Ý nghĩa Kitô giáo
(The meaning of Christianity)
Tác giả: Lm Phêrô Nemeshegyi, S.J.
Người dịch: Lm Gioakim Đoàn Sĩ Thục.
Người hiệu đính và giới thiệu: Ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
(The meaning of Christianity)
Tác giả: Lm Phêrô Nemeshegyi, S.J.
Người dịch: Lm Gioakim Đoàn Sĩ Thục.
Người hiệu đính và giới thiệu: Ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
CÁC BÍ TÍCH
Đâu là bản chất của các bí tích?
Tin
Mừng theo Thánh Gioan nói với chúng ta rằng nhân dịp lễ của người Do
Thái “trong ngày cuối cùng của cuộc đại lễ” (Ga 7,37) Chúa Giêsu thốt
lên giữa đám đông: “Ai khát hãy đến cùng Tôi. Ai tin Tôi hãy uống. Như
Kinh Thánh chép: “Từ tâm hồn người đó, một dòng nước trường sinh sẽ chảy
ra” (Ga 7,37-38). Thánh Gioan đã chú giải về lời của Chúa Giêsu như
sau: “Ngài có ý nói về Thánh Thần mà những kẻ tin Ngài nhận lãnh (Ga
7,39). Nước “trường sinh” chính là Thánh Thần và Chúa Giêsu, qua cái
chết và sự phục sinh của Ngài, sẽ ban Thánh Thần cho những ai tin Ngài.
Chính Chúa Giêsu, chính quả tim của Ngài là suối nước trường sinh ấy (x.
Ga 19,34;4,14). Trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể, Tình Yêu
tha thứ và trao ban sự sống đã mặc lấy hình thái con người. Ai gặp gỡ
Chúa Giêsu là gặp gỡ Tình Yêu ấy. Ai được Chúa Giêsu tha thứ cũng được
chính Thiên Chúa tha thứ. Khi Chúa Giêsu sờ đến người bệnh hay người
chết, thì cũng chính quyền năng thông ban sự sống của Thiên Chúa sờ đến
họ. Như thế, đối với những người đương thời của Chúa Giêsu, gặp gỡ Chúa
Giêsu là dấu chỉ của ơn sủng và tình yêu của Thiên Chúa, là gương mặt
nhờ đó Thiên Chúa hành động trong một kinh nghiệm của con người.
Sau
khi sống lại, Chúa Giêsu trở về cùng Chúa Cha. Nhưng Ngài vẫn còn ở với
chúng ta, cho dẫu chúng ta chưa được chia sẻ vinh quang toàn vẹn và
những hậu quả của sự sống lại của Ngài, cũng như không thể gặp gỡ Ngài
một cách thực nghiệm, bằng các giác quan của chúng ta. Tuy nhiên, gặp gỡ
Ngài là điều thiết yếu đối với chúng ta, nếu chúng ta muốn tiếp xúc với
tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, Chúa Giêsu đã tìm ra một cách thế thực
nghiệm để cho cuộc gặp gỡ với Ngài có thể diễn ra. Đây là cách thế để
giúp chúng ta gặp gỡ con người phục sinh của Ngài. Ngài nói với chúng ta
bằng những lời Ngài đã ủy thác cho các tông đồ. Ngài hiện diện với
chúng ta trong Thánh Kinh. Vai trò trung gian của Ngài có thể cảm nghiệm
được trong Giáo hội của Ngài. Tuy nhiên, Ngài muốn cho cuộc gặp gỡ giữa
Ngài và chúng ta được trở nên khắng khít hơn qua những chức năng thông
ban sự sống của Giáo hội. Và những hành động thông ban sự sống ấy của
Giáo hội, chính là các bí tích. 7 bí tích là 7 kho tàng vô giá mà Đức
Kitô đã trao ban cho Giáo hội. Trong mỗi bí tích có một yếu tố thiết yếu
mang ý nghĩa tượng trưng. Chúng ta được rửa, một bàn tay đặt trên vầng
trán chúng ta, chúng ta chia nhau một bữa ăn. Đó là những biểu trưng mà
chúng ta cũng có thể tìm thấy trong các tôn giáo khác. Tuy nhiên, trong
các nghi thức của Kitô giáo, luôn luôn có một lời được gợi hứng hoặc
trích dẫn nguyên văn từ Tin Mừng. Lời này mang lại một ý nghĩa đặc biệt
cho nghi thức. Lời này xác định ý nghĩa của cử chỉ, ám chỉ đến hoạt động
cứu rỗi của Đức Kitô và thiết lập một tương quan đặc biệt giữa cử chỉ
và hành động cứu rỗi của Đức Kitô. Do đó, những nghi thức này không chỉ
là những hành động thờ phượng của con người. Trong những nghi thức này,
chính Đức Kitô Phục sinh đến gặp gỡ chúng ta, thông ban cho chúng ta
nguồn suối nước trường sinh là Thánh Thần. Chính qua và trong các bí
tích mà Đức Kitô tiếp tục công cuộc của Ngài. Trong các bí tích, Đức
Kitô qui tụ con cái tản mác khắp nơi của Thiên Chúa. Ngài liên kết họ
với Ngài và như thế mở ra cho họ con đường về với Chúa Cha (Ep 2,18).
Chính
nhân danh Chúa Giêsu mà các thừa tác viên của Giáo hội phân phát các bí
tích cho chúng ta. Trong các bí tích, sự sống của Chúa Giêsu được phát
sinh và được nuôi dưỡng trong chúng ta. Trong và qua các bí tích, Chúa
Giêsu thông ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài là Đấng làm cho chúng
ta có thể sống một cuộc sống tin, cậy, mến. Tuy nhiên, các bí tích không
làm phát sinh hậu quả một cách máy móc. Ban ơn cứu rỗi cho chúng ta,
nhưng Thiên Chúa không hề cưỡng bách một ai. Tùy mỗi người đáp trả lại
tiếng gọi của Ngài. Chính qua ý nghĩa sâu xa của các bí tích mà Thiên
Chúa kêu gọi chúng ta. Qua hàng bao thế kỷ, Giáo hội như một hiền mẫu,
đã không ngừng cải tiến những nghi thức bí tích. Chính là để làm cho tốt
đẹp và ý nghĩa hơn mà Giáo hội đã không ngừng canh tân các nghi thức
ấy. Nhờ quyền năng của Thánh Thần, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trong tận
đáy lòng chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta tham dự vào một cuộc sống
giống như Đức Kitô. Nhưng tùy mỗi người chúng ta đáp lại. Không ai có
thể đáp lại thay cho chúng ta. Khi một đứa trẻ sơ sinh cảm nghiệm được
nụ cười âu yếm của người mẹ, một nguồn tình yêu dạt dào thấm nhập tâm
hồn của nó và đứa bé cũng đáp lại bằng một nụ cười. Dĩ nhiên, nụ cười là
nụ cười của đứa bé sơ sinh. Tuy nhiên, nụ cười đó cũng chính là kết quả
của tình yêu vô bờ của người mẹ. Nếu không có tình yêu của người mẹ thì
cũng sẽ không có nụ cười trên gương mặt của đứa bé. Và điều kỳ diệu là
người cảm thấy hạnh phúc nhất vì nụ cười của đứa bé cũng chính là người
mẹ: chính bà là người đã làm cho nụ cười nở trên môi đứa bé. Giữa chúng
ta và Thiên Chúa cũng thế. Có lẽ vì thế mà người ta nói rằng trái tim
của người mẹ là cửa sổ qua đó chúng ta nhìn thấy quả tim của Thiên Chúa.
Khi
có một người đi theo tiếng gọi của Đức Kitô và lãnh nhận các bí tích,
người đó tuyên xưng ra bên ngoài niềm tin của mình (Rm 10,9-10). Lãnh
nhận bí tích mà không có lòng tin, nhưng chỉ vì chiếu lệ hoặc giả hình,
điều đó không hề mang lại ơn cứu rỗi cho chúng ta. Toàn bộ Tân Ước nêu
bật rằng nền tảng của sự cứu rỗi là đức tin. Khi có đức tin, con người
từ bỏ thái độ tự phụ và đặt tin tưởng nơi Tình Yêu Tha Thứ của Thiên
Chúa. Tâm hồn con người mở rộng để đón nhận ơn được làm con cái Chúa.
Mỗi một cá nhân và toàn thể Giáo hội diễn tả và đào sâu đức tin qua các
bí tích. Đó là cách thế thờ phượng của chúng ta và đó cũng là phương thế
bảo đảm để chúng ta nhận được sức mạnh luôn mới mẻ giúp chúng ta trong
cuộc sống giống như Đức Kitô.
Bí
tích đầu tiên trong 7 bí tích là Phép Rửa tội. Chính Chúa Giêsu đã
thiết lập bí tích này sau khi sống lại. Ngài nói với các môn đệ: “Các
con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Tuân giữ mệnh lệnh của Chúa Giêsu, linh
mục hoặc người thay thế ngài đổ nước trên đầu chúng ta và nói: “Ta rửa
con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Cử chỉ này nói lên tất cả ý
nghĩa của Phép Rửa tội. Trong Phép Rửa, trong và nhờ Chúa Giêsu và Thánh
Thần, Thiên Chúa Cha rửa sạch chúng ta khỏi mọi tội lỗi (Cv 2,38). Ngay
từ buổi đầu, tội lỗi như một dòng nước lũ đã chảy xuyên qua lịch sử
nhân loại. Thánh Kinh kể lại cho chúng ta rằng những con người đầu tiên
của nhân loại đã phạm tội và sự sa ngã này đã bao trùm toàn thể nhân
loại. Từ cuộc sa ngã ấy, nhân loại sẽ mãi mãi phạm tội trừ phi có một
quyền lực nào từ trên cao có thể chận đứng được. Quyền lực từ trên cao
ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa. Nguồn ơn thiết yếu của Phép Rửa
cũng chính là sự đổ tràn Thánh Thần trong tâm hồn chúng ta. Từ trong đáy
thẳm tâm hồn chúng ta, Thánh Thần trở thành nguồn suối trường sinh của
niềm tin và tình yêu (Ga 3,5; Tt 3,5). Chỉ có những ai nên một với Chúa
Kitô, Con Một của Thiên Chúa, mới có thể nhận lãnh Thánh Thần để trở nên
con cái Thiên Chúa. Chính Phép Rửa làm cho chúng ta nên một với Chúa
Kitô (Gl 3,27). Chính Phép Rửa nhận chìm chúng ta vào trong cái chết và
sự phục sinh của Chúa Kitô (Rm 6,3-5; Cl 2,12). Thánh Thần là Đấng ban
sự sống của Giáo hội, Thân Thể mà Chúa Kitô là Đầu. Phép Rửa làm cho
chúng ta trở thành chi thể của Chúa và cho chúng ta hưởng được những đặc
ân và thực thi những nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô. Phép Rửa là
giây phút quyết định trong đời người. Trong Phép Rửa, chúng ta được tái
sinh làm con cái Thiên Chúa. Chúng ta trở thành chi thể của Thân Thể
Chúa Kitô. Chúng ta được biến thành Đền thờ thánh thiện và sống động của
Chúa Thánh Thần. Trong Phép Rửa, chúng ta được giải thoát khỏi “quyền
lực của tối tăm và đưa vào Nước của Con yêu dấu của Thiên Chúa” (Cl
1,13). Chúng ta khước từ Satan và những cám dỗ của nó. Chúng ta tuyên
xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta. Trong thánh lễ vọng
Phục sinh vào tối thứ bẩy tuần thánh, các tín hữu có thói quen lập lại
lời hứa khi chịu Phép Rửa để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Trong Phép Rửa,
cộng đồng tín hữu đón tiếp một phần tử mới như một người anh em được
mời tham dự vào bàn tiệc của Thiên Chúa. Đây là một biến cố khó quên tại
các xứ truyền giáo. Tại đây, đa số các tín hữu được rửa tội vào tuổi
trưởng thành cho nên họ dễ cảm nhận được sự đón tiếp mà cộng đồng tín
hữu dành cho họ.
Dĩ
nhiên, ơn Chúa hoạt động một cách mầu nhiệm. Nhiều người không lãnh
nhận Phép Rửa vẫn có thể được ơn hoán cải và được cứu rỗi. Tuy nhiên,
Thiên Chúa đã muốn rằng con đường thông thường của ơn cứu rỗi là gia
nhập vào gia đình của Ngài qua Phép Rửa và trở thành cộng tác viên của
Chúa Kitô để mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người và xây dựng Nước Chúa
trên trần gian này bằng cuộc sống, bằng gương sáng, bằng lời nói và cầu
nguyện.
Vì
Phép Rửa là điều tối quan trọng cho cuộc sống con người, cho nên Giáo
hội có thói quen rửa tội cho trẻ em của gia đình Kitô hữu ngay từ lúc
mới sinh. Dĩ nhiên, đứa trẻ sơ sinh chưa thể có ý thức về lòng tin, niềm
hy vọng và tình yêu. Nhưng, cũng như ơn Chúa tác động như thế nào trong
sự đáp lại của một người trưởng thành xin chịu Phép Rửa, thì ơn Ngài
cũng tác động như thế trong tâm hồn của trẻ thơ: Ngài ban ơn thánh hóa
cho tâm hồn trẻ thơ. Ơn thánh hóa ấy được trao ban cho đứa trẻ nhân danh
đức tin của toàn thể Giáo hội. Đương nhiên, khi đến tuổi khôn, chính
đứa bé sẽ cam kết sống đức tin, đức cậy, đức mến bằng một sự chọn lựa cá
nhân. Chính vì thế mà Giáo hội chỉ rửa tội cho những trẻ em nào mà việc
giáo dục đức tin được bảo đảm sau đó. Khi lớn lên, đứa bé nghe được Tin
Mừng của Chúa Giêsu qua tiếng nói của cha mẹ, ông bà, thày cô và các
linh mục, lúc đó Thánh Thần là Đấng đã hiện diện trong tâm hồn của nó
nhờ ơn rửa tội, sẽ làm cho nó tin tưởng, hiểu được và theo lời giáo huấn
của Chúa Kitô. Chúa Giêsu lôi kéo đứa trẻ đến với Ngài, cũng giống như
Ngài đã lôi kéo những trẻ em Ga-li-lê khi đám đông bu quanh Ngài. Ngài
đã bồng lấy một em, ôm hôn nó và nói những lời đáng ghi nhớ như sau:
“Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không nên giống như những trẻ
nhỏ, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,2-3).
Sự
sống thần linh trở thành một thực tại trong chúng ta khi Thiên Chúa,
nhờ Chúa Giêsu, Con Một Ngài, Đấng Kitô Phục sinh, tha tội cho chúng ta,
làm cho chúng ta trở thành chi thể của Thân Thể Con Ngài và ban Thánh
Thần để trở nên nguồn suối Tình Yêu trong chúng ta. Đó là một thực tại
tạo thành sự hiệp nhất vô hình trong chúng ta. Do đó, Phép Rửa, Phép
Thêm Sức và Thánh Thể gắn liền với nhau. Hiệu quả đặc biệt của Phép Thêm
Sức là đổ tràn Thánh Thần trong chúng ta. Hiệu quả của Thánh Thể là sự
kết hiệp giữa chúng ta và Chúa Kitô. Chính vì sự hiệp nhất của sự sống
thần linh trong chúng ta mà một bí tích nhận lãnh trước đều một cách nào
đó loan báo những ơn ích của một bí tích mà chúng ta sẽ lãnh nhận sau
đó. Do đó, bí tích Rửa Tội cũng ban cho chúng ta Thánh Thần và kiên kết
chúng ta với Chúa Kitô.
THÊM SỨC
Bí
tích Thêm Sức là bí tích liên kết chúng ta một cách sống động với Thánh
Thần. Giám mục hoặc linh mục nhờ phép đặc biệt, trao ban bí tích này.
Vị giám mục đặt tay trên đầu chúng ta, xức dầu thánh trên trán chúng ta
và cầu xin Thánh Thần xuống trên chúng ta. Cả hai cử chỉ đặt tay và xức
dầu nói lên rằng người tín hữu được thông phần vào sức mạnh của Chúa
Thánh Thần và như vậy lãnh nhận một sứ mệnh đặc biệt diễn ra như thể
chính Chúa Giêsu đặt tay trên đầu chúng ta và nói với chúng ta: “Con hãy
đi và yêu thương như Ta đã yêu thương. Hãy làm chứng rằng Thiên Chúa là
Tình Yêu”. Dầu là dấu chỉ của sự tham dự của chúng ta vào sứ mệnh của
Chúa Kitô. “Việc xức dầu” như Chúa Giêsu đã lãnh nhận để trở thành Chúa
Kitô không phải là một sự xức dầu trần thế, mà chính là được xức dầu bởi
Thánh Thần. Chúa Giêsu đã áp dụng những lời của tiên tri I-sai-a cho
chính Ngài: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi
để tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,18). Chính nhờ
Thánh Thần mà chúng ta trở thành chứng nhân của Tin Mừng của Chúa Kitô.
Niềm tin và sự kiên nhẫn, tình yêu và niềm vui nội tâm của chúng ta là
một chứng từ cho sự kiện: Chúa Kitô đã thực sự cứu độ trần gian.
THÁNH THỂ
Trong
bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu cầm lấy bánh và một chén rượu. Ngài tuyên
bố rằng bánh và rượu là Mình và Máu Ngài được hiến tế. Ngài trao ban
bánh và rượu cho các môn đệ và truyền lệnh cho các ông: “Các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Ta”. Gần hai ngàn năm qua, Giáo hội đã trung thành
thực thi mệnh lệnh ấy của Chúa Kitô. Khắp nơi và mỗi ngày, trên các bàn
thờ thô sơ giữa rừng già Phi châu, trong những nhà thờ phủ tuyết tại
A-lát-ka, hay trong những vương cung thánh đường cao sang của Âu châu,
các linh mục không ngừng lập lại những lời cuối cùng ấy của Chúa Kitô.
Hàng triệu triệu người thông phần vào Mình và Máu Chúa.
Thánh
Phaolô gọi biến cố này là “Bữa ăn tối của Chúa” (1 Cr 11,20). Từ thời
Trung cổ, những người công giáo gọi đó là lễ Mi-sa, tức thánh lễ. Thánh
lễ là trung tâm và là suối nguồn của đời sống Kitô giáo. Trong thánh lễ,
từ trái tim nồng nàn của Ngài, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta món
quà quí giá nhất của Ngài. Với lời quyền năng của Ngài được lập lại bởi
linh mục là người đi theo Ngài và thực thi quyền năng Ngài ban cho, Chúa
Giêsu biến bánh và rượu trở thành Mình và Máu Ngài. Ngài biến bánh và
rượu trở thành chính Ngài để nuôi sống chúng ta. Ngài đồng hóa bánh và
rượu với chính lễ hy sinh của Ngài. Dĩ nhiên, chúng ta chỉ nhìn thấy
bánh và rượu trên bàn thờ. Tuy nhiên nhờ tin vô điều kiện vào lời của
Chúa Kitô, chúng ta hiểu được rằng chính Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta
và đã sống lại từ cõi chết. Cũng như thức ăn phải được tiêu hóa mới
nuôi sống chúng ta, cũng thế, Chúa Giêsu ban chính sự sống của Ngài cho
chúng ta. Ngài đã sống và đã chết cho chúng ta. Giờ đây Ngài tự ban mình
cho chúng ta như thức ăn và thức uống để chúng ta có thể được kết hợp
hoàn toàn với Ngài và trong Ngài và với nhau. Bánh trở nên thân xác của
người ăn. Bánh Thánh từ trời xuống, biến thành một với người lãnh nhận
trong đức tin và lòng yêu mến.
Nhờ
quyền lực của Thánh Thần, chính Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta dưới
dạng thức bánh và rượu để biểu tỏ cái chết và ban sự sống của Ngài.
Ngài lôi kéo chúng ta đến với Ngài và cho chúng ta tham dự vào cái chết
và sự Phục sinh của Ngài. Lời của Chúa Giêsu nói với chúng ta rõ ràng
rằng bánh mà chúng ta vẫn thấy như bánh, là chính “Mình Ngài phó nộp cho
chúng ta” và rượu mà chúng ta chỉ thấy là rượu, là chính “Máu Ngài đổ
ra cho chúng ta”. Nhưng những dấu chỉ đó không là dấu chỉ của sự hủy
diệt. Bánh và rượu là thức ăn và thức uống cho nên là dấu chỉ của sự
sống. Chính trong thánh lễ mà Giáo hội tưởng niệm mầu nhiệm thánh thiêng
ấy và cảm tạ Thiên Chúa vì mầu nhiệm ấy. Theo một nguyên ngữ Hy Lạp,
Thánh lễ cũng có nghĩa là “Tạ Ơn”. Dĩ nhiên, thân xác phục sinh của Chúa
Kitô sẽ không bao giờ chết nữa. Tuy nhiên, trong Thánh lễ, hy tế của
Chúa Kitô trở thành hy tế của chúng ta. Chính nhờ đó mà chúng ta có thể
thông hưởng dồi dào hoa trái của ơn cứu rỗi. Toàn thể Giáo hội, chứ
không chỉ những người hiện diện trong Thánh lễ, hưởng những hoa trái ấy,
nhất là những kẻ được nhắc nhớ cách đặc biệt. Khi chúng ta chịu lễ,
Chúa Giêsu đến với chúng ta. Ngài ước ao cho những dòng suối nhỏ bé của
chúng ta được nối liền với đại dương bao la của Ngài để Ngài thất sự
được ở trong chúng ta mãi mãi (Ga 6,56). “Như Cha hằng sống đã sai Ta,
và Ta sống bởi Cha, cũng thế, ai ăn Ta sẽ sống bởi Ta” (Ga 6,57).
Ngay
từ đầu lịch sử Giáo hội, các tín hữu đã có thói quen tập hợp lại để cử
hành Thánh lễ trong Ngày Chúa Nhật, tức là Ngày Phục sinh của Chúa. Về
sau, Giáo hội đặt ra luật buộc các tín hữu phải có mặt trong Thánh lễ
Chúa nhật và rước lễ trong Mùa Phục sinh. Đối với những ai hiểu được ý
nghĩa của Thánh lễ và ơn ích cao trọng của Đức Kitô, thì sự bó buộc ấy
không là một gánh nặng. Trái lại, họ còn xem đó là một đặc ân đáng trân
trọng là khác. Họ cảm thấy cần phải tham dự càng nhiều càng tốt vào bàn
tiệc của gia đình Chúa Kitô. Chính Chúa là Đấng mời gọi anh chị em của
Ngài vào bàn tiệc ấy. Ngài tự trao ban cho chúng ta như của ăn cho sự
sống trường sinh. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống trường sinh
và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,54).
BÍ TÍCH GIAO HÒA
Bí
tích giao hòa là quà Phục sinh của Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Trong
buổi chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Hãy lãnh nhận
Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Các con cầm
buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc” (Ga 20,23).
Tình
yêu vẫn chưa thấm nhập vào từng thớ thịt của quả tim và tâm hồn chúng
ta. Không ai có thể nói được rằng mình không hề phạm tội trong tư tưởng,
lời nói, hành động và thiếu sót. Đó là lý do tại sao chúng ta xưng thú
với nhau khi bắt đầu Thánh lễ. Thánh Gia-cô-bê đã nhắc nhở chúng ta
rằng: “tất cà chúng ta đều có nhiều lỗi lầm” (Gc 3,2). Trừ phi một người
nào đó hoàn toàn khước từ Tình yêu của Chúa, tội lỗi của con người vẫn
không thể xóa bỏ được khỏi tâm hồn mình tư cách làm con Chúa. Trong
trường hợp này, tội lỗi được gọi là “tội nhẹ”. Đó là những tội mà không
ai có thể tránh khỏi. Nhưng có một số tư tưởng, lời nói, hành động và
thiếu sót mà con người cố tình làm với tất cả hiểu biết như một khước từ
thánh ý Chúa. Đó là những tội hoàn toàn đối nghịch với Tình yêu của
Chúa và tha nhân. Trong trường hợp này, con người hoàn toàn khước từ sự
thiện và chọn lựa điều xấu với tất cả hiểu biết của mình. Chúng ta gọi
hành động đó là “tội trọng”. Điều này không dễ xẩy ra trong đời sống của
một người xem trọng đời sống đức tin của mình. Đó không là điều thường
xẩy ra trong cuộc sống mỗi ngày. Nhưng con người yếu đuối cho nên một
điều bất hạnh như thế không phải là không thể xẩy ra. Đối với những ai
xem thường một số tội, những lời trong thư Thánh Phaolô gửi các tín hữu
Cô-rin-tô thực đáng suy nghĩ: “Đừng lừa dối mình. Anh em không biết rằng
những kẻ bất chánh sẽ không được hưởng Nước Chúa đó sao? (1 Cr 6,9).
Như
vậy thì không còn hy vọng nào cho những tội nhân bất hạnh như thế sao?
Không, cám ơn Chúa. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không có giới hạn. Tình
yêu của Chúa Kitô không có biên giới. Ngài vẫn còn mời gọi, vẫn chờ đợi,
vẫn tìm kiếm những con chiên lạc. Tuy nhiên, để có thể được tha thứ,
tội nhân cần phải hết lòng sám hối và đền bù vì những thiệt hại mình đã
gây ra và đến xưng thú với một linh mục là đại diện của Giáo hội và được
Chúa Kitô ban quiyền để tha thứ. Khi đã được tha thứ, người đó mới được
phép đến gần bàn thờ Chúa như một chi thể lành mạnh của Giáo hội. Tâm
hồn của người đó sẽ được sống lại bằng Tình yêu được diễn tả trong và
qua bàn tiệc của Chúa.
Thật
ra chúng ta chỉ bắt buộc phải chạy đến với bí tích giao hòa khi chúng
ta ý thức được những tội trọng mà chúng ta chưa xưng thú. Tuy nhiên,
chúng ta cũng được khuyên tìm đến với bí tích này như một phương thế hữu
hiệu để chiến đấu với những tội lỗi khác. Những lời khuyên nhủ của vị
linh mục giải tội cũng rất hữu ích cho chúng ta. Điều nguy hiểm cho
chúng ta đó là khi chúng ta tự nhủ rằng điều xấu là tốt, phạm tội là
điều tự nhiên, thờ ơ là lẽ khôn ngoan, tiêu cực là sự thường tình. Hiểu
được rằng điều xấu tự nó là xấu: điều đó quan trọng biết chừng nào! Điều
xấu ấy vẫn mãi mãi là xấu ngay cả khi chính tôi là người đã phạm. Quả
thực điều đó là xấu, nhưng tôi vẫn còn có thể được tha thứ.
Tòa
giải tội là nơi duy nhất mà ngày nay con người không khoe khoang nhân
đức hoặc biện hộ cho những lỗi lầm của mình, mà là nơi để họ đến và chỉ
nói lên những điều xấu mình đã làm mà thôi. Hành động như thế, họ nhìn
nhận rằng có một cái gì đó không phù hợp với ơn gọi Kitô hữu của họ và
họ muốn khử trừ điều đó. Một cuộc xưng tội tột đẹp là một cuộc gặp gỡ
với Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân từ và hay cảm thông. Đó là một nguồn
vui lớn. Chúng ta được tha thứ. Chúng ta được tẩy rửa tội lỗi chúng ta.
Một lần nữa, chúng ta lại lên đường đi theo Chúa. Tuy nhiên, có một điều
chúng ta không bao giờ có thể quên được: đó là để được Thiên Chúa tha
thứ, chúng ta phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điều đó
không biết bao nhiêu lần: “Nếu các ngươi tha thứ cho những ai xúc phạm
đến các ngươi, Cha các ngươi Đấng ngự trên trời cũng sẽ tha thứ cho các
ngươi. Nếu các ngươi không tha thứ cho những ai xúc phạm đến các ngươi,
Cha trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các ngươi” (Mt-,14-15). Điều
kiện và đồng thời cũng là hiệu quả của sự giao hòa của chúng ta với Chúa
chính là sự giao hòa của chúng ta với người khác, bằng cách tha thứ cho
họ đến “bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Chỉ có những ai cảm thấy cần được
Thiên Chúa tha thứ mới thấy cần phải tha thứ cho người khác. Chỉ có
những ai cầu nguyện mỗi ngày “Xin Cha tha nợ chúng con” mới có thể tha
thứ cho những ai đã xúc phạm đến mình.
BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
Có
một bí tích tương tự với bí tích giao hòa. Đó là bí tích xức dầu bệnh
nhân. Thánh Gia-cô-bê nói về bí tích này như sau: “Trong anh em có ai
đau yếu ư? Anh em hãy mời các trưởng lão trong Giáo hội lại để họ cầu
nguyện cho người đó bằng cách xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện
trong đức tin sẽ cứu thoát bệnh nhân và Chúa sẽ chữa lành người đó. Nếu
người đó có phạm tội, người đó cũng sẽ được tha thứ” (Gc 5,14-15).
Trong
bí tích này, Chúa Giêsu trợ giúp cho anh em của Ngài có thể vác thập
giá của bệnh tật bằng sự kết hiệp với chính thập giá của Ngài. Nhờ quyền
lực của Phục sinh, Ngài cho họ lướt thắng được cơn cám dỗ của thất
vọng, sợ hãi hoặc lung lay trong niềm tin vì bệnh tật gây nên. Ngài
hướng dẫn họ một cách an toàn đến cuộc sống vĩnh cửu. Nếu Chúa muốn, bí
tích này đôi khi cũng giúp cho bệnh nhân được bình phục. Do đó, không
nên xem bí tích này như bí tích chỉ dành riêng cho những người đang hấp
hối. Chính vì thế mà ngày nay, Giáo hội không còn gọi bí tích này là xức
dầu lần cuối cùng, mà là xức dầu bệnh nhân. Những người già cả, cho dẫu
khỏe mạnh cũng được phép lãnh nhận bí tích này. Cho dẫu sức khỏe không
được hồi phục, bí tích này vẫn giúp cho các bệnh nhân chấp nhận đau khổ
trong niềm vui và bình an của Chúa Kitô, bằng cách cho họ hiệp thông với
sự đau khổ của Đấng Cứu Thế. Bệnh nhân có thể lấy lời của Thánh Phaolô
làm chính tâm tình của họ: “Giờ đây vì anh em tôi vui mừng vì chịu đau
khổ. Trong thân xác tôi, tôi bổ túc cho những gì còn thiếu sót trong
cuộc khổ nạn của Chúa Kitô vì lợi ích của Thân Thể Ngài là Giáo hội” (Cl
1,24). Điều còn “thiếu sót” không phải là một thiếu sót của Chúa Kitô,
mà là thiếu sót của chúng ta. Nếu chúng ta chấp nhận với tinh thần của
Chúa Kitô, thập gía của Ngài sẽ bao trùm tất cả và sẽ được hoàn thành
trong sự Phục sinh.
BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
Có
hai bí tích giúp con người thực thi một sứ mệnh đặc biệt trong cuộc
sống. Một trong hai bí tích đó là bí tích qua đó các giám mục được thánh
hến và linh mục được phong chức. Như chúng ta đã nói, nhờ sự đặt tay
của một giám mục kèm theo lời cầu nguyện thích hợp, Chúa Kitô đón nhận
những phần tử mới vào đoàn ngũ tông đồ của Ngài, nghĩa là cho họ được
tham dự vào ơn gọi của các tông đồ, tức giảng dạy, lãnh đạo các cộng
đồng Giáo hội, dâng Thánh lễ và cử hành các bí tích khác. Nhờ bí tích
này, Ngài cũng ban cho họ những ơn cần thiết để thi hành bổn phận của
họ.
BÍ TÍCH HÔN PHỐI
Bí
tích thứ hai giúp cho con người thực thi một sứ mệnh đặc biệt trong
cuộc sống là bí tích hôn phối. Trong bí tích này, Chúa Kitô ban ơn trợ
giúp cho các đôi vợ chồng để họ sống đức tin và tình yêu thương theo
cách thế riêng của đời sống hôn nhân. Nếu không có Chúa đồng hành trong
cuộc sống, họ khó có thể trung thành với nhau suốt cả đời. Thiên Chúa sẽ
không bao giờ bỏ rơi những cặp vợ chồng tín thác nơi Ngài. Nhờ ơn Ngài,
các đôi vợ chồng yêu thương nhau giống như chính Chúa Kitô yêu thương
Giáo hội của Ngài (Ep 5,25-33).
Bí
tích hôn phối được hiện thực qua sự ưng thuận của hai người nam nữ trao
cho nhau. Bằng sự ưng thuận hỗ tương này, hai người chia sẻ cho nhau
chính ân sủng của Chúa Kitô. Ơn sủng này giúp giúp họ thể hiện được Tình
yêu của Chúa Kitô qua tình yêu của họ dành cho nhau và ho con cái họ.
Một cuộc sống hôn nhân như thề được x6ay dựng trên tình yêu thương và sự
cầu nguyện mỗi ngày. Đây là một cuộc sống đòi hỏi nhiều hy sinh, nhưng
cũng là một cuộc sống tràn ngập hạnh phúc bởi vì được cắm rễ trong niềm
tin tưởng vào Chúa và vào nhau. Một gia đình như thế là một tế bào sống
của Giáo hội; cho dẫu là tế bào nhỏ nhất, nhưng hẳn phải là đơn vị quan
trọng nhất.
MỘT CUỘC SỐNG VỚI CHÚA
Bảy
phép bí tích là bảy nguồn suối nước trường sinh! Đây là bảy hành động
nhờ đó Chúa Kitô đến được với con người và lôi kéo họ đến với Ngài, cũng
như làm cho họ có thể đi trên những dấu chân yêu thương của Ngài, để
đến với Thiên Chúa và tha nhân. Ai thường xuyên lãnh nhận các bí tích,
nhưng lại không muốn yêu thương tha nhân một cách cụ thể bằng hành động
và lời nói, không muốn cố gắng sống theo con đường của Chúa Kitô, kẻ ấy
là người dối trá và giả hình. Thánh Gioan viết: “Ai nói ‘tôi yêu Chúa’,
nhưng lại ghét anh em mình, thì người đó là kẻ nói dối. Bởi vì nếu không
yêu thương người anh em mình thấy trước mắt, thì không thể yêu thương
Thiên Chúa là Đấng mình chưa từng thấy” (1 Ga 4,20). Làm thế nào gọi là
yêu Chúa, nếu tha nhân là người rất quan trọng đối với Chúa, lại không
là gì đối với ta? Các bí tích vừa là nguồn ơn sủng lại cũng vừa trao phó
cho chúng ta một sứ mệnh. Mỗi một ơn huệ của Chúa đều đi kèm với một sứ
mệnh. Một cuộc sống được nuôi dưỡng bằng bí tích là một cuộc sống trong
đó tình yêu Chúa và tình yêu tha nhân không tách biệt nhau.
Đời
sống với Chúa là một đời sống cầu nguyện. Chúa Kitô thường xuyên cầu
nguyện. Ngài dạy chúng ta rằng khi chúng ta cầu nguyện thì đừng có nhiều
lời, nhưng hãy nói với Chúa một cách đơn sơ nt em bé nói chuyện với cha
nó (Mt 6,9). Không cần phải kể lể dài dòng về những nhu cầu của chúng
ta (Mt 6,7-8.32). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không hề có ý nói rằng cầu
nguyện là thừa thãi. Trái lại là khác. Ngài dạy chúng ta phải cầu nguyện
luôn (Lc 18,1).
Khi
cầu nguyện, đôi khi chúng ta chúc tụng Chúa. Có lúc, chúng ta tạ ơn
Ngài. Rồi chúng ta lại xin Ngài ban ơn, vì chúng ta luôn cần sự giùp đỡ
của Ngài. Tuy nhiên, một lời cầu xin đích thực không bao giờ thôi thúc
Chúa hoặc đặt ra giới hạn cho Ngài. Trái lại, lời cầu nguyện luôn phải
được trao phó trong tay Ngài” “Xin vâng Ý Cha”.
Từ
xa xưa người Kitô hữu có thói quen cầu nguyện mỗi ngày sáng tối hai
lần. Cầu nguyện như thế nhắc nhở chúng ta về cùng đích của cuộc đời. Tuy
nhiên, thói quen nào cũng dễ thành nhàm chán. Không thể xem thường tầm
quan trọng của việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhất là ban tối
trước khi đi ngủ. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện ngắn ngủi ấy mới
chỉ là những bước khởi đầu trên con đường tiến sâu vào thế giới cầu
nguyện. Chỉ có những tâm hồn nào luôn tỉnh thức trước sự hiện diện yêu
thương của Chúa mới thực sự đạt đến chiều sâu của thế giới cầu nguyện.
Tựu trung, cầu nguyện đích thực là luôn ở với Chúa và nhớ về Ngài. Một
khi tâm hồn chúng ta luôn tỉnh thức về sự hiện diện của Ngài, lúc đó,
chúng ta hầu như đã đạt được một bản năng thứ hai: đó là có thể giang
rộng cánh tay để đón nhận mọi người.
Do
đó, đời sống Kitô hữu cũng là một đời sống với và cho tha nhân. Chúng
ta không sống cho riêng mình, nhưng cho người khác: chồng cho vợ, vợ cho
chồng; cha mẹ cho con cái; bác sĩ cho bệnh nhân; tất cả mọi người chúng
ta cho tha nhân, để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, một xã hội nhân
bản xây dựng trên công lý và tình thương. Sống cho mọi người đã đành,
nhưng chúng ta cần phải quan tâm đến những người đau khổ, những người
nghèo khổ và bị áp bức nhiều hơn. Trong bài diễn văn về ngày phán xét,
Chúa Giêsu nói: “Ta nói thật với các ngươi, tất cả những gì các ngươi
làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các
ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Những gì chúng ta làm cho chúng ta,
chúng ta chỉ làm cho bản thân mình thôi. Nhưng những gì chúng ta làm cho
người khác, thì đó là những gì chúng ta làm cho Chúa Kitô. Hành động
như thế, chúng ta đang gieo vãi những hạt giống của sự sống vĩnh cửu.
Công đồng Va-ti-can II nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu và hoa trái của
tình yêu sẽ tồn tại mãi mãi (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 39). Và đó
là niềm hy vọng của chúng ta.
SUY TƯ VÀ THẢO LUẬN
1.
Đối với tôi, các bí tích có phải là một cuộc gặp gỡ đích thực trong đức
tin với Chúa Kitô không? Hay tôi chỉ lãnh nhận các bí tích như một thói
quen?
2.
Tôi có xem việc được rửa tội như một dấu chỉ của ơn Chúa không? Ánh
sáng của nến rửa tội và màu trắng của chiếc áo rửa tội còn chiếu sáng
trong tâm hồn tôi không? Những lời của Thánh Phaolô: “anh em là con cái
sự sáng” (Ep 5,8) có thực sự áp dụng cho chính tôi không? Tôi sẽ trả lời
như thế nào nếu có người hỏi tôi là ai? Tôi có trả lời rằng “tôi là con
Thiên Chúa Cha, chi thể của Thân Thể Chúa Kitô, đền thờ của Chúa Thánh
Thần” không? Hay tôi cho rằng những mối tương quan hoàn toàn nhân loại
quan trọng hơn để nói lên căn tính của tôi?
3.
Đâu là “sức mạnh” đã được ban cho tôi trong bí tích thêm sức? Chúa Kitô
quan niệm như thế nào về “sức mạnh”? Quan niệm ấy có khác với quan niệm
thông thường của chúng ta không?
4.
Tham dự Thánh lễ là một ân huệ hay chỉ là gánh nặng đối với tôi? Thánh
lễ được gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như ‘Bữa ăn của Chúa’, ‘Hy tế
của Giao ước mới’, ‘bữa ăn Vượt qua của các môn đệ Chúa Kitô’, ‘chia sẻ
bánh hằng sống từ trời xuống’ và ‘nguồn ơn và tuyệt đỉnh của đời sống
Giáo hội’. Đâu là ý nghĩa của mỗi kiểu nói trên đây? Những kiểu nói ấy
liên hệ với nhau như thế nào? Chúa Kitô sống động và hiện diện giữa
chúng ta bằng cách nào? Bữa ăn tối của Chúa có ý nghĩa gì đối với Thánh
Phaolô (1 Cr 10 và 11)? Thánh Gioan nghĩ gì về bữa ăn ấy? (Ga 6).
5.
Tôi có đủ thành thực và can đảm nhận những lỗi lầm và xin Chúa và Giáo
hội tha thứ không? Hay tôi lại cố gẮng tự bào chữa cho tôi nhưng lại kết
án người khác? Những lần xưng tội của tôi chỉ là những công thức chiếu
lệ hay là một cuộc gặp gỡ thực sự với lòng nhân từ của Thiên Chúa trong
Chúa Kitô? Tôi có sẵn sàng để tha thứ cho người khác “70 lần 7” không?
Hay tôi đặt ra những giới hạn cho sự tha thứ của tôi? Tôi có nhận thức
rằng các mối tương quan của con người không thể chỉ được xây dựng trên
công bình mà thôi không? Tôi có ý thức rằng những tương quan giữa người
với người phải được phát triển do lòng nhân từ không? Nhân từ mà không
có công bình và công bình mà không có nhân từ: cả hai đều chưa đủ để xây
dựng một xã hội nhân bản. Vậy tôi phải hành động như thế nào?
6.
Tôi có xem hay sống đời hôn nhân như một sự cụ thể của Tình yêu Chúa
Kitô, được xây dựng trên đức tin không? Những lời của Chúa Kitô “Ở đâu
có hai hoặc ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở giữa họ” (Mt 18,20)
có áp dụng cho gia đình tôi không? Cách cư xử của tôi có giúp cho mọi
phần tử trong gia đình tôi cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô
giữa họ không?
7.
Cầu nguyện có phải là hơi thở đối với tôi không? Tôi có cảm thấy được
thôi thúc để dành một phần thời gian cho sự cầu nguyện không? Tôi có thể
lắng nghe “những tiếng thì thầm của thinh lặng” không? Hay tôi luôn
luôn cần có những tiếng ồn ào để lấp đầy sự trống vắng trong tôi? Sự cầu
nguyện của tôi là một thói quen máy móc hay là một phần của chính tôi?
Bao nhiêu lần tôi hành động cho tôi và bao nhiêu lần tôi hành động vì
Thiên Chúa, vì Chúa Kitô, vì tha nhân?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét