Có
vài vấn đề đặt lên cho thần học truyền giáo (=TG) sau công đồng
Vaticano II, tỉ như: về danh xưng (phải hiểu TG như thế nào? Tại sao
tính chuyện TG ở Á Phi đang khi tại Âu châu số người giữ đạo càng ngày
càng sụt đi?); về sự cần thiết (cần chi phải đi TG nữa, xét vì người nào
ăn ngay ở lành thì cũng có thể được rỗi linh hồn? các tôn giáo đều tốt
cả?); về mục tiêu của việc TG (nhằm tới phần rỗi của linh hồn ở đời sau,
hay nhằm tới cả sự thăng tiến giải phóng toàn diện con người kể cả ở
đời này nữa?). Những vấn nạn ấy không những chỉ giới hạn trong các sách
báo thần học mà ảnh hưởng không nhỏ đến tâm thức của cả Giáo hội, đặc
biệt là các nhà thừa sai. Chính vì muốn đánh tan những nghi ngờ bấp bênh
ấy mà nhân dịp 25 năm bế mạc công đồng Vaticano II, (7/12/1990) đức
Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Redemptoris Missio” (=RM: Sứ
mạng của Đấng Cứu thế) nhằm khẳng định những giá trị của sứ mạng TG.
Tưởng cũng nên biết là 10 năm sau khi bế mạc công đồng, một văn kiện
quan trọng liên can tới việc truyền giáo đã được đức Phaolô VI công bố
ngày 8/12/1975, đó là tông huấn “Evangelii Nuntiandi”, đúc kết những
thành quả của Thượng hội đồng Giám mục thế giới họp năm trước đó về việc
loan truyền Tin mừng cho thế giới, một đề tài nói được là bao quát hơn
công cuộc truyền giáo.
Thiết
tưởng nên nhắc lại một nhận xét về từ ngữ đã nói trong bài trước. Tiếng
“TG” ở Việt ngữ dịch từ tiếng “missio”. Thế nhưng theo nguyên ngữ cũng
như theo thần học, thì missio có nghĩa là sự “sai đi”, và do đó mang ý
nghĩa là “sứ vụ, sứ mạng”. Họa theo sắc lệnh Ad Gentes của công đồng
Vaticano II, thông điệp RM đặt nền tảng của vấn đề TG từ cái missio
nguyên khởi phát xuất từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tức là từ việc Chúa Cha
sai Con Một mình đến thế gian, và rồi đến lượt đức Kitô trong Chúa
Thánh Thần sai Hội thánh đi loan Tin mừng cho nhân loại. Trải qua những
chuỗi sai phái như vậy, tuy về hình thức và giai đoạn có sự khác biệt,
song nguồn gốc và động lực trước sau vẫn như một, tức là thông đạt tình
yêu của Thiên Chúa cho con người. Thiên Chúa muốn thông ban mình cho con
người, và kêu gọi con người vào chia sẻ hạnh phúc ấy. Khởi nguyên và
tận điểm của mọi sự sai đi (hoặc TG) là tình yêu của Thiên Chúa và hạnh
phúc của con người. Dựa trên kế hoạch ấy mà Đức Gioan Phaolo II lần lượt
trình bày những nguyên tắc của công cuộc TG cũng như trả lời cho những
vấn nạn nêu lên.
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
1)
Nói rằng Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người chia sẻ
sự sống với mình thì cũng như quả quyết rằng Thiên Chúa muốn cho hết mọi
người được cứu rỗi. Có điều đáng cho chúng ta lưu ý là ý muốn của Chúa
khác với ý muốn của ta: nhiều lần ý muốn của ta chỉ là ước mơ; còn Thiên
Chúa, Đấng Tạo hóa, thì khác: ý muốn của Ngài (đồng nghĩa với tình
thương) có tính cách sáng tạo. Khi Ngài đã muốn (đã yêu) thì điều muốn
phải thực hiện. Nói khác đi, khi Ngài muốn cho hết mọi người được cứu
rỗi thì Ngài cũng lo liệu xếp đặt các phương thế để cho con người đặt
tới cứu cánh.
2)
Đức Kitô được sai đến (missio) thế gian không những để loan báo cho con
người biết ý định tình thương của Chúa Cha nhưng còn thực hiện chương
trình ấy nữa qua cuộc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh. Vì vậy mà đức Kitô
trở nên đấng Cứu chuộc của nhân loại: Ngài là Đường mà tất cả chúng ta
phải qua để đến với Chúa Cha. Ngài là vị trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa với loài người. Đến đây, Đức Gioan Phaolô II dừng lại để trả lời
cho một số vấn nạn liên hệ đén sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô
giáo.
a/
Đức tin công giáo không cho phép tách rời ra một bên là đức Kitô, Ngôi
Lời nhập thể, và bên kia là đức Giêsu (số 6). Sự khẳng định này nhằm tới
một số thuyết gần đây coi đức Giêsu chỉ như là một trong số những nhà
lập đạo khác, tựa như đức Phật, hay Mahomet. Theo họ, đức Kitô hoàn vũ
(Christus cosmicus) lớn hơn đức Giêsu lịch sử; và không có gì cản trở
việc đức Kitô có thể nhập thể qua những nhân vật khác nhau. – Đối lại
với những thuyết ấy, thông điệp khẳng định rằng đức Giêsu và đức Kitô là
một ngôi vị. Tuy rằng trong lịch sử cứu rỗi, có những nhân vật (tựa như
các ngôn sứ ở Israel) được Thiên Chúa sai đến như là sứ giả của Ngài,
làm môi giới đối với nhân loại, song vị trí của đức Kitô có tính cách
độc nhất vô nhị: Ngài là Thiên Chúa nhập thể, là nguyên nhân của ơn cứu
độ.
b/
Nói rằng đức Kitô là trung gian duy nhất của ơn cứu độ không có nghĩa
rằng những ai không biết đức Kitô thì sẽ không được cứu rỗi. Dựa trên số
22 của hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” của công đồng, đức Gioan Phaolô
II nói rằng những người chưa nhận biết sự điệp của đức Kitô có thể được
cứu rỗi, qua một hồng ân mà Chúa Thánh Thần ban cho họ, đưa họ tới tiếp
xúc với mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô (RM 10). Hồng ân ấy là công hiệu
của hy lễ của đức Kitô, được thích ứng với hoàn cảnh thiêng liêng và
vật chất của họ, nhờ đó họ có thể đáp lại lời mời của Chúa đón nhận ơn
cứu rỗi.
c/
Đức Kitô được sai đến trần gian để thiết lập Nước Chúa. Ngài thực hiện
sứ mạng ấy qua việc rao giảng Nước Chúa đã đến, chữa lành các bệnh tật,
xua đuổi ma quỷ, tha thứ tội lỗi, phục hồi sự sống. Tuy nhiên cao điểm
của sự thiết lập Nước Chúa là việc Ngài tuân phục thánh ý Chúa Cha trao
hiến mạng sống như bảo chứng của tình yêu vô biên đối với nhân loại. Sự
Phục sinh của đức Kitô đánh dấu giai đoạn mới của việc thiết lập Nước
Chúa: tội lỗi, sự dữ và cái chết bị dẹp tan; con người lãnh nhận được ơn
tha thứ và sự sống nhờ đức Kitô. Từ nay, Nước Thiên Chúa có trọng tâm
là đức Kitô.
Thông
điệp RM đã dành suốt một chương 2 để bàn về Nước Chúa, nhằm trả lời cho
một số học thuyết giới hạn việc xây dựng Nước Chúa vào sự giải phóng
nhân bản. Theo họ, đức Giêsu phục vụ Nước Chúa qua việc phục vụ con
người, đặc biệt là người nghèo, người bị áp chế, người sống bên lề xã
hội. Giáo hội cũng phải theo gương đó: thay vì lo giảng đạo, thì hãy dốc
tâm-lực vào sự phục vụ giải phóng con người. Đức Gioan Phaolô II đã
muốn trình bày ý nghĩa của Nước Thiên Chúa trong Kinh thánh, cách riêng
sự liên hệ giữa Nước Thiên Chúa với đức Kitô và với Hội thánh. Nước
Thiên Chúa không phải là một khái niệm mơ hồ, một ý thức hệ, song gắn
chặt với thân thế, lời giảng và việc làm của đức Kitô. Một cách cụ thể
hơn, ở số 20, thông điệp xác định thế nào là phục vụ Nước Chúa. Hội
thánh phục vụ Nước Chúa qua bốn hình thức sau đây:
a) loan báo đức Kitô và Tin mừng của Ngài;
b) thiết lập Giáo hội địa phương, bởi vì Giáo hội là dụng cụ của Nước Chúa;
c)
cổ võ những giá trị của Nước Chúa (tựa như: đối thoại; thăng tiến con
người; dấn thân xây dựng công lý và hòa bình; giáo dục và săn sóc người
đau yếu bệnh tật; giúp đỡ người nghèo);
d) Sau cùng Hội thánh cũng phục vụ Nước Chúa khi cầu nguyện khẩn nài cho Nước Chúa mau đến trong thế gian.
3)
Sau khi đã trình bày những nguyên tắc của công cuộc TG trong tương quan
với Chúa Cha và đức Kitô, thông điệp RM thêm một chiều kích thứ ba nữa
(ở chương 3), xét tới mối liên hệ với Chúa Thánh Thần. Thánh Thần là tác
nhân chính của công cuộc TG, Ngài điều khiển hướng đi của Hội thánh,
thúc đẩy Hội thánh tiến về biên cương mới, không những xét theo nghĩa là
về lãnh thổ địa lý mà và cả theo nghĩa là những biên cương chủng tộc và
tôn giáo nữa. Số 28 nói đến sự hiện diện phổ quát của Thánh Thần, không
bị hạn chế về thời gian và không gian. Thánh Thần đã tác động ngay từ
buổi khai nguyên của lịch sử nhân loại cũng như ngày nay Ngài tác động
vựơt ra ngoài những giới hạn của Giáo hội hữu hình. Cách riêng, Đức
Gioan Phaolô II bàn tới ba hình thức của sự hiện diện và tác động của
Thánh Linh: (a) trong con tim của mỗi người; (b) trong các mầm giống của
Chân lý nơi các tôn giáo và các nền văn hóa; (c) trong những nỗ lực của
con người hướng về Chân Thiện Mỹ, hướng về Đấng Tối cao, cách riêng qua
việc cầu nguyện.
Sự trình bày chiều kích Thánh Linh của hoạt động TG đưa tới những hệ luận rất quan trọng.
-
Thứ nhất, cần phải biết nhìn nhận vai trò chủ động của Thánh Thần trong
công tác TG: sự trở lại và tin nhận đức Kitô không phải là hiệu quả của
những sáng kiến tài năng của Hội thánh mà là của ơn thánh. Do đó, Hội
thánh cần làm sao để trở nên dụng cụ bén nhạy của Chúa Thánh Thần. Thông
điệp đã dành một chương (chương
để bàn về linh đạo truyền giáo, nhằm để cho Thánh Thần uốn nắn nên dụng
cụ thích ứng, cách riêng qua việc cầu nguyện và từ bỏ bản thân.
-
Thứ hai, nếu nhìn nhận rằng Thánh Thần không ngừng tác động trong thâm
tâm của mỗi người và trong các nền văn hóa của nhân loại, thì khi mang
Tin mừng đến cho tha nhân nhà TG phải tỏ thái độ kính cẩn biết khám phá
sự hiện diện của mầm mống chân lý nơi tha nhân nữa. Nói khác đi, phải
loại bỏ thái độ ngạo mạn, coi như chỉ có mình mới biết chân lý, còn
ngoài ra, tất cả chỉ là sai lầm gian dối.
Tuy
nhiên, một mặt khác, thông điệp cũng không tán thành những chủ trương
không kém phần cực đoan, theo đó hoạt động TG phải giới hạn vào việc đối
thoại, giúp cho các tôn giáo khác đào sâu thêm vẻ đẹp của họ, chứ không
được rao giảng đức Kitô. Ở số 29, ĐTC nói rằng chúng ta không được phép
tách rời Thánh Thần tác động trong thế gian ra một bên và Thánh Thần
của đức Kitô ra bên khác. Chỉ có một Chúa Thánh Thần mà thôi: Thánh Thần
hướng dẫn con người về với đức Kitô, xét vì chính Thánh Thần đã tác
động trong việc Nhập thể và Phục sinh của đức Kitô, nhằm tới sự cứu rỗi
của nhân loại.
Dựa
trên những nguyên tắc vừa nói, nghĩa là nền tảng của công cuộc TG xét
trong mối liên hệ với Ba Ngôi Thiên Chúa, thông điệp đi vào vai trò của
Hội thánh trong công cuộc này. Như đã nói trên đây, Hội thánh đã được
thiết lập và sai đi để loan báo và phục vụ kế hoạch tình yêu của Thiên
Chúa đã thực hiện nơi đức Kitô. Việc chấp nhận tin mừng ấy cũng bao gồm
sự gia nhập Hội thánh, vì đã được đặt lên làm dấu chỉ và dụng cụ của sự
cứu rỗi. Dĩ nhiên sự gia nhập Hội thánh không có nghĩa như là ghi danh
đăng ký vào một tổ chức xã hội, nhưng tiên vàn là sự đón nhận hồng ân mà
Chúa đã ban cho con người qua đức Kitô, và rồi cộng tác với các tín hữu
khác để tuyên dương tình yêu của Chúa trước mặt nhân loại.
II. VỀ CHÍNH HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
Từ
truyền giáo trong tiếng latinh (missio) nguyên gốc có nghĩa là “sai
đi”: bắt nguồn từ việc đức Kitô được sai đến thế gian để mang tình yêu
của Thiên Chúa cho con người; tiếp đến, Hội thánh được đức Kitô sai đi
để tiếp tục sứ mạng ấy. Nói khác đi, toàn thể Hội thánh đựơc sai đi,
toàn thể HT mang sứ mạng TG. Thế thì có thể nói đựơc tất cả các hoạt
động của Hội thánh đều là TG hay không? từ việc giảng dạy đạo lý cho tới
việc săn sóc người tàn tật, bất cứ việc gì cũng có thể coi là công tác
TG hay chỉ có vài công tác đặc định? sự phân biệt những vùng TG trong
thế giới có còn lý do tồn tại nữa không?
1. Xác định lãnh vực TG
Tuy
rằng tất cả Hội thánh lãnh nhận một missio (sứ mạng) từ đức Kitô, đó là
phục vụ nước Chúa, nhưng sứ mạng phổ quát ấy có thể mang những hình
thức khác biệt tùy theo những trạng thái khác nhau của đời sống đức tin:
có những nơi hay những người hoặc chưa bao giờ nghe giảng Phúc âm, hoặc
đã theo đạo rồi nhưng không còn giữ đạo nữa. Vì vậy ở số 33, thông điệp
phân biệt ba hình thức:
a) “missio ad gentes”, mà ta có thể dịch là truyền giáo, dành cho những ai chưa phải là Kitô hữu;
b) hoạt động mục vụ, dành cho những người đã theo đạo;
c)
tái rao giảng tin mừng, hướng tới những người đã theo đạo nhưng không
còn tin hay giữ đạo nữa. Điều nên biết là trong hạng thứ nhất, thông
điệp dùng đến ba tiêu chuẩn để xác định hoạt động TG:
* tiêu chuẩn địa lý, nghĩa là những vùng hay những dân mà Phúc âm chưa tỏa đến.
*
tiêu chuẩn xã hội: những môi trường xã hội, những lớp người chưa được
nghe Phúc âm, tựa như những người tị nạn, những lớp người sống bên lề xã
hội;
*
tiêu chuẩn thứ ba nhắm cách riêng đến các lãnh vực văn hóa, tựa như:
các phong trào tranh đấu nhân quyền, ngành điện ảnh văn nghệ. Khi phối
hợp lại ba tiêu chuẩn khác nhau, ta có thể nhận thấy rằng một nước hay
thậm chí một giáo phận có thể được xếp vào cả ba trạng thái sống đức
tin. Tỉ dụ như tại Rôma, tuy đại đa số các hoạt động thuộc vào hoạt động
mục vụ, nhưng cũng cần thúc đẩy công tác “tái truyền giảng Tin mừng”
cho biết bao nhiêu tầng lớp chỉ còn mang danh là người công giáo chứ
chẳng còn giữ đạo nữa; và đồng thời cũng phải xúc tiến việc TG cho những
lớp người Phi châu tị nạn chưa có đạo. Đối lại, ta cũng có thể tưởng
tượng giáo phận Xuân Lộc, bên cạnh những hoạt động mục vụ hay TG cổ
truyền, cũng cần phải nghĩ tới việc “tái truyền giảng Tin mừng” cho
những lớp người mang tiếng là đạo giòng, nhưng chỉ có đạo ngoài vỏ.
2. Động lực và mục tiêu của việc TG
Nói khác đi: tại sao phải TG? TG để làm gì?
a. Tại sao phải TG?
Trong
quá khứ có lẽ đã có người trả lời rằng: bởi vì chỉ có đạo công giáo mới
là đạo thật, còn các đạo khác dạy điều dối trá sai lầm, thờ lạy bụt
thần ma quỷ! Câu trả lời ấy không còn đứng vững khi mà người ta nhận
thấy rằng không phải các tôn giáo đều dạy điều quấy quá. Thông điệp RM
số 11 đã trình bày lý do một cách khác. Ngoài mệnh lệnh của đức Kitô sai
các môn đệ đi khắp thế giới giảng đạo, đức Gioan Phaolô II đặt nền tảng
của việc TG trên quyền lợi cao quý nhất của con người, đó là quyền của
con người được biết sự thật. Hội thánh cần phải tôn trọng quyền đó,
nghĩa là phải nói cho con người biết sự thật về phẩm giá cao quý của
mình. Phẩm giá ấy hệ tại việc Thiên Chúa yêu thương con người, mời gọi
con người thông dự vào sự sống của Ngài, nhờ hồng ân cứu rỗi qua đức
Kitô. Hoạt động truyền giáo, nhằm phục vụ chương trình cứu rỗi của Thiên
Chúa, đồng thời cũng nhằm phục vụ con người: chúng ta muốn thông đạt
cho tha nhân hồng ân đức tin quý báu mà chúng ta đã lãnh nhận, và hồng
ân ấy liên hệ tới hạnh phúc của mọi người.
b. TG để làm gì?
Vào
hồi đầu thế kỷ, đã có những cuộc tranh luận giữa những khuynh hướng
thần học TG: có người thì đặt nặng mục tiêu là việc trở lại đạo; người
khác nhấn mạnh đến việc thành lập Giáo hội địa phương. Thông điệp RM
trình bày ba mục tiêu của việc TG, năm trong ý niệm thần học về Nước
Chúa. Thực vậy, việc rao giảng Nước Chúa nhằm tới sự cải hoán, bao gồm
ba chiều kích:
- thứ nhất, tin và đón nhận ơn cứu rỗi;
- trở thành môn đệ của đức Kitô, trở nên phần tử của Hội thánh;
-
biến cải tâm thức cá nhân hay những cơ chế tội lỗi, trái ngược với Tin
mừng, ngược với nhân phẩm, dù đó là những bất công xã hội hay là những
cảnh nghèo đói, bệnh tật, dốt nát.
Một
khi đã xác định nguồn gốc và mục tiêu của công cuộc TG như vậy, ta có
thể hiểu rằng việc TG không giới hạn vào việc giảng đạo và chấm dứt với
việc lôi cuốn lương dân trở lại đạo. Chương 5 của thông điệp đã mô tả
những hình thức khác nhau của công tác TG, đi từ những cử chỉ, thái độ
đơn sơ (tựa như: thông cảm, giúp đỡ người nghèo, người bệnh), cho tới
những kế hoạch phát triển và thăng tiến con người, lẫn việc rao giảng
Phúc âm, xây dựng Giáo hội địa phương trong khung cảnh văn hóa dân tộc.
Chúng tôi xin ghi nhận ba điểm sau đây:
- việc TG và đối thoại với các tôn giáo;
- việc TG và thăng tiến;
- việc TG với văn hóa địa phương.
3. Vài vấn đề
Truyền giáo và đối thoại với các tôn giáo.
Ai
ai cũng biết thái độ của Giáo hội công giáo đối với các tôn giáo đã
thay đổi nhiều từ công đồng Vaticano II. Trước đây, người ta coi các tôn
giáo ấy như là đạo thờ quấy; những người theo các đạo ấy sẽ xuống hỏa
ngục hết. Hậu nhiên, việc TG không thiếu lần đi kèm với sự đả phá các
tôn giáo. Thế nhưng, công đồng Vaticano II đã thay đổi chiều hướng: Giáo
hội công giáo nhìn nhận những giá trị của các tôn giáo, cũng như nhìn
nhận rằng những người ăn ngay ở lành cũng có thể được rỗi linh hồn. Dĩ
nhiên, một câu hỏi sớm muộn gì cũng được đặt ra: thế thì cần chi phải TG
nữa? Thời đại TG đã qua rồi, bây giờ đến lúc đối thoại: đạo ai người
nấy giữ!
Thông
điệp RM đã trả lời những vấn nạn ấy trong số 55-57. Vài tháng sau đó,
Bộ Truyền giáo cùng với Hội đồng Tòa thánh đặc trách sự đối thoại liên
tôn đã xuất bản một tài liệu mang tựa đề: “Những suy tư và định hướng về
việc đối thoại liên tôn và sự loan báo Phúc âm”. Cả hai văn kiện muốn
giải thích mối liên hệ giữa sự đối thoại liên tôn với việc TG: sự đối
thoại không thay thế cho việc TG cũng không thể coi như một chiến thuật
để TG. Chúng ta hãy xét tới những nền tảng, hình thức của sự đối thoại;
rồi sau đó, tương quan với việc TG.
a. Xét về nền tảng hay sự cần thiết của sự đối thoại, ta có thể vạch ra 4 khía cạnh (hay chiều kích):
-
Nhân bản: sự tôn trọng con người; sự đối thoại là con đường dẫn tới sự
khám phá sự thật. Sự thật, cách riêng sự thật về tôn giáo, chỉ có thể
chấp thuận cách tự do nhờ việc nhìn nhận ra lý lẽ, chứ không thể áp đặt
cưỡng chế.
-
Xã hội. Sự đối thoại là cách thế cần thiết để duy trì sự sống chung
trong cộng đồng xã hội; việc thiếu đối thoại và hiểu biết nhau sớm muộn
gì cũng sẽ đưa tới đố kị tranh chấp giữa các tín ngưỡng.
-
Thần học. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái của Chúa.
Chính đức Kitô đã để lại gương sáng cho chúng ta: Ngài đi gặp gỡ, giải
thích trình bày chân lý với thái độ nhã nhặn kiên nhẫn.
-
Cứu rỗi. Giáo hội nhìn nhận những giá trị của đạo lý và tinh thần nơi
các tôn giáo, coi đó như phản ảnh của đức Kitô Lời chân lý, và tác động
của Chúa Thánh Linh. Sự đối thoại với các tôn giáo giúp Giáo hội khám
phá thêm sự sung mãn của chân lý, cũng như tự kiểm thảo, sửa sai những
khuyết điểm thiếu sót do điều kiện con người của mình.
Hiểu
như vậy, sự đối thoại không chủ ý vạch lá tìm sâu, bươi móc những
khuyết điểm của người khác; nhưng là nhằm tìm kiếm sự thật. Người kitô
hữu, tuy thâm tín gắn bó với đức tin của mình, nhưng luôn mở rộng tiến
đến chân lý sung mãn, nhất là chân lý về tình thương biểu lộ qua sự tôn
trọng tha nhân.
b. Hình thức.
Thường mỗi khi nói tới đối thoại, chúng ta liên tưởng tới hội nghị bàn
vuông với bàn tròn. Thực ra có tới bốn hình thức đối thoại:
-
Đối thoại đời sống, nghĩa là qua những mối tương giao hàng ngày, giữa
bà con lối xóm, qua những công việc giúp đỡ nhau, tương thân tương trợ,
và nhất là qua thái độ kính trọng lẫn nhau.
-
Đối thoại công tác, qua những hoạt động của các phần tử thuộc những tôn
giáo khác nhau, nhằm tới sự thăng tiến con người, công bằng xã hội.
- Đối thoại đạo lý, qua những cuộc trao đổi, đối chiếu quan điểm về triết học, luân lý, thần học.
- Đối thoại về cảm nghiệm tâm linh, về cách thức cầu nguyện tu đức.
Dĩ
nhiên không phải bất cứ lúc nào và người nào cũng có thể thực hiện tất
cả bốn hình thức nói trên. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng ai ai cũng có
dịp để thực hành sự đối thoại đời sống.
c. Đối thoại và TG
Sự
đối thoại không thay thế sự TG, nhưng là một hình thức của hoạt động
TG: hoạt động TG nằm trong kế hoạch đối thoại cứu rỗi của Thiên Chúa với
con người, nhằm giúp con người đáp lại lời mời gọi của Ngài qua đức tin
và sự cải hoán. Dĩ nhiên, nhà TG mang cũng một tâm tình khi đối thoại
cũng như khi TG, đó là: lòng gắn bó với đức Kitô (ước ao cho Ngài được
biết và yêu mến) cũng như lòng yêu thương với tha nhân (ước ao cho họ
được hạnh phúc).
Phan Tấn Thành, OP.
(TSTH số 18)
Theo: gpcantho.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét