Tại Thượng Hội Đồng về Tân Phúc Âm
Hóa hồi tháng 10 vừa qua, Đức Hồng Y người Ấn, Telesphore Placidus Toppo, đã
lên tiếng chỉ trích một số dòng tu chỉ đã hành động “như các công ty đa quốc
khi thực hiện nhiều công trình rất tốt và rất cần thiết để thoả mãn nhu cầu vật
chất của con người, nhưng đã quên mất rằng mục tiêu hàng đầu lúc họ được thành
lập là đem sơ truyền (kerygma), đem Tin Mừng, đến cho một thế giới sa đọa”
Lời chỉ trích này, thực ra, không
mới lạ gì. Vì nó từng được nhiều vị giáo hoàng gần đây nói với Giáo hội Công
giáo như một toàn thể nhằm làm sống lại tinh thần truyền giáo đang sa sút trong
Giáo hội.
Và trong vấn đề này, Vatican II
chính là khúc rẽ. Thực vậy, “cho tới thời Công Đồng, Giáo hội vốn sống qua một
mùa truyền giáo sốt sắng như chưa từng có”. Đó là lời nhận định của Cha Piero
Gheddo thuộc Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại (PIME). Ngài vốn là một trong
các chuyên viên được Đức Chân Phước Giáo hoàng Gioan XXIII mời vào Công Đồng để
soạn thảo văn kiện về truyền giáo.
Nhưng rồi, bỗng có sự sụp đổ bất
ngờ. Đến nỗi năm 1990, 25 năm sau ngày công bố sắc lệnh Ad Gentes của Vatican
II, Đức Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II cảm thấy nhu cầu phải dành cho
việc truyền giáo một thông điệp; đó chính là Redemptoris Missio, nhằm thức tỉnh
Giáo Hội khỏi cơn mê. Và Cha Gheddo cũng đã được mời để soạn thảo văn kiện mới.
Ngài nói: “Với Redemptoris Missio, chắc chắn Đức Gioan Phaolô II muốn củng cố
sắc lệnh Ad Gentes của Công Đồng, nhưng ngài cũng có ý định trám lỗ hổng trong
văn kiện này, một văn kiện rất đẹp nhưng hơi vội vã và không đầy đủ. Tức là
ngài muốn bàn tới các vấn đề, mà tại Vatican II, vốn chỉ được khảo sát một cách
vội vàng hay thậm chí bị bỏ sót nữa. Và tôi có thể tin tưởng mà nói ra điều đó,
sau khi được gặp Đức Giáo hoàng nhiều lần giữa lúc soạn 3 dự thảo cho văn kiện
này trong thời gian từ tháng 10 năm 1989 tới tháng 7 năm 1990”.
Mấy tuần nay, dù đã 83 tuổi, sau khi
đã du hành tới rất nhiều lục địa, đã viết hơn 80 cuốn sách được dịch ra nhiều
thứ tiếng và cho tới năm 2010, vẫn là giám đốc của Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo
Hải Ngoại, Cha Gheddo đang sắp xếp các ký ức của mình liên quan tới Vatican II
và thời gian sau đó. Một số các ký ức này đã được Zenit và Aisa News đăng tải.
Trong thời
gian Công Đồng
Về sắc lệnh Ad Gentes của Vatican
II, một văn kiện có sự đóng góp của ngài, Cha Gheddo cho hay: “Hành trình của
sắc lệnh khá gian khổ và gặp nhiều trở ngại chưa từng thấy. Trước nhất, các nhu
cầu và các giải pháp được các nghị phụ đề nghị ra rất khác nhau từ lục địa này
qua lục địa nọ. Xin đơn cử một thí dụ mà tôi còn nhớ rất rõ: về phía các Giáo
hội Á Châu, nơi rất phong phú về ơn gọi và có truyền thống lâu đời về việc sống
độc thân ngay trong các tôn giáo sở tại, nên có sự nhấn mạnh tới nhu cầu phải
duy trì bậc sống độc thân cho giáo sĩ. Nhưng ngược lại, từ phía các Giáo hội
Châu Mỹ La Tinh và Châu Phi, một số hàng giám mục lên tiếng yêu cầu hủy bỏ bậc
sống này, hay chấp nhận một hàng giáo sĩ có gia đình trong một số hoàn cảnh nào
đó”.
Văn kiện vì thế đã lâm vào trạng
huống rất có thể bị dẹp bỏ. Cha Gheddo kể tiếp: “Khó khăn càng gia tăng khi vào
ngày 23 tháng 4 năm 1964, giữa khóa hai và khóa ba của Công Đồng, văn phòng thư
ký gửi một văn thư cho ủy ban của chúng tôi: sơ đồ về truyền giáo cần được thu
gọn xuống còn một hai đề nghị mà thôi. Không phải là một văn kiện dài và sâu
sắc nữa, mà chỉ còn là một bảng liệt kê các đề nghị. Mục đích là đơn giản hóa
công việc của Công Đồng và đem Công Đồng đến chỗ kết thúc vào khóa ba. Một vài
nét nền tảng của văn kiện đã đủ rồi; các nét khác, bị các nghị phụ coi là kém
quan trọng, cần được giới hạn trong một vài trang đề nghị. Có lời đồn đãi rằng
chi phí cho các nghị phụ, vào khoảng 2,400 vị tất cả, và guồng máy của Công
Đồng đã hoàn toàn vượt quá sức chịu đựng của Tòa Thánh.
“Ủy ban về truyền giáo làm việc cật
lực, kể cả ban đêm, để thoả mãn lời yêu cầu này, bằng cách cô đọng văn kiện vào
13 đề nghị. Nhưng vừa khi tin tức lọt tới tai các giám mục, nhiều cuộc phản đối
bỗng nổ ra, đôi khi khá mạnh mẽ, như cuộc phản đối của Đức Hồng y Frings của
Cologne chẳng hạn. Ngài gửi nhiều thư cho các Giám mục Đức và nhiều vị khác vận
động họ phản đối: Chuyện gì xảy ra thế này! Người ta vốn cho rằng cố gắng
truyền giáo là chủ yếu đối với Giáo hội, vậy mà giờ đây nó bị thu gọn vào mấy
trang giấy hay sao? Không thể nào hiểu nổi, không thể nào, không thể nào chấp
nhận được.
“Một nhóm giám mục lên tiếng yêu cầu
hủy bỏ văn kiện về truyền giáo và tư liệu của nó được hoà nhập vào hiến chế
Lumen Gentium về Giáo hội. Các vị khác, đông hơn và sẵn sàng đấu tranh hơn
(trong đó có các nhà truyền giáo ở hiện trường, mà chỉ cần nhìn tới ta cũng
không thể nào nói không với họ được), đã bắt tay vào việc liên hệ bản thân,
từng người một, với mọi nghị phụ, nhờ thế nhận được nhiều ủng hộ viên. Cuộc
chiến đấu trong phiên khoáng đại đã đưa đến thành công: chỉ có 311 nghị phụ ủng
hộ văn kiện thu gọn thành 13 đề nghị về truyền giáo, trong khi 1,601 nghị phụ
yêu cầu sắc lệnh về truyền giáo được duy trì nguyên vẹn. Số phận của văn kiện
này được quyết định trong khóa bốn của Công Đồng, là khóa dài nhất, từ ngày 14
tháng 9 tới ngày 8 tháng 12 năm 1965”.
Một trong các điểm tranh cãi liên
quan tới vai trò của Thánh Bộ “de Propaganda Fide” (Truyền Bá Phúc Âm) là: “Một
đàng, có yêu cầu đòi hủy bỏ thánh bộ phúc âm hóa người không phải là Kitô hữu.
Nhưng ngược lại, nhiều nghị phụ yêu cầu phải cải tiến thánh bộ này, phục hồi nó
trở lại vai trò lãnh đạo, vượt quá chức năng chỉ có tính pháp chế và tài trợ
các giáo phận truyền giáo mà nó vẫn đảm nhiệm xưa nay.
"Thực thế, từ lúc khai sinh năm
1622 cho tới đầu thế kỷ 20, ‘Propaganda Fide’ vốn có một vai trò mạnh mẽ và sôi
động về chiến lược và tài lãnh đạo cụ thể trong công trình truyền giáo cũng như
trong sinh hoạt của các định chế và của chính các nhà truyền giáo. Nhưng rồi,
vai trò của nó giảm dần trong khi văn phòng quốc vụ khanh tăng thêm quyền lực,
đối với các tòa khâm sứ liên hệ. Bởi thế, một số các vị giám mục truyền giáo
muốn tăng cường thánh bộ truyền giáo, mà các vị cảm thấy nhất thiết phải được
tự do hành động, vì tự do này đảm bảo chính tự do của các vị”.
Cha Gheddo cho rằng lời yêu cầu như
trên của các giám mục truyền giáo đã không được thỏa mãn “một phần vì khuynh
hướng tập quyền hóa và độc điệu hóa việc quản trị Giáo hội là điều không thể
tránh được”. Tuy nhiên, về một điểm tranh cãi khác, các vị giám mục vùng Amazon
lại đã đạt được thành công. Cha Gheddo viết: “Đây là một vấn đề đích thân tôi
theo dõi. Đức Cha Arcangelo Cerqua, thuộc PIME, giám chức Parintins thuộc vùng
Amazon, Ba Tây, và Đức Cha Aristide Pirovano, cũng thuộc PIME, giám chức Macapà
ở Amazon, đã trở thành các vận động viên cổ vũ việc lồng ghi chú 37 của Chương
6 vào sắc lệnh Ad Gentes; ghi chú này coi các tòa giám chức của vùng Amazon ở
Ba Tây (tất cả là 35 toà) và nhiều toà giám chức khác ở Châu Mỹ La Tinh tương
đương với các lãnh thổ truyền giáo đặt dưới quyền giám sát của ‘Propaganda
Fide.’. Nếu không, Châu Mỹ La Tinh sẽ bị loại khỏi sự trợ giúp vốn dành cho các
công trình truyền giáo, việc mà hiện nó vẫn đang được hưởng.
“Trong cuộc bầu phiếu có tính quyết
định vào tháng 11 năm 1965, 117 nghị phụ thuộc châu Mỹ La Tinh bác bỏ bản văn
đưa ra biểu quyết mà không nhắc chi tới các tòa giám chức. Quá ít so với 2,153
phiếu bầu. Tuy nhiên, cùng một lúc, có 712 nghị phụ khác ủng hộ, nhưng “juxta
modum” (với điều kiện sửa đổi). Do đó, bản văn phải được viết lại, vì nó không
hội đủ đa số 2/3 phiếu ủng hộ. Nhờ thế, các tòa giám chức của Châu Mỹ La Tinh
đã được liệt kê vào số các lãnh thổ được sự trợ giúp truyền giáo của Tòa
Thánh”.
Cha Gheddo bình luận: “Những sự kiện
như trên, và còn nhiều sự kiện khác, như việc chấp nhận tính hợp đoàn của Đức
Giáo hoàng với các giám mục đã xác nhận việc làm hiển nhiên của Chúa Thánh Thần
trong việc hướng dẫn cuộc họp của Vatican II”.
Cha Gheddo tiếp tục cho rằng điều ấy
không thay đổi sự kiện này là trong khoảng thời gian giữa khóa hai và khóa ba
của Vatican II, “tại ủy ban, có một cảm thức lo âu, thậm chí còn chán nản nữa.
Bản văn gửi tới các giám mục vào mùa hè năm 1965 dài hơn bản văn gồm 13 đề nghị
trước đó đến năm lần, nên đã có cố gắng thu gọn nó lại. Thành công trong việc
này xem ra không ai tin được. Nhưng trách vụ khó khăn nhất đối với ủy ban soạn
thảo sẽ xảy ra sau đó. Các tháng quyết định là tháng 10 và tháng 11. Bản văn
được mở rộng để bao gồm khá nhiều nhận xét của các giám mục. Tháng 11, đa số 20
phiếu đã chấp thuận bản dự thảo này, nhưng với 500 trang “sửa đổi” gồm các gợi
ý, các đề nghị tại cuộc họp khoáng đại yêu cầu phải được thêm vào hoặc sửa sai
hay diễn tả cách khác. Chỉ còn non một tháng cho tới cuối tháng, và tình thế
xem ra đến phải khởi sự lại từ đầu!
“Nhưng rồi, như có phép mầu, cuối
cùng mọi sự cũng đã êm xuôi. Sắc lệnh này, trong toàn bộ, đã được chấp thuận
vào phiên họp công cộng cuối cùng, với 2,394 phiếu thuận và chỉ có 5 phiếu
chống; đây là mức nhất trí cao nhất trong các cuộc đầu phiếu của Công Đồng.
‘Chúa Thánh Thần quả đang hiện diện tại đây!’ Đó là lời phát biểu của Đức Hồng
y Agagianian, bộ trưởng ‘Propaganda Fide’ và là một trong 4 vị điều hợp viên
của phiên khoáng đại”.
Sau Công
Đồng
Tuy thế, liền ngay sau Công Đồng,
giấc mơ về một Ngày Hiện Xuống mới cho truyền giáo đã nhường bước cho một
khuynh hướng trái ngược. Cha Gheddo nhắc lại như sau: “Bổn phận tôn giáo nhằm
phúc âm hóa đã bị thu gọn lại thành một cam kết xã hội: điều quan trọng là yêu
thương người lân cận của mình, là thực hiện các việc tốt, là làm chứng nhân của
phục vụ, như thể Giáo hội là một cơ quan trợ giúp và viện trợ khẩn cấp để sửa
chữa các bất công và các thảm họa của xã hội. Phương pháp phân tích ‘khoa học’
của chủ nghĩa Mácxít cũng như chủ nghĩa thế giới đệ tam được nồng nhiệt hoan
nghinh. Các ý tưởng hoàn toàn lầm lạc được tuyên xưng là chân lý, thí dụ việc
người ta quay về với Chúa Kitô không còn quan trọng nữa, bao lâu họ chấp nhận
thông điệp yêu thương và hòa bình của Phúc Âm”.
Các khuynh hướng trên trở thành hiển
nhiên cả nơi các vị giám mục tham dự Thượng Hội Đồng năm 1974 về phúc âm hóa.
Nên Đức Phaolô VI, với tông huấn hậu thượng hội đồng Evangelii Nuntiandi, đã
phải mạnh mẽ tái khẳng định rằng “về lâu về dài, dù các chứng nhân tươi đẹp
nhất cũng tỏ ra vô hiệu nếu… không tuyên xưng tên, lời dạy, cuộc đời, các hứa
hẹn, nước và mầu nhiệm của Chúa Giêsu Thành Nadarét, Con Thiên Chúa”.
Cha Gheddo nhận định rằng: “Nhưng
Đức Phaolô VI không được lắng nghe” Và do đó, vị kế nhiệm ngài là Đức Gioan
Phaolô II, với thông điệp Redemptoris Missio năm 1990, đã phải chạm trán với
bức tường vô tri. Cha Gheddo nhắc lại rằng ngài đã hợp tác với Đức Gioan Phaolô
II trong việc soạn thảo văn kiện mới này: “Trong Giáo Triều Vatican, không ít
người chống đối thông điệp này ngay trước khi nó được ban hành. Họ bảo: ‘một
thông điệp là điều quá đáng, chỉ cần một tông thư là cùng, để kỷ niệm văn kiện
của Công Đồng’. Nhưng cả sau khi đã được ban hành, Redemptorsi Missio vẫn bị
nhiều nhà thần học, nhiều nhà truyền giáo học, và nhiều tập san truyền giáo
trong Giáo hội đánh giá thấp. Họ bảo: “Nó có nói được điều gì mới mẻ đâu!’ Nhưng
sau khi nó dẫn nhập được nhiều ý tưởng mới và tuyệt đối có tính cách mạng mà
ngay cả sắc lệnh Ad Gentes của Công Đồng cũng chưa đụng tới, như chương tựa là
‘Cổ Vũ Phát Triển bằng Việc Đào Tạo Lương Tâm’, Đức Gioan Phaolô II đã hoàn
toàn có lý khi nhận xét rằng trong lịch sử Giáo hội, thúc đẩy truyền giáo luôn
là dấu chỉ của sinh khí, y hệt như việc giảm thiểu nó là dấu chỉ của khủng
hoảng đức tin vậy”.
Cha Gheddo nói tiếp: “Ngày nay, quan
sát các tạp chí và sách vở, các hội nghị, các chiến dịch do các định chế và cơ
quan truyền giáo phát động, người ta từng tự hỏi liệu Redemptoris Missio có
được người ta hiểu và đem ra sống hay không. Ta phải trung thực trong vấn đề
này. Việc giảm thiểu một cách trầm trọng con số ơn gọi truyền giáo một phần tùy
thuộc cách người ta trình bày con số các nhà truyền giáo và việc truyền giáo
tại các quốc gia.
“Cách đây nửa thế kỷ, còn có những
cuộc canh thức và diễn hành truyền giáo, với các nhà truyền giáo tại hiện
trường xin Chúa ban cho nhiều ơn gọi đi truyền giáo tại các nước và khuyến
khích giới trẻ hiến đời mình cho các xứ truyền giáo. Ngày nay, điều trổi hơn là
việc huy động cho các vấn đề như buôn bán vũ khí, thu lượm chữ ký chống lại nợ
nần ngoại quốc của các nước Châu Phi, nước nôi như tài nguyên công cộng, chống
phá rừng v.v… Khi những vấn đề như thế trở thành tập chú của hoạt động truyền
giáo, thì điều không thể tránh được là nhà truyền giáo sẽ trở thành tác nhân xã
hội và chính trị.
“Tôi tự hỏi: liệu ta còn có thể nghĩ
rằng các thanh niên nam nữ sẽ bị lôi cuốn để trở thành các nhà truyền giáo được
không khi họ chỉ được người ta dạy cách tố cáo và phản đối, cách thu lượm chữ
ký chống vũ khí và nợ nần ngoại quốc? Để có được nhiều ơn gọi truyền giáo hơn,
thanh niên nam nữ phải được Phúc Âm và đời sống tại các xứ truyền giáo lôi
cuốn, họ phải si tình với Chúa Giêsu Kitô, vốn là trân châu bảo ngọc duy nhất
của ta. Mọi điều khác sẽ tự nhiên mà đến”.
Một chỉ thị
đầy tin tưởng
Với Đức Bênêđíctô XVI, khán đài
chính đã được dành cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tương đối, chống
lại ý niệm cho rằng mọi tôn giáo đều tốt như nhau và đều là đường dẫn tới ơn
cứu rỗi. Trong số khá nhiều văn kiện của triều giáo hoàng hiện nay về chủ đề
này, ta thấy một chỉ thị có tính tín lý của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đề cập tới
một số khía cạnh của việc phúc âm hóa.
Cha Gheddo bình luận như sau: “Chỉ
thị này là ước muốn của Đức Giáo hoàng và được ngài phê chuẩn; nó được công bố
ngày 3 tháng 12 năm 2007, ngày lễ kính nhà truyền giáo tuyệt vời là Thánh
Phanxicô Xavier; ấy thế nhưng nó gần như hoàn toàn bị báo chí Công giáo và
truyền giáo làm ngơ, dù đây là một văn kiện đáng được các định chế truyền giáo
cấp giáo phận, báo chí, các nhóm và hiệp hội truyền giáo nghiên cứu và thảo
luận hòng có được điểm qui chiếu chính xác trong bầu khí duy tục hóa và duy
tương đối đang khiến ta mất hết la bàn giúp ta đi đúng đường”.
Dù thế, Cha Gheddo vẫn tiếp tục tin
tưởng và trình bày một ít con số để hỗ trợ niềm tin tưởng này: “Ngày nay đang
có quá nhiều bi quan đối với sự hữu hiệu của việc truyền giáo giữa những người
không phải là Kitô hữu. Thực tế có khác. Trong lịch sử hàng mấy thiên niên kỷ
của Giáo hội, chưa hề có một lục địa nào đã quay về với Chúa Kitô mau chóng
bằng Châu Phi. Năm 1960, chỉ có chừng 35 triệu người Công giáo châu Phi với 25
giám mục bản xứ; ngày nay, con số họ là 172 triệu với khoảng 400 giám mục người
châu Phi. Theo cuộc nghiên cứu của Pew tại Hoa Thịnh Đốn, năm 2010, tại khắp
Châu Phi mỗi bên Kitô giáo và Hồi giáo có dưới 500 triệu tín hữu, thì nay,
riêng tại vùng Hạ Sahara mà thôi, ta có 470 triệu Kitô hữu và 234 triệu người
Hồi giáo.
“Năm1960, Á châu có 68 giám mục bản
xứ và không nước nào có được sự gia tăng đều đặn con số người được rửa tội. Chỉ
ở Ấn Độ là có tỉ số trở lại đáng kể, và ngày nay, ở đây có ít nhất 30 triệu
người Công giáo, gấp đôi con số chính thức. Điều ấy cũng đúng cho cả Nam Dương,
Tích Lan, Miến Điện, Việt Nam, nơi người Công giáo đang chiếm 10% trong số 85
triệu người Việt, với khá nhiều vụ trở lại và ơn gọi. Năm 1949, khi Mao lên cầm
quyền, Trung Hoa có 3.7 triệu người Công giáo; ngày nay, bất chấp bị bách hại,
uớc tính vẫn có từ 12 tới 15 triệu người Công giáo, còn tính chung Kitô hữu thì
lên khoảng từ 45 tới 50 triệu người. Tại Nam Hàn, nơi có tự do tôn giáo và số
thống kê đáng tin, hiện có hơn 5 triệu người Công giáo, chiếm 10.3 phần trăm
dân số Nam Hàn, còn tính chung Kitô hữu thì chiếm tới 30 phần trăm dân số.
“Hiệu quả tích cực của Công Đồng và
của Đức Giáo hoàng là điều hiển nhiên trong việc thăng tiến các giáo hội trẻ,
mà hiện đã trở thành truyền giáo bên ngoài lãnh thổ của họ, tới tận Tây Phương.
Phải loại bỏ các khuôn thước định kiến cho rằng việc truyền giáo cho các dân
tộc đã chấm dứt và không còn hiệu quả nữa, vì các khuôn thước này không phù hợp
chút nào với các sự kiện thực tế.
“Đức Gioan Phaolô II viết trong
Redemptoris Missio rằng: ‘Việc truyền giáo cho các dân tộc chỉ mới bắt đầu’. Ta
không biết kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng thời kỳ lắng đọng của truyền giáo
hiện nay hình như vẫn mang ý nghĩa tích cực của nó. Có lẽ một nửa thế kỷ sau ta
sẽ hiểu được nó hơn”.
Theo Sandro
Magister, 9 tháng 11, 2012, www.chiesa.espressonline.it
Vũ
Văn An
(Nguồn:
vietcatholic.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét