Người
đăng: DangTrinh | 04.12.2012
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Đó là một đoạn trong một bài vè ngày xưa rất phổ biến. Điều đó cho
thấy con người rất duy tâm, dù có thể có người chỉ miễn cưỡng vì không làm gì
được và không biết cậy nhờ vào đâu nên chỉ còn biết “kêu trời”, nhưng cũng vẫn
là duy tâm.
Nước rất mềm, nhưng lại rất mạnh, không gì cản nổi: Sóng thần, mưa
lũ, lụt lội, triều cường. Khi trời nắng nóng quá, người ta cầu mưa; khi trời
hạn hán, người ta cầu mưa. Khi đó người ta khóc vì nước. Khi mưa to gió lớn,
người ta cầu ngưng mưa; khi lũ lụt và triều cường, người ta cầu nước rút. Khi
đó người ta cũng khóc vì nước. Thiếu nước, người ta khóc; dư nước, người ta
cũng khóc. Nói chung, người ta khóc vì nước.
Ngay cả cơ thể người ta cũng chứa nhiều nước, nhìn có vẻ “rắn” như
vậy nhưng 90% cơ thể là nước. Mỗi ngày cơ thể một người khỏe mạnh bình thường
cần tiêu thụ trung bình vài lít nước, và thật ngạc nhiên khi khoa học cho biết
mỗi ngày cơ thể sản xuất ra tới 290 lít nước bọt. Vậy là nước rất cần cho sự
sống.
Mưa là hiện thân của tình yêu thương cao cả, mưa cho cả người lành
và kẻ xấu, không hề phân biệt ai:
Mưa không của riêng ai
Tưới mát cho tất cả
Dù thân quen hay lạ
Vĩ đại hoặc thấp hèn
Tưới mát cho tất cả
Dù thân quen hay lạ
Vĩ đại hoặc thấp hèn
Mưa vui với người vui, buồn với người buồn. Người vui thấy tiếng
mưa reo như khúc nhạc, người buồn thấy tiếng mưa như lời than thở, trách móc.
Mưa đem lại sự dịu mát cho con người, mưa là niềm an ủi, mưa gội sạch bụi bẩn,
mưa là niềm vui. Trẻ em rất thích tắm mưa, chúng hạnh phúc khi được cha mẹ cho
tắm mưa. Đó là mưa bình thường mà con người còn cần đến vậy. Có một loại mưa
đặc biệt còn cần hơn: Mưa Giêsu.
Mùa Vọng là mùa mong chờ Đấng Thiên Sai giáng thế để giao hòa trời
đất, người Công giáo rất quen với bài thánh ca của cố nhạc sĩ Duy Tân (thuộc
Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh do cố nhạc sư Hùng Lân khởi xướng): “Trời cao hãy đổ
sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống,
và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu Đời”. Đó là Mưa Hồng Ân, Mưa Cứu Độ. Mưa Giêsu
vô cùng cần thiết cho những mảnh-đất-tâm-hồn của chúng ta đã và đang khô cằn vì
thói hư, tật xấu, và vì tội lỗi:
Mảnh đất con khô cằn
Khát khao Mưa tưới gội
Đời mang nhiều vết tội
Xin rửa sạch, Mưa ơi!
Khát khao Mưa tưới gội
Đời mang nhiều vết tội
Xin rửa sạch, Mưa ơi!
Dân Chúa ngày xưa đã mong chờ Đấng Cứu Độ mấy ngàn năm. Chúng ta
cũng đang khao khát Ngài từng giây trên hành trình cuộc đời. Và chỉ có Mưa
Giêsu mới khả dĩ tẩy rửa những vết nhơ hằn sâu trong tâm hồn mỗi chúng ta. Thật
vậy:
Thiếu một giọt Mưa Trời
Cả đời con hạn hán
Rửa sạch mọi thù oán
Là giọt Mưa Giêsu
Cả đời con hạn hán
Rửa sạch mọi thù oán
Là giọt Mưa Giêsu
Hai người yêu nhau luôn khao khát gặp mặt nhau, dù không nói đôi
lời mà chỉ được nhìn thấy nhau cũng thấy vui rồi. Một ngày không gặp thì lóng
ngóng, đứng ngồi không yên. Những người yêu nhau hay buồn vì nhớ nhau, họ “buồn
như anh chàng làm thơ” va rồi bất chợt hóa thành thi sĩ: “Anh sẽ vì em làm
thơ tình ái, anh sẽ gom mây kết thành lâu đài” (Lâu Đài Tình Ái của cố NS
Trần Thiện Thanh). Người này là nỗi nhớ của người kia, và là “giọt mưa tình”
của nhau. Nỗi nhớ thương và mong chờ đó hóa thành nỗi tương tư!
Cũng vậy, người yêu Chúa sẽ bồn chồn vì mong chờ Chúa đến, không
chỉ để được gặp mà còn được hàn huyên tâm sự và chia vui sẻ buồn với Ngài.
Nhưng trước tiên, chúng ta phải nghe lời tiên tri Isaia kêu gọi: “Hãy dọn
sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải
lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa” (Lc 3:4-6).
Cuộc đời con người là con đường ngoằn ngoèo vì những ý nghĩ xấu
xa; đầy những thung lũng hằn thù, đầy những núi đồi tham lam, ích kỷ; đầy những
ổ gà, ổ voi tức giận, ghen tuông. Tất cả phải mau sửa cho ngay thẳng và bằng
phẳng để xứng đáng đón Vị Thiên Vương tòan năng nhưng nhân hậu, giàu sang nhất
mà nghèo khó nhất, quyền lực nhất mà khiêm nhu nhất, oai phong lẫm liệt nhưng
vẫn thân thiện. Ngài đến để tìm những con chiên lạc (x. Mt 18:12-14) vì “người
khỏe không cần bác sĩ, người yếu mới cần” (Lc 5:31), Ngài đến để phục vụ (Mt
20:28), Ngài đến để cho chúng ta được sống và được sống dồi dào (Ga 10:10),
Ngài không đòi hỏi gì ở chúng ta mà chỉ yêu cầu chúng ta “hoàn thiện như Cha
trên trời” (Mt 5:48).
Ngày nay chúng ta khó tìm ra được một người có quyền thế đến với
dân nghèo ở mọi ngõ ngách cuộc đời như Chúa Giêsu. Các vị nguyên thủ quốc gia
đến thăm nước nào thì cũng được tiếp đón nồng hậu, và họ chỉ thăm những thành
phố lớn – và tiệc tùng. Các giám mục đi kinh lý thì cũng chỉ loanh quanh trong
khuôn viên nhà thờ và nhà xứ, rồi nghe báo cáo tình hình giáo dân – và tiệc
tùng. Linh mục gọi là ở “sát” giáo dân nhưng mấy người hiểu và chia sẻ nỗi đau
đời của giáo dân?
Ngày xưa có những ông vua phải giả dạng để gặp trực tiếp những
người dân thấp cổ bé miệng mới thấu hiểu nỗi oan dân tình. Chúa Giêsu cũng là
“ông vua” như vậy. Cứ ngồi nơi nhà cao cửa rộng mà nghe báo cáo thì cũng có
những người “làm láo, báo cáo hay”. Đó là những nịnh thần đáng sợ! Họ có 2 loại
áo dài, một loại vạt trước ngắn và vạt sau dài, một loại vạt trước dài và vạt
sau ngắn: Khúm núm trước bề trên mà lại hống hách với bề dưới!
Hiếm thấy có giám mục nào như cố giám mục thừa sai Jean Cassaigne
(Pháp, qua đời ngày 30-10-1973), vị Tông đồ Người cùi, khi còn là giám mục
Saigon, ngài thường xuyên đi thăm dân chúng ở các khu lao động nghèo Saigon –
Chợ Lớn. Ngài đã sống đúng khẩu hiệu ngài chọn: “Bác ái và Yêu thương” như ngài
nói: “Tôi là kẻ từng mơ thành một Thừa Sai tầm thường. Tôi là kẻ đã
coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một
hoàng tử của Giáo Hội. Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm giám mục.
Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con
người chất phác nơi tôi. Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành
hy vật”. Ngài chưa được Giáo hội phong thánh, nhưng đời sống của ngài chứng tỏ
ngài là một thánh nhân rồi, vì cả đời ngài đã thực sự sống tinh thần mùa Vọng,
hết mình vì đoàn chiên, nên giống như đoàn chiên và chết vì phục vụ đoàn chiên,
không khác gì tử đạo.
Tuyệt vời nhất là sau khi kiên tâm mong chờ Chúa đến, chúng ta
được Ngài ban Ơn Cứu Độ. Chắc hẳn lúc đó chúng ta cũng có thể mãn nguyện và vui
mừng nói như ông Simêon: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin
để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ” (Lc
2:29-30). Mưa Giêsu chính là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga
1:29).
Hãy
lắng tai, đừng tránh né, và hãy can đảm nghe lời thánh Gioan Tông đồ cảnh báo:
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận
biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn
những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền
trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:10-12).
Mùa Vọng không chỉ là khoảng thời gian khởi đầu năm Phụng vụ, mà
mùa Vọng kéo dài suốt cả cuộc đời chúng ta, từng giây phút hằng ngày, chúng ta
phải cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22:20).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con dám canh tân,
dám thay đổi, dám nói sự thật theo Ý Chúa. Xin soi sáng và hướng dẫn chúng con
có thể nghĩ ra những cách hay, dám thực hành đúng những điều đó, và kiên tâm
mong chờ Ngài đến. Chúng con cầu xin nhân Danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai
cứu độ chúng con. Amen.
Kha Đông Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét