CHÂN PHƯỚC GIOAN PHAOLÔ II BÌNH LUẬN VỀ THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM
Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) được xem là bức thông điệp xã hội đầu tiên của Giáo Hội: “Giáo
huấn xã hội của Giáo Hội là một bộ phận không thể thiếu được trong sứ
điệp Kitô giáo. Không thể có bất kỳ giải pháp nào cho ‘vấn đề xã hội’ mà
ở ngoài Phúc âm”.
Thông điệp Rerum Novarum (Tân sự) do Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII ban
hành ngày 15 tháng 5 năm 1891, đề cập đến tình trạng của giai cấp công
nhân. Ngài đưa ra câu trả lời của Giáo Hội Công giáo cho cuộc xung đột
xã hội đã phát sinh theo sau cuộc công nghiệp hóa và đã dẫn đến sự trỗi
dậy của chủ nghĩa xã hội. Đức Giáo hoàng nói rằng trong khi nhà nước đề
cao công bằng xã hội bằng cách bảo vệ các quyền lợi của công dân, Giáo
hội phải lên tiếng về những vấn đề xã hội để giảng dạy các nguyên tắc xã
hội đúng đắn và bảo đảm sự hài hòa giữa các giai cấp. Ngài nhắc lại một
giáo huấn vốn đã có từ lâu trong Giáo hội về tầm quan trọng của các
quyền tư hữu, nhưng nhìn nhận rằng hoạt động tự do của các lực lượng thị
trường phải chịu sự kềm chế của những xem xét, ràng buộc về luân lý.
Lý
do chính thúc đẩy Đức Lê-ô XIII viết thông điệp là ngài tin rằng thời
đại của ngài đã trao những người công nhân nghèo vào tay những ông chủ
tham lam và phi nhân. Ngài thấy các công nhân rơi vào tình trạng túng
thiếu và vô phương tự mình cứu mình, không được nhà nước bảo vệ đủ trước
những những bất công và bạo lực. Trong thông điệp, ngài khẳng định
người nghèo phải có một tư cách đặc biệt cần phải được xem xét trong các
vấn đề xã hội: đó là một nguyên tắc quan trọng của đạo Công giáo mà
ngày nay chúng ta gọi là nguyên tắc “ưu tiên chọn lựa người nghèo” và tư
tưởng Thiên Chúa đứng về phía người nghèo đã được diễn tả trong văn
kiện này.
Đức Gioan Phaolô II bình luận về Thông điệp Rerum Novarum
Đúng
100 năm sau, Chân phúc Gioan Phaolô II đã bổ sung Thông điệp Rerum
Novarum bằng cách viết Thông điệp Centessimus Annus (Bách niên). Trong
chương I của thông điệp này (các số 4-11), ngài đã nhận định, bình luận
về Thông điệp Rerum Novarum. Dưới đây, chúng tôi xin được đăng lại phần
nội dung của chương đó, bằng cách dựa theo bản dịch tóm lược của Joseph
Donders trong quyển sách John Paul II: The Encyclicals in Everyday Language, rồi chuyển sang Việt ngữ.
Chương I. Các “Sự Mới” cách đây một trăm năm
Số 4.
Vào cuối thế kỷ trước, Giáo hội đang đối mặt với một thế giới mới. Một
loại hình mới về quyền sở hữu và một hình thức lao động mới đã xuất
hiện. Sức lao động của con người được mua bán theo luật cung cầu, khiến
cho các công nhân tiếp tục bị đe dọa bởi nạn thất nghiệp, mà – nếu không
có bảo hiểm xã hội – họ có nguy cơ chết đói. Xã hội chia thành hai giai
cấp, cách biệt nhau một trời một vực. Khi người ta bắt đầu ý thức được
tình trạng bất công này và một cuộc cách mạng đang đe dọa, Đức Giáo
hoàng Lê-ô XIII viết thông điệp này trình bày “tình trạng của công
nhân”.
Số 5. Xã
hội bị xâu xé bởi cuộc xung đột giữa tư bản và giới lao động, đây là
“vấn đề công nhân”. Hai bên đối mặt nhau như những “con sói” một mất,
một còn. Bởi vì đức giáo hoàng mong muốn hòa bình, nên ngài lên án cuộc
đấu tranh giai cấp; nhưng ý thức rằng hòa bình được xây dựng trên công
lý, ngài đề ra một số điều kiện. Không phải tất cả mọi người đều chấp
nhận Giáo hội có quyền và có nhiệm vụ thực hiện điều này. Nhiều người
cho rằng Giáo hội nên tự hạn chế ở chỗ chỉ rao giảng ơn cứu độ từ trời
cao. Thông điệp của đức giáo hoàng đưa Giáo hội vào giữa đời sống công
cộng. Giáo huấn xã hội của Giáo hội là một bộ phận không thể thiếu được
trong sứ điệp Kitô giáo. Không thể có bất kỳ giải pháp nào cho “vấn đề
xã hội” mà ở ngoài Phúc âm.
Số 6.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII viết về phẩm giá lao động và về các quyền và
phẩm giá của công nhân, họ “làm việc quần quật để có được những gì cần
thiết cho các mục đích sống khác nhau, và trên hết là vì phải tự bảo
tồn”. Năng lượng họ sử dụng đang khi làm việc là một phần của con người
họ và thuộc về họ. Lao động là ơn gọi của con người thông qua đó chúng
ta tự thể hiện bản thân. Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII nhấn mạnh “quyền tư
hữu”. Mọi người có quyền đối với những gì cần thiết cho bản thân và gia
đình của mình.
Số 7.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII nhấn mạnh quyền lập hội và công đoàn – một
quyền không nhà nước nào có thể lấy đi mà không phản bội “chính nguyên
tắc tự tồn tại của mình”. Ngài đề cập đến quyền có số giờ làm việc được
giới hạn và quyền nghỉ ngơi, không phân biệt nam nữ và trẻ em. “Bắt
những người lao động nam nữ làm việc quá sức đến nỗi làm cho đầu óc của
họ mụ mẫm và bào mòn thân thể của họ thật là bất công và phi nhân”.
Số 8. Ngài
viết về quyền có đồng lương chính đáng: “Lương công nhân phải đủ để
nuôi bản thân và vợ con của mình”. Ngài tuyên bố quyền này cốt yếu đến
nỗi không thể bỏ mặc cho các bên tự do giao kết. Nhiệm vụ của nhà cầm
quyền là chăm lo phúc lợi của công nhân. ”Mọi cá nhân đều có quyền tìm
kiếm những gì giúp mình có thể sống. Và người nghèo chỉ có thể kiếm được
điều đó nhờ đồng lương do lao động của mình”. “Nếu người lao động phải
chấp nhận các điều kiện rất khắc nghiệt, thì người đó là nạn nhân của
bạo quyền và bất công”.
Số 9. Đức
Lê-ô XIII khẳng định, mọi người đều có quyền chu toàn các bổn phận tôn
giáo của mình, đồng thời ngài nhấn mạnh quyền và nhu cầu được nghỉ ngơi
ngày chủ nhật. Chúng ta có thể tự hỏi liệu các xã hội công nghiệp hóa có
bảo đảm quyền cơ bản được nghỉ ngơi ngày chủ nhật không.
Số 10. Đức
Giáo hoàng Lê-ô XIII phê bình “chủ nghĩa xã hội” và “chủ nghĩa tự
do”. Đối với “chủ nghĩa xã hội” ngài khẳng định quyền tư hữu. Đối với
chủ nghĩa tự do, ngài bảo rằng nhà nước không được ưu đãi người giàu
trong khi bỏ rơi người nghèo. Chính người nghèo có quyền được quan tâm
đặc biệt. Giai cấp những người giàu có thể tự lo liệu lấy; người nghèo
tự bản thân họ lại không có nguồn lực nào để tự lo cho mình. Họ chủ yếu
nương tựa và sự trợ giúp của nhà nước. Điều này ngày nay vẫn còn nguyên
giá trị, nếu ta xem xét tình trạng nghèo khổ trên thế giới. Điều quan
trọng là không được cậy dựa vào bất kỳ ý thức hệ hoặc lý thuyết chính
trị nào, mà dựa vào nguyên tắc liên đới, có giá trị trong trật tự quốc
gia và trật tự quốc tế. Đức Lê-ô XIII sử dụng thuật ngữ “tình bạn” để
chỉ về liên đới. Đức Piô XI thì gọi là “bác ái xã hội”; Đức Phaolô VI,
mở rộng khái niệm đó, đề cập đến một “nền văn minh tình thương”.
Số 11.
Diễn tả lập trường “ưu tiên chọn lựa người nghèo” của Đức Giêsu và của
Giáo hội, Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII yêu cầu nhà nước làm một điều gì đó
đối với tình trạng của người nghèo, dầu ngài không mong nhà nước giải
quyết mọi vấn đề xã hội. Ngài đòi phải có những hạn chế đối với sự can
thiệp của nhà nước. Cá nhân, gia đình và xã hội phải được nhà nước bảo
vệ chứ không phải đàn áp.
Điểm
chính yếu trong thông điệp của Đức Lê-ô XIII và trong học thuyết xã hội
của Giáo hội là một cái nhìn đúng đắn về con người. Con người được
Thiên Chúa mong muốn; họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Phẩm giá của họ
không đến từ công việc họ làm, nhưng đến từ nhân vị của họ”.
Nhân
dịp kỷ niệm bách chu niên Thông điệp Rerum Novarum và, Chân phúc Gioan
Phaolô II không chỉ bình luận Thông điệp mà còn đưa ra những bổ sung,
cập nhật, phân tích hoàn cảnh mới đúng một trăm năm sau ngày Thông điệp
xã hội đầu tiên của Giáo hội.
(15.5.2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét