Posted on thanhdang on Tháng Bảy 16, 2011
GIÁO LUẬT
VỚI TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
I. Dẫn
nhập
1. Truyền thông
xã hội (Communicatio Socialis) là thuật ngữ chỉ hoạt động truyền
tải thông tin giữa các chủ thể trong xã hội với nhau. Trong đó, người
ta sử dụng những phương tiện tự bản tính không những có thể liên hệ
và ảnh hưởng đến từng người, mà còn đến chính đại chúng và toàn
thể xã hội nhân loại, như Internet, truyền hình, truyền thanh, điện
thoại, báo chí, điện ảnh và những thứ khác có chức năng tương tự
[1].
2. Tự bản chất,
do tính lịch sử và ảnh hưởng của xã hội toàn cầu hoá, các phương
tiện truyền thông xã hội đã, đang và sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống xã hội và Giáo hội, từ vĩ mô đến vi mô. Giáo hội
biết rằng những phương tiện truyền thông, một mặt nếu sử dụng đúng
đắn, sẽ mang lại những ích lợi to lớn cho nhân loại về các lĩnh vực
giải trí, huấn luyện tinh thần cũng như việc mở rộng và cũng cố
Nước Chúa. Nhưng mặt khác, nếu dùng nghịch lại với ý định của Tạo
Hoá sẽ gây những thiệt hại đau lòng, làm băng hoại nhân phẩm, phá vỡ
sự phát triển bền vững của nhân loại.
Vì thế, những
quan điểm của Giáo hội về truyền thông xã hội trong quá khứ, nhất
là từ Công đồng Vatican II, đã được cụ thể hoá thành các đòi buộc
pháp lý, làm thành những nguyên tắc căn bản cho hoạt động truyền
thông của Giáo hội. Tuy không nhiều nhưng người ta có thể nhận thấy
trong Bộ giáo luật 1983, kim chỉ nam cho việc phát triển bền vững một
ngành truyền thông hiện đại [2].
II. Tầm
quan trọng và nội dung của truyền thông xã hội
Bộ giáo
luật khẳng định tầm quan trọng của truyền thông xã hội
3. Thông qua việc
đòi buộc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội trong mọi hoạt
động của Giáo hội, Bộ giáo luật 1983 khẳng định tầm quan trọng của
các phương tiện truyền thông xã hội. Sử dụng các phương tiện này
không chỉ là quyền bẩm sinh mà còn là nghĩa vụ bất khả thi của mọi
thành viên trong Giáo hội, nhất là các chủ chăn. Ở điểm này, chúng
ta xét hai phương diện quan trọng.
Thứ nhất, truyền thông xã hội là phương tiện giúp Giáo
hội dễ dàng chu toàn nhiệm vụ của mình trong thế giới. Giáo luật
yêu cầu các chủ chăn phải dùng các phương tiện truyền thông xã hội
trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình. Các nhà làm luật đã khẳng
định:“Khi sử dụng quyền riêng của Giáo hội để chu toàn nhiệm vụ
của mình, các vị chủ chăn của Giáo hội phải cố gắng dùng các
phương tiện truyền thông xã hội” (Điều 822 triệt 1).
Thứ hai, các phương tiện truyền thông xã hội được Giáo
hội sử dụng gắn liền với các quyền và nghĩa vụ bẩm sinh loan báo
Tin Mừng cho các dân tộc. Bộ Giáo luật khẳng định: “Chúa Kitô đã
trao phó kho tàng đức tin cho Giáo hội, để nhờ Chúa Thánh Thần phù
trợ, Giáo hội cung kính giữ gìn, tìm hiểu sâu sắc hơn, loan báo và
trình bày chân lý mạc khải cách trung thành; không lệ thuộc bất cứ
một quyền bính nào của con người, Giáo hội có bổn phận và quyền
bẩm sinh loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc bằng cả những phương tiện
truyền thông xã hội thích hợp với mình” (Điều 747 triệt 1).
Như vậy, Giáo
hội đương nhiên có quyền làm chủ và sử dụng bất cứ loại phương tiện
truyền thông nào, ở mọi nơi mọi lúc, tuỳ theo sự cần thiết hay ích
lợi cho các hoạt động của mình và của xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử, nhằm thăng tiến Giáo hội và thế giới, để cứu rỗi các linh
hồn.
Bộ giáo
luật chỉ rõ nội dung loan báo của truyền thông xã hội
4. Giáo hội
được Chúa Kitô thiết lập để mang lại phần rỗi cho hết mọi người,
mọi dân tộc, khắp cùng ngõ hẻm trái đất (xMc 16,15). Để thực thi
nhiệm vụ cao cả và không ít khó khăn này, Giáo hội phải dùng hết
mọi khả năng có thể để đến với mọi người, khắp mọi nơi và mọi
thời. “Để loan báo học thuyết Kitô giáo, người ta phải dùng những
phương tiện khác nhau sẵn có, trước hết việc giảng thuyết và huấn
giáo luôn chiếm vị trí chủ yếu, tiếp đến là việc giảng dạy Giáo
lý trong các trường học, trong các học viện, trong các buổi thuyết
trình và các cuộc hội họp dưới mọi hình thức, cũng như việc phổ
biến giáo lý bằng những bản tuyên ngôn công khai do quyền bính hơp
pháp thực hiện qua báo chí và các phương tiện truyền thông xã hội
vào dịp xảy ra một biến cố nào đó” (Điều 761).
Nội dung trên
cũng được nhắc lại và nhấn mạnh cụ thể hơn tại điều 779. Rằng,
Giáo hội cần phải dùng mọi cách thế, mọi khả năng chuyên môn và mọi
phương tiện truyền thông xã hội được xem là hữu hiệu nhất để giảng
dạy giáo lý, ngõ hầu các tín hữu có thể học giáo lý Công giáo
cách thấu đáo, theo một phương pháp thích hợp với tính tình, khả
năng, tuổi tác và hoàn cảnh sống của họ, hầu có thể đem ra thực
hành cách chu đáo hơn, đưa ánh sáng Chúa Kitô cho mọi người.
5. Đặc biệt,
trong lĩnh vực giáo dục của Giáo hội, Bộ giáo luật luôn nhắc đến
việc sử dụng các phương tiện truyền thông để thực thi. Cụ thể,“Việc
dạy học và việc giáo dục tôn giáo mang tính cách Công giáo được
thực hiện trong bất cứ trường học nào, hoặc được truyền đi bằng
những phương tiện truyền thông xã hội khác nhau, đều phải tuỳ thuộc
quyền bính của Giáo hội. Hội đồng Giám mục ban hành những quy tắc
tổng quát liên quan đến phạm vi hoạt động này, và các Giám mục giáo
phận tổ chức và giám sát phạm vi này” (Điều 804 triệt 1). Để
làm được việc quan trọng này, Huấn thị Hiệp thông và tiến bộ đã
nói tới nghĩa vụ cấp bách của các trường Công giáo là huấn luyện
các nhà truyền thông và các người tiếp nhận việc truyền thông xã
hội theo đúng các nguyên tắc Kitô giáo [3]. Các trường đại học, cao
đẳng, trung học cũng như các chương trình giáo dục của Công giáo ở
mọi cấp cần phải cung cấp các khoá đào tạo cho các nhóm khác nhau,
từ Chủng sinh, Linh mục, Tu sĩ nam nữ cho tới giáo dân ở cấp lãnh
đạo như Giáo viên, Phụ huynh, Học sinh sinh viên [4].
6. Trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình, thời đại toàn cầu hoá làm cho việc mục vụ
trong lĩnh vực này trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Vì thế, để làm
mục vụ cho người di dân, Bộ giáo luật chỉ ra giải pháp hữu hiệu là
áp dụng các phương tiện truyền thông xã hội. “Bằng việc giảng
thuyết, bằng việc giáo huấn thích hợp cho nhi đồng, thanh niên và
người thành niên, và cũng bằng biệc sử dụng các phương tiện truyền
thông xã hội. Nhờ đó, các kitô hữu được giáo huấn về ý nghĩa hôn
nhân kitô giáo và về vai trò của người phối ngẫu cũng như của các
bậc cha mẹ Kitô giáo” (Điều 1063).
III. Bổn
phận sử dụng các phương tiện truyền thông
Bổn phận
của các chủ chăn
7. Bộ giáo luật
buộc những ai đang ở cương vị lãnh đạo Giáo hội phải hiểu biết các
phương tiện truyền thông và ứng dụng các phương tiện ấy vào việc
thiết lập kế hoạch mục vụ cũng như thi hành sứ mạng của Giáo hội. “Khi
sử dụng quyền riêng của Giáo hội để chu toàn nhiệm vụ của mình,
các vị chủ chăn của Giáo hội phải cố gắng dùng các phương tiện
truyền thông xã hội” (Điều 822 triệt 1).
Mặt khác, để
bảo toàn Đức tin và Phong hoá, các chủ chăn phải liệu sao để việc
sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội không phương hại đến đức
tin và phong hoá của các tín hữu. Quyền và nghĩa vụ này đồng thời
muốn nói đến các Giám mục địa phương cách riêng rẽ, các Giám mục
khi họp công đồng địa phương hay trong các Hội Đồng Giám Mục. Các
Ngài phải trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người có khả năng kiểm duyệt
những tác phẩm, những bài viết liên quan đến đức tin hay phong hoá do
các Kitô hữu đề nghị đăng tải và loại bỏ những tác phẩm nguy hại
cho đức tin ngay lành và cho thuần phong mỹ tục (Điều 823).
Cũng liên quan
đến nội dung này, triệt 2 điều 831 lặp lại quyết định của triệt 2
điều 772, về thẩm quyền của Hội Đông Giám Mục trong việc ban hành
những quy luật cần thiết dành cho các Linh mục, Tu sĩ tham dự vào
việc trình bày đức tin và luân lý Công giáo trong các chương trình
truyền thông xã hội. Theo đó, những chủ thể này, trong khuôn khổ được
bản quyền địa phương cho phép, họ có quyền và nghiệm vụ sử dụng
hiệu quả các phương tiện truyền thông để thực thi sứ vụ của mình,
đồng thời giúp đỡ những người dưới quyền khai thác giá trị của các
phương tiện truyền thông.
8. Tại các giáo
phận, quyền và nghĩa vụ nói trên của các Giám mục giáo phận đã
được Công đồng Vatican II chỉ rõ: “Các Giám mục có bổn phận
lưu tâm đến các công trình và sáng kiến thuộc ngành truyền thông xã
hội của giáo phận mình. Các Ngài phải cổ võ và nếu liên quan đến
việc tông đồ chung, phải phối hợp chúng, kể cả các tổ chức thuộc
quyền điều khiển của các tu sĩ miễn trừ” [5]. Do đó, chính các
vị chủ chăn phải tìm cách đào tạo đúng đắn lương tâm tín hữu trong
việc sử dụng các phương tiện truyền thông. Đồng thời, lo giúp họ
biết bổn phận của mình là phải cộng tác thế nào để tinh thần nhân
bản Kitô giáo làm sinh động việc sử dụng các phương tiện truyền thông
xã hội, góp phần xây dựng một nền truyền thông ngày càng nhân bản
và hiện đại hơn (Điều 822 triệt 2).
Bổn phận
của các tín hữu
9. Mọi con cái
Giáo hội phải đồng tâm hiệp lực, chẳng những không ngần ngại mà còn
hết sức hăng say, sử dụng các phương tiện truyền thông cách đắc lực
vào các công việc tông đồ khác nhau tuỳ theo những đòi hỏi cụ thể
của hoàn cảnh và thời gian. Điều 822 triệt 3 khẳng định: “Tất cả
mọi Kitô hữu, nhất là những người tham gia cách nào đó vào việc tổ
chức hay sử dụng các phương tiện truyền thông, phải quan tâm giúp đỡ
sinh hoạt mục vụ thế nào để Giáo hội thi hành nhiệm vụ của mình
cách hữu hiệu qua các phương tiện ấy”.
Ý thức được
tính chất hai mặt của truyền thông xã hội, Bộ giáo luật cũng có
những quy định ngăn ngừa những dự định tai hại có thể xảy ra, nhất
là đối với những người nam nữ trẻ. “Trẻ em và thanh thiếu niên
cần được đào tạo về các phương tiện truyền thông xã hội, chống lại
con đường dễ dãi và thụ hưởng mà không biết phê bình, chiều theo áp
lực của bạn bè và những hình thức khai thác mang tính thương mại” [6].
Cũng cần nói thêm ở đây rằng, Bộ giáo luật cũng đã nói tới quyền
của các tín hữu được thông tin, được trao đổi ý kiến cách tự do và
khách quan ở các điều 212, 215 và 218. Đây là một trong những điểm
mới của Công đồng Vatican II mà Bộ giáo luật kế thừa.
Cách riêng
đối với những người sống đời thánh hiến
10. Bởi các
phương tiện truyền thông xã hội, nhất là mạng Internet, phải chịu tác
động mạnh mẽ của chủ nghĩa vật chất và xã hội hưởng thụ, Bộ giáo
luật, trong khi bàn đến nghĩa vụ của các tu sĩ, đã cách riêng nhắc
nhở những người sống đời thánh hiến phải thận trọng khi sử dụng
các phương tiện truyền thông xã hội.“Trong việc sử dụng các phương
tiện truyền thông xã hội, phải giữ sự phán đoán cần thiết và phải
tránh những gì có hại cho ơn gọi riêng và nguy hiểm cho đức khiết
tịnh của mọi người đã được thánh hiến” (Điều 666).
Trong lĩnh vực
này, Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, cơ quan đặc trách
truyền thông của Giáo hội Công giáo đã nhấn mạnh: “Các Linh mục,
Phó tế, Tu sĩ nên được học hỏi về các phương tiện truyền thông xã
hội để hiểu biết hơn về ảnh hưởng của các phương tiện đó trên cá
nhân cũng như xã hội, đồng thời giúp họ có được một phong thái
truyền thông, có thể đáp ứng được cảm quan và bận tâm của quần
chúng đang sống trong văn hoá truyền thông. Nhờ đó, họ có thể thu
lượm được lợi ích từ các phương tiện truyền thông, nhất là mạng
Internet” [7].
IV. Hình
phạt đối với những người lạm dụng
11. Thấy được
những nguy hiểm có thể xảy ra do con người lạm dụng các phương tiện
truyền thông xã hội, Bộ giáo luật hiện hành đã quy định những chế
tài cần thiết nhằm giáo dục, răn đe và trừng phạt những đối tượng
có hành vi tội phạm truyền thông.
Điều 1369 quy
định: “…Trong khi dùng những phương tiện truyền thông xã hội, người
nào nói lộng ngôn hoặc xúc phạm nặng nề đến thuần phong mỹ tục,
hoặc mạ lỵ, hoặc kích động lòng thù ghét hay khinh dễ chống đối tôn
giáo hay Giáo hội, thì phải chịu hình phạt thích đáng”. Rõ
ràng là để bảo vệ sự phát triển bình thường của truyền thông xã
hội, các nhà làm luật đã dự liệu hình phạt cho những ai sử dụng
các phương tiện truyền thông xã hội để phạm tội. Tội đó có thể
thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tội lộng ngôn phạm thượng,
nghĩa là dùng lời lẽ xúc phạm tới Thiên Chúa, Đức Mẹ và Các
Thánh; Tội xúc phạm nặng nề tới thuần phong mỹ tục; Tội nguyền rủa
tôn giáo hay Giáo hội; Tội kích động lòng thù ghét hoặc khinh bỉ tôn
giáo hay Giáo hội [8].
V. Một
vài kiến nghị nhỏ
12. Từ trước
tới nay, các tổ chức và cá nhận của Giáo hội vẫn hằng sử dụng
các phương tiện truyền thông trong các hoạt động của mình, dấn thân
vào xã hội và gia tăng nhiều hơn việc cổ võ đối thoại. Tuy nhiên, sự
bùng nổ mới đây của các phương tiện truyền thông hiện đại và ảnh
hưởng lớn lao của chúng, tích cực nhiều nhưng tiêu cực cũng không ít.
Vì vậy, việc tìm biết các quy định của Giáo luật về truyền thông
xã hội trở nên cấp bách hơn. Đây không chỉ là đòi buộc của Giáo
quyền mà là kim chỉ nam cho mọi người trước sự bùng nỗ của xã hội
truyền thông.
Khi tìm biết
các các quy định của Bộ giáo luật về truyền thông xã hội, chúng ta
không chỉ dừng lại ở mục Các phương tiện truyền thông với hai điều
822 và 823, mà phải chú ý đến các chỉ dẫn riêng về quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể Giáo hội liên quan đến lĩnh vực truyền thông,
được quy định trong các phần riêng của Bộ giáo luật.
13. Nhiều người
đã ngõ ý tiếc vì Bộ giáo luật chưa hề đưa ra những biện pháp thích
nghi cụ thể để cỗ động việc sử dụng các phương tiện truyền thông.
Tuy nhiên, tìm hiểu kỹ chúng ta sẽ thấy: thứ nhất, Bộ giáo luật
không phải là một cẩm nang mục vụ nhưng chỉ chú trọng tới khía cạnh
bổn phận và quyền lợi. Thứ hai, cần phải quay về với những văn kiện
của Giáo hội từ Công đồng Vatican II để tìm biết các chỉ dẫn cần
thiết. Như Sắc lệnh Inter Mirifica ngày 04/12/1963 của công đồng
Vatican II về các phương tiện truyền thông xã hội; Huấn thị Communio
et progressio ngày 19/01/1971; Huấn thị Aetatis Novae ngày
22/01/1992 cập nhật Huấn thị trước; Vào ngày 16/5 hằng năm, ngày
truyền thông xã hội, Đức Thánh Cha luôn ban hành một Sứ điệp
truyền thông có nội dung gắn liền với những vấn đề thời sự
nóng bóng, để hướng dẫn hoạt động truyền thông của Giáo hội và thế
giới … [9].
14. Công đồng
Vatican II đã đi vào lịch sử gần 50 năm, Bộ giáo luật hiện hành đã
có hiệu lực gần 30 năm, nhưng những quy định của chúng về truyền
thông xã hội dường như vẫn bị đóng băng ở Việt Nam. Cần phải tổ
chức giáo dục để tiến tới thực hiện rộng rãi các quy định của
Giáo hội về truyền thông xã hội. Trong đó, cần ý thức rằng các
phương tiện truyền thông không chỉ đơn thuần là kênh tin tức, mà còn
là phương tiện truyền bá Tin Mừng, đồng thời là phương tiện phục vụ
con người và các nền văn hoá, cũng như phục vụ sự thăng tiến và hoà
hợp giữa các cộng đồng nhân loại, sau nữa là đối thoại với thế
giới và các tôn giáo.
Trong bối cảnh
hết sức phức tạp và rất chật hẹp của truyền thông Việt Nam, người
ta ấp ủ và có quyền hy vọng rằng chính sức mạnh của các phương tiện
truyền thông hiện đại sẽ giải phóng dân tộc khỏi mọi sự ràng buộc
phi pháp từ phía chính quyền. Tự do và Công lý chắc chắn sẽ được
rao giảng trên mái nhà (xMt 10, 24-33).
ĐCV Vinh
Thanh, Ngày12/01/2011
Tân Lập
Chú thích:
[1]. Thánh Công
Đồng Vaticano II, Inter Mirifica, số 1.
[2]. Trong bài
này, người viết sử dụng Bộ giáo luật 1983, bản dịch của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2007.
[3]. Xem Huấn
thị Hiệp thông và tiến bộ, số 107.
[4]. Xem Huấn
thị Thời đại mới, số 28.
[5]. Thánh Công
Đồng Vaticano II, Inter Mirifica, số 25.
[6]. Hội Đồng
Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo đức trong truyền thông,
số 25.
[7]. Hội Đồng
Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Giáo hội và Internet, số
11.
[8]. Phan Tấn
Thành, Giải thích bộ giáo luật quyển 5, 6, 7, Rôma 1995,
trang 200.
[9]. Giáo hoàng
Biển Đức XVI, Sứ điệp nhân ngày Truyền thông thế giới lần thứ 44, Chúa
nhật 16/5/2010, Linh mục và việc mục vụ trong thế giới kỷ thuật
số: những phương tiện truyền thông hiện đại phục vụ cho Lời Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét