Ông chủ làm vẻ vang cho ngôi nhà chứ không phải ngôi nhà làm vẻ vang cho ông chủ - Xixêrông

“Ánh Sáng” và “Bóng Tối” trong Tin Mừng Gioan

Posted on fx.hongan on Tháng Bảy 16, 2012

Cặp từ đối lập “ánh sáng” và “bóng tối” có thể là đề tài quan trọng của Tin Mừng thứ tư. Cặp từ tương phản này được trình bày như thế nào? Bài viết sẽ trình bày sơ lược các từ ngữ liên quan đến đề tài (1) “ánh sáng” và (2) “bóng tối” trong Tin Mừng Gioan.
1. “Ánh sáng”
Tin Mừng thứ tư dùng 23 lần danh từ Hy Lạp “phôs” (ánh sáng), 1 lần động từ “phôtizô” (1,19) và 2 lần động từ “phainô” (1,5; 5,35). Hai động từ Hy Lạp “phôtizô” và “phainô” có nghĩa: “Chiếu sáng”, “chiếu soi” (illuminer, briller, luire, apparaître). Tất cả 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện trong Tin Mừng Gioan tìm thấy trong 12 chương đầu: 1,4.5.7.8a.8b.9; 3,19a.19b.20a.20b.21; 5,35; 8,12a.12b; 9,5; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c.46. Phần thứ hai của sách Tin Mừng (Ga 13–21) không xuất hiện danh từ “phôs” (ánh sáng).
Trong Tin Mừng thứ tư, đề tài “ánh sáng” được dùng theo nghĩa đen, nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Nghĩa đen của từ “ánh sáng” xuất hiện trong lời Đức Giêsu tuyên bố ở Ga 11,9-10: “9Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này.10Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng ở nơi mình.” Đồng thời, kiểu nói “thấy ánh sáng của thế gian này” (11,9) và “có ánh sáng ở nơi mình” mang nghĩa thần học vì ám chỉ Đức Giêsu. Bao lâu Đức Giêsu còn hiện diện thì bấy lâu thế gian còn có ánh sáng. Ai tin vào Đức Giêsu thì “thấy ánh sáng” và “có ánh sáng” nên sẽ không vấp ngã. Như thế, danh từ “phôs” (ánh sáng) ở 11,9-10 vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa thần học, nghĩa đen của từ “ánh sáng” gợi đến nghĩa thần học của từ này.
Nghĩa thần học của từ “ánh sáng” được trình bày cách minh nhiên qua sự đồng hoá giữa Đức Giêsu và ánh sáng. Trong Tin Mừng Gioan, có 3 lần Đức Giêsu tuyên bố chính Người là ánh sáng qua kiểu nói đặc trưng: “Tôi là…” (egô eimi…) ở 8,12; 9,5; 12,46. (1) Lần thứ nhất, Đức Giêsu nói với những người Pharisêu trong bối cảnh tranh luận ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” (2) Lần thứ hai Đức Giêsu nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Đức Giêsu là ánh sáng của thế gian, nên Người làm cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (Ga 9). Nhưng sự thấy đích thực của người mù chỉ được tỏ lộ vào cuối ch. 9. Thực vậy, sau khi bị giới lãnh đạo Do Thái trục xuất (9,34), anh ta gặp Đức Giêsu và tuyên xưng lòng tin vào Người: “Tôi tin, thưa Ngài” (9,38). Chỉ lúc đó anh mù mới thực sự sáng mắt. Như thế, theo Tin Mừng Gioan, “thấy thực sự” đồng nghĩa với “tin vào Đức Giêsu”. (3) Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa đồng hóa Người với ánh sáng, vừa nối kết với hành động “tin”. Trong phần tóm kết sách các dấu lạ (Ga 1–12), Đức Giêsu tuyên bố ở 12,46: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.”
Tóm lại, cả 3 lần Đức Giêsu đồng hóa Người với ánh sáng trong Tin Mừng Gioan đều hàm ý lời mời gọi tin: (1) Tin vào Người thì có ánh sáng và không bị vấp ngã (8,12). (2) Tin vào Người thì thực sự thấy ánh sáng (9,5.38). (3) Tin vào Người thì không ở lại trong bóng tối (12,46).
2. “Bóng tối”
Tin Mừng thứ tư dùng hai từ Hy Lạp: “skotia” và “skotos” để chỉ “bóng tối” hay “sự tối tăm”. Từ “skotia” xuất hiện 8 lần: 1,5a.5b; 6,17; 8,12; 12,35a.35b.46; 20,1. Từ “skotos” chỉ xuất hiện 1 lần ở 3,19. Đề tài “bóng tối” trong Tin Mừng thứ tư thường xuất hiện đối lập với “ánh sáng”.
Chỉ có 2 lần trong Tin Mừng thứ tư “bóng tối” không đối lập với “ánh sáng” ở 6,17 và 20,1. Lần thứ nhất sau dấu lạ bánh hoá nhiều, các môn đệ xuống thuyền vào lúc: “Trời đã tối (skotia) và Đức Giêsu chưa đến với các ông” (6,17). Lần thứ hai xảy ra “vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mácđala đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối (skotia)” (20,1). Ngoài hai lần trên, tất cả các lần khác, đề tài “bóng tối” đối lập với “ánh sáng”. Đối lập “ánh sáng” – “bóng tối” xuất hiện 5 lần trong các ch. 1; 3; 5; 12 ở các câu: 1,5; 3,19; 8,12; 12,35; 12,46. Đề tài này xuất hiện lần đầu tiên trong lời tựa Tin Mừng ở 1,5: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.” Kế đến là tương phản mạnh mẽ giữa “ánh sáng” và “bóng tối” trong đoạn văn 3,10-20.
Cũng như danh từ “ánh sáng”, danh từ “bóng tối” trong Tin Mừng Gioan vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa thần học, hay cả hai nghĩa cùng lúc. Chẳng hạn, danh từ Hy Lạp “skotia” (bóng tối) ở 1,5 là chủ từ của động từ Hy Lạp “katalambanô” (lấn át, nắm bắt), nên “bóng tối” ở đây ám chỉ con người và quyền lực đen tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5).
Ở 6,17, danh từ “skotia” (bóng tối) có nghĩa đen: “Trời đã tối và Đức Giêsu chưa đến với các ông”, tuy vậy có những gợi ý quan trọng sẽ phân tích dưới đây. Ở 8,12, Đức Giêsu đồng hóa mình với ánh sáng, cặp từ “ánh sáng – bóng tối” ở 8,12 có nghĩa thần học: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Đề tài “ánh sáng” và “bóng tối” ở 12,35 vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa thần học. Thực vậy, Đức Giêsu nói với đám đông: “Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người còn có ánh sáng, để bóng tối không bắt chợt các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu” (12,35). Các từ “ánh sáng” và “bóng tối” trong câu này phù hợp với nghĩa bình thường (nghĩa đen), nhưng điều bản văn muốn nhắm tới là hàm ẩn đồng hóa ánh sáng với Đức Giêsu. Bao lâu Đức Giêsu chưa bước vào cuộc Thương Khó thì bấy lâu vẫn còn ánh sáng. Nhưng chỉ còn một ít thời gian nữa thôi, vì sứ vụ công khai của Đức Giêsu đã đến hồi kết thúc, đêm tối sự chết đang đến gần. Ai bước đi không có ánh sáng, nghĩa là bước đi không có Đức Giêsu, không tin vào Người thì cuộc đời người ấy ở trong bóng tối và không biết mình đi đâu.
Trong Tin Mừng thứ tư, các từ ngữ thường có nghĩa biểu tượng, gợi đến nghĩa thần học của bản văn. Chẳng hạn, từ “bóng tối” trong trình thuật các môn đệ vượt Biển Hồ ở 6,16-18 có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng. Người thuật chuyện kể: “Chiều đến, các môn đệ của Người xuống bờ Biển Hồ, và xuống thuyền đi về phía Caphácnaum, bên kia Biển Hồ. Trời đã tối (skotia) và Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh” (6,16-18). Các môn đệ chèo thuyền trong bóng đêm, trong khi biển động và gió mạnh. Sự thiếu vắng Đức Giêsu và chi tiết biển động mạnh gợi đến “khủng hoảng gần” và “khủng hoảng xa” của các môn đệ. Khủng hoảng gần vì cuối ch. 6, có nhiều môn đệ bỏ đi không theo Đức Giêsu nữa (6,66), hơn nữa Đức Giêsu còn thông báo về Giuđa, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, là người sẽ nộp Thầy (6,70-71). Khủng hoảng xa vì trong ch. 13–17, các môn đệ lo âu, xao xuyến và sợ hãi trước sự ra đi của Đức Giêsu. Đức Giêsu báo trước họ sẽ bị phân tán khi Người chịu Khổ nạn (16,32). Khủng hoảng của các môn đệ trong đoạn văn 6,16-18 cũng ám chỉ đến cộng đoàn Gioan vào cuối thế kỷ I đang bị khủng hoảng vì bách hại mà dường như Đức Giêsu vắng mặt và bỏ rơi cộng đoàn. Nhưng thực sự không phải thế, chính Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,18).
Tin Mừng thứ tư chỉ dùng 1 lần danh từ Hy Lạp “skotos” để chỉ bóng tối ở 3,19. Có thể nói đến sắc thái nghĩa khác nhau giữa “skotia” và “skotos”. Cả hai từ này đều có nghĩa là “bóng tối”. “Skotia” là bóng tối mà người ta không muốn rơi vào đó. Đức Giêsu đến để giải thoát con người ra khỏi bóng tối này, Người tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối (skotia)” (8,12). Ngược lại, “skotos” là bóng tối mà người ta yêu mến, nghĩa là người ta muốn ở lại trong bóng tối đó. Đức Giêsu nói ở 3,19: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối (skotos) hơn ánh sáng.” Danh từ “skotos” (bóng tối) trong đoạn văn 3,19-20 nhắm đến những người, không những từ chối tin vào Đức Giêsu mà còn tìm cách giết Người. Họ không muốn thoát ra khỏi “bóng tối” mà còn “yêu mến bóng tối”. Họ không chỉ “không đến với ánh sáng” mà còn “ghét ánh sáng” (3,20), ghét Đức Giêsu, ghét Chúa Cha và ghét các môn đệ của Người (15,18-25). Như thế, “skotos” (bóng tối) mà người ta yêu mến có nghĩa sâu xa, “skotos” ám chỉ thế lực đen tối làm tha hóa con người và làm cho con người trở thành nô lệ cho thế lực đen tối. Tin Mừng thứ tư dùng nhiều từ khác nhau để gọi thế lực này: quỷ (6,70; 8,44; 13,2), Xatan (13,27), thủ lãnh thế gian này (12,31; 14,30; 16,11), Ác thần (17,15).
Trong viễn cảnh trên, “yêu mến bóng tối (skotos)” là cách thức từ chối tin vào Đức Giêsu ở cấp độ cao nhất. Theo thần học Tin Mừng thứ tư, “yêu mến bóng tối (skotos)” là tự kết án mình (auto-jugement de condamnation) và thứ “tình yêu bóng tối” này (3,19) đã hàm ẩn sự thù ghét và bách hại.
Kết luận
Tin Mừng thứ tư thường diễn tả thần học bằng những cặp từ đối lập. Những phân tích trên cho thấy tác giả Tin Mừng đã thành công trong việc sử dụng cặp từ “ánh sáng” và “bóng tối” để trình bày những đề tài thần học quan trọng. Toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, giữa “đón nhận” hay “không đón nhận”, giữa “tin” hay “không tin” vào Đức Giêsu.
Sự đồng hóa minh nhiên giữa “Đức Giêsu và “Ánh Sáng” giúp độc giả hiểu các kiểu nói đặc trưng của Tin Mừng Gioan: “Tin vào ánh sáng” và “con cái ánh sáng” (12,36). Đức Giêsu nói với đám đông: “Khicác người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (12,36). “Tin vào ánh sáng” là tin vào Đức Giêsu, trở thành “con cái ánh sáng” là trở thành môn đệ của Người. Trong nhiều trường hợp, nghĩa đen của cặp từ “ánh sáng” và “bóng tối” gợi đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Điều bản văn nhắm tới là trình bày mặc khải về căn tính của Đức Giêsu và về sự đáp trả của con người trước lời mời gọi của Người.
Tương phản “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ngay trong lời tựa Tin Mừng (1,5). Trong 12 chương đầu (sách các dấu lạ: Ga 1–12), đối lập “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở đầu (3,19), ở giữa (8,12) và ở cuối (12,35; 12,46), như thế “ánh sáng” và “bóng tối” là một trong những đề tài quan trọng của thần học Tin Mừng Gioan, qua đó sách Tin Mừng cho biết Đức Giêsu là ai và con người cần làm gì để “có ánh sáng” và “bước đi trong ánh sáng”. Đề tài “ánh sáng – bóng tối” đã được phân tích trong tập sách YÊU và GHÉT trong Tin Mừng Gioan, phần II, tr. 48-56, xin mời độc giả tham khảo thêm. 
Ngày 15 tháng 04 năm 2012
Giuse Lê Minh Thông, OP
(Nguồn: leminhthongtinmunggioan.blogspot.com)


Không có nhận xét nào:

Lên đầu trang