Có lẽ đó là lời tóm tắt đời sống và sứ vụ của
Môsê; và có lẽ cũng qua lời đó, Môsê phơi bày con người chân thật của mình
trước mặt Thiên Chúa, khi ông dừng chân bên ngưỡng của Hứa Địa và nằm xuống đó.
Thật vậy, dựa trên Kinh
Thánh và truyền thống dân Chúa, khuôn mặt của Môsê nổi bật như một người tôi tớ
trung thành của Thiên Chúa (Xh 14,31; Ds 12,7; Tl 34,5; cf. Yôs 1,1-2; Tv
105,26; Ma 3,22; Đn 9,11; Ba 2,28; Kng 10,16; Hr 3,5; Kh 15,3) đồng thời như
một vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, tuyệt đối liên đới với dân
Chúa. Hai tâm tình này đã chi phối hoàn toàn con người Môsê, đã giằng co xâu xé
con người ông đến độ ông muốn sống trọn vẹn cùng một lúc cả hai tâm tình mà bên
ngoài xem ra như mâu thuẫn, không thể hoà hợp với nhau.
Xuất thân từ một gia
tộc tư tế (Xh 2,1), và bản thân ông là tư tế (Tv 99,6), Môsê đã quá rõ những
trách nhiệm đòi buộc ở chức vụ mình. Đó là con người luôn luôn hiện diện trước
mặt Thiên Chúa để “hành lễ” – shèrèt – (Xh 28,35.43; 29,30) đảm nhiệm mọi điều
liên quan đến Tế đàn và phần bên trong Bức Màn – abad – (Ds 18,7); “tiến lại
gần trước Nhan Đức Chúa” – qarab, nagash – (Lv 16,1; 21,17); “vào cung thánh
trước Nhan Đức Chúa” – bô-el-haqôdesh – (Xh 28,35). Có thể nói, nhiệm vụ của
một tư tế là gắn liền với bàn thờ và Lời Chúa (A. Gelin, Le sacerdoce dans
l’Ancienne Alliance, trong La tradition sacerdotale, trang 48-52). Rồi, từ ngày
được Thiên Chúa mời gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu
và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn
trung tín với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa là anh em
của mình! Mà vì hằng ngày đồng hành, chia sẻ cuộc sống và liên đới với một đoàn
dân cứng cổ, tội lỗi, bất trung; nên ông cảm thấy thấm thía thân phận và sứ vụ
của mình ngay trong lúc ông muốn thật sự trung thành với Thiên Chúa.
Vì thế, khuôn mặt và
đời sống của Môsê không những là lời mời gọi mà còn là tiếng nói chất vấn lương
tâm những người được đặt làm lãnh đạo Dân Chúa trong sứ mạng phục vụ ơn cứu độ,
mưu cầu hạnh phúc đích thực cho mọi người.
I. Môsê, con người trung tín với Thiên Chúa
Trên cương vị tư tế,
Môsê đã thay cho dân đối với Thiên Chúa và trình việc của dân lên Thiên Chúa
(Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng
(Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên
Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn
và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên
Chúa để tác thành họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với lãnh
vực thánh đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã
không ngần ngại gọi ông là “người của Thiên Chúa” (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Là “người của Thiên
Chúa”, Môsê đã sống trọn vẹn hai chiều kích của tình yêu: thân mật và kính
trọng. Trong mọi tiếp xúc của ông với Thiên Chúa, tâm tình kính trọng luôn xen
lẫn với thân mật. Ông quả xứng đáng tước hiệu cao quý và sáng chói mà sách Kinh
Kôran đã giới thiệu ông như “người tâm phúc của Thiên Chúa” (Najiy, Le
confident de Dieu).
Ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên với Thiên Chúa, Môsê đã sống hai tâm tình trên (Xh 3,1-12). Còn gì êm ái,
thân mật hơn, khi một mình đơn độc ở giữa hoang địa Madian, Môsê được Thiên
Chúa âu yếm gọi tên mình: “Môsê! Môsê” (Xh
3,4), để rồi kể ông như người bạn tri kỷ, giãi bày tâm sự ra với ông: “Ta thấy rõ nổi khổ của dân Ta bên Ai cập và
Ta đã nghe tiếng than chúng kêu lên trước mặt đốc công, quả Ta đã biết các nỗi
khổ đau của chúng. Nên Ta xuống giựt chúng thoát tay Ai Cập và dẫn chúng ra
khỏi xứ ấy, lên xứ vừa đẹp vừa rộng, lên xứ chan hoà sữa mật... Bây giờ, này
tiếng oán thán của con cái Israel đã lên thấu Ta và Ta đã thấy việc người Ai Cập
hành hạ chúng. Vậy bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô; ngươi
hãy đem dân Ta, con cái Israel ra khỏi Ai Cập” (Xh 3,7-10). Được nghe tiếng
Thiên Chúa mời gọi, được chia sẻ tâm tình, quyết định của Thiên Chúa... nhưng
Môsê, trong tư thế lắng nghe, trong lúc tiến lại gần, vẫn phải cởi dép khỏi
chân, che mặt lại và cúi đầu phủ phục (Xh 3,5-6)! Rồi có những lúc tiếp xúc
thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng
sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một
người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon
và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ
không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm
đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện
với ông như nói chuyện với một người bạn thân “diện đối diện” (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên
Chúa “biết” đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Câu
chuyện Môsê thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23) được
nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh xem như cao điểm trong tương quan giữa ông và
Thiên Chúa: có lẽ một lúc nào đó trong thời gian cuối đời, Môsê bộc lộ với
Thiên Chúa nguyện vọng sâu xa và thầm kín trong tâm hồn mình, là ước mong được “thấy”
dung nhan của Người. Ông muốn thật sự giữa ông và Người không còn một ngăn cách
nào nữa. Ông khát vọng phá vỡ những bức tường mầu nhiệm bao quanh Người. Chính
lúc ấy, bằng những lời nói thật tế nhị nhưng rất cương quyết, Thiên Chúa đã đặt
Môsê vào đúng vị trí của ông trong tương quan với Người. Người đòi buộc ông
luôn có tâm tình kính trọng, suy phục: “Ngươi
không thể nhìn thấy Nhan Ta mà lại vẫn sống” (Xh 33,20); Người đồng thời
bày tỏ lòng ưu ái, thân mật một cách diệu kỳ đối với ông: “Này, có chỗ bên Ta, Người đứng trên tảng đá... Ta sẽ đặt Ngươi trong
khe đá và lấy bàn tay úp lại trên Ngươi cho đến khi Ta đã ngang qua” (Xh
33,21-22). Và rồi, để đáp lại lời thỉnh cầu táo bạo của Môsê, Thiên Chúa đã
nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người... Nhưng từ phía sau lưng: “... Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn
thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh
33,23).
Thật là dị thường!
Tương quan giữa Môsê và Thiên Chúa như tương quan của một đôi tình nhân! Môsê
muốn xáp lại gần, muốn ôm trọn trong vòng tay, muốn chiếm đoạt Thiên Chúa – lưu
ý động từ “thấy” Môsê dùng trong Xh 33,18 –, và cũng chính lúc đó Môsê đụng
chạm đến lằn mức, đến ranh giới của đức tin mà bất cứ phàm nhân nào trong quá
trình tiến đến gần Thiên Chúa đều cảm nghiệm một cách thấm thía trong cuộc đời
mình.
Trên chiều hướng đó,
như để minh họa ra một Môsê tuyệt đối đứng về phía Thiên Chúa, trọn vẹn thuộc
về Người, trong khi vẫn muốn hoàn toàn và triệt để liên đới với dân Chúa,
truyền thống Do Thái giáo đã không ngần ngại hiểu lệch câu Kinh Thánh nói về
cái chết của Môsê: “và Môsê, tôi tớ của
Đức Chúa, đã chết ở đó, trong xứ Moab, trên miệng của Đức Chúa” (Tl 34,5).
Từ ngữ “trên miệng Đức Chúa” được bản Targum
Yêrusalem quảng diễn rõ hơn, khi nói: “và
Môsê, tôi tớ Đức Chúa, đã chết ở đó, trong xứ Moab, trong cái hôn của Đức Chúa”
(nguyên bản hipri: al pi YHWH. Nghĩa
đen từng chữ: trên miệng YHWH; nhưng nghĩa chính xác là: “theo lời của Đức Chúa” hoặc “theo
lệnh của Đức Chúa”).
Như vậy, không phải
truyền thống Do Thái giáo không hiểu ý nghĩa lời Kinh Thánh trong Tl 34,5;
nhưng khi cố tình hiểu lệch đi; niềm tin Do Thái giáo như muốn lịch sử dân Chúa
đừng nghĩ rằng sự kiện Môsê nằm chết bên ngưỡng cửa Hứa Địa là do lỗi phạm của
cá nhân ông. Ngược lại, Môsê là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn
gắn bó và thuộc về Người cho đến độ trở nên “cô độc” ở giữa một dân mà Kinh
Thánh khoác cho danh hiệu “cứng cổ” (Xh 32,9; 33,3; 34,9; Tl 9,13); và sự kiện
ông không được vào Hứa Địa –xem như hình phạt– chính vì ông muốn hoàn toàn liên
đới với toàn dân mà ông đã theo lệnh Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập,
tiến qua Biển Đỏ, lãnh nhận Giao ước Sinai, hành trình trong sa mạc và đã được
thanh luyện vì tội bất trung của mình!
II. Môsê, con người liên đới với dân Chúa
Thật vậy, nhìn kỹ vào
con người của Môsê, chúng ta sẽ nhận ra: ngay trong lúc ông được sống bên cạnh,
thân mật với Thiên Chúa, thì tâm trí ông lại hướng về dân Chúa.
Qua câu chuyện Môsê
được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa từ phía sau lưng –câu chuyện mà nhiều nhà
Kinh Thánh đã dám sánh với một câu chuyện khác được tác giả Tin Mừng thứ tư
thuật lại: “Người Con Một, Đấng ở nơi
cung lòng Cha” (Yn 1,18) khi so sánh mối tương quan giữa Môsê và Thiên Chúa
cũng như mối tương quan giữa Đức Yêsu Kitô với Thiên Chúa Cha -, chúng ta lại
bắt gặp một Môsê hoàn toàn đứng về phía dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với
chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và
cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).
Từ ngữ “chúng tôi” ở
đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân;
nhưng hoàn toàn liên đới đến độ đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm
về tội lỗi của dân.
“Đức Chúa phán với Môsê và Aharôn: Bởi vì các
ngươi đã không tin vào Ta để làm Ta được hiển thánh nơi mắt con cái Israel, cho
nên các ngươi sẽ không đem đoàn hội này vào đất Ta định ban cho chúng” (Ds 20,12).
Tìm hiểu về hình phạt
này, cha Nguyễn Thế Thuấn trong lời chú thích câu Ds 20,12 đã viết: “Lỗi của Môsê và Aharôn vẫn là một điều bí
nhiệm. Phải chăng Môsê đã thiếu lòng tin mà đập tảng đá hai lần?” Nếu chúng
ta dựa trên Tl 32,51; 1,37; 3,26; 4,21, thì rõ ràng không phải do hành động đó,
nhưng Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân
ông:
“Đức Chúa đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi
nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37).
Hình phạt này đối với
Môsê thật nặng nề và đau khổ. Đã có lần ông biện bạch và khẩn nài Thiên Chúa:
“Thuở ấy ta đã van nài Đức Chúa rằng: lạy Đức
Chúa, chính Người đã khởi sự tỏ cho tôi tớ Người thấy sự lớn lao và tay mạnh mẽ
của Người, vì có thần nào trên trời dưới đất làm được như những việc của Người
và những chiến công của Người. Xin cho phép tôi qua mà nhìn thấy đất lành bên
kia sông Yordan, núi non tốt lành kia và dãy Liban” (Tl 3,23-25).
Nhưng rốt cuộc, ông đã
phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Với cái chết bi thảm này, cái
chết của con người chưa được toại nguyện, Môsê không những chia sẻ hoàn toàn số
phận của dân ông mà dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai Cập,
thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã
yêu thương cũng như đã chịu đựng... Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê
vì thế cũng “không muốn” vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng họ!
Về cái chết của Môsê,
một chi tiết nhỏ mà Kinh Thánh ghi lại đã gợi lên suy nghĩ cho các nhà chuyên
môn; đó là tương quan giữa nơi Môsê yên nghỉ và địa danh Bet-Pơor.
“Và người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt
Bet-Pơor” (Tl 34,6).
Đối với Kinh Thánh, địa
danh Bet-Pơor trong xứ Môab nhắc lại hành động điên cuồng của dân Chúa khi họ
bỏ rơi Giao ước, quay lại cuộc sống như dân ngoại, chạy theo các tà thần để thờ
kính. Bet-Pơor được ghi lại trong lịch sử dân Chúa để phơi bày thái độ bất
trung, cuộc sống phản bội của họ (Ds 25,1-18; 26,16). Hành động điên cuồng ấy
sau này sẽ được ngôn sứ Yêrêmya đánh giá bằng những lời lẽ thẳng thắn, dứt
khoát:
“Nơi Ta, cha ông các ngươi đã gặp gì trái để chúng rời xa Ta, và đi theo
đồ khí gió, mà như ra đồ khí gió?” (Yr 2,5).
Và như để làm nổi bật
tính chất nghiêm trọng của vụ Bet-Pơor, Yêrêmya đã cảnh cáo dân Chúa:
“Dân Ta đã làm hai điều bất hảo: chúng đã bỏ
Ta, mạch nước hằng sống, để đào cho mình bể nước, nhưng các bể rò không chứa
được nước”
(Yr 2,13).
Vì thế Bet-Pơor đối với
truyền thống Kinh Thánh được đồng hoá với tội lỗi.
Vậy, khi ghi lại nấm mồ
của Môsê đối diện với Bet-Pơor, đối diện với tội lỗi, tác giả Kinh Thánh muốn
chúng ta phải hiểu thế nào?
Truyền thống Do Thái
giáo khi nhận định sự kiện này đã cho chúng ta những dòng suy niệm thật lạ kỳ
và quý báu. Bản Targum Yêrusalem giải thích đoạn sách Tl 34,6 đã viết:
“Và người đã chôn cất ông trong thung lũng, ở
xứ Môab, trước mặt Bet-Pơor, để toàn dân Israel, mỗi khi hướng nhìn về
Bet-Pơor, có thể nhớ lại tội lỗi của mình”.
Rabbi Haam, con của
Rabbi Hanina còn nói thêm:
“Tại sao lại chôn cất Môsê trước mặt Bet-Pơor? – Ấy là để Môsê xóa sạch
vụ bê bối Bet-Pơor” (Sotah 14a).
Từ suy nghĩ đó, truyền
thống Cựu ước đã kết luận: cái chết của Môsê –vì muốn liên đới với dân ông– đã
khơi nguồn cứu rỗi cho cả thế hệ đó:
“Tại sao Môsê phải chết trong sa mạc? – là để
nhờ công trạng của ông, thế hệ hành trình sa mạc được trở về (với Thiên Chúa)” (Pesiqta K. Trang
159b; Pesiqta R. trg 199a).
Dựa vào các suy niệm
trên, nhìn lại toàn bộ cuộc đời của Môsê, chúng ta có thể quả quyết: Môsê đã
đau khổ cùng dân Chúa và cho dân Chúa! Môsê đã chết với dân Chúa và cho dân
Chúa! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa, đến
nỗi 7 thế kỷ sau, một tác giả Thánh Kinh đã vẽ lại cho dân Chúa thời bấy giờ
dưới dung mạo “Người tôi tớ của Đức Chúa”:
“Chính các bệnh tật của chúng tôi, ngài đã
mang, chính các đau khổ của chúng tôi, ngài đã vác. Còn chúng tôi, chúng tôi
lại kể ngài như kẻ bị trời đánh, bị Thiên Chúa trừng phạt và đày đoạ. Nhưng
ngài đã bị đâm vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, và vì tội vạ của chúng
tôi, ngài đã bị nghiền nát. Đã giáng xuống ngài hình phạt đổi lấy an bình cho
chúng tôi. Và nhờ những vết hằn ngài chịu, chúng tôi có phương được lành...
Huyệt ngài, người ta đặt giữa bọn ác ôn, và nấm
mồ ngài nơi quân trọc phú, dẫu rằng ngài không làm điều gian ác và gian dối
không có ở nơi miệng ngài...
Chính vì ngài đã thí mạng mình không màng cái
chết và đã bị liệt hàng những kẻ ngỗ nghịch, là đã mang lấy tội lỗi nhiều người
và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch” (Ys 53,4-5.9.12).
Ngoài ra, một nét khác
biểu hiện sự liên đới của Môsê đối với dân Chúa –và đây cũng là một trong những
nét nổi bật nhất của Môsê– đó là ông luôn luôn đứng lên bênh đỡ, cầu bàu cho
dân trước mặt Thiên Chúa:
“Môsê thưa với Đức Chúa:
– Sao Người lại làm khổ tôi tớ Người? Sao tôi
lại không được nghĩa trước mắt Người khi Người đặt trên tôi gánh nặng là tất cả
dân này? Phải chăng tôi đã cưu mang tất cả dân này? Phải chăng tôi đã sinh ra
chúng?... Tôi không thể gánh nổi một mình tất cả dân này, vì nó quá nặng cho
tôi! Quả nếu Người xử với tôi như vậy, thì thà giết quách tôi đi, nếu tôi đã
được nghĩa trước mắt Người, xin đừng để tôi phải thấy tôi khổ như thế này nữa” (Ds 11,10-15).
“Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn... Nhưng bây giờ, ước gì Người
miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã
viết...” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình
liên đới, thái độ bàu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình
ông lãnh đạo dân. Lòng thương xót quảng đại đó khiến cho chúng ta khi đọc lại
những trang trong bộ Ngũ Kinh có khi lại hình dung ra một Môsê “đương đầu” với
Thiên Chúa vì bênh đỡ Dân Chúa! Ông xem ra như kiên nhẫn, chịu đựng đoàn dân
cứng cổ, lòng chai dạ đá, thường xuyên ngụp lặn trong tội lỗi hơn cả Thiên
Chúa!
“Đức Chúa phán với Môsê: Cho đến bao giờ nữa
dân sẽ còn khi thị Ta? Cho đến bao giờ nữa chúng sẽ không tin vào Ta, trước bấy
nhiêu dấu lạ Ta đã làm giữa chúng? Ta sẽ đánh phạt chúng bằng ôn dịch, Ta sẽ hủy
diệt chúng đi, rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một nước lớn mạnh hơn chúng!” (Ds 14,10-12).
Đứng trước phán quyết
nghiêm khắc và quyết liệt của Thiên Chúa, Môsê đã “nhắc khéo” Người, nại đến
vinh dự của Người (Ds 14,13-16) và nhỏ nhẹ thưa với Người:
“Vậy bây giờ xin để cho sức mạnh của Chúa tôi
ra uy, chiếu theo điều Người đã phán, rằng: Đức Chúa bao dung và đầy nhân
nghĩa, chịu đựng lỗi lầm quá phạm, nhưng không coi tội dường thể vô can, Đấng
trị tội cha ông trên con cháu ba bốn đời. Xin tha thứ tội của dân này, chiếu
theo lượng nhân nghĩa lớn lao, cũng một thể như Người đã từng chịu đựng dân này
từ Ai Cập cho đến đây” (Ds 14,17-19).
Thật lạ kỳ! Thật mầu
nhiệm! Tấm lòng quảng đại, đầy tình thương xót của một Môsê tư tế, một Môsê
trung gian Giao ước, một Môsê lãnh đạo đối với đoàn dân thường xuyên quên lãng
Giao ước, thất kính và bội phản. Tuy nhiên, trong tư thế đầy lòng thương xót
đối với dân, Môsê vẫn hoàn toàn và trọn vẹn trung tín, đứng về phía Thiên Chúa!
III. Chứng từ Môsê như một thách đố
Cuộc đời và sứ mạng của
Môsê trung tín với Thiên Chúa và liên đới với dân Chúa vẫn luôn luôn sống động
để trở nên một sức mạnh lớn lao và kỳ diệu trong lịch sử dân Chúa. Đúng như cha
Albert Gelin đã nhận định: “Toàn bộ Kinh Thánh đều nói về Môsê, bởi vì Kinh
Thánh sống nhờ Môsê, nhờ công trình và tính chất nền tảng của Môsê” (A.Gelin,
Moïse dans l’Ancien Testament, trích trong tuyển tập “Moïse, l’homme de
l’Alliance”, trang 47).
Vì thế, trong lịch sử
dân Chúa, khuôn mặt này đã in sâu vào lòng dân Chúa, để trở nên không những là
một lời mời gọi, mà còn là một thách đố cho bất cứ ai đã nhận lãnh nơi Thiên
Chúa sứ mạng lãnh đạo phục vụ dân Người.
Được tuyển chọn, mời
gọi, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và theo lệnh Người mà lãnh đạo dân, thế
nhưng sứ mạng của Môsê hình như thất bại; vì dân ông, dân của Giao ước Sinai,
dân mà ông đã dùng máu mà nối kết với Thiên Chúa (Xh 24,8) đều ngã gục trong sa
mạc; ngay cả bản thân ông cũng phải chia sẻ hoàn toàn số phận của họ khi ông
nằm xuống bên kia ngưỡng cửa Hứa Địa! Máu ông dường thể máu Abel luôn luôn đối
diện với trời để tìm một lời đáp của Thiên Chúa: ông đã trung tín với Thiên
Chúa cũng như liên đới với dân Chúa. Tại sao ông không thể đưa tất cả họ vào
Hứa Địa, vào phần đất mà cả ông và đoàn dân có thể tìm gặp sự nghỉ ngơi, hạnh
phúc bên cạnh Thiên Chúa?
Nguyện vọng và lời
thách đố của Môsê bắt gặp lời đáp xuất phát từ một con người trong số hậu duệ
của ông. Đó là Đức Yêsu, người Nazarét, người mà lịch sử dân Chúa sẽ xưng tụng
là Đấng Kitô, là vị Môsê mới của Dân Chúa, người mà tác giả thư gửi tín hữu
Hipri quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã
nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa
biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Hr 2,17). Chính
Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối
trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Hr 5,5-6), đồng thời Người
cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót
thương đối với mọi người (Hr 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người
của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Hr
5,8).
Phải chăng, để đền tội
cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người mà Đức Yêsu Nazaret đã dùng chính
máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con
người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự
nguyện tủi nhục trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt
27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách
đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Yêsu-Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến
và nghe lại lời này:
“Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và
ở đó có cả dân của tôi nữa!”
Nha Trang, ngày 24 tháng 4 năm 2012
ngày kỷ niệm 41 năm tôi lãnh chức linh mục
do Đức cha
Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đà Lạt, chủ phong
+ Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Giáo phận Nha
Trang
*
Bài này tôi đã viết năm 1982, với tựa đề “Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: cô độc và liên đới” dịp Ngân
khánh Linh mục của Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám mục Giáo phận Đà Lạt,
để chúc mừng ngài [bài này cũng đã được giới thiệu trên WHĐ nhân dịp bế mạc năm Linh mục, 19-06-2010. WHĐ]. Qua dòng thời gian, với một số kinh nghiệm mục vụ, tôi duyệt
lại và bổ sung bài này, cộng thêm phần xác tín về vai trò của người Linh mục
mục tử “trung tín và giàu lòng xót thương”. Xin kính gửi anh em linh mục thân
yêu, cách riêng các linh mục đang phục vụ ở giữa Dân Chúa , như gói ghém tâm
tình tri ân của một linh mục nhìn lại quãng thời gian phục vụ của mình, đồng
thời cũng hàm chứa tâm tình chia sẻ đối với các thế hệ anh em của mình trong
cùng một ơn gọi và lý tưởng.
Gm Giuse Võ Đức Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét