã đáp trả: “Lạy Cha, xin hãy tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,24). Đó là những lời đầu tiên của Ngài khi vừa bị treo lên thập gía. Đó là phản ứng của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ nhất. Ngay cả lúc đó, Ngài vẫn tiếp tục yêu thương. Ngài đã yêu thương những kẻ kết án Ngài. Ngài đã yêu thương những kẻ hành hạ Ngài. Ngài đã yêu thương tất cả và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã yêu thương và tha thứ. “Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của người thí mạng sống vì bạn hữu của mình”, chính Ngài đã nói như thế trước đó. Và giờ đây, Ngài trao ban mạng sống Ngài cho tất cả mọi người. Bởi vì đối với Ngài, mỗi người đều là một người bạn, ngay cả những kẻ phản bội Ngài, những kẻ thù ghét và loại trừ Ngài. Những lời cuối cùng của Ngài trên thập gía chính là câu đáp trả của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ hai. Hướ Chúa Cha, Đấng mà Ngài cảm thấy như đang bỏ rơi Ngài, Chúa Giê-su thưa: “Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46). Với tin tưởng và phó thác, với sự vâng phục của một người con ngoan, Ngài đã cúi đầu và trút hơi thở cuối cùng.
Cả cuộc sống của Chúa Giê-su là một bài tình ca đối với Thiên Chúa và đối với con người. Cái chết của Ngài là tuyệt đỉnh của Tình Yêu ấy. Cái chết ấy mạc khải một cách hoàn hảo Tình Yêu của Thiên Chúa. Thế nào là “Con của Thiên Chúa hằng sống” giờ đây được tỏ hiện một cách trọn vẹn. Ngài đã quên mình, phó thác cho Chúa Cha. Ngài đón nhận mọi sự như từ bàn tay của Chúa Cha. Ngài trả lại mọi sự cho Chúa Cha với tất cả yêu thương và hiệp nhất với Trái Tim Yêu Thương của Chúa Cha. Ngay cả viên sĩ quan người La Mã đứng dưới chân thập gía cũng cảm nhận được điều đó. Chứng kiến cái chết của Chúa Giê-su, ông thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Đối với các môn đệ, cái chết nhục nhã của Chúa Giê-su trên thập gía chỉ là tận cùng của một kiếp người không hơn không kém. Ngài đã không thể tự cứu lấy mình. Thiên Chúa cũng chẳng cứu Ngài khỏi chết. Tất cả phải chăng không là một ảo tưởng? Đó là ý tưởng đang xâm chiếm tâm hồn khiếp đảm của các môn đệ. Trong cơn sợ hãi, họ đã bỏ chạy và lẩn trốn. Đối với họ, sứ mệnh của Chúa Giê-su xem như đã kết thúc bằng một thất bại ê chề.
VÀ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊ-SU
Nhưng một bất ngờ đã xẩy ra. Đây là điều mà Tân Ước đã không ngừng làm chứng. Biến có6 này đã làm phát sinh một phong trào lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Ki-tô giáo. Ngày thứ ba sau khi Chúa Giê-su chết, những người môn đệ khiếp đảm đang tụ họp nhau trong một căn nhà cửa ngõ đóng kín. Thình lình, họ nhận thức rằng Chúa Giê-su đang đứng giữa họ. Ngài nói với họ: “Bình an cho các con. Tại sao các con bối rối như thế?….Chính Thày đây!” (Lc 24,36-39; Ga 20,19-23). Thoạt tiên các môn đệ không biết phải làm gì? Họ ngỡ ngàng đến sợ hãi. Tuy nhiên, không mấy chốc, tâm hồn họ bỗng tràn ngập niềm xác tín rằng Chúa Giê-su đã sống lại, Ngài đang thực sự sống giữa các ông. Dấu hiệu đầu tiên của sự sống lại của Chúa Giê-su đó là ngôi một trống mà một số phụ nữ từng theo Ngài khi còn sống, đã phát hiện trong ngày thứ ba lúc đến thăm mộ. Nhưng những điều các phụ nữ này nói đã không thuyết phục được các tông đồ mà còn làm cho các ông thêm bấn loạn là khác (Lc 24,22-23). Tuy nhiên, “khi Ngài xuất hiện một cách sống động sau cuộc khổ nạn bằng nhiều bằng chứng, cũng như hiện ra với họ trong vòng 40 ngày và nói về Nước Thiên Chúa cho họ (Cv 1,3), thì tâm hồn họ được tràn ngập bởi một niềm tin không lay chuyển rằng “Đức Ki-tô đã thực sự sống lại từ cõi chết, Ngài là hoa quả đầu mùa của những kẻ đã yên giấc (1 Cr 15,20). Từ đó, nẩy nở trong lòng họ một niềm hy vọng kiên vững rằng “trong Đức Ki-tô mọi người đều được sống” (1 Cr 15,22). Không những chỉ có Đức Ki-tô, nhưng tất cả những ai tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, tất cả những ai yêu mến Ngài, cũng đều có thể làm cho chúng ta sống lại.
Lá thư đầu tiên của Thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu ở Cô-rin-tô đã đưộc viết khoảng 25 năm sau những biến cố Phục Sinh. Trong lá thư, Thánh Phao-lô trình bày chính chứng từ của những người đã mắt thấy tai nghe là Phê-rô, Gia-cô-bê và các tông đồ khác và 500 môn đệ, cũng như kinh nghiệm bản thân của Ngài trên đường đi đến Đa-mát (1 Cr 15). Ngài đã tiếp xúc rộng rãi với các nhân chứng (Gl 1,18). Đọc lại bài tường thuật của Thánh Phao-lô, ai cũng đều có thể cảm nhận được niềm vui đã làm rung động tâm hồn các môn đệ khi họ nhận biết rằng Chúa Giê-su, người đã bị xem là kẻ chiến bại trong một thời gian ngắn ngủi, nay đã trở thành kẻ chiến thắng. Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Chúa Giê-su quả thực là Đấng Ki-tô, Đấng Cứu Tinh, Vị Thiên Sai hằng được mong đợi. Ngài là Chúa uy quyền hơn các chúa, mạnh hơn cả sự chết. Ngài sồng với Chúa Cha, nhưng đồng thời cũng sống với chúng ta cho đến tận thế, tuy một cách vô hình (Mt 28,20). Sự Phục sinh của Chúa Giê-su là trọng tâm của niềm tin Ki-tô. Sự Phục sinh này có một ý nghĩa hoàn toàn khác biệt với ý nghĩa sự sống lại của La-da-rô, kẻ dã được Ngài cho ra khỏi mồ sau 4 ngày được tống táng (Ga 11,11-45). La-da-rô đã có thể kéo dài cuộc sống của ông vài năm nữa. Nhưng Đức Ki-tô Phục sinh sẽ không bao giờ chết nữa. Sự chết không còn quyền hành trên Ngài (Rm 6,9). Sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là sự chiến thắng chung cục của Thiên Chúa trên sự chết. Thiên Chúa không là bạn của sự chết mà là của sự sống. Ngài đã không tạo dựng một thế giới để rồi tất cả những gì là thiện mỹ phải trở thành tro bụi. Không có gì cao quí và tốt đẹp hơn Tình Yêu. Do đó, Tình Yêu và tất cả những gì được tạo dựng vì yêu thương, cũng sẽ tồn tại mãi mãi. Trong sự chết của Chúa Giê-su, Tình Yêu đã đạt đến tuyệt đỉnh. Nếu có một Thiên Chúa và nếu Thiên Chúa đó là Tình Yêu, nếu Thiên Chúa đó đã sai Chúa Giê-su và đã đáng cho Chúa Giê-su tin tưởng phó thác,thì cái chết của Chúa Giê-su không thể nào là một thất bại và là một tận cùng. Cái chết đó không gì khác hơn là khởi đầu của sự sống vĩnh cửu. “Ta phải bỏ thế gian này mà về cùng Cha Ta” (Ga 16,28). Với những lời này, Chúa Giê-su có ý ám chỉ đến cái chết và sự Phục sinh của Ngài. Ngài trở về với Chúa Cha, nguồn mạch của mọi sự sống.
Theo Kinh Thánh, Chúa Giê-su đã sống lại trong thân xác của Ngài. Tuy nhiên Kinh Thánh cũng nói rằng những đặc tính của Thân Xác Phục sinh của Ngài khác hẳn với thân xác hay chết của Ngài (1 Cr 15,35-49).
Những định luật của không gian và thời gian không còn chi phối trên Thân Xác Phục sinh của Ngài nữa. Chúa Giê-su đã có thể đi xuyên qua những cánh cửa đóng kín và biến mất liền sau đó. Giới hạn trong những phạm trù của không gian và thời gian, óc tưởng tượng của chúng ta không thể nào vẽ ra được một Thân Xác Phục sinh như thế nào. Do đó, niềm tin vào sự Phục sinh trong thể xác của Chúa Giê-su là điều rất quan trọng, bởi vì niềm tin này nói lên rằng Đức Ki-tô đã chết trên thập gía và Đức Ki-tô đã sống lại, là một. Chúa Giê-su Na-da-rét, Đấng đã đi qua trên cõi đời này như hiện thân của Tình Yêu Tinh Ròng của Thiên Chúa đối với loài người và đã chết, nay đang sống mãi như Đức Ki-tô Phục sinh. Tình Yêu của Ngài vẫn dõi theo chúng ta. Đó cũng chính là Tình Yêu đã gia tăng xuyên qua cuộc sống tại thế của Ngài và đã đạt đến tuyệt đỉnh trong cái chết của Ngài. Thân xác là dụng cụ thông đạt giữa con người với nhau. Do đó, sự Phục sinh trong thân xác của Chúa Giê-su có nghĩa là- dù một cách vô hình- Ngài vẫn luôn thông hiệp với chúng ta. Chúa Giê-su Phục sinh là người bạn đồng hành trong cuộc lữ hành của chúng ta. Trong sự Phục sinh của Ngài, lịch sử của nhân loại đã được hoàn tất. Trong ánh sáng của Đức Ki-tô Phục sinh, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của toàn thể lịch sử nhân loại cũng như ý nghĩa của công cuộc tạo dựng. Trong Chúa Giê-su Phục sinh, nhờ Thần Khí của Ngài, tất cả mọi người, một cách tự do và tự đáy lòng, đều tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa và sống trong Tình Yêu của Ngài, đến độ “Thiên Chúa sẽ cư ngụ trong tất cả mọi người” và “Ngài trở nên mọi sự cho mọi người” và Tình Yêu có thể là tất cả cho mọi người (1 Cr 15,28).
CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Các môn đệ đã bắt đầu cảm nghiệm được sức mạnh của Chúa Thánh Thần ngay từ ngày đầu tiên sau khi Chúa Giê-su sống lại. Chúa Thánh Thần đã không nhập thể. Do đó, khó có thể có được một quan niệm đúng đắn về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thường tự bày tỏ qua những biểu trưng sâu sắc. Ngài được nhắc đến như thần khí hoặc hơi thở của Thiên Chúa. Các tiên tri trong Cựu Ước loan báo rằng Thánh Thần sẽ hiện diện một cách sung mãn trong Đấng Cứu Thế (Is 11,2) và tất cả mọi thành phần của dân Chúa cũng sẽ được tràn đầy Thánh Thần (Gr 3,1-5).
Trong buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ và khi thở hơi trên các ông, Ngài đã nói: “Các con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20,22). Năm mươi ngày sau, nhân ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã cảm nghiệm được sức mạnh của Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn họ. Do Thánh Thần thúc đẩy, lần đầu tiên kể từ sau khi Chúa Giê-su chết, họ đã xuất hiện trước đám đông và công bố: “Thiên Chúa đã cho Đức Giê-su sống lại và tất cả chúng tôi làm chứng cho điều đó” (Cv 2,32). Do đó “xin mọi người hãy biết rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Chúa và Đấng Ki-tô, chính Ngài là Giê-su mà các người đã đóng đinh” (Cv 2,36).
Với những lời này, các môn đệ đã sẵn sàng để hoán cải cả thế giới. Họ đã chịu tử đạo vì lời rao giảng của họ. Tuy nhiên, sau cùng, lòng tin của họ đã cải hóa cả đế quốc La Mã. Các sứ giả của Đức Ki-tô ngày nay cũng mang cùng một ‘Tin Mừng’ đến cho mọi dân tộc trên trái đất: Tin Mừng đó là: “Đức Ki-tô đã sống lại”. Cái chết của Ngài không phải là một lời gĩa biệt mà là một gặp gỡ. Cái chết ấy không là một thối rữa, mà là một trổ sinh mới. Cái chết ấy không là một cái chết vĩnh viễn, mà là một cuộc sống vinh hiển.
CHÚA GIÊ-SU CON MỘT CỦA CHÚA CHA
Chỉ trong ánh sáng của Phục sinh mà cuối cùng các tông đồ đã hiểu được Chúa Giê-su là Ai. Trong cuộc sống tại thế của Ngài, khi lắng nghe lời của Ngài và chứng kiến những việc Ngài làm, các ông đã linh cảm rằng Ngài là một con người trổi vượt hơn tất cả mọi tiên tri đến trước Ngài và mối liên kết giữa Ngài và Chúa Cha là một tương quan chỉ có giữa Cha và Con mà thôi. Nếu không thì làm sao sự xuất hiện của Ngài có thể được xem như là dấu chỉ của thời viên mãn, là khởi đầu của Nước Thiên Chúa? Nếu không thì làm sao Ngài dám tha tội cho tội nhân? Nhưng chỉ sau khi Ngài sống lại thì bí ẩn của con người Chúa Giê-su mới được tỏ lộ một cách rõ ràng cho các tông đồ. Chúa Giê-su, Đấng Phục Sinh ngồi bên hữu Thiên Chúa Cha, Đấng liên kết toàn thế giới với Thiên Chúa như là Vị Trung Gian duy nhất, Chúa Giê-su, Đấng sai Thánh Thần đến với chúng ta như là hơi thở của chính Ngài, một Chúa Giê-su như thế không thể chỉ là một tạo vật. Dĩ nhiên, Ngài là một con người. Ngài đã được sinh ra từ một người mẹ trần thế. Ngài cũng lớn lên như mọi người. Ngài cũng có lúc vui khi buồn. Ngài đã lao động và cũng đã biết thế nào là mỏi mệt. Cũng có lúc, đôi mắt Ngài phóng ra những tia giận dữ. Cũng chính đôi mắt ấy đã nhìn về một người thanh niên với tất cả trìu mến. Có lúc Ngài vui vỡ lở, có lúc Ngài run rẩy lo sợ. Ngài đã chết như một con người. Ngài đã sống lại như một con người và đề sống mãi như một con người. Nhưng cũng chính Chúa Giê-su ấy lại là một cái gì hơn cả một con người. Ngài là Thần Linh. Ngài là chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất (1 Tm 2,5). Ngài không đồng nhất với Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha gọi Ngài là ‘Con Yêu Dấu’ (Mc 1,11) và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha. Nhưng bản chất đích thực của Ngài là Thiên Linh cho nên Ngài cũng là Thiên Chúa đích thực.
Ngài là Thiên Chúa không chỉ vào lúc cuối đời, mà ngay từ lúc đầu. Thánh Phao-lô, Thánh Gio-an và nhiều người khác, khi tuyên xưng niềm tin này, đã xử dụng những kiểu nói của Cựu Ước. Họ gọi Ngài là Ngôi Lời, là Đấng Khôn Ngoan, là Đấng Uy Dũng: Ngôi Lời vẫn hiện hữu từ đời đời với Thiên Chúa Cha. Ngôi Lời là Con Một của Chúa Cha, là Sự Khôn Ngoan của Chúa Cha từ đời đời (Ga 1,1-13; Pl 2,6; Cl 2,15-20). Ngôi Lời là Thiên Chúa thật bởi vì Chúa Cha sinh ra Ngài, không ngừng thông ban cho Ngài Sự Sống Thần Linh. Ngôi Lời đã nhập thể vì chúng ta để cứu rỗi chúng ta (Ga 1,14). Thiên Chúa đã sai Người Con Một của Ngài đến sống dưới hình thức một con người. Đón nhận tất cả từ Chúa Cha, Ngài cũng mang lại mọi sự cho Chúa Cha.
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Chân lý mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi mang lại cho chúng ta một chiều kích mới trong sự hiểu biết về bản chất của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Một, nhưng Ngài không đơn độc. Bản chất đích thực của Thiên Chúa là một nguồn suối bất tận của yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha sinh ra Chúa Con, thông ban cho Chúa Con mọi sự. Chúa Con yêu thương Chúa Cha, đáp trả lại tất cả mọi sự. Chúa Thánh Thần là hoa quả của sự trao ban hỗ tương ấy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần chính là Tình yêu của Thiên Chúa. Đó là Chân Lý được diễn tả trong Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa là Một, nhưng bản chất của Ngài là Tình Yêu hỗ tương giữa Ba Ngôi Vị. Ngôi thứ nhât là Cha, Nguồn Mạch của mọi sự. Ngôi thứ Hai là Con, Hình Ảnh đích thực của sự Thiện Hảo của Chúa Cha. Ngôi thứ Ba là Thánh Thần, Mối Tương Quan Yêu Thương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhờ Chúa Con nhập thể làm người và Chúa Thánh Thần được sai đến, chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi. Chúng ta trở thành anh em của Đức Ki-tô. Chính Chúa Giê-su sống trong chúng ta và Thánh Thần sinh động chúng ta bằng hơi thở của Chúa Giê-su. Thiên Chúa Cha chấp nhận chúng ta như dưỡng tử của Ngài. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, chúng ta có thể gọi Thiên Chùa là ‘Cha chúng ta’.
SỰ CỨU RỖI
Niềm tin này của các Ki-tô hữu tiên khởi, nhờ Thánh Thần linh ứng, chiếu rọi một nguồn sáng mới trên cái chết của Chúa Giê-su. Cái chết đó không phải là một tai ương tự nhiên. Nó cũng không là một tất định của lịch sử. Trái lại, đó là một sự biểu lộ hoàn hảo của Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. “Bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để bất cứ ai tin Người Con Một đó đều không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa “không dung tha Người Con Một của Ngài, nhưng trao nộp Ngài cho chúng ta” (Rm 8,32) “trong khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5,8).
Tất cả quyền lực của tăm tối gào thét để dập tắt ngọn lửa yêu thương trong Chúa Giê-su. Nhưng tất cả mọi thứ tội lỗi: sự tham quyền cố vị của những kẻ đang cầm quyền tại Giê-ru-sa-lem, lòng ích kỷ tự phụ và cố chấp của họ, sự hèn nhát cùa Phi-la-tô, một người chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của mình, sự phản bội của Giu-đa, sự đào thoát của các tông đồ, lòng nhẹ dạ của đám đông, sự độc ác của những người thừa hành quyền bính, khi hành hạ Ngài trong thể xác lẫn tâm hồn: tất cả những điều đó, Chúa Giê-su biến thành tình yêu vô biên và tha thứ. Cầu nguyện cho những kẻ đang hành hạ mình, tiến đến cái chết với tất cả yêu thương, vì yêu thương: đó là cách thế mà Con Thiên Chúa đã thể hiện cuộc sống của Ngài trong thế giới thụ tạo. Qua cách thế ấy, Ngài đã làm sáng tỏ trong thế giới Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa. Thiên Chúa chê ghét tội lỗi bởi vì nó đối nghịch lại với sự Thánh Thiện của Ngài cũng như hủy diệt con người. Tuy nhiên, Người Con Một yêu dấu của Ngài đã đến giữa thế giới tội lỗi ấy để bị giết bởi tay người tội lỗi mà vẫn yêu thương và cầu nguyện cho họ. Chúa Giê-su là Đấng Trung Gian hoàn hảo; Ngài là Đại Diện của toàn thể nhân loại. Ngài là người thợ kiến tạo hoàn hảo của một giao ước mới với Thiên Chúa Cha. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã tìm thấy một sự đáp trả hoàn toàn cho tiếng gọi của Ngài. Giờ đây, Thiên Chúa nhìn đến nhân loại xuyên qua Đức Ki-tô, Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại vì chúng ta.
Điều này cho chúng ta hiểu tại sao Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài, tại sao Ngài muốn cho Chúa Giê-su chỉ sống cho công bằng và yêu thương. Đây là một cách sống đương nhiên dẫn đến cái chết trên thập giá. Nhưng cuối cùng, chúng ta cũng hiểu được tại sao Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa muốn vĩnh viễn nhìn thấy chúng ta qua Chúa Giê-su, Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại. Thiên Chúa cũng đổ tràn Thánh Thần trên chúng ta. Chính Thánh Thần là Đấng thổi ngọn gió mát vào đám sương mù tội lỗi của chúng ta và soi sáng tâm hồn chúng ta bằng mặt trời Tình Yêu của Ngài.
Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su cũng giống như một món tiền chuộc, nhờ đó Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và làm cho chúng ta thuộc trọn về Ngài (1 Pr 1,18; 2,9). Ngài đóng ấn trên chúng ta bằng Dấu Ấn của Thánh Thần (Ep 1,13).
Cả cuộc sống của Chúa Giê-su đã trở thành con đường dẫn chúng ta về với Chúa Cha, về với Sự Sống và về với nhau. Chúa Giê-su đi trước và chúng ta đi theo Ngài. Cái chết và sự phục sinh của Ngài là sức mạnh đưa chúng ta lên đường và dẫn chúng ta đi đến cùng. “Tình Yêu của Đức Ki-tô hướng dẫn chúng ta….Ngài đã chết cho chúng ta để tất cả những ai sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và đã sống lại vì họ” (2 Cr 5,14-15).
SUY NGHĨ & THẢO LUẬN
1. Hãy so sánh những nhóm và những mẫu người sống trong xã hội hiện nay của chúng ta với những nhóm và mẫu người sống vào thời Chúa Giê-su. Họ có giống nhau không? Chúa Giê-su sẽ nói gì với họ? Họ sẽ phản ứng như thế nào với Ngài? Phần tôi, tôi thuộc mẫu người nào?
2. Chúa Giê-su nói rằng điều quan trọng nhất chính là trái tim con người. Trái tim tôi giống gì? Trái tim tôi tựa vào đâu? Tôi có chọn lựa tình yêu vô biên, tình yêu đối với mọi người như là thái độ cơ bản cho trái tim tôi không? Hay có một cái gì khác đang quyết định thái độ cơ bản của trái tim tôi?
3. Tôi có phân biệt người ta thành ra người thân cận và người không thân cận như các luật sĩ đã làm không? Hay tôi cố gắng trở thành cận thân của mọi người, như người Sa-ma-ri trong câu chuyện do Chúa Giê-su kể?
4. Tôi có ý thức được rằng khi Chúa Giê-su nói “các ngươi” (trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca 6,27-36 chẳng hạn) Ngài không chỉ nói với những kẻ nghe Ngài cách đây 2000 năm, mà còn nói với tôi không? Tôi có lắng nghe Ngài không? Tôi có tin Ngài không? Tôi có đang theo Ngài không?
5. Chúa Giê-su đã dành sự ưu ái đặc biệt cho những người mà Ngài gọi là “những kẻ bé mọn”. Ngày nay, ai là “những kẻ bé mọn” ấy? Tôi có dành ưu ái cho những người đó không? Tôi có đứng về phía những người đó không?
6. Trong câu chuyện nói về người giầu có chỉ biết có tiền bạc, Chúa Giê-su gọi người đó là “kẻ ngu xuẩn” (Lc 12,20). Xã hội ngày nay của chúng ta đánh giá về tiền bạc như thế nào? Đâu là thái độ của riêng tôi đối với tiền bạc? Tôi theo cách thẩm định của Chúa Giê-su hay của thế giới ngày nay?
7. Đâu là quan niệm của riêng tôi về Thiên Chúa? Đó có phải là quan niệm mà Chúa Giê-su đã có và đã dạy không? Phải chăng tôi không có một ý tưởng khác về Thiên Chúa? Tôi có thực sự tin rằng Thiên Chúa săn sóc tôi, Ngài biết tên tôi, Ngài yêu thương tôi không? Tôi có tin rằng Thiên Chúa nghĩ về mọi người như nhau không? Niềm tin này có âm hưởng nào trên cuộc sống và cách cư xử của tôi không?
8. Tôi có mau mắn đi tìm Chúa trong cuộc sống của tôi không? Tôi có nghĩ rằng khám phá và thực thi Ý Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của tôi không? Ngày nay, làm thế nào để tôi khám phá ra Ý Chúa?
9. Tôi có ra điều kiện để đi theo Chúa (chẳng hạn như được thấy phép lạ, được thành công, được khỏe mạnh) không? hay tôi muốn theo Chúa vô điều kiện?
10. Người Ki-tô hữu tin rằng cái chết và sự phục sinh của Đức Ki-tô là trọng tâm của lịch sử. Đó có phải là trọng tâm của cuộc sống của tôi không? Nếu Đức Ki-tô đã không chết và sống lại, cuộc sống hằng ngày của tôi có thay đổi không? Tôi có đương đầu với những vấn đề của tội lỗi và sự không tin không? Hay tôi tìm cách tránh né? Cái chết và sự phục sinh của Đức Ki-tô có mang lại một giải pháp nào cho những vấn đề đó không?
11. Đâu là thái độ của tôi đối với đau khổ? Chúng ta nên đón nhận hay tìm cách loại bỏ đau khổ? Thiên Chúa không yêu thích sự chết, nhưng là sự sống. Thế thì tại sao ý muốn của Ngài lại là Chúa Giê-su phải chết? Tại sao cái chết của Ngài lại dẫn đến sự sống? Tôi có thói quen đặt sự đau khổ của riêng tôi và của người khác vào trong mối tương quan với thập gía của Đức Ki-tô không? Tôi có thấy rằng cuộc khổ nạn của Ngài tiếp tục trong chúng ta không?
12. Tôi/Chúng ta có phải là người của Phục sinh không? Bài ca của chúng ta có phải là bài Alleluia không? Làm thế nào để có thể sống theo lời khuyên của Thánh Phao-lô: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa” (Pl 4,4)?
13. Bạn hãy thử kể ra một số bản văn Tân Ước nói về Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa (Thánh Thần của Đức Ki-tô, Thánh Thần của Chúa Con, Thánh Thần Chân Lý v.v…). Hãy cố gắng phân biệt đâu là những hành động và thái độ gắn liền với sự hiện diện và tác động của Ngài. Hãy suy nghĩ và khám phá để biết những hành động và thái độ đó có được biểu lộ trong cuộc sống của bạn không?
14. Đâu là tương quan của Mầu nhiệm Ba Ngôi với công cuộc sáng tạo và cứu rỗi, cũng như tương quan với Thiên Chúa, với giới răn mới của yêu thương và sự sống vĩnh cửu?
15. Chúa Giê-su đã tuyên bố Ngài là Đường. Tôi có đang đi trên Đường của Ngài không? Hay tôi đang đi trên một con đường khác? Con đường này dẫn tôi đi về đâu? Đâu là lời đáp trả của tôi cho những lời mời đi theo những con đường không phải con đường của Chúa Giê-su? Cùng với Thánh Phê-rô, tôi có thể nói: “Lạy Chúa, con sẽ đi về đâu, vì Chúa có những lời ban sự sống đời đời” không?

Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang