Lời Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23
MỤC
LỤC
1. Tình mến
2. Nghi thức bên ngoài
3. Từ trái tim con người
4. Với cả tâm tình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Những lời kết án khắt khe hay là hy vọng
6. Bên trong là những gì đáng kể
7. Chưa hết biệt phái
8. Rửa tay hay rửa tâm hồn?
9. Cái nào quan trọng – Gm. Arthur Tone
10. Phải thờ Chúa trong tâm hồn – Noel Quesson
11. Cõi lòng
12. Bề ngoài
13. Giáp mặt
14. Giả hình
15. Giả hình
16. Bên trong
17. Bài giảng thứ ba mươi hai
18. Tiến sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link
19. Suy niệm của JKN
20. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
21. Chú giải của Noel Quesson
1. Tình mến
Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa
Ta.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự
thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho
chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương
phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh
truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã
có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và
làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không
thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên
cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta
chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái,
vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết
vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong.
Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi
chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và
tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri
Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ
thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha
ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô
nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu
tố quyết định . Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm,
trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành
động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng
ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở
nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác
và giả hình.
Có một nhà
triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại
quốc từ nhỏ, nên không ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo
thì người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh
phần sản nghiệp. Viên quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân
dung của nhà triệu phú. Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu
súng và bảo: Nếu ai bắn trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ
được lãnh phần gia nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng
thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu.
Chàng thanh niên thứ ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau
cùng đã nói: Tôi không bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà
chạy đến và nói: Chính anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần
gia nghiệp.
Nếu không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị
lật tẩy, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.
Có một thầy
tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo
dài cuộc sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải
mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng
đám lính canh lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu
nước, vì khẩu phần nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ
kín đáo quan sát ông ta. Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta
thiếu nước vì ông ta đã dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo
nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái
đã bực bội như thế nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo
đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ
luật. Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan
trọng vì nó căn cứ trên những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật
Maisen. Một số luật này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung
chung giống như những kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian
dài, người Do Thái bằng lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống
vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm
chuyên nghiên cứu về luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy
những điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó
phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do
Thái muốn bắt chước các tư tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi
thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi
vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng
thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện
và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu
này, để rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ
là chu toàn những nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là
đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người
đạo đức. Họ có thể căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân
giữ việc rửa tay và những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ
thù, chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu
nguyện theo luật định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với
việc chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng
chưa bảo đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta
có thể làm tất cả những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không
phải vì yêu thương. Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là
tình yêu trong trái tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy
kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho
chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách
người Do Thái: dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại
xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc
này việc kia, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động
của chúng ta phải được xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu
người, thì mới thực sự có giá trị.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các
môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta
thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và
đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên
ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi
lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo,
hay thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi;
không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi... Đụng vào hay ăn
vào là ô uế ngay.
Đức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức
tường ngăn cách kẻ xấu - người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ
và tự do... Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên
sạch.
Thật ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng
Ngài thấy nó có vẻ giả hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm
hồn là điều khó hơn.
Đức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng
chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không
từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định
xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố
dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
"Hãy tạo cho mình một trái tim mới" (Ed 18,31).
Đó là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự
mình thay tim. "Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một
trái tim mới" (Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền
thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt
tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng
phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
"Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ"
(c.14).
Đó là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta
hôm nay.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Có khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn
chưa? Bạn thường thấy trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì?
Có điều gì sâu kín nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không
cho bạn đến với mọi người?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của
trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy,
giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn,
ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con
ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không
biết bao giờ lành, những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung
của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ
nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
Truyện thiền
kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng
nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền
bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao
anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng
nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống
đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng
hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương.
Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về
mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo
hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ
đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài.
Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn
lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ
ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi
sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô
uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động
đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những
người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái
luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự
trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân
mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ
những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ
mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt
hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến
đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà
không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu.
Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại
nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã
nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng
thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết.
Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm
tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt
thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình
yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì
chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là
vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của
loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng
chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn
nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được
tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng
là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản
ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất
từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát
nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình
yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một
trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay
phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành
trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi
Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta
tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên
trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn,
thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình,
đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1) Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2) Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm những việc phi
thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3) Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến
Chúa?
4) Bạn làm việc thiện vì yêu mến người nghèo hay vì muốn
khoe khoang?
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Những câu nói hiểm hóc.
Một số câu trích từ Kinh Thánh đôi khi gợi lên nơi chúng ta
những kỷ niệm khó chịu. Chúng ta có hai câu trong các bài đọc hôm nay. Hai câu
thường dùng để nói lên sự không nhân nhượng và đòi hỏi khắt khe về mặt tôn
giáo.
Câu thứ nhất trích từ Sách đệ nhị luật nói thế này: “Các
ngươi sẽ không thêm gì vào những gì tôi truyền cho các ngươi và các ngươi không
bớt gì cả nhưng các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh của Chúa như tôi truyền dạy”. Khi
đọc câu này, tôi nhớ đến những cuộc tranh cãi về phụng vụ đủ loại đã xảy ra từ
mười năm nay, như vụ Lefebvre, hoặc những vụ khác, ít trầm trọng hơn, về việc
thực hành những nghi thức Thánh lễ. Tôi cũng nhớ lại những lời tâm sự đau đớn
của những người bị từ chối không cho xưng tội. Có thể nào một lời Tin Mừng, một
lời giải phóng, được nói nhân danh Thiên Chúa, lại gây ra điều trái ngược
không?
Câu thứ hai trích từ Tin Mừng, nói thế này: “Các ông bỏ giới
răn của Thiên Chúa để theo truyền thống của loài người”.
Gần đây một được cháu gái, được rửa tội lại “trong Giáo Hội
Tin Lành”, đã dùng câu này mà nói với tôi. Những cặp vợ chồng ly dị và tái giá,
cũng đã cho tôi thấy nỗi đau đớn của họ trước sự nghiêm khắc của luật Giáo Hội
về việc rước lễ. Tôi cũng nghe người trẻ nói như thế nữa; Sau khi đã sống đức
tin Kitô thực sự, họ đã thấy mình không thể theo Giáo Hội và những tập tục của
Giáo Hội nữa.
Mỗi người theo cách của mình mà hiểu về ý nghĩa của “giới
răn Thiên Chúa” và “truyền thống của loài người” và tìm cách biện minh cho tư
tưởng hoặc hành động của mình. Dù tỏ ra không nhân nhượng nữa. Vậy nên tôi xin
nhắc lại câu hỏi này: chúng ta có một Tin Mừng giải phóng không? Làm sao lắng
nghe những câu hiểm hóc này mà vẫn duy trì được niềm hy vọng của chúng ta.
Những lời hy vọng.
Ta hãy tìm cách đọc lại tường thuật cuộc gặp gỡ giữa những
người biệt pháivà Chúa Giêsu, mà không kết án ai cả, không ra vạ tuyệt thông
cho ai cả. Chúng ta cũng tìm cách kiểm tra xem Chúa Giêsu có nói lời nào không
bao dung đối với con người chăng?
Chúng ta hãy nhìn xem quang cảnh này. Mọi người có mặt tại
đó, xung quanh một bàn ăn. Chúng ta đừng biến những cuộc trao đổi, dù gay gắt
đi nữa, thành những lời buộc tội của tòa án. Rồi chúng ta hãy xem có những ai ở
đó. Chúa Giêsu, các môn đệ của Ngài, những người biệt phái và ký lục “từ Giêrusalem
đến”. “Từ Giêrusalem đến” nghĩa là gì? Nghĩa là họ là những đại diện cho quyền
bính chính thức, họ đến tranh luận với Chúa Giêsu và bắt lỗi Ngài? Và nếu họ
cũng là những người đơn sơ, chân thành nhưng lo lắng thì sao? Là những người mộ
đạo ngạc nhiên vì thấy những người thuộc cộng đoàn của họ, thuộc niềm tin của
họ, quên đi những nghi lễ và tập tục văn hóa truyền thống thì sao? Theo quan
điểm này thì họ sẽ không khác chúng ta lắm, phải không? Hơn nữa, họ đã đi cả
một đoạn đường dài để gặp Chúa Giêsu. Vậy Ngài có xua đuổi họ bằng một lời kết
án dứt khoát không? Hay Ngài có tìm cách giải phóng họ và nói với họ một lời hy
vọng không?
Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu nói với tất cả
mọi người, biệt phái, môn đệ, quần chúng, trong đó có chúng ta nữa. Với những
người muốn trung thành chu toàn giới răn của Thiên Chúa, không thêm không bớt
gì cả, Chúa Giêsu nhắc lại rằng đối với Thiên Chúa, giới răn nhắm vào thâm tâm
con người. Sự thật của con tim bao giờ cũng hơn những việc tế tự. Và những việc
này không bao giờ thay thế được cho một con tim dối trá và mù quáng cả. Không
được thêm gì vào lòng con người cũng không được rút bớt gì cả. Không rút bớt gì
trong những nỗi yếu hèn của họ, không thêm gì vào sự phức tạp cũng như mặc cảm tội
lỗi của họ. Đây là lời giải phóng và hy vọng: không ai kết án bạn cả, không
phải lòng tôi, không phải lòng bạn, cũng không phải lòng kẻ khác. Không có luật
nào thay thế được luật của con tim. Điều này có giá trị đối với hết thảy mọi
người.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Vào một buổi
chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ
đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé
đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu
rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và
giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi
đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn
giản vì em lúng túng khi bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra
môt bài học: bên ngoài thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó
cũng là bài học đối với những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh
Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người
này đã không theo tục lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không
phải là những điều vệ sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ
của Ngài lại không thực hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay
vào đó Ngài đã cảnh cáo họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta
chỉ bằng môi bằng miệng còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt
nghĩa những gì ở bên trong thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm
tình bên trong thì quan trọng hơn công việc ở bên ngoài
Như một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm
giáo huấn về Chúa Giêsu. Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những
điều kiện bên ngoài, ví dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và
đọc kinh, cũng tốt giống như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật
ra, Giáo Hội đã dạy trong Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham
dự có ý thức trong những nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay
thế của tinh thần Kitô giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc
tham dự phải được hoàn thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và
các bài thánh ca, cũng như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân
xác (14-30).
Yếu tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII
đã dạy đó là bên trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì
không có dự định diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức
tin, đức cậy và tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của
chúng ta tốt nhất không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là
chúng ta đã hành động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc
hướng dẫn chúng ta sống theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời
sống của chúng ta thì chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức
tin của chúng ta làm cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ
là thế tục hoặc vật chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài
của chúng ta và làm cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có
phải niềm trông cậy của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên
Chúa, Đấng thúc đẩy chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu
mà chúng ta diễn tả với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn
một cách trực tiếp trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta
đã phản ảnh chân lý mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng
ta nên một trong Đức Kitô không?
Bên ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng
ta nên thánh hơn là những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công
dân tốt. Ngày hôm nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những
lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời
đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường
gạt chính mình”. Đó là con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến
đời sống, những việc bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình
trạng bên trong. Những gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã
đưa những người Biệt phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như
thế nào. Trách cứ họ theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so
sánh với sự quở mắng của Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng
đóng vai bảo tồn lòng trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó
khăn. Chúng ta nhắc lại rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa
mấy người, đáng kể là Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa
số Biệt phái, nhất là cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến
việc tuân giữ Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương
diện vật chất và giải nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng
tình thần Lề luật, đề cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp
nhận lối giữ đạo bề ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những
đòi hỏi của một tâm hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và
thành tâm gắn bó với Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải
biểu thị một thái độ nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến
những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người
không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am
tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên
quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy
ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất
tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư
luận sao? Ngày nay đang có một sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất
hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà
có những khuynh hướng biệt phái bị Chúa tố giác?
Các ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố
thủ lấy tập tục. Biệt phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý,
muốn tự đặt ra lề luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở
thành một kẻ tội lỗi giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận
luật Phúc âm nhưng lại bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở
thành Biệt phái. Tính biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa
Phúc âm qua bảng giải mật mã của một ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là
kẻ tự đặt mình làm nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm.
Y đặt lấy một pháp điển mượn ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại
lượng đến mức nào đi nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô
sống động, và thật, y trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để
cố che đậy một sự giả hình đích thật.
2) Tính biệt
phái là một sự uế tạp cực độ.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều
nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu
xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi
lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của
kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng
cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn
đơn sơ, họ thấy Thiên Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy
nỗi niềm riêng tư với Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhà Thần học
William Barclay kể lại câu chuyện: Một Kinh sư Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở
Rôma. Trong tù, ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống.
Thời gian trôi qua, vị Kinh sư ấy ngày càng yếu dần. Cuốc cùng người ta buộc
phải mời bác sĩ đến khám bệnh. Bác sĩ bảo rằng cơ thể tù nhân bị thiếu nước. Họ
không hiểu nổi tại sao vị Kinh sư ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần
nước mỗi ngày tuy là tối thiểu nhưng vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế
là đám lính gác liền chú ý quan sát người tù này một cách kỹ lưỡng hơn để thử
xem ông ta làm gì với số lượng nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí
mật: Vị Kinh sư Do Thái này đã sử dụng phần lớn số lượng nước để rửa tay theo
nghi thức Do Thái giáo trước khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta
không còn đủ nước để uống.
Anh chị em thân mến, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ
hơn thái độ bực bội của những người Biệt Phái Pharisêu và Kinh sư Do Thái đối
với Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn
uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức. Rửa tay sạch sẽ trước khi ăn,
đó là điều sơ đẳng trong phép giữ vệ sinh phòng bệnh. Người Do Thái và nhất là
người Biệt Phái Pharisêu giữ tập tục rửa tay trước khi ăn rất kỹ. Họ không dùng
bữa, nếu chưa rửa tay trước. Ở nơi công cộng về, họ không ngồi và bàn ăn nếu
chưa tắm rửa sạch sẽ. Họ còn giữ nhiều tập tục tẩy rửa này, đối với họ, không
nhằm giữ vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, mà được coi là những nghi thức tôn giáo và
nhằm để phân loại con người trong sạch hay do bẩn theo luật. Lòng đạo đức của
con người được đánh giá tuỳ thuộc và việc tuân giữ các tập tục này, đều bị kể
là hạng người dơ bẩn, bị loại ra ngoài cộng đoàn tôn giáo, mất quyền tham dự
nghi lễ phụng tự trong đền thờ. Họ còn để mắt dòm ngó xem xét người khác có
tuân giữ các tập tục đó không. Trong Tin Mừng hôm nay, họ đã thấy một số môn đệ
của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Điều này đã nên cớ cho người Biệt
Phái và Kinh sư hạch sách Chúa Giêsu và lên án Ngài.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người Biệt Phái
và Kinh sư; Ngài đã phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả
hình. Họ tôn thờ Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì
chẳng tôn thờ Ngài, chẳng màng tuân giữ các giới răn của Ngài. Nhân dịp này,
Chúa mở ra cho người ta thấy cái làm cho người ta ra dơ bẩn và bất xứng trước
Thiên Chúa không phải ở chỗ rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, mà chính là
ở tâm địa xấu xa của con người, chính là những tư tưởng xấu, “từ đó phát xuất
những hành động ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo
trá, ganh tị, vu khống, kiêu căng…” Qua đó, Chúa Giêsu muốn nói rằng: sự dơ bẩn
bên ngoài không làm cho tâm hồn ra dơ bẩn, không tác hại và đáng lo cho bằng sự
dơ bẩn trong tâm hồn do những ý muốn xấu xa, độc ác. Vậy thì việc tẩy rửa bên
ngoài không quan trọng bằng việc tẩy rửa bên trong, bằng việc thanh tẩy tâm
hồn, hoán cải cuộc sống. Sự trong sạch của tâm hồn quan trọng và cần thiết hơn
sự sạch sẽ bên ngoài của thể xác. Tập tục tẩy rửa bên ngoài không tẩy xoá được
sự dơ bẩn trong tâm hồn, chỉ có việc tuân giữ luật Chúa mới thúc đẩy con người
sám hối tội lỗi để được tẩy rửa trong sạch, xứng đáng trước mặt Chúa. Do đó cần
phải tuân giữ luật Chúa hơn những tập tục của con người.
Nhà thần học
William Barclay còn kể thêm một câu chuyện về một người Hồi Giáo đang đuổi theo
để giết kẻ thù của mình. Đang khi đuổi theo kẻ thù, chợt nghe vang lên hồi
chuông báo giờ cầu nguyện, lập tức người Hồi Giáo nhẩy ngay xuống ngựa, mở sách
Thánh Kinh Coran ra, quì xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức
lẹ làng. Cầu kinh xong, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Câu chuyện
này minh hoạ cho chúng ta chủ nghĩa câu nệ lề luận. Nó cảnh các chúng ta đừng
rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi đạo đức bên
ngoài.
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của
người Biệt Phái và Kinh sư Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục,
tuân giữ các nghi thức, mà chính là một thái độ sống, là thi hành luật Chúa, là
sống Lời Chúa. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu vẫn là lấy việc đạo
đức bề ngoài là bức màn che đậy tính ích kỷ, giả dối, độc ác, gian tham, trốn
tránh nhiệm vụ của mình trong gia đình, ngoài xã hội, thích được mang đanh hiệu
là tín hữu hơn là sống đúng theo Tin Mừng của Chúa Kitô; mượn việc đi nhà thờ,
đọc kinh, dự lễ để trốn tránh bổn phận bác ái, phục vụ người khác; làm ra vẻ
hăng hái, nhiệt thành để được tiếng khen; chà đạp người khác để nâng mình lên…
Nói chung là lấy những hình thức bên ngoài để thay thế cho nhiệm vụ đích thực
của người Kitô hữu là thi hành luật tình yêu của Chúa: sống công bằng, bác ái,
phục vụ, trong sạch, hiền lành, hoà thuận. Đó là kết quả có lòng yêu mến chân
thành. Điều cốt yếu là phải có lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải
hình thức giả dối bên ngoài. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, còn Chúa thấu
suốt tận tâm can. Chính tình yêu bên trong sẽ làm cho mọi việc bên ngoài có giá
trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong, mọi việc bên ngoài chỉ là bôi bác, giả
dối.
Chúa Giêsu có lần mượn hình
ảnh những mồ mả quét vôi trắng tinh để nói cho những người Biệt Phái hiểu:
cái lối đạo đức giả của họ trong thể che đậy được tội lỗi của họ. Mồ mả dù có
quét vôi trắng tinh, sạch sẽ đến đâu cũng không làm cho ai quên được cái thây
ma thối tha bên dưới (x. Mt 23,27-32). Chúa còn nói thẳng với họ: “Không phải
môi miệng cứ lâm râm lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là phải làm theo ý
Cha trên trời”. Chính việc làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời chứ không
phải việc tôn thờ giả dối ngoài môi miệng: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi
miệng, còn lòng trí chúng lại xa cách Ta”.
Thưa anh chị em, để áp dụng cụ thể, Thánh Giacôbê Tông Đồ
hôm nay kêu gọi chúng ta hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục
vụ những người nghèo khó, nhất là những cô nhi, quả phụ. Bởi vì họ phải chịu
nhiều thiệt thòi bất công và ít được nâng đỡ, bênh vực hơn những người khác.
Thánh Giacôbê cũng mời gọi chúng ta phải xa tránh “tinh thần thế tục” vì đó là
điều kiện cần thiết để sống chúng ta được “trong sạch, không tì vết”: “Lòng đạo
đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, đó là thăm
viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế
gian”.
Anh chị em thân mến,
Người Kitô hữu đích thực là người có lòng tin, đồng thời có
những việc làm cụ thể để diễn tả lòng tin của mình. Trức mặt Chúa, cách chưng
diện, thời trang, không quan trọng bằng tâm hồn trong trắng, đầy tình yêu mến
và thể hiện trong nếp sống yêu thương, phục vụ anh em, đặc biệt là những người
cô thế cô thân. Nếu rửa tay sạch trước khi ăn là vấn đề vệ sinh thưởng thức của
cuộc sống con người, thì tẩy rửa tâm hồn trong sạch trước khi dự Tiệc Thánh Thể
là điều kiện cần thiết của con cái Chúa để xứng đáng tiếp rước Ngài.
Khoảng 2
giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt
hoảng la lên: “Tôi tưởng ông ngoại qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray
đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng
bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!”. Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví
của tôi để ở trong túi áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ
chiếc cổ áo Roma. Kẻ cướp ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin
lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì
gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt phái. Người
Biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong
khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách
họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe dọa địa vị của họ, như những người lãnh đạo
tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích
Người đã hòa mình với người thu thuế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay
chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người
dùng quyền lực của quỷ mà trừ quỷ. Họ làm điều lành chỉ cốt cho người ta thấy.
Ngày nay còn người Biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn.
Đây là một vài kiểu Biệt phái tân thời: Những người Công giáo lẫn lộn những cái
không quan trọng với cái thật sự quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch
sự”. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một
sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có
người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên điều đó tốt. Nhưng họ
không nói một lời với Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuyện
với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng?
Có những người Công giáo và những người khác nữa, họ không
nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nêu có một vết nhơ trên bàn, hay
trên dĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết
nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa
Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với
anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chaỵ bàn; nhưng lại rất keo kiệt với
người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “Xin vui lòng, cám
ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn
nghe được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch
sẽ, lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt
mọi người, để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình. Hãy cố gắng đừng làm
Biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người
khác và sự vật vào đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng
danh sách những việc quan trọng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Cha Murray
(Muy-rây) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một
bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát:
“Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó
thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng
nói: “Thưa cha, con không biết. Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình
tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần
nữa nghe hắn nói: “Cám ơn cha, bây giờ đang Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình
trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi
ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách
sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các
Biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ
luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ
thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ.
Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị
nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi
những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ,
bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người
thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo
khó, bé mọn… nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo Hội phổ
quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của
Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi
nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những
gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do
Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho
sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu
không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ ta
ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa Ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất
vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa
tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ
tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc
mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn
trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì
con tim, còn đối với người Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan
trọng cho mọi hoạt động của chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
- Thèm lòng
chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu
không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những
kẻ bôi bác, giả hình và dối gạt mà thôi.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
- Miệng nam
mô, bụng bồ dao găm.
- Miệng thì
thơn thớt nói cười,
Mà trong
nham hiểm giết người không gươm.
Chính vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với
hạng người nham hiểm này.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ
như vậy. Ngài coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng
ta, như chúng ta thường bảo:
- Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Hay như Chúa đã phán dạy:
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Chính vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ
trích thói giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên
ngoài, còn bên trong thì lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng
bên trong thì lại đầy dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại
chẳng có tinh thần bên trong.
Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay
trước khi ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến
Chúa đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì
lại xa Ta.
Rồi Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố
quyết định tính cách tốt hay xấu của một hành động:
- Bởi vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định
xấu như tà dâm, trộm cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên
trong xuất ra và làm cho con người trở thành ô uế.
Với chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng
chân thành khiêm cung, như lời Ngài đã phán:
- Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi khác, Ngài cũng bảo:
- Lòng sám hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con
tim sẽ làm cho những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá
trị to lớn và cao cả trước mặt Chúa.
Bởi vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa
thần, biến những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi
chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
Trong xã hội
ngày nay, chúng ta thấy có một sức quyến rũ mạnh mẽ về những cái mã bề ngoài.
Các dịch vụ quảng cáo thương mại nhấn mạnh đến những sản phẩm làm cho người ta
ngày càng đẹp hơn, có làn da trắng hơn, có mái tóc mượt hơn hay làm cho người
ta trở nên hấp dẫn hơn với người khác phái. Người ta muốn tỏ ra mình là người
xinh đẹp, lôi cuốn và hợp thời trang.
Nhưng bạn hãy tưởng tượng nếu bạn có thể dùng một phương
tiện chẳng hạn như tia X, để nhìn thấu linh hồn của mỗi người và mọi người. Bạn
có thể nhìn thấy bạn bè, những người thân quen, cùng với tất cả những tham vọng
thầm kín, những khao khát, những ước mơ, những ý hướng, những tình cảm, những
kế hoạch, những tư tưởng thầm kín. Người ta có thể chắc chắn với bạn rằng bạn
sẽ bị sốc kinh khủng về những người bạn đã quen biết. Lúc ấy, bạn sẽ thấy những
người bề ngoài xem ra rất hấp dẫn lại chứa đầy trong lòng sự thù hận, không tha
thứ, tự kiêu, ích kỷ và những thứ khác đáng phải lánh xa. Bởi vì họ nghèo nàn
hơn, thiếu giáo dục hơn, tồi tệ hơn so với vẻ bên ngoài đẹp đẽ, quyến rũ và
trong sáng. Bây giờ bạn hãy rọi tia X vào chính con người của bạn. Bạn thấy
những gì? Bạn có thích thú với những gì bạn xem thấy hay không? Bạn có thấy
mình hấp dẫn không? Đây là điều quan trọng. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn nhìn
thấu suốt cõi lòng của bạn. Và đến ngày bạn chết, bạn sẽ chịu phán xét theo
những gì mà chúng ta thấy với tia X như thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn nhìn thấy bản thân mình như
Chúa vẫn nhìn thấy con.
Có một cuộc
triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu
bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người
tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian
trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi
lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng
giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao
cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển
lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển
lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người
Pharisêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở
đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả
lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả
hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người
Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo
giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật
lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì
phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền
giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả
quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp
nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó,
Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục
loài người”. Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường xuất
hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc
sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như
việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng
chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt
nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ
trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở
chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của
người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là
một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua
những người Pharisêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả
dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã
nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người
mang mặt nạ giả danh tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc
bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham
hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của
những người Pharisêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan
trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau
theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn
lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn
phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày
nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ
đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó
trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây
thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như
giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho
những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác
giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò
trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa
Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới
những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta
cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như
giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải
và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời
gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp
nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả
một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến
và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự
trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện
lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy
phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa
Ta
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi
nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái
chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của
Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên
trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn,
họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một
trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là
Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước
đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và
thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ
rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác,
khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả
hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong
thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc
đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày
nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat
được cứu sống hay là giết chết?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình
thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu
thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của
các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì
lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn
gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm
phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà
quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình.
Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa
đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với
mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật
tâm xà.
- Miệng nam
mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi
cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị,
mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho
cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân
thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền
tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang,
thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh
Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông
triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai,
nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế,
tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày
hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú.
Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh
niên:
- Ai bắn
trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh
niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn.
Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây
chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu
mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là
người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ
thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không,
khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi
bác giả hình.
Rửa tay
trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người
Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với
tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ
triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất
phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay,
bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ,
phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì
đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm
cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà
không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch
hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là
bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta
bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố
cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa
tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng
hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn
đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật
tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu.
Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói
cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời
nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là
những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại,
tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính
cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi
lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội
chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải
than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng
người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói:
“Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt
nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng
người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn
thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Câu chuyện
sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ
nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của
mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không
thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi
lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà
vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ
đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền
đem mỹ nữ cắt mũi đi .
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy
nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi
lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang
tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”,
“Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có
thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống
che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số
người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi
Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu
giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi
nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về
một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là
chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng
ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng
ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra
từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi
bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn
hơn là “tốt mã rã đám”.
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà
không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa
sạch, còn bên ngoài thế nào cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như
thế đối với chính mình. Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào
cũng được. Thật vậy, nếu bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái
độ của chúng ta) cũng sẽ thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì
bên ngoài cũng sẽ không thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên
trong.
Những người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên
ngoài họ – trong các sự vật và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình
là những người đạo đức và xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài
họ, thì họ có thể bảo vệ họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân
chúng, hoặc nơi nào làm họ không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi
thức.
Những người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều
là các nỗ lực của họ hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là
tất cả. Vì thế họ quan tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan
trọng hơn – sự thanh sạch nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng
ta. Nó
có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu
bằng việc cách ly với những người khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt
kê và chúng ta đọc trên báo chí: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham
lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng –
tất cả những điều xấu xa đó đều xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của
chúng ở bên trong tất cả chúng ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế
trước mặt Thiên Chúa.
Đó là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết
đến hiểm họa của chính mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu
biết thiếu sót của chúng ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với
nó bên trong chúng ta. Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và
chấp nhận sự thật khiêm nhường ấy.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ
thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự
quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí.
Điều đó không phải là không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác
còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất
trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn
gốc của điều tốt cũng thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn
trào từ tâm hồn như nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch
thì dòng chảy phát xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối
nguồn.
Có một câu
chuyện về một vị thầy một ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ:
“Người ta phải tránh điều gì nhất trong đời?”
“Một con mắt
xấu xa”, môn đệ thứ nhất nói.
“Một người
bạn phản bội”, môn đệ thứ hai nói.
“Một người
láng giềng xấu”, môn đệ thứ ba nói.
“Một tâm hồn
xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy
thích câu đáp cuối cùng nhất bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói: “Và
điều gì đáng ao ước nhất mà người ta cố gắng đạt đến trong đời?”
“Một con mắt
tốt”, một người nói.
“Một người
bạn tốt”, người thứ hai nói.
“Một người
láng giềng tốt”, người thứ ba nói.
“Một tâm hồn
tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy
thích câu đáp cuối cùng nhất, vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự
trong sạch hoàn toàn của con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần
gian này. Nó là một cuộc đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền
không giống với một tâm hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một
tâm hồn tinh tuyền và lành mạnh.
Trong một
buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm
đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs
cho mấy:
Vào ngày
Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và
những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.
Sau Thánh
lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người
dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa
Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút
thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.
Cũng như lần
trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng
rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky
là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa
Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia
gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.
Cũng như lần
trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng
rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về
công việc này.
Cha xứ thất
vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về vấn đề
gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà chính
trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này."
Câu chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ
đạo nhưng không thích nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa
đổi cuộc sống để thực sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã
lên án kịch liệt trong thời của Ngài.
Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo
luật pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu
truyện này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi
đang đuổi giết kẻ thù của mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện.
Anh liền ngừng ngựa lại, trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao
nhiêu có thể. Sau khi đọc xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục
đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa
Nhật. Không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ
đạo đức.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số
nghi thức theo luật buộc vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ
một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống
đạo là ở trong tâm hồn. Sống đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến
Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu trưng lại Cựu Ước: "Dân này thờ Ta
bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta". Hơn nữa, các bài đọc còn mời
gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà
lời của Thánh Giacôbê viết trong bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta:
"Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính
mình."
Chủ đề:
"Trọng tâm tôn giáo không ở tại nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa
và tha nhân"
Nhà thần học
William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão
thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài
cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người
ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của
y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy
lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song
vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát
"Ông già" ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số
nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần
lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như
thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay.
Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai
gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng
chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm
quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những
nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt
này.
Khi Chúa Giêsu nói về "Lề luật", thì từ ngữ này có
một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật "truyền
khẩu". Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật
thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách
đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang
tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu
phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với
những "kiểu mẫu" này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng
thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm
chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng
Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu
tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn.
Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm
những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời
gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế
của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề
luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ.
Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để
các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các
tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ
cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật
truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của
Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó
nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng
trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì tôn giáo đã
dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức
bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng
sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ
rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ
trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả "bao lâu họ còn tuân thủ
chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh
tẩy".
Để minh hoạ
thói nệ luật này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ
thư nói về một người Hồi Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi
rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh
hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh
theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp
tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực
lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta
đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên
ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí… tự
chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều
này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này
mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta
làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu
trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi
thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện
trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình,
tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
"Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho rằng chỉ cần
nghe lời Chúa là đủ… Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho
kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng".
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng
trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? "Đám dân này thờ Ta
ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta".
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta
làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy.
Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa
và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói
về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
"Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết… Dù cho đức tin
tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ
chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái
thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
"Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị,
kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng
giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ
lùi bước, tình yêu thì bất diệt. Vì thế, tình yêu chính là điều anh em phải nổ
lực tìm kiếm". (1Cr 13, 2-8; 14,1)
Sự công
chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Câu hỏi gợi
ý:
1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm
chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế
có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do thái rất nhiều,
nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài
quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn
tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động
ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi
ý:
1. Quan niệm của các kinh sư Do thái về sự công chính
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ
luật của các kinh sư Do thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những
chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những
chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho
biết: «Người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền
nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng
phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén
bát, bình lọ và các đồ đồng». Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính
và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật
cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính
hay thánh thiện.
Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy
một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên
thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ.
Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền
thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi
thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền
thống như họ. Họ hỏi Ngài: «Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của
tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?»
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự
thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo
hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong
nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: «Đạo tại tâm!». Cái đó chính
là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay
những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của
lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và
người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau
húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề
Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà
các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều
quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự
thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của
người Do thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài,
như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt
tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh
thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta
thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy
trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có
tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên
Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục
tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là «việc đạo
đức», những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám… thì việc
giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này
đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện
được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ:
«Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức
giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng
thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng
dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên
Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm».
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân
thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự
nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm
vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui
định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường
hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị
thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do
nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải
đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có
trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho
«chìm xuồng», vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui
ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả
luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. «Đạo tại tâm». Đúng rồi! nhưng coi chừng… tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không
thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng «Đạo tại tâm». Họ
cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước
Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: «Đức tin không có hành động là đức
tin chết» (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành
những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng
cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những
ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa
đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế». Ngài cho thấy: yếu
tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ
không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết
định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động
rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy
trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc
nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo
người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền
hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người «tình ngay mà
lý gian», hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành,
nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên
Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái
«tâm» ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự
công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã
có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa.
Thánh Âu Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!» (Ama et fac quod vis).
Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm
ấy thúc đẩy - dù bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm
ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại
tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng
con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay
thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi
người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh
thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho
thật nhiều những hành động tốt.
20. Chú giải mục vụ của
Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU
VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra
giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt
phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên
quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay
“dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của
ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng
tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ
lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho
dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ
không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế”
(Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ
trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ
đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ
thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức
tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến
việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói
giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu
liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống
vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương
của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không
ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền
thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8).
Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được
các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví
dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa
vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm
then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được
những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này,
những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời
Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp
này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một
cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu.
Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm
Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các
dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố
hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa
khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ
ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn
người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà
mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ
của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân
lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta
thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có
thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài
và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được
trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết,
điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do
Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được
dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống
của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm
đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt
phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập
một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những
nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người
“tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị
khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ
những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của
Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo
thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập
tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản
“khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã
chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô
hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay
chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn
uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng
các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra
khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ
thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của
Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương
đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các
người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở
rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 -
8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp
sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân
ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức
Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một
giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương
đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành
phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn
giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu
trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân
ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài
Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa
là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ
truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì
mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục
khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ
sinh, mà là tập tục tôn giáo về "sạch" và "nhơ", được ghi
thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy
định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo
mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược
lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết
truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh
thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng
nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức
Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay
ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ
này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức
Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín
hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa
phương bị những người "trong sạch" ở Giêrusalem coi như những thái độ
buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra
"ngoài lề", những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu
thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ
lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ... nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe
của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ
quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về "tính phổ
quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc
gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp
và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt
yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống
như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân
biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ
truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng
con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa
này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải
thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá
ràng buộc họ vào những "tập tục người xưa".
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho
thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những "tục lệ” không phải do Chúa, mà
phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải
tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia
thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết
rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới
luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ.
Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn
công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo
duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan
trọng, mà là "tấm lòng". Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có
giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi
người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết
và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã
làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể
làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái
làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh
sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một
số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn,
hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho
sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào
thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ
rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn
Đức Giêsu thì tuyên bố: "Tất cả các thức ăn đều thanh sạch" (Mc
7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng
khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo
Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát
xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn
thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không
nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta?
ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không
được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại,
là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái
"Cathare" vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất.
Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và
thuyết "Ma-nét" là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những
gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những
điều đó trong thái độ tạ ơn".
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4).
Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan
thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như
là một sự biện minh cho chủ trương "tự do phong tục": Nghĩa là mỗi
người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý
niệm về "điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con
người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức
mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm
một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng
ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích
kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét
đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy,
lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng,
ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà
Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ
khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu
kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói
theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ
đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở
đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm
lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không
thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về
một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và
cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ
luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản
tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục
riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ
tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công
nhận trong thâm tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc
quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự
tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình
thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con
và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
22. Chú giải của Fiches
Dominicales
“GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến
trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng
chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa
nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai
tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu
với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch" và “ô uế”, sâu xa hơn, về
thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì
“ô uế", do đó không được đi lại với những người này.
- Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng
của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan" do các
môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh)
với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại
đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây
nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội
cũng như tôn giáo. J. Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới những chịt những
điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà
dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của
dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước
qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương
ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện
đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì
những “sinh hoạt" của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc
với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi, ... Theo cách nói của các Rabbi
(thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để
bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin
viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư
rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ.
Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn
sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
- Sau khi trả lời những người biệt
phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi
cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là
"những kẻ giả hình", khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có
thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm
nhân" (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo
những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống" của loài
người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài
đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả
dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ", đó là giới luật tuyệt
đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt
phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì
được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì
không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách
thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh
tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng
chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ
ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến
chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa".
(sách đã dẫn, tr.194)
+ Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám
đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ,
Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định
của con người: đó là “lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người
mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con
người ra ô uế”.
M. Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó
là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể
làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do
thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội
không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa:
đụng một xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con
vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi,
nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào
để tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p.
125)
+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám
đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà". Sau khi đã
kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu
xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức
Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài
đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những
truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của
đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân
chia này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là
“những người được tách biệt ra") và bên kia là những người ô uế, nên
tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội
mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự
phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc
nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị
loại trừ" (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này
sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, "Tin
Mừng thánh Maccô", Centurion, tr. 103)
- Một lời nói rõ ràng và có sức giải
phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ
khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái
và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp
dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô
đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi
trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14).
Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn
Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho
người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr.
195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do
Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Giới răn của Thiên Chúa và tập tục
phàm nhân.
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó
khăn trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ
thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những
tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta
Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã
phải trải qua những cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta
thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần
phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi
tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta
thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của
một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người
thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với
người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do
thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ
"ỡm ờ" này (Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật
lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã
dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính
ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì.
Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ
lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã
can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn
mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức
ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này
lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra
một phán đoán rất quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện
uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần".
(14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần
phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối", Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một
thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa" (14,20) Tất nhiên mọi thức
ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương
mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành
cho các tín hữu của ông"
2. Truyền thống là gì?
"Những người biệt phái trách các
môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn", nghĩa là không trung thành
với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các
tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến
luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích
cho rõ ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho
mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm
một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế". Rồi, dựa vào
một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng
chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là
“Truyền thống".
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép
kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ
truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn
ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể
làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái
làm con người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng
vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át
nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức
chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội
dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong
con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào
lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó
là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng
chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng
mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy".
3. Đức Giêsu giải phóng chúng ta
“Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là
người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại
các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa
không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi
chúng ta đi đến tận “tâm điểm", tức tận trung tâm của con người mà từ đó
phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách
nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ
không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không
giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không
kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta
vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm" của mình, vừa phải đối
diện với “giới luật của Thiên Chúa". Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo
lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu
nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình
thức bên ngoài...".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét